[Funland] Việt Thanh chiến dịch - Nguyễn Duy Chính

Hươngquê73

Xe tăng
Biển số
OF-374797
Ngày cấp bằng
23/7/15
Số km
1,362
Động cơ
256,850 Mã lực
3. QUÂN THANH RÚT CHẠY

3.1. Vượt sông Nhị Hà

Sáng ngày mồng 5 Tết [30-1-1789], các cánh kỵ binh, tượng binh và thủy binh của Nam quân từ ba mặt cùng kéo đến vây Thăng Long. Trong khi các tướng liều chết chống cự, Tôn Sĩ Nghị vội vàng đem mấy trăm thân binh vượt cầu phao sông Nhị Hà chạy về bắc khiến binh lính, dân phu hoảng hốt chạy tán loạn. Các tướng lãnh thấy thế cũng không còn lòng dạ nào chiến đấu nên cũng lật đật tháo chạy. Ngay sau khi qua sông, Tôn Sĩ Nghị ra lệnh chặt cầu khiến một số đang đi trên cầu rơi xuống sông chết đuối. Trong số người nịch tử có một số tướng lãnh nhà Thanh, những người chưa qua được đành quay lại huyết chiến cho đến chết.

Theo đúng kế hoạch của vua Quang Trung, các toán thuỷ, hải quân đã bố trí sẵn trong vịnh Bắc Việt đi theo đường sông đánh vào các lực lượng quân Thanh canh giữ các đài trạm chứa lương thực dọc từ Thăng Long lên đến Lạng Sơn.

Ðể biện minh cho việc bỏ chạy thoát thân lấy một mình, Tôn Sĩ Nghị khai rằng “tuy giết được nhiều quân giặc nhưng phải đối phó với cả hai mặt, không biết hay dở sống chết thế nào. Nếu như thần chẳng may trúng phải mũi tên hòn đạn thì e rằng sẽ nhục đến quốc thể nên phải dẫn bọn phó tướng Khánh Thành (慶成),Ðức Khắc Tinh Ngạch (德克精額), tham tướng Hải Khánh (海慶) dẫn hơn ba trăm quân phá vòng vây mà chạy”.

Ðến ngày mồng 6 tháng 2 năm đó [2-3-1789], trong thượng dụ xin vua Càn Long thu hồi tước công của Tôn Sĩ Nghị, lại viết:

Thần Tôn Sĩ Nghị thấy Lê Duy Kỳ bỏ chạy trước, biết rằng chẳng nên ở lại Lê thành làm gì, cũng lập tức triệt binh, đem quân đến bờ phía bắc sông Thị Cầu đứng chờ đại quân.

Những lời tâu của Tôn Sĩ Nghị xem ra không đúng sự thật và mâu thuẫn với các lời tường thuật của những người khác. Ngay những lời khai của quân Thanh cũng đã không giống nhau.

Trong Khâm Ðịnh An Nam Kỷ Lược (欽定安南紀略) để tránh cái tiếng “chưa đánh đã chạy” Tôn Sĩ Nghị đem bản văn đó tô vẽ lại:

Nào hay càng giết địch càng đông, vây đại binh cả bốn bề. Thần cùng với đề trấn [đề đốc, tổng binh] dẫn các tướng xông thẳng vào trước địch quân. Hứa Thế Hanh nghĩ rằng thần là tổng đốc đại thần, không thể so với các trấn tướng được, nếu có điều gì sơ sẩy thì quan hệ đến quốc thể, hết sức ngăn trở. Sau đó sai phó tướng Khánh Thành hộ tống. Lại ra lệnh cho thiên tổng Tiết Trung cầm cương ngựa của thần gò lại. Thần vung roi vừa đánh vừa quát mắng, ra lệnh cho y buông ra, Tiết Trung nhất quyết không bỏ.

Thần nghĩ lại lời của Hứa Thế Hanh, quả quan hệ đến đại thể, nên dẫn bọn Khánh Thành, theo phía sau điện mà ra.

Theo tài liệu của Trung Hoa thì số quân Thanh đóng ở bờ phía nam sông Phú Lương gồm ba ngàn người do tổng binh Thượng Duy Thăng (尚維昇), phó tướng Hình Ðôn Hành (邢敦行), tham tướng Vương Tuyên (王宣), thổ quan Ðiền Châu Sầm Nghi Ðống (岑宜棟) được lệnh rút về tiếp cứu đề đốc Hứa Thế Hanh. Tuy nhiên những cánh quân đó cũng đang bị vây đánh, không thể tăng viện cho nhau được. Tôn Sĩ Nghị và bọn Khánh Thành thì dẫn hơn ba trăm quân định qua cầu nổi, nhưng bị ba, bốn nghìn quân Tây Sơn truy kích, vừa lúc tổng binh Lý Hóa Long dẫn hơn hai trăm quân chạy theo đến. Tôn Sĩ Nghị liền sai y đi qua bờ bên kia đóng lại tại phía bắc để hộ vệ cho ông ta qua sông. Lý Hóa Long chạy được tới giữa cầu, quính quáng trượt chân ngã xuống sông chết đuối, bọn tuỳ tùng thấy tổng binh chết rồi càng thêm hoảng loạn. Tôn Sĩ Nghị vội vàng sai bọn Khánh Thành bảo vệ phía sau, dùng súng bắn chặn, dẫn binh theo phiệt kiều chạy qua bắc ngạn trước, sau đó chặt đứt cầu nổi khiến cho quân sĩ, phu tướng còn ở phía nam không ai qua sông được nữa, đành phải quay lại tử chiến.

Một tướng nhỏ là Trương Hội Nguyên (張會元) bị bắt làm tù binh khi được trả về cung khai như sau:

Lần này phụng lệnh đóng quân tại phía nam Lê thành cách chừng mười dặm, ngày mồng 5 tháng Giêng, giờ Dần đánh nhau với giặc, giết được rất nhiều tặc phỉ, cho đến giờ Mùi, quân giặc càng giết càng đông, cùng xông cả lên khiến quan binh tán loạn. Hội Nguyên đem quân xung sát đến bờ sông, thấy phù kiều đứt mất rồi, không qua sông được nữa, bên mình chỉ còn độ hơn trăm binh. Hội Nguyên kêu lên rằng không lẽ bó tay chịu chết, chi bằng liều mạng đánh về phía Lê thành, giết được thêm vài đứa giặc thì có chết cũng nhắm mắt. Bọn lính nghe nói thế, ai nấy cố hết sức, theo đường cũ xung sát về hướng Lê thành, bị quân giặc vây bốn bề. Hội Nguyên bị quân giặc dùng giáo đâm trúng bên yết hầu và mạng sườn, mê man ngã xuống ngựa, lại bị chém một đao ở cổ, bất tỉnh nhân sự.

Ðấy là nói về những người không qua được, còn người liều mạng vượt qua thì thế nào. Theo lời Trần Nguyên Nhiếp thì:

Ðến được bờ sông, đại binh tranh nhau vượt qua. Cầu nổi làm bằng tre và gỗ bắc ngang sông đã bị đứt chìm xuống nước, lại thêm số nhân mã bị tượng trận đốt cháy chết chồng thêm lên một tầng nữa đè cầu xuống. Người đi qua chân đạp lên xác người ở bên dưới, chỉ còn đầu trồi lên phải đến ba dặm mới qua được bờ bên kia. Quần áo giày dép đều ướt sũng, yên cương, ngựa cưỡi cũng mất cả trên cầu.

Cũng ngày hôm đó, cánh quân Vân – Quí [chỉ có hơn 3000 người] đóng ở Sơn Tây của Ô Ðại Kinh kéo đến sông Phú Lương để tiếp cứu thì thấy “cầu nổi đã đứt chìm mất rồi, phía bên kia sông lửa cháy rực trời”. Tuy nhiên tiếng súng đã dứt chứng tỏ quân Thanh nếu không chết thì cũng đầu hàng. Họ Ô biết rằng đại binh đã thua không dám tham chiến vội vàng theo đường cũ chạy về nước.

Việc Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy mà chưa từng chạm mặt với quân Tây Sơn là chuyện do chính y thú nhận, và chính những nhà nghiên cứu Trung Hoa cũng đồng ý về điều đó. Ngoài ra còn những chi tiết tuy nhỏ bé nhưng lại đóng một vai trò quan trọng khi chúng ta tìm hiểu về bang giao Thanh – Việt thời hậu chiến. Theo lời tâu của Tôn Sĩ Nghị, thì “Lê Duy Kỳ nghe tin Nguyễn tặc (tức Nguyễn Huệ) đích thân đến đánh, kinh hồn táng đởm, tay bồng con thơ, vội vàng dẫn mẹ vượt sông Phú Lương, chẳng kịp đem theo vợ, dân chúng trông thấy tình cảnh đó, cũng hoảng hốt chạy tán loạn, tin đồn lan đến quân doanh, bọn giặc cũng đã hay biết, nên chúng càng hăng tiết”. Ý của họ Tôn muốn đổ tội cho Lê Chiêu Thống chưa đánh đã chạy làm loạn nhân tâm khiến cho bị đại bại.

Theo Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục – Chính Biên – Quyển XLVII thì:

Bấy giờ, đương ở nơi màn tướng, thình lình được tin quân giặc (quân Tây Sơn) đã tiến sát Thăng Long, Sĩ Nghị không biết xoay trở ra sao, bèn nhổ đồn lũy, vượt qua sông chạy. Cầu gãy người chết vô số kể.

Bấy giờ nhà vua (tức Lê Chiêu Thống) đang hội kiến với Tôn Sĩ Nghị ở nơi màn tướng, có tám người theo hầu là Hoàng Ích Hiểu (黃益曉), Nguyễn Quốc Ðống (阮國棟), Lê Hân (黎昕), Phạm Như Tùng (范如松), Nguyễn Viết Triệu (阮曰肇), Phạm Ðình Thiện (范廷僐), Lê Văn Trương (黎文張) và Lê Quí Thích (黎貴適) thì chợt được tin bại trận đưa đến. Sĩ Nghị rút chạy. Nhà vua cũng cưỡi ngựa cùng đi với Sĩ Nghị lên phía Bắc. Riêng Viết Triệu cầm cương ngựa đi theo nhà vua. Nhà vua sai bọn Hoàng Ích Hiểu gấp về nội điện, hộ vệ thái hậu và nguyên tử vượt qua sông. Hoàng đệ Duy Chi (維祗) hộ vệ bọn hoàng phi và cung tần đến bến sông thì cầu gãy, không qua sông được, phải hướng về phía tây mà chạy trốn.

Ngày mồng 9 tháng Giêng năm Kỷ Dậu [3-2-1789], Tôn Sĩ Nghị chạy được về đến Lạng Sơn qua Nam Quan trở về Quảng Tây. Suốt một tháng sau đó, quân Thanh thoát chết chạy được về theo báo cáo của quan nhà Thanh vào khoảng 8000 người, còn số tử trận và mất tích khoảng hơn 5000 tên. Trong khi giao tranh, số lượng dân phu chết không phải là ít nhưng vì họ chỉ là thành phần được sử dụng tạm thời nên sinh mạng của họ không ai tính tới. Thanh triều chỉ ghi số binh sĩ chính qui bị giết, còn những giáo sĩ và sử sách của ta thì ghi cả dân phu.
 

Hươngquê73

Xe tăng
Biển số
OF-374797
Ngày cấp bằng
23/7/15
Số km
1,362
Động cơ
256,850 Mã lực
3.2. Tổn Thất Của Quân Thanh

Tôn Sĩ Nghị khi về đến Quảng Tây, tự nhận mình đã không điều binh đúng phép khiến cho chiến dịch thất bại nên xin vua Càn Long cách chức trị tội nhưng chính vua Cao Tông đã phê trên tấu thư là “sao lại nói thế?” (何出此言 – hà xuất thử ngôn). Tôn Sĩ Nghị cũng xin một mình được bồi thường tất cả mấy chục vạn lượng bạc chi phí trong chiến dịch, vua Thanh cũng lại phê “việc gì đến nỗi thế?”. Tôn Sĩ Nghị trong dạ bất an nên tự ý giao lại bốn vạn lượng bạc cho Lưỡng Quảng quân doanh để đền bù phần nào tốn phí, quân trang, quân dụng, vua Cao Tông tuy bất đắc dĩ chấp thuận nhưng cũng phê rằng “việc này thôi cũng được để cho khanh đỡ mất mặt và cho được thoả lòng”.

Vua Thanh chỉ thu hồi lại tước công và chiếc mũ có gắn hồng bảo thạch đã ban cho Tôn Sĩ Nghị nhưng vì uy tín họ Tôn đã bị suy sụp nên không thể nào tiếp tục để cho giữ chức vụ bèn ra lệnh triệu hồi về kinh, đặt dưới quyền điều động của bộ Binh, rồi cử Phúc Khang An làm tổng đốc Lưỡng Quảng đến Nam Quan tiếp tục giải quyết công việc.

Tổng số chi phí mà triều đình nhà Thanh đã tiêu vào cuộc chiến ở Việt Nam là 1,346,508 lượng bạc bao gồm tỉnh Quảng Tây chi ra 1,057,322 lượng và tỉnh Vân Nam chi ra 289,186 lượng. Trong những chiến dịch lớn mà vua Cao Tông tự hào, chiến dịch này là chiến dịch ít tốn phí hơn cả.

Theo tài liệu chính thức, đề đốc Hứa Thế Hanh (許世亨), tổng binh Thượng Duy Thăng (尚維昇), Trương Triều Long (張朝龍), tham tướng Dương Hưng Long (楊興龍), Vương Tuyên (王宣), Anh Lâm (英林), phó tướng Hình Ðôn Hành (邢敦行), du kích Minh Trụ (明柱), Trương Thuần (張純), Vương Ðàn (王檀), Lưu Việt (劉越), đô ti Ðặng Vĩnh Lượng (鄧永亮), thủ bị Lê Chí Minh (黎致明) đều tử trận.[287] Còn đạo quân Vân Nam bố trí từ biên giới đến Thăng Long hơn 30 trạm, Ô Ðại Kinh rút về đến Tuyên Quang ngày mồng 9 tháng Giêng, sau đó theo cửa quan triệt hồi.

Tuần phủ Quảng Tây là Tôn Vĩnh Thanh sau khi nghe tin báo đại binh thất trận liền sai tham tướng Vương Lập Công (王立功) đem 300 quân chạy xuống Lạng Sơn tiếp cứu những người chạy về, rồi trong hai ngày 10, 11 tháng Giêng [4/5-2-1789] chuyên chở số binh lương, thuốc súng còn để tại Lạng Sơn về nước.

Quân Thanh trước đây đã thiết lập 17 kho lương thực dọc theo đường từ Lạng Sơn xuống Thăng Long, bố trí 5,000 quân chia thành ba toán, 2,000 người ở lại phòng thủ Lạng Sơn, 1300 người chia ra canh gác 17 kho lương thực được thành lập dọc theo tuyến đường từ Lạng Sơn đến kinh đô, 1700 người khác chia ra canh phòng các nơi hiểm yếu.

Tuy nhiên, các đài trạm dọc theo đường từ Lạng Sơn đến Thăng Long quân Thanh không di tản được. Hai viên quan phụ trách đài trạm là tri huyện Lăng Vân (凌雲) Viên Thiên Quì (袁天逵) và kinh lịch Trương Thành (張誠) đều tử trận. Theo báo cáo của quan nhà Thanh thì chính họ đã đốt các kho lương thực và quân cụ nhưng chỉ là ngoa ngôn để che dấu việc bị quân Nam chiếm đoạt. Theo các giáo sĩ phương Tây, số lượng “chiến lợi phẩm” quân Tây Sơn thu được rất lớn.

Theo Lại Phúc Thuận thì:

Ngày mồng 5 tháng Giêng năm Càn Long thứ 54 [30-1-1789] Lê thành bị thất hãm, Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt bỏ chạy, dẫn theo 500 quân qua sông, còn bao nhiêu bỏ lại bờ phía nam sông Phú Lương cho địch giết. Ngày mồng 9 tháng Giêng [3-2-1789], Tôn Sĩ Nghị chạy được về Lạng Sơn, thu hồi tàn binh. Ngày 11 lui về đến Trấn Nam Quan. Khi trước Tôn Sĩ Nghị ở Lê thành quân số tổng cộng 5,700 người, thêm tổng binh Thượng Duy Thăng chỉ huy 3,000 người đóng ở bờ sông, tổng cộng 8,700 người, chạy về được đến Trấn Nam Quan hơn 3,000 người. Còn lại hơn 5,000, kể cả những người tử trận ở sông Thị Cầu và bệnh hoạn mà chết, thêm một số về sau chạy được trở về cửa ải. Cuối tháng Ba, tân nhiệm Lưỡng Quảng tổng đốc là Phúc Khang An báo cáo là ở Trấn Nam Quan mỗi ngày vẫn còn 3, 4 có khi 7, 8 người qua ải, phần lớn bệnh hoạn hoặc bị trọng thương.

Số quân về được Trung Hoa không phải là đi cùng Tôn Sĩ Nghị mà là quân Thanh đóng dọc theo trục lộ và nhất là 2000 quân đóng ở Lạng Sơn. Tuy về sau có nhiều đoàn quân lẻ tẻ chạy theo đường mòn, băng rừng vượt suối về lại Trung Hoa nhưng không phải đi theo Tôn Sĩ Nghị như ông ta đã báo cáo.

Cuộc chiến thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu không phải là không đem đến những tổn thất cho quân ta. Tuy vua Quang Trung hết sức dấu kín tổn thất của bên mình nhưng quân ta cũng phải chết đến hàng vạn người và một số tướng lãnh tử trận, trong đó có cả một đô đốc được an táng rất trọng thể. Riêng trận Ngọc Hồi, theo sự ghi nhận của các giáo sĩ Tây phương đang ở Bắc Hà, bên ta thiệt hại ít ra cũng phải 8000 người. Nguyễn Huệ sau khi đánh thắng quân Thanh, ông lập tức xúc tiến việc phòng thủ bằng cách bắt tất cả binh lính và dân chúng “xây một lũy đất dầy 6.6 m (20 feet), cao 3.6 m (12 feet) chung quanh điện của Chiêu Thống”, đồng thời sai Ngô Văn Sở đem truy binh đuổi theo nhưng bị địch đẩy lui. Ðây cũng là một câu hỏi cần được đặt ra vì theo các chi tiết từ sử liệu Trung Hoa, không có một trận đánh lớn nào xảy ra sau khi quân Thanh đã thua chạy và họ cũng không có đủ thời giờ hay phương tiện để ngăn chặn quân Nam. Số lượng quân Thanh đóng giữ tại các đài trạm cũng không nhiều, làm nhiệm vụ canh gác hơn là chiến đấu nên hầu như không nơi nào có điều kiện để chiến đấu mà chỉ mạnh ai nấy chạy khi nghe tin đại binh đã thua.

Nhiều chi tiết cho chúng ta một kết luận là chính vua Quang Trung không muốn đuổi tận giết tuyệt vì còn để một khoảng trống ngõ hầu tiến hành việc bang giao với nhà Thanh, một sứ mạng mà ông cho rằng quan trọng hơn một thắng lợi quân sự. Nguyễn Huệ đã có một kế hoạch “giữ thể diện” cho nhà Thanh trước khi ông tấn công nên hết sức tránh những động thái nào có vẻ như khiêu khích đối phương, và sau khi lấy lại Thăng Long rồi ông cũng cố gắng giảm thiểu việc truy sát. Theo những lời khai của tù binh và quân sĩ chạy về được, thái độ của quân Nam xem ra rất độ lượng trong việc đối xử cũng như tạo cơ hội cho họ khỏi mất mặt. Xem như thế, vua Quang Trung đã có một chính sách cụ thể và minh bạch ngay từ đầu về mục tiêu tái lập bang giao với Trung Hoa.

Dân chúng sống trong vùng biên giới ở nam Trung Hoa khi nghe tin Tôn Sĩ Nghị đại bại, e ngại một cuộc tập kích tiếp theo nên cũng hoảng vía thu dọn tài sản chạy loạn. Về việc này, sử nước ta có phóng đại ít nhiều nhưng không phải là không có. Chính trong một mật chỉ của vua Càn Long gửi Phúc Khang An cũng có đề cập đến việc cử ông ta tới làm tổng đốc Lưỡng Quảng nhằm mục đích “trấn định nội địa nhất đái nhân tâm” [để làm yên lòng người một dải biên giới].

Trong thời gian mấy tháng liền, vua Quang Trung đã phòng ngự cẩn mật đề phòng một cuộc đại chiến thứ hai và đến khi thấy việc thông hiếu với nhà Thanh đã hình thành, ông mới đem chiến lợi phẩm về Phú Xuân.

Theo Thanh Cao Tông thực lục thì trong bản văn tế “Xuất Sư An Nam Trận Vong Tướng Sĩ” (出師安南陣亡將士), liệt kê rõ như sau:

Dịch âm

Càn Long ngũ thập ngũ niên thập nhị nguyệt, thị niên, truy dư xuất sư An Nam trận vong: du kích Tiêu Ứng Ðắc nhất viên, đô ti Hư Văn Khôi đẳng lục viên, thủ bị Phùng Thiên Dư đẳng cửu viên, thiên tổng Dương Phó Long đẳng thập tứ viên, bả tổng Lý Thế Tuấn đẳng thập viên, ngoại uỷ Tạ Ðình Siêu đẳng cửu thập nhất viên, ngạch ngoại ngoại uỷ Quan Tú Phương đẳng thập tứ viên, Hán sĩ mã bộ binh đinh Lý Thượng Thông đẳng lục thiên bát bách thất thập lục danh, tế táng tuất thưởng như lệ, câu nhập tự Chiêu Trung Từ.

Dịch nghĩa

Tháng Chạp năm Càn Long thứ 55 (1790) truy cứu những người chết trận trong chuyến đánh An Nam gồm có: một du kích là Tiêu Ứng Ðắc, sáu đô ti là bọn Hư Văn Khôi, 9 thủ bị là bọn Phùng Thiên Dư, 14 thiên tổng là bọn Dương Phó Long, 10 bả tổng là bọn Lý Thế Tuấn, 91 ngoại uỷ là bọn Tạ Ðình Siêu, 14 ngoại uỷ ngoại ngạch là bọn Quan Tú Phương, còn lại mã binh, bộ binh, quân sĩ là 6876 người, theo lệ tế và chôn cất, thưởng tuất, tất cả đều được thờ trong Chiêu Trung Từ.

Xem như thế chúng ta thấy theo danh sách chính thức của nhà Thanh, số binh sĩ tử trận, ngoài những võ quan cao cấp như đề đốc, tổng binh ra, số quan binh trung cấp và lính thường gồm có:

– du kích 1

– đô ti 6

– thủ bị 9

– thiên tổng 14

– bả tổng 10

– ngoại uỷ 91

– ngoại uỷ [ngoài ngạch] 14

– mã bộ, binh đinh 6876

Tổng cộng 7021

Theo qui chế nhà Thanh, gia đình những người tử trận được hưởng tiền tử tuất tính bằng ngân lượng [bạc tính theo lạng] như sau: đề đốc (800), tổng binh (700), phó tướng (600), tham tướng (500), du kích (400), đô ti (350), thủ bị (300), thủ ngự sở thiên tổng (250), vệ thiên tổng (200), doanh thiên tổng (150), bả tổng, ngoại uỷ (100), mã binh (70), bộ binh (50), hương dũng, thổ binh (25).

Ngoài ra còn khoảng gần 800 người bị bắt, tính ra quân Thanh (chính qui) tổn hại tổng số độ 8000 người. Những con số trên đây không tính tới những thành phần tham chiến khác như quân Cần Vương của nhà Lê, các thổ binh, thổ hào, dân phu, và một số đông phu mỏ, Hoa kiều … có thể cũng bị giết trong khi giao chiến hay bị trả thù. Theo cách tổ chức quân đội và điều động nhân sự của nhà Thanh, trong những lần viễn chinh, số lượng dân phu sử dụng thường từ 3 đến 5 lần số quân hiện dịch. Riêng cánh quân Lưỡng Quảng, số dân phu điều động lên đến khoảng một chục vạn người nhưng có mặt tại trận địa lúc đó chắc ít hơn. Nếu cho rằng số dân phu bị chết ít ra cũng phải tương đương với số quân lính thì dân phu người Thanh thiệt hại khoảng một tới hai vạn. Con số dân phu tử thương này [phần lớn là các dân tộc thiểu số sống ở nam Trung Hoa và rừng núi biên giới Hoa – Việt] nhà Thanh bỏ lơ không nhắc đến mà bên nước ta thì cũng không muốn khơi ra nên số người Trung Hoa bỏ xác lại trên đất Việt vẫn chỉ là những ước đoán.

Ðáng kể nhất phải là toán thổ binh Ðiền Châu của Sầm Nghi Ðống từ Quảng Tây và quân của châu Bảo Lạc là người thiểu số của nước ta từ biên giới xuống. Theo sử nhà Thanh thì một số đông dân phu mỏ (mà họ gọi là xưởng binh) là dân Trung Hoa lén trốn sang làm việc ở nước ta đã tự nguyện đi theo đoàn quân Thanh và thành phần này bị thiệt hại khá nặng. Theo các văn thư của nhà Thanh, số xưởng dân đi theo quân Thanh có đến mấy vạn người. Thành phần này vốn dĩ sống ngoài vòng pháp luật nên khi xuống Thăng Long quen thói cường đạo, nhũng nhiễu nên khi thua trận bị dân chúng tìm giết rất nhiều. Vì quen địa thế những người sống sót đã chạy được về Tàu và được đặc ân không bị bắt tội và cho hồi tịch (theo luật nhà Thanh, những ai bỏ nước ra đi đều mang tội phản quốc và vì thế Thanh triều không can thiệp vào những vụ tàn sát Hoa kiều ở các nước Ðông Nam Á như trường hợp Phi Luật Tân, Gia Ðịnh …).

Nếu ước đoán như thế, tổng cộng số quân Thanh và đồng bọn chết trong chiến dịch này có thể lên đến trên dưới hai vạn người, mặc dù nhà Thanh chỉ đề cập đến thành phần chính qui của họ bị tổn thất [tức thành phần được hưởng tử tuất] vào khoảng trên dưới một vạn người mà thôi.

Một nhân vật hoàn toàn không còn được nhắc đến sau trận đánh đầu năm Kỷ Dậu là Lê Duy Cẩn, có lẽ cũng là một nạn nhân của trận chiến. Chúng ta chỉ biết rằng trước đây vua Cao Tông đã ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị “truyền dụ cho Lê Duy Kỳ đem Lê Duy Cẩn giải sang nội địa [Trung Hoa] để an tháp”. Tuy nhiên Lê Duy Kỳ– có lẽ một phần vì tình đồng tộc [Lê Duy Cẩn là chú Lê Duy Kỳ] đã chống chế rằng “Lê Duy Cẩn là kẻ ngu si, dễ dàng quản thúc, hiện đã bị giám sát mọi cử động không thấy có điều gì khác lạ, trong tương lai nếu có chuyện gì đáng ngờ, lúc đó giam cấm nghiêm trị cũng còn kịp”. Như vậy, Lê Duy Cẩn đã cùng với một số đông tôn thất nhà Lê ra hàng khi quân Thanh tiến vào Thăng Long và sử sách chỉ thấy chép một số ít sau này nổi lên chống lại triều đình Tây Sơn ở các vùng rừng núi phía tây và thượng Lào nên có lẽ đã bị thất tung trong cơn binh lửa.

Về phần quân Nam, trong vai tấn công, đánh biển người, đánh thí mạng chắc chắn thiệt hại cũng không ít nhưng con số không được tính toán chính xác nên không rõ là bao nhiêu. Thành phần tân tuyển từ Thanh – Nghệ hẳn là đông hơn cả. Số binh lính đó về sau không biết ra sao, phần lớn phải tự tìm đường trở về nhà nhưng không ít người hoà nhập với dân ở ngoài bắc hoặc lần mò tới một số vùng đất tân bồi vùng duyên hải lập nghiệp, kiến tạo một số làng xã mới vẫn còn tồn tại tới ngày nay.
 

Hươngquê73

Xe tăng
Biển số
OF-374797
Ngày cấp bằng
23/7/15
Số km
1,362
Động cơ
256,850 Mã lực
PHẦN VIII

KẾT LUẬN

Trong các tài liệu cũ, việc miêu tả tổ chức và sinh hoạt quân sự của nhà Thanh không chính xác đưa đến những hư cấu và tưởng tượng. Ðến đời Càn Long, quân đội Trung Hoa đã được chính qui hóa và tổ chức rất chặt chẽ, các luật lệ về điều động, thăng thưởng, tiếp vận, trang bị, tử tuất, qui chế sinh hoạt … đều chi ly phức tạp.Ðối chiếu tổ chức chính qui của nhà Thanh với tổ chức theo kiểu dân quân [militia] nặng phần tự phát của Tây Sơn có những khác biệt một trời một vực không phải trên hình thức mà về hoạt tính của quân đội.

Quân Thanh di chuyển cồng kềnh và lỉnh kỉnh đủ mọi loại quân trang, vật dụng trong khi quân Ðàng Trong vì trang bị và sinh hoạt đơn giản, quen với đời sống di động nên có thể đóng quân và nhổ trại rất nhanh. Chính vì quân Thanh vốn dĩ thuộc loại đồn binh [binh đóng quân tại một chỗ để phòng thủ, canh tác sinh hoạt như một tập thể định cư], việc điều binh trở nên phức tạp phù hợp với nhận định của John Keegan là “chiến tranh nào cũng cần di chuyển nhưng đối với những dân tộc định cư thì chỉ đi một đoạn ngắn cũng gặp nhiều khó khăn”.

Quân đội của nhà Thanh điều động sang đánh nước ta cũng chỉ gồm Lục Doanh, là quân đội người Hán, khác hẳn với các kỳ binh ở miền bắc và chung quanh hoàng thành. Chúng ta có thể tham khảo những phân tích cụ thể về sức mạnh của Thanh triều tương đối chính xác khi phái đoàn Anh Macartney sang Trung Hoa năm 1793, ngoài công tác ngoại giao còn đưa ra những nghiên cứu nhằm đánh giá sức mạnh của đế quốc Trung Hoa để phác họa một chính sách đối phó. Bên cạnh những số liệu, người Anh còn cất công vẽ hàng trăm bức về cảnh quan, về sinh hoạt thực tế thời đó. Tài liệu của phái bộ Anh có thể giúp chúng ta thấu đáo hơn về đoàn quân sang cứu viện cho vua Lê.

Một điểm cần nhấn mạnh là y phục của họ rất lụng thụng, vướng víu vốn dĩ dùng trong lễ lạc và trình diễn. Áo giáp của binh lính làm bằng da và các mảnh kim loại, bên trong lót bằng nhiều lớp giấy bản trông bề ngoài rất oai vệ, tuy phần nào hộ thân khi chiến đấu và phòng thủ nhưng rất bất lợi khi cần di động nhanh. Miền bắc nước ta trong mùa đông, mưa phùn gió bấc, nhiều hồ ao, đầm chằm nên khi quân Thanh bị sa lầy đều không gượng được. Theo quan sát của nhiều tác giả ngoại quốc đã tìm hiểu thì thực lực của nhà Thanh không hùng mạnh như người ta tưởng.

Dưới mắt người nước ngoài, quân Thanh sang nước ta được miêu tả như “một đoàn quân vừa yếu vừa quá mê tín dị đoan … lính Trung Hoa mang theo cả điếu hút, bát đĩa và các hành trang phụ khác, đeo lủng lẳng ở thắt lưng họ. Họ vừa là lính vừa là lái buôn bồi bếp …” nhưng lại bị “… những kẻ man rợ từ cao nguyên miền Namtrông giống như một toán bệnh nhân ốm yếu hơn là một đoàn chiến binh” đánh cho thảm bại.

Hai trở ngại lớn của quân Thanh khi điều động ra khỏi biên giới là tổ chức các đài trạm [lán lương thực] và dịch trạm [trạm truyền tin]. Theo qui định của Thanh triều, ngoài việc tính toán cho các trạm này theo khoảng cách để lương thực có thể vận chuyển liên tục tiếp tế cho tiền tuyến – quân đến đâu, lương thực tới đó. Vì tình hình đường sá nước ta khó khăn, Tôn Sĩ Nghị không thể sử dụng các loại phương tiện hữu hiệu hơn như thuyền bè, xe ngựa, trâu bò … mà hoàn toàn phải dựa vào sức người để mang vác. Nhân phu khi đó chỉ có thể điều động dân chúng sống ở các tỉnh giáp biên giới nhưng Quảng Tây đất rộng người thưa, việc trưng dụng rất khó khăn và chậm chạp, gây phiền toái cho quần chúng. Vùng biên giới lại nhiều bộ lạc, nhiều nhóm thổ dân khác nhau về phong tục, về tiếng nói nên cũng khó đôn đốc, điều hợp.

Nhà Thanh cũng tính đến việc sử dụng, thuê mướn dân phu An Nam nhưng lại e ngại việc dò thám hư thực, bất lợi cho quân cơ. Vả lại những năm trước đó, tình hình đói kém, chiến tranh, bên nào cũng bắt lính, mộ phu nên làng xóm tiêu điều, dân chúng thưa thớt nhiều nơi xương trắng còn nằm dọc bên đường, di thể không ai chôn cất.

Nói chung, tuy bề ngoài diệu võ dương oai nhưng thực ra quân Thanh không có khả năng thực hiện những chiến dịch ngoại biên, điển hình là các lần chinh phạt Miến Ðiện đều thảm bại. Ngoài ra, khí hậu thất thường, muỗi mòng rắn rết, thời tiết phương Nam không hợp nên nếu ở lâu chắc chắn quân Thanh và phu phen của họ sẽ bị những trận đại dịch. Dịch tả, sốt rét, thương hàn … là kẻ thù còn nguy hiểm hơn đối phương nhiều. Chính Tôn Sĩ Nghị khi trở về cũng bị phong thấp nặng, phải điều dưỡng lâu ngày, Tôn Vĩnh Thanh thì cũng chết vì bệnh mặc dù chỉ trú đóng tại biên giới mà không qua nước ta.

Về quân ta, đã có nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến ưu điểm và khả năng của Nguyễn Huệ trong chiến thắng Kỷ Dậu.

1. DI ÐỘNG NHANH


Một trong những yếu tố khiến quân Tây Sơn có thể tấn công bất ngờ là việc họ có thể tập trung một binh lực áp đảo về lượng cũng như về phẩm mà địch không tiên liệu được. Không ít sách vở đề cao về ưu điểm làm tướng của Nguyễn Huệ, đó là kỷ luật nghiêm minh.

Lẽ dĩ nhiên, kỷ luật thép là một yếu tố quan trọng khiến binh sĩ chỉ biết tiến chứ không lùi. Trong một mức độ nào đó, kỷ luật và đè nén rất khó phân biệt. Ðối với các nhà nghiên cứu, kỷ luật quân đội chỉ có thật khi đời sống của người lính được bảo đảm mọi mặt, nhất là phần lương thực, trang bị và những nhu cầu cá nhân kể cả bản thân họ và gia đình.

Vào thời kỳ đó, những cánh dân quân tổ chức còn lệ thuộc nhiều vào tương quan “chủ tướng – thuộc hạ” không có những doanh trại trú đóng những đại đơn vị thường trực trong tư thế “nuôi quân ba năm dùng một giờ”. Theo nhận xét của giáo sĩ de la Bissachère, quân của Nguyễn Huệ đều là dân binh được tuyển mộ gấp rút từ các làng xã dọc theo trục lộ tiến quân, tới đâu bắt lính tới đó và lớn dần theo hiện tượng tuyết lăn.

Trong trận đánh ở Thăng Long, lực lượng chủ yếu của ông là quân bản bộ Ngô Văn Sở đóng tại Tam Ðiệp cộng thêm số quân “vét” được trên đường ra Bắc, đáng kể nhất tại hai xứ Thanh Nghệ. Danh tiếng của Ngô Văn Sở đã vang dội tới tận tai vua Càn Long chứng tỏ công lao không nhỏ trong chiến dịch này.

Thứ hai, quân của ông cũng không tiến theo hàng dọc theo đường thiên lý. Vào thời kỳ đó, đường cái quan dọc theo bờ biển chưa được thiết lập, đường thông từ Bắc vào Nam chủ yếu là đường thủy. Tuy nhiên vì gió bấc, chúng ta không tin rằng ông dùng đường biển để chuyển quân, mà chú trọng vào đường thượng đạo xuyên qua khu vực Bắc Lào (khi đó là một vùng hoang sơn trái độn giữa Xiêm La và Ðại Việt) thuận tiện và quen thuộc hơn với đám thân binh người Thượng và voi trận của ông. Con đường đó được sử dụng rất thường xuyên cho tới đầu thế kỷ XIX khi nhà Nguyễn xây dựng con đường cái quan và các dịch trạm từ Nam ra Bắc. Những cánh quân đó được điều động mà điểm tập kết là Nghệ An qua đèo Qui Hợp.

Chúng ta có thể hình dung được cách chuyển quân của ông tương tự như phương pháp “just-in-time” trong quản trị, các cánh quân khắp nơi được phối hợp để cùng di chuyển, mỗi đơn vị chỉ nhận một lệnh rất đơn giản là chuyển người đến điểm tập trung vào một hạn kỳ đã định trước.

Những đơn vị nhỏ đó không liên lạc với nhau, cũng không biết mình được điều động để làm gì (rất có thể vì ngôn ngữ phức tạp, họ cũng không hiểu được nhau nữa).Ðể có thể đem đại quân ra Bắc đánh một trận hết sức bất ngờ, Nguyễn Huệ có lẽ chỉ tập hợp bộ tham mưu tại trung quân để ra chỉ thị, khi hành quân chính ông cũng trộn lẫn vào trong số đông, tránh cảnh bị địch dồn sức đánh vào bản doanh chỉ huy đưa đến cảnh rắn mất đầu như Chế Bồng Nga thuở trước.

Những việc có tính chất thủ tục như tập hợp đại binh để cưỡi voi truyền hịch chắc không làm rầm rộ như người ta phóng đại sau này. Việc hỏi ý kiến các nho sĩ miền Bắc lại càng không thể làm, vì bí mật quân sự cũng có, vì tình hình thực tế cũng có. Bài hịch hùng hồn của Nguyễn Huệ chép trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí nếu không phải là một hư cấu của người kể chuyện thì cũng là một sáng tác sau này để chính danh hoá việc Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc, tô điểm cho chiến dịch sau khi đã thành công. Những tạo dựng như thế không phải là hiếm trong lịch sử.
 

Hươngquê73

Xe tăng
Biển số
OF-374797
Ngày cấp bằng
23/7/15
Số km
1,362
Động cơ
256,850 Mã lực
2. TRANG BỊ NHẸ

Trang bị là một yếu tố quan trọng trong di hành. Quân Tây Sơn vào thời đó bao gồm rất nhiều sắc dân, chủ yếu là các sắc dân thiểu số Ðàng Trong với lối ăn mặc hết sức giản dị thường chỉ đóng khố, đi chân không. Cánh quân người Kinh của ông thì ăn mặc giống như người Chàm ngày nay, quần áo thoải mái, không quân phục mà là quần áo hàng ngày, không cần phải trang bị hay đồng phục [ngoại trừ những cánh thân binh]. Truyền thống đi chân không của vùng Nam Á trở thành một yếu tố quyết định trong chiến thuật gọi là “thần tốc” của vua Quang Trung.

Vấn đề quan trọng nhất của quân đội là vũ khí và lương thực thì đã có những kho ông để sẵn, không nhiều nhưng đủ để cho quân của ông ăn từ 5 đến 10 ngày. Ðể xây dựng một tân đô ở Thanh Nghệ, ông đã tập trung khá nhiều nhân lực, tài lực, vật liệu về vùng này kể cả những kho lương thực để làm hậu cần cho quân đội. Một kinh đô hành chánh không thể không có những huyết mạch kinh tế kèm theo. Ðây cũng là một yếu tố cần nghiên cứu về sự thất bại quá dễ dàng của quân Thanh khi họ chỉ chiếm được Thăng Long, một kinh đô “ảo” đã mất hết “vượng khí” như lối tin tưởng của người Nam Á nên cần tìm một vùng đất mới để xây dựng trung đô.

Những cánh quân di chuyển mang một số lượng lương thực ít ỏi như thế nên họ có thể đi nhanh và chỉ được nghỉ khi đến trạm kế tiếp để lấy thêm lương thực. Việc tự mang lấy lương thực cũng là một cách để gia bội lực lượng chiến đấu, giảm thiểu cơ cấu hậu cần. Trong khi một binh sĩ chiến đấu của quân Thanh cần từ ba [nếu di hành trong khu vực nội địa] đến năm [nếu chiến dịch bên ngoài biên giới] phu dịch để phục vụ thì mỗi người lính của vua Quang Trung đều tự bảo đảm việc cung cấp cho chính mình, cả lương thực tự mang theo lẫn mưu sinh tự túc. Người nước ngoài khi đến vùng Ðông Nam Á đã ghi nhận khung cảnh “toàn dân vi binh” từ rất sớm.

Khi tập trung quân ở cứ điểm sau cùng trước khi bôn tập, Nguyễn Huệ đã hẹn ngày vào Thăng Long không phải như một lời tiên tri mà người ta thường ca tụng mà là một kỳ hạn tối hậu cho số lượng lương thực mỗi người có thể mang theo. Với những người dân Thanh Nghệ đang đói ăn, ăn Tết trước và hẹn vào kinh đô chiếm lấy các kho đụn của quân Tàu cũng là một hình thức “vọng mai chỉ khát” [chỉ rừng mơ để cho lính bớt khát] để kích thích lòng quân. Chúng ta cũng không bỏ qua mối căm phẫn sẵn có của ưu binh Thanh Nghệ khi phải chạy về quê vì biến động tại kinh đô cuối đời Cảnh Hưng, và trong những thời kỳ đói kém, việc tòng quân còn là một chọn lựa để mưu sinh bên cạnh tinh thần vì đại nghĩa.

Chiến thắng của người Việt cũng gần giống như những trận đánh của người Miến chống quân Thanh hay giao tranh giữa người Xiêm và người Miến. Những trận đánh đó cũng khốc liệt không kém và chiến thuật sử dụng voi để làm tiền đạo, kỵ binh và bộ binh tiến theo chính là một điều hợp quân sự khá thông dụng và phổ biến ở khu vực Nam Á.
 

Hươngquê73

Xe tăng
Biển số
OF-374797
Ngày cấp bằng
23/7/15
Số km
1,362
Động cơ
256,850 Mã lực
3. CHỦ ÐỘNG TẤN CÔNG

Nhiều sử gia vẫn ngạc nhiên về chiến thuật bất ngờ và chớp nhoáng mà chúng ta thường gọi là thần tốc. Thực tế cho thấy, đây là một yếu tố quyết định của những thắng lợi trong suốt cuộc đời cầm quân của Nguyễn Huệ. Mặc dầu ông không bỏ qua yếu tố địa hình (advantage of terrain) và tấn công từ nhiều phía, nhiều hướng, nhiều mặt nhưng nếu không có tính chất đột ngột và quân số áp đảo (surprise attack with superior numbers), chúng ta khó có thể tin rằng Nguyễn Huệ đạt được như mong muốn.

Nguyễn Huệ đã khai thác được nhược điểm cốt lõi của đối phương (crucial errors) và đã lướt thắng được những ưu điểm của một đoàn quân trú phòng chính vì ông tìm ra được cách tấn công chí mạng. Rõ ràng ông không dàn trận để đợi địch tới như phương pháp chúng ta thường thấy của một đội quân yếu và ít đánh với một kẻ địch mạnh và đông, mà trái lại ông để cho địch đã bố trí đâu ra đấy rồi mới tìm cách phá giặc. Chiến thuật của ông cho ta thấy một điểm mà ít sử gia nhắc tới. Ông luôn luôn nghi ngại việc tập trung đóng quân ở những vùng đất lạ – và cũng là vùng đất thù – như ở Bắc và Nam vì ông biết rằng một khi đã đồn trú và bảo vệ diện địa, ông trở thành bị động, là kẻ bị tấn công mà không còn thế tiên cơ như khi đem quân tới tấn công địch.

Ông cũng nắm được nhược điểm của chính ông là không thể duy trì một cuộc chiến kéo dài mà không bị khó khăn về binh lương, về nhân lực. Cuộc tranh chấp của Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc tại Qui Nhơn năm 1788 đã cho thấy ông không có ưu thế về công kiên khi địch quân cố thủ trong thành. Nguyễn Huệ có nhiều ưu điểm hơn khi mặt trận xảy ra trên đất “lạ” vì ông không bị ràng buộc với địa phương như tại Qui Nhơn. Các nhà nho thường dùng những từ ngữ mang tính gợi hình như “quyển địa” [cuốn đất] để miêu tả cách hành binh thần tốc và bất ngờ. Ðoàn quân ấy đi đến đâu lập tức phân tán lẩn vào thôn ấp, sử dụng những công ốc như đình chùa, miếu mạo … làm chỗ đóng quân nên không khỏi bị dân địa phương oán trách vì không tôn trọng tín ngưỡng của họ.
 

Hươngquê73

Xe tăng
Biển số
OF-374797
Ngày cấp bằng
23/7/15
Số km
1,362
Động cơ
256,850 Mã lực
4. HỢP ÐỒNG TÁC CHIẾN

Chúng ta không thể hình dung Nguyễn Huệ đi đến đâu đều kéo theo toàn bộ quân số dưới quyền như một ông bầu gánh hát đem theo cả đoàn khi lưu diễn. Trong tình hình cuối năm 1788, Nguyễn Huệ phải đối phó với nhiều nguy cơ từ nhiều phía trong đó không thể thờ ơ với đe doạ của Nguyễn Nhạc từ Qui Nhơn kéo ra, và có thể cả Xiêm La hợp lực với Nguyễn Ánh từ Gia Ðịnh tấn công theo đường thuỷ và đường núi nhân cơ hội ông bị vướng vào một trận chiến lớn. Vì thế, Nguyễn Huệ phải giữ lại rất nhiều chủ lực để bảo vệ những trọng điểm chiến lược ở Ðàng Trong.

Trong chiến dịch đánh quân Thanh, vua Quang Trung chỉ điều động quân địa phương và các lực lượng phụ thuộc. Ðó chính là điểm các nhà nghiên cứu không thể xác định được lý lịch của những toán quân xuất hiện rất bất ngờ và vô danh, sau đó hầu như biến mất. Cũng như Chế Bồng Nga thuở trước, Nguyễn Huệ đã đạt được một uy tín lãnh tụ khiến nhiều tiểu quốc, nhiều bộ lạc thần phục ông. Phương thức hợp đồng tác chiến đó đã khiến nhiều quốc gia tập hợp được một lực lượng mạnh khi cần đến, điển hình là Miến Ðiện và Xiêm La khi giao tranh không phải do lực lượng của chính họ mà do các khu vực thần phục mỗi bên đánh với nhau. Ngay cả khi “quân Xiêm” sang giúp Nguyễn Ánh, đoàn quân đông đảo đó cũng bao gồm nhiều sắc dân ở Chân Lạp và Nam Lào nên khi bại trận đã “theo đường thượng đạo” chạy về [đất của họ].

Thứ đến, quân sĩ chiến đấu muốn hiệu quả phải có tính chuyên nghiệp, được huấn luyện và quen với khung cảnh máu đổ, đầu rơi. Không phải cứ đưa dao kiếm cho một người vốn quen nghề ruộng rẫy sẽ biến họ thành một chiến sĩ, nhất là ở thời kỳ mà chưa có những vũ khí sát thương ở tầm xa. Việc tập hợp hàng chục vạn nông dân để trở thành một binh đội thiện chiến không thể chỉ trong đoản kỳ. Riêng việc có đủ binh khí để trang bị cho họ cũng là một vấn đề lớn khi đoàn ngũ hoá tầng lớp dân chúng ở nông thôn. Ðó cũng là lý do tại sao các thổ hào không thể có được những đội quân tinh nhuệ. Cho nên, dù tinh thần cao chăng nữa, muốn hữu hiệu ba cánh quân của vua Quang Trung trong chiến dịch Bắc Hà phải là những chiến binh chuyên nghiệp, không phải là những tân binh mới tuyển mộ. Chỉ có những chiến binh với đầy đủ khả năng, Nguyễn Huệ mới tính toán được một chiến thuật gọi là “thần tốc”.

– Cánh quân thứ nhất do các tiểu vương và bộ lạc phía tây dãy Trường Sơn mang theo voi trận vốn dĩ là lực lượng quan trọng nhất của họ. Chắc chắn nếu Nguyễn Huệ mang voi từ Phú Xuân ra, bên cạnh việc trở ngại trong vấn đề di chuyển, chỉ riêng thời tiết thay đổi đột ngột và cung ứng lương thực cho đoàn thú to lớn này cũng đã làm cho vai trò của tượng binh bị hạn chế rất nhiều.

– Cánh thứ hai là hải quân do những tướng lãnh và lực lượng hải khấu ông thu phục được từ biển theo đường sông đánh ngang hông và chặn các đường rút quân của địch.

– Bộ binh do chính ông chỉ huy ngoài các lực lượng cơ hữu của Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân lại được bổ sung bởi một thành phần đã quen với chiến đấu. Ðó chính là ưu binh Thanh Nghệ vốn dĩ là lực lượng quan trọng nhất của chúa Trịnh bị truy sát đang trở về trốn tránh tại quê hương, bản quán.

Việc điều động ba lực lượng chủ chốt với ba đặc tính riêng rẽ vô hình chung phù hợp với lối đánh của Nam Á mà những nhà nghiên cứu đã đề cập đến. Rất có thể đây chỉ là một ngẫu nhiên nhưng chúng ta thấy có nhiều tương đồng khi đối chiếu với binh thư của những quốc gia chịu ảnh hưởng của văn minh Ấn Ðộ mà không tìm thấy tại những khu vực vay mượn ở văn minh Trung Hoa. Ông cũng không đánh cầu may mà thực tế thường chuẩn bị và tính toán kỹ càng, có điều ông dựa vào tin tức tình báo và sử dụng cái năng khiếu bén nhậy của mình để quyết định. Tin tức tình báo đó do một mạng lưới thương nhân có những liên hệ mật thiết với ông, được mua chuộc bằng cả lợi lộc lẫn đe doạ. Thương nhân nếu ở phe ông được ưu đãi bao nhiêu thì không liên minh với ông sẽ bị trừng trị thảm khốc bấy nhiêu, điển hình như vụ tàn sát người Hoa ở Gia Ðịnh năm 1782. Ðể bảo đảm sự tuân hành tuyệt đối những lệnh lạc của mình, Nguyễn Huệ áp dụng một thứ kỷ luật sắt, tạo cho binh sĩ thói quen chỉ biết nghe lệnh ông mà không cần suy nghĩ, không đóng đồn hạ trại, dùng lương khô khi di hành và ăn uống giản dị tới mức chỉ ăn cơm nhạt với muối.

Chiến thuật của ông cũng khác hẳn cổ nhân. Trong khi Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn sử dụng lối đánh dằng dai để địch tự tiêu hao rồi mai phục tại những địa điểm hiểm yếu phá địch bằng những trận then chốt khi họ rút lui thì vua Quang Trung lại tấn công khi địch đang đóng quân một chỗ, lấy ưu thế nhân số và di động để bao vây áp đảo đối phương.

Hưng Ðạo Vương có thể đánh chặn đường vì ông được lòng dân, có cả một khối quần chúng hậu thuẫn “cả nước đấu sức lại mà đánh”, trái lại Nguyễn Huệ tuy phải chiến đấu với kẻ thù nguy hiểm và to lớn trước mặt nhưng vẫn phải đề phòng khối quần chúng bản địa vì trong số địch quân lại có những người đã từng là vua, là chúa của vùng đó. Ông chỉ có thể vô hiệu hóa quần chúng chứ khó lòng mà dùng họ như một lực lượng hậu cần để bổ sung thiệt hại. Nhiều chi tiết rải rác cho thấy quân Tây Sơn luôn luôn phải dè chừng khi ra Bắc vào Nam, từ việc Nguyễn Nhạc bị người dân Nghệ An tấn công khi ông ra gặp Nguyễn Huệ, đến việc Nguyễn Hữu Chỉnh khi bị bỏ rơi đã phải vội vã chạy theo chứng tỏ quân Tây Sơn dưới mắt người Bắc Hà vẫn chỉ là một đoàn quân ngoại nhập, có nhiều cách biệt về phong tục, ngôn ngữ, một thứ quân của Quảng Nam quốc mà các nhà nho đã gọi là “man binh”, không ngang hàng với quân Trịnh, quân Lê vốn dĩ có những liên hệ mật thiết với quần chúng.

Chính vì phải đối phó với một tình thế khó khăn, Nguyễn Huệ không thể trải rộng mà phải tập trung thanh toán địch theo lối bẻ đũa, tiêu diệt địch bằng lối hành quân bất ngờ và một lực lượng đông đảo gấp bội để chiếm tiên cơ. Lối điều binh đó cho ta thấy ý định giữ đất giành dân, thành lập vương quốc của ông chỉ được hình thành sau khi những thế lực thù nghịch đã hoàn toàn bị thất bại.

Có thể nói, Nguyễn Huệ đã tập hợp được nhiều ưu điểm mà nhiều người đã đánh giá là tính sáng tạo, khác hẳn với truyền thống cố hữu. Trong khi có những triều đại luôn luôn coi Trung Hoa như bậc thầy để bắt chước, Nguyễn Huệ đã chứng tỏ rằng người Việt Nam có những đặc tính riêng và sự phát huy một bản sắc dân tộc là một điều cần thiết.

Một yếu tố tinh thần được nhắc đến nhiều là tinh thần quyết thắng của vua Quang Trung. Không biết chính xác tới mức nào nhưng được ghi lại trong tài liệu của nhà Thanh [theo lời khai của Phan Khải Ðức với Tôn Sĩ Nghị] là đích thân ông đã bí mật lên vùng biên giới để thám sát địa hình và ra lệnh cho chư tướng nếu quân Thanh tiến sang thì sẽ rút lui để bảo toàn lực lượng, chờ ông ra chỉ huy phản công.

Nếu thực như thế, ngay từ đầu Nguyễn Huệ đã có kế hoạch triệt thoái để bảo tồn lực lượng và tái chiếm Bắc Hà khi tình hình thuận tiện hơn. Tinh thần quả cảm đó đã khiến cho binh sĩ dưới quyền ông hết lòng với chủ tướng và cũng phù hợp với những nhận xét của người ngoài về con người dũng mãnh của ông.

Trận chiến Việt – Thanh đã được khai thác rất nhiều trong lịch sử Việt Nam, xoáy mạnh vào thắng lợi ở Thăng Long đầu xuân năm Kỷ Dậu. Chúng ta cũng nói nhiều đến thành tựu ngoại giao và ưu thế của Ðại Việt trong đời Càn Long sau khi hai bên trở lại hoà hoãn. Từ trước đến nay, những nghiên cứu về trận đánh long trời lở đất này chỉ được soi xét dưới khía cạnh quân sự, ít khi được quan sát trong bối cảnh chính trị của Trung Hoa, đặc biệt dưới triều đại Càn Long sau khi vị hoàng đế đã trị vì hơn nửa thế kỷ.

Với quan niệm ăn sâu trong đầu rằng vai trò của một thiên tử thay mặt Trời để cai trị thiên hạ, vua Càn Long vẫn nhân danh một nhiệm vụ rất cao cả là “hưng diệt kế tuyệt, tự tiểu tồn vong” [dấy lại một dòng đã đứt để nuôi nấng sự mất còn của nước nhỏ] để sai Tôn Sĩ Nghị đem quân sang nước ta. So sánh những bất đồng qua những sử liệu của cả hai bên, chúng ta cũng biết được rằng việc Nam chinh có những âm mưu bất chính của giới quan lại địa phương muốn khai thác cơ hội để thăng quan tiến chức, nhưng bản thân vua Càn Long lại e ngại một sa lầy mới có thể làm hỏng đại lễ “Bát Tuần Khánh Thọ” vào năm sau nên khi thấy rằng nhiệm vụ cơ bản đã hoàn thành, chữa được nỗi bất bình sau nhiều lần thất bại ở Miến Ðiện, ông ra lệnh rút quân về.

Chiến lược của nhà Thanh trong thời điểm đang trên đà thắng lợi vì thế không thống nhất. Vua Cao Tông tuy ra lệnh triệt binh nhưng cũng chỉ nói nửa chừng, đặc biệt nhất trong bài thơ liên hoàn ngày mồng Một Tết tại Trùng Hoa Cung không đề cập gì đến chuyện đó. Những tin tức về diễn tiến mặt trận gửi về Bắc Kinh vẫn là những tin tức đầy hứa hẹn và triều đình Trung Hoa chưa dứt khoát sẽ rút quân như thế nào nếu không tiến hành chiến dịch đánh xuống Phú Xuân.

Ðại thần nhà Thanh cũng biết được tâm lý của đấng chí tôn. Ở tuổi 80, vua Càn Long mong mỏi một kỳ thịnh thế bằng sự phô trương tốn kém để đón nhận triều yết của chư phiên hơn là bày mưu tính kế, lo nghĩ về một chuyện tranh chấp ở biên cương. Do đó, khi tiếp nhiệm tổng đốc Lưỡng Quảng, Phúc Khang An đã khôn khéo đề ra chính sách “dưỡng quân uy, tồn quốc thể” làm cơ sở đối phó với An Nam, một đường lối cương nhu thật thích hợp với tình thế, vừa chữa một thất bại quân sự, vừa góp phần vào việc nâng cao uy tín vua Càn Long.

Tuy nhiên cũng còn một chi tiết mà hầu như không một ai trong chúng ta nhắc đến. Ðó là trọng điểm chiến lược trong cai trị mà nhà Thanh luôn luôn muốn duy trì: làm thế nào để tuyệt đại đa số quần chúng người Hán luôn luôn chỉ nghĩ rằng họ chỉ là một loại “công dân hạng hai” trong xã hội, không thể đòi hỏi những biệt đãi như người Mãn Châu.

Ý thức đó luôn luôn được điều chỉnh để sao cho người Mãn, tuy chỉ là thiểu số, vẫn nắm giữ tất cả những chức vụ lớn, được hưởng những đặc quyền đặc lợi một cách đương nhiên không thể dị nghị. Chính vì thế, một mặt vua Càn Long rất phấn khởi với những thắng lợi nhanh chóng ban đầu, một mặt ông lại tìm cách ghìm lại để cho vai trò của Tôn Sĩ Nghị không vượt qua một giới hạn có thể chấp nhận được.

Như đã viết, ngoài việc giao cho Phú Cương (người Mãn) và Ô Ðại Kinh truyền hịch dụ hàng Nguyễn Huệ để cướp lấy công lao, vua Càn Long cũng hạ lệnh triệt binh khi cánh quân Quảng Tây chiếm được Thăng Long cốt để tạo cơ hội cho cánh quân Vân-Quí có thể tiếp tục công tác thời bình là “cải thổ qui lưu”, phương thức cổ điển mà nhà Thanh thực hiện để bình định và đồng hoá các khu vực ở tây và tây nam Trung Hoa. Dù không thôn tính một cách lộ liễu, nhà Thanh có thể cho những người Trung Hoa lén lút qua khai khẩn mỏ ở Tuyên Quang, Hưng Hóa [xưởng dân] được tách ra thành một khu tự trị [qui chế thổ ti] để một lúc nào đó sẽ sáp nhập vào nước Tàu. Một người làm quan lâu năm như Tôn Sĩ Nghị không thể không biết điều đó nên ông miễn cưỡng thi hành, hẹn đến đầu năm sẽ thực hiện lệnh rút quân.

Chính ở điểm tế nhị này, khi Tôn Sĩ Nghị đại bại chạy về, vua Càn Long lập tức đưa Phúc Khang An (một trong bốn người con đại thần Phó Hằng, người Mãn) sang làm tổng đốc Lưỡng Quảng, vừa lấy binh uy trấn ngự biên giới, vừa bí mật nhận lệnh chủ hoà để biến một thất bại quân sự (của một đại thần người Hán) thành một thắng lợi ngoại giao (của một đại thần người Mãn).

Chính sách ức Hán hưng Mãn của Thanh triều được thi hành tương đối chặt chẽ trong hai trăm năm. Mãi về sau, khi bị hoạ xâm chiếm của Tây phương và nhà Thanh phải nhượng bộ trong nhiều hiệp ước bất bình đẳng, dân chúng đói khổ khiến loạn lạc tại nhiều khu vực, người Hán lúc đó mới có cơ hội vươn lên cao hơn và một số người được giữ nhiệm vụ hành chánh và quân sự quan trọng (Tăng Quốc Phiên, Tả Tông Ðường, Lý Hồng Chương, Lâm Tắc Từ, Viên Thế Khải …) Tuy nhiên, đó là những thay đổi trong chính sách ở thời Thanh mạt chứ không phải vào thời thịnh trị của Khang Hi, Ung Chính, Càn Long.

Ðể khai thác triệt để lợi điểm chính trị này, vua Càn Long sau đó đã mau chóng chấp nhận phong vương cho Nguyễn Huệ và ra lệnh “vô hiệu hoá” những chống đối của vua tôi nhà Lê bằng cách phân tán mỏng, an tháp những người chạy sang Trung Hoa.

Xét riêng một trận đánh trong khoảng mươi ngày trước và sau Tết Nguyên Ðán, chiến thắng đầu xuân này là một điểm son trong lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, nếu đặt lên bàn cân những tương quan rộng lớn trong một thời gian dài, chúng ta có thể phải cân nhắc kỹ trước khi đi đến một kết luận về hậu quả của nó.

Về phần nhà Thanh, sự thần phục của Ðại Việt dưới triều đại Quang Trung đã đem lại ít nhiều tiếng vang đối với phiên thuộc, củng cố thêm uy tín của một triều đình vốn dĩ bị coi là ngoại tộc vào cai trị Trung Nguyên. Ðại Việt đóng một vai trò phên giậu đã giải quyết cho nhà Thanh mối lo về một số thổ ti dọc theo biên giới Hoa – Việt, không còn cơ hội chống lại triều đình và qua lại quấy phá những tỉnh dọc theo biên cương.

Ðối với nhà Tây Sơn, tuy những biến chuyển không nằm trong dự tính của Thanh triều nhưng lại đưa tới những hậu quả nghiêm trọng hơn nhiều. Vua Quang Trung bị cầm chân vào những thủ tục và nghi lễ ngoại giao trong suốt hai năm (1789-1790) là thời kỳ tối quan trọng để xây dựng thực lực nên đã bỏ lửng việc đối phó với mối đe doạ từ phía Nam, tạo cơ hội cho Nguyễn Ánh chiếm lấy Gia Ðịnh làm bàn đạp tiến ra Phú Xuân. Lẽ dĩ nhiên, lịch sử còn nhiều vấn đề được đặt ra bằng chữ “nếu” vì ví thử Nguyễn Huệ không chết sớm, cục diện không biết rồi sẽ đi về đâu.


Tháng 5, 2011

Nguyễn Duy Chính
 

Hươngquê73

Xe tăng
Biển số
OF-374797
Ngày cấp bằng
23/7/15
Số km
1,362
Động cơ
256,850 Mã lực
Cuốn sách tiếp theo của Nguyễn Duy Chính là : Thanh-Việt nghị hòa. Nội dung nói về những nỗ lực của hai bên thời hậu chiến. Sách cung cấp nhiều nội dung khá mới mẻ. Nếu các cụ, mợ đồng ý thì em sẽ tiếp tục post nội dung cuốn sách này.
 
Chỉnh sửa cuối:

mihkun

Tháo bánh
Biển số
OF-173291
Ngày cấp bằng
23/12/12
Số km
2,457
Động cơ
367,826 Mã lực
4. HỢP ÐỒNG TÁC CHIẾN

Chúng ta không thể hình dung Nguyễn Huệ đi đến đâu đều kéo theo toàn bộ quân số dưới quyền như một ông bầu gánh hát đem theo cả đoàn khi lưu diễn. Trong tình hình cuối năm 1788, Nguyễn Huệ phải đối phó với nhiều nguy cơ từ nhiều phía trong đó không thể thờ ơ với đe doạ của Nguyễn Nhạc từ Qui Nhơn kéo ra, và có thể cả Xiêm La hợp lực với Nguyễn Ánh từ Gia Ðịnh tấn công theo đường thuỷ và đường núi nhân cơ hội ông bị vướng vào một trận chiến lớn. Vì thế, Nguyễn Huệ phải giữ lại rất nhiều chủ lực để bảo vệ những trọng điểm chiến lược ở Ðàng Trong.

Trong chiến dịch đánh quân Thanh, vua Quang Trung chỉ điều động quân địa phương và các lực lượng phụ thuộc. Ðó chính là điểm các nhà nghiên cứu không thể xác định được lý lịch của những toán quân xuất hiện rất bất ngờ và vô danh, sau đó hầu như biến mất. Cũng như Chế Bồng Nga thuở trước, Nguyễn Huệ đã đạt được một uy tín lãnh tụ khiến nhiều tiểu quốc, nhiều bộ lạc thần phục ông. Phương thức hợp đồng tác chiến đó đã khiến nhiều quốc gia tập hợp được một lực lượng mạnh khi cần đến, điển hình là Miến Ðiện và Xiêm La khi giao tranh không phải do lực lượng của chính họ mà do các khu vực thần phục mỗi bên đánh với nhau. Ngay cả khi “quân Xiêm” sang giúp Nguyễn Ánh, đoàn quân đông đảo đó cũng bao gồm nhiều sắc dân ở Chân Lạp và Nam Lào nên khi bại trận đã “theo đường thượng đạo” chạy về [đất của họ].

Thứ đến, quân sĩ chiến đấu muốn hiệu quả phải có tính chuyên nghiệp, được huấn luyện và quen với khung cảnh máu đổ, đầu rơi. Không phải cứ đưa dao kiếm cho một người vốn quen nghề ruộng rẫy sẽ biến họ thành một chiến sĩ, nhất là ở thời kỳ mà chưa có những vũ khí sát thương ở tầm xa. Việc tập hợp hàng chục vạn nông dân để trở thành một binh đội thiện chiến không thể chỉ trong đoản kỳ. Riêng việc có đủ binh khí để trang bị cho họ cũng là một vấn đề lớn khi đoàn ngũ hoá tầng lớp dân chúng ở nông thôn. Ðó cũng là lý do tại sao các thổ hào không thể có được những đội quân tinh nhuệ. Cho nên, dù tinh thần cao chăng nữa, muốn hữu hiệu ba cánh quân của vua Quang Trung trong chiến dịch Bắc Hà phải là những chiến binh chuyên nghiệp, không phải là những tân binh mới tuyển mộ. Chỉ có những chiến binh với đầy đủ khả năng, Nguyễn Huệ mới tính toán được một chiến thuật gọi là “thần tốc”.

– Cánh quân thứ nhất do các tiểu vương và bộ lạc phía tây dãy Trường Sơn mang theo voi trận vốn dĩ là lực lượng quan trọng nhất của họ. Chắc chắn nếu Nguyễn Huệ mang voi từ Phú Xuân ra, bên cạnh việc trở ngại trong vấn đề di chuyển, chỉ riêng thời tiết thay đổi đột ngột và cung ứng lương thực cho đoàn thú to lớn này cũng đã làm cho vai trò của tượng binh bị hạn chế rất nhiều.

– Cánh thứ hai là hải quân do những tướng lãnh và lực lượng hải khấu ông thu phục được từ biển theo đường sông đánh ngang hông và chặn các đường rút quân của địch.

– Bộ binh do chính ông chỉ huy ngoài các lực lượng cơ hữu của Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân lại được bổ sung bởi một thành phần đã quen với chiến đấu. Ðó chính là ưu binh Thanh Nghệ vốn dĩ là lực lượng quan trọng nhất của chúa Trịnh bị truy sát đang trở về trốn tránh tại quê hương, bản quán.

Việc điều động ba lực lượng chủ chốt với ba đặc tính riêng rẽ vô hình chung phù hợp với lối đánh của Nam Á mà những nhà nghiên cứu đã đề cập đến. Rất có thể đây chỉ là một ngẫu nhiên nhưng chúng ta thấy có nhiều tương đồng khi đối chiếu với binh thư của những quốc gia chịu ảnh hưởng của văn minh Ấn Ðộ mà không tìm thấy tại những khu vực vay mượn ở văn minh Trung Hoa. Ông cũng không đánh cầu may mà thực tế thường chuẩn bị và tính toán kỹ càng, có điều ông dựa vào tin tức tình báo và sử dụng cái năng khiếu bén nhậy của mình để quyết định. Tin tức tình báo đó do một mạng lưới thương nhân có những liên hệ mật thiết với ông, được mua chuộc bằng cả lợi lộc lẫn đe doạ. Thương nhân nếu ở phe ông được ưu đãi bao nhiêu thì không liên minh với ông sẽ bị trừng trị thảm khốc bấy nhiêu, điển hình như vụ tàn sát người Hoa ở Gia Ðịnh năm 1782. Ðể bảo đảm sự tuân hành tuyệt đối những lệnh lạc của mình, Nguyễn Huệ áp dụng một thứ kỷ luật sắt, tạo cho binh sĩ thói quen chỉ biết nghe lệnh ông mà không cần suy nghĩ, không đóng đồn hạ trại, dùng lương khô khi di hành và ăn uống giản dị tới mức chỉ ăn cơm nhạt với muối.

Chiến thuật của ông cũng khác hẳn cổ nhân. Trong khi Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn sử dụng lối đánh dằng dai để địch tự tiêu hao rồi mai phục tại những địa điểm hiểm yếu phá địch bằng những trận then chốt khi họ rút lui thì vua Quang Trung lại tấn công khi địch đang đóng quân một chỗ, lấy ưu thế nhân số và di động để bao vây áp đảo đối phương.

Hưng Ðạo Vương có thể đánh chặn đường vì ông được lòng dân, có cả một khối quần chúng hậu thuẫn “cả nước đấu sức lại mà đánh”, trái lại Nguyễn Huệ tuy phải chiến đấu với kẻ thù nguy hiểm và to lớn trước mặt nhưng vẫn phải đề phòng khối quần chúng bản địa vì trong số địch quân lại có những người đã từng là vua, là chúa của vùng đó. Ông chỉ có thể vô hiệu hóa quần chúng chứ khó lòng mà dùng họ như một lực lượng hậu cần để bổ sung thiệt hại. Nhiều chi tiết rải rác cho thấy quân Tây Sơn luôn luôn phải dè chừng khi ra Bắc vào Nam, từ việc Nguyễn Nhạc bị người dân Nghệ An tấn công khi ông ra gặp Nguyễn Huệ, đến việc Nguyễn Hữu Chỉnh khi bị bỏ rơi đã phải vội vã chạy theo chứng tỏ quân Tây Sơn dưới mắt người Bắc Hà vẫn chỉ là một đoàn quân ngoại nhập, có nhiều cách biệt về phong tục, ngôn ngữ, một thứ quân của Quảng Nam quốc mà các nhà nho đã gọi là “man binh”, không ngang hàng với quân Trịnh, quân Lê vốn dĩ có những liên hệ mật thiết với quần chúng.

Chính vì phải đối phó với một tình thế khó khăn, Nguyễn Huệ không thể trải rộng mà phải tập trung thanh toán địch theo lối bẻ đũa, tiêu diệt địch bằng lối hành quân bất ngờ và một lực lượng đông đảo gấp bội để chiếm tiên cơ. Lối điều binh đó cho ta thấy ý định giữ đất giành dân, thành lập vương quốc của ông chỉ được hình thành sau khi những thế lực thù nghịch đã hoàn toàn bị thất bại.

Có thể nói, Nguyễn Huệ đã tập hợp được nhiều ưu điểm mà nhiều người đã đánh giá là tính sáng tạo, khác hẳn với truyền thống cố hữu. Trong khi có những triều đại luôn luôn coi Trung Hoa như bậc thầy để bắt chước, Nguyễn Huệ đã chứng tỏ rằng người Việt Nam có những đặc tính riêng và sự phát huy một bản sắc dân tộc là một điều cần thiết.

Một yếu tố tinh thần được nhắc đến nhiều là tinh thần quyết thắng của vua Quang Trung. Không biết chính xác tới mức nào nhưng được ghi lại trong tài liệu của nhà Thanh [theo lời khai của Phan Khải Ðức với Tôn Sĩ Nghị] là đích thân ông đã bí mật lên vùng biên giới để thám sát địa hình và ra lệnh cho chư tướng nếu quân Thanh tiến sang thì sẽ rút lui để bảo toàn lực lượng, chờ ông ra chỉ huy phản công.

Nếu thực như thế, ngay từ đầu Nguyễn Huệ đã có kế hoạch triệt thoái để bảo tồn lực lượng và tái chiếm Bắc Hà khi tình hình thuận tiện hơn. Tinh thần quả cảm đó đã khiến cho binh sĩ dưới quyền ông hết lòng với chủ tướng và cũng phù hợp với những nhận xét của người ngoài về con người dũng mãnh của ông.

Trận chiến Việt – Thanh đã được khai thác rất nhiều trong lịch sử Việt Nam, xoáy mạnh vào thắng lợi ở Thăng Long đầu xuân năm Kỷ Dậu. Chúng ta cũng nói nhiều đến thành tựu ngoại giao và ưu thế của Ðại Việt trong đời Càn Long sau khi hai bên trở lại hoà hoãn. Từ trước đến nay, những nghiên cứu về trận đánh long trời lở đất này chỉ được soi xét dưới khía cạnh quân sự, ít khi được quan sát trong bối cảnh chính trị của Trung Hoa, đặc biệt dưới triều đại Càn Long sau khi vị hoàng đế đã trị vì hơn nửa thế kỷ.

Với quan niệm ăn sâu trong đầu rằng vai trò của một thiên tử thay mặt Trời để cai trị thiên hạ, vua Càn Long vẫn nhân danh một nhiệm vụ rất cao cả là “hưng diệt kế tuyệt, tự tiểu tồn vong” [dấy lại một dòng đã đứt để nuôi nấng sự mất còn của nước nhỏ] để sai Tôn Sĩ Nghị đem quân sang nước ta. So sánh những bất đồng qua những sử liệu của cả hai bên, chúng ta cũng biết được rằng việc Nam chinh có những âm mưu bất chính của giới quan lại địa phương muốn khai thác cơ hội để thăng quan tiến chức, nhưng bản thân vua Càn Long lại e ngại một sa lầy mới có thể làm hỏng đại lễ “Bát Tuần Khánh Thọ” vào năm sau nên khi thấy rằng nhiệm vụ cơ bản đã hoàn thành, chữa được nỗi bất bình sau nhiều lần thất bại ở Miến Ðiện, ông ra lệnh rút quân về.

Chiến lược của nhà Thanh trong thời điểm đang trên đà thắng lợi vì thế không thống nhất. Vua Cao Tông tuy ra lệnh triệt binh nhưng cũng chỉ nói nửa chừng, đặc biệt nhất trong bài thơ liên hoàn ngày mồng Một Tết tại Trùng Hoa Cung không đề cập gì đến chuyện đó. Những tin tức về diễn tiến mặt trận gửi về Bắc Kinh vẫn là những tin tức đầy hứa hẹn và triều đình Trung Hoa chưa dứt khoát sẽ rút quân như thế nào nếu không tiến hành chiến dịch đánh xuống Phú Xuân.

Ðại thần nhà Thanh cũng biết được tâm lý của đấng chí tôn. Ở tuổi 80, vua Càn Long mong mỏi một kỳ thịnh thế bằng sự phô trương tốn kém để đón nhận triều yết của chư phiên hơn là bày mưu tính kế, lo nghĩ về một chuyện tranh chấp ở biên cương. Do đó, khi tiếp nhiệm tổng đốc Lưỡng Quảng, Phúc Khang An đã khôn khéo đề ra chính sách “dưỡng quân uy, tồn quốc thể” làm cơ sở đối phó với An Nam, một đường lối cương nhu thật thích hợp với tình thế, vừa chữa một thất bại quân sự, vừa góp phần vào việc nâng cao uy tín vua Càn Long.

Tuy nhiên cũng còn một chi tiết mà hầu như không một ai trong chúng ta nhắc đến. Ðó là trọng điểm chiến lược trong cai trị mà nhà Thanh luôn luôn muốn duy trì: làm thế nào để tuyệt đại đa số quần chúng người Hán luôn luôn chỉ nghĩ rằng họ chỉ là một loại “công dân hạng hai” trong xã hội, không thể đòi hỏi những biệt đãi như người Mãn Châu.

Ý thức đó luôn luôn được điều chỉnh để sao cho người Mãn, tuy chỉ là thiểu số, vẫn nắm giữ tất cả những chức vụ lớn, được hưởng những đặc quyền đặc lợi một cách đương nhiên không thể dị nghị. Chính vì thế, một mặt vua Càn Long rất phấn khởi với những thắng lợi nhanh chóng ban đầu, một mặt ông lại tìm cách ghìm lại để cho vai trò của Tôn Sĩ Nghị không vượt qua một giới hạn có thể chấp nhận được.

Như đã viết, ngoài việc giao cho Phú Cương (người Mãn) và Ô Ðại Kinh truyền hịch dụ hàng Nguyễn Huệ để cướp lấy công lao, vua Càn Long cũng hạ lệnh triệt binh khi cánh quân Quảng Tây chiếm được Thăng Long cốt để tạo cơ hội cho cánh quân Vân-Quí có thể tiếp tục công tác thời bình là “cải thổ qui lưu”, phương thức cổ điển mà nhà Thanh thực hiện để bình định và đồng hoá các khu vực ở tây và tây nam Trung Hoa. Dù không thôn tính một cách lộ liễu, nhà Thanh có thể cho những người Trung Hoa lén lút qua khai khẩn mỏ ở Tuyên Quang, Hưng Hóa [xưởng dân] được tách ra thành một khu tự trị [qui chế thổ ti] để một lúc nào đó sẽ sáp nhập vào nước Tàu. Một người làm quan lâu năm như Tôn Sĩ Nghị không thể không biết điều đó nên ông miễn cưỡng thi hành, hẹn đến đầu năm sẽ thực hiện lệnh rút quân.

Chính ở điểm tế nhị này, khi Tôn Sĩ Nghị đại bại chạy về, vua Càn Long lập tức đưa Phúc Khang An (một trong bốn người con đại thần Phó Hằng, người Mãn) sang làm tổng đốc Lưỡng Quảng, vừa lấy binh uy trấn ngự biên giới, vừa bí mật nhận lệnh chủ hoà để biến một thất bại quân sự (của một đại thần người Hán) thành một thắng lợi ngoại giao (của một đại thần người Mãn).

Chính sách ức Hán hưng Mãn của Thanh triều được thi hành tương đối chặt chẽ trong hai trăm năm. Mãi về sau, khi bị hoạ xâm chiếm của Tây phương và nhà Thanh phải nhượng bộ trong nhiều hiệp ước bất bình đẳng, dân chúng đói khổ khiến loạn lạc tại nhiều khu vực, người Hán lúc đó mới có cơ hội vươn lên cao hơn và một số người được giữ nhiệm vụ hành chánh và quân sự quan trọng (Tăng Quốc Phiên, Tả Tông Ðường, Lý Hồng Chương, Lâm Tắc Từ, Viên Thế Khải …) Tuy nhiên, đó là những thay đổi trong chính sách ở thời Thanh mạt chứ không phải vào thời thịnh trị của Khang Hi, Ung Chính, Càn Long.

Ðể khai thác triệt để lợi điểm chính trị này, vua Càn Long sau đó đã mau chóng chấp nhận phong vương cho Nguyễn Huệ và ra lệnh “vô hiệu hoá” những chống đối của vua tôi nhà Lê bằng cách phân tán mỏng, an tháp những người chạy sang Trung Hoa.

Xét riêng một trận đánh trong khoảng mươi ngày trước và sau Tết Nguyên Ðán, chiến thắng đầu xuân này là một điểm son trong lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, nếu đặt lên bàn cân những tương quan rộng lớn trong một thời gian dài, chúng ta có thể phải cân nhắc kỹ trước khi đi đến một kết luận về hậu quả của nó.

Về phần nhà Thanh, sự thần phục của Ðại Việt dưới triều đại Quang Trung đã đem lại ít nhiều tiếng vang đối với phiên thuộc, củng cố thêm uy tín của một triều đình vốn dĩ bị coi là ngoại tộc vào cai trị Trung Nguyên. Ðại Việt đóng một vai trò phên giậu đã giải quyết cho nhà Thanh mối lo về một số thổ ti dọc theo biên giới Hoa – Việt, không còn cơ hội chống lại triều đình và qua lại quấy phá những tỉnh dọc theo biên cương.

Ðối với nhà Tây Sơn, tuy những biến chuyển không nằm trong dự tính của Thanh triều nhưng lại đưa tới những hậu quả nghiêm trọng hơn nhiều. Vua Quang Trung bị cầm chân vào những thủ tục và nghi lễ ngoại giao trong suốt hai năm (1789-1790) là thời kỳ tối quan trọng để xây dựng thực lực nên đã bỏ lửng việc đối phó với mối đe doạ từ phía Nam, tạo cơ hội cho Nguyễn Ánh chiếm lấy Gia Ðịnh làm bàn đạp tiến ra Phú Xuân. Lẽ dĩ nhiên, lịch sử còn nhiều vấn đề được đặt ra bằng chữ “nếu” vì ví thử Nguyễn Huệ không chết sớm, cục diện không biết rồi sẽ đi về đâu.


Tháng 5, 2011

Nguyễn Duy Chính
Cảm ơn cụ Hương quê với những thông tin hết sức quý giá, em chờ cuốn tiếp theo của cụ.
Đoc xong mới thấy cái tài giỏi của vua Quang Trung không phải như cách người ta vẫn ca tụng.
 
Chỉnh sửa cuối:

mihkun

Tháo bánh
Biển số
OF-173291
Ngày cấp bằng
23/12/12
Số km
2,457
Động cơ
367,826 Mã lực
Lần đầu tiên được đọc một thớt lịch sử hấp dẫn, nghiêm túc và không bị các thành phần ba củ lẫn rân chủ chọc phá và định hướng :))
 

Hươngquê73

Xe tăng
Biển số
OF-374797
Ngày cấp bằng
23/7/15
Số km
1,362
Động cơ
256,850 Mã lực
Thanh- Việt nghị hòa

I. phần mở đầu


GIẢNG HÒA THEO SỬ CŨ …


Tài liệu triều Nguyễn chép về tiến trình nghị hòa và việc nhà Thanh phong vương cho vua Quang Trung rất giản lược.

Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục chép:

… Tháng 2, Khang An đến mạc phủ Thái Bình thuộc Quảng Tây. Văn Huệ sai bầy tôi là Ngô (Thì) Nhậm lén sang nhà Thanh để xin đầu hàng và tạ tội. Lại đem nhiều vàng lót cho Khang An, nài xin Khang An dàn xếp cho. Khang An đã được nhiều của lót, lại lấy làm may rằng nếu thôi việc dấy quân thì được ung dung vô sự, bèn tâu xin vua Thanh nên nhân đó cho Văn Huệ được thông hiểu, đừng gây hấn ở ngoài biên giới nữa. Vua Thanh y theo...

Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, quyển XXX, Nguỵ Tây chép:

… Thế rồi Phúc Khang An đến Việt Tây [tức Quảng Tây] một lòng giảng hoà, viết thư lấy điều lợi hại mà trình bày. Huệ [Nguyễn Huệ] lấy vàng lụa rất nhiều đem đút lót để mong cho việc xong, lại đổi tên là Quang Bình rồi sai cháu là Nguyễn Quang Hiển cùng bồi thần Vũ Huy Tấn đem cống phẩm gõ cửa quan khẩn khoản xin nhập cận …

tóm tắt

Trong tiến trình đàm phán với phương bắc, hai bên không phải tuỳ ý muốn làm gì thì làm. Trung Hoa dưới triều Thanh Càn Long là một quốc gia lớn, có kỷ cương lề lối nên nhất nhất đều theo qui định trong điển lệ, vừa là khung hình luật pháp để nương theo, vừa là thứ tự làm mẫu mực cho đời sau tuân thủ.

Trên hình thức, nhà Thanh cố tình phô trương “sức mạnh nước lớn” để chứng tỏ với dân chúng, với lân bang rằng An Nam đã thần phục trong “một cuộc chiến mà không cần động binh”. Sức mạnh bề ngoài có tính “phùng xoè” được thi triển rất lớp lang, bài bản nhưng bên trong có thể ngược lại với những gì người ta nhìn thấy.

Thanh triều từ quan ngoại vào cai trị trung nguyên nên rất quan tâm đến việc phòng ngừa những cuộc nổi dậy [từ bên trong] và đe dọa [từ bên ngoài]. Song song với việc trấn áp nội loạn, Thanh triều cố gắng tạo một hình ảnh trưởng thượng đối với lân bang để các nước xung quanh phục tòng và làm “phên dậu” cho họ.

Chính sách ngoại giao vì thế có nhiều mặt, đối với những tiểu quốc kế cận thì làm sao cho họ thần phục và chấp nhận chế độ “triều cống”. Khi chấp nhận vai trò này, quốc trưởng các nước nhỏ phải được triều đình Trung Hoa phong vương để chính thức hóa vai trò của mình, sai người sang triều cống theo định kỳ, cáo ai [báo tin vua cũ chết] và cầu phong [cho vua mới]. Ðể đáp lại, hoàng đế nhà Thanh sẽ ban thưởng cho quốc vương và sứ bộ dưới danh nghĩa “hậu vãng bạc lai” (厚往薄來) [giá trị đồ thưởng nhiều hơn giá trị đồ tiến cống].

Về lễ nghi, các triều đại Trung Hoa đều chú trọng cả hai phần: nội dung và hình thức. Nội dung là ý nghĩa triết học thuộc phần hình nhi thượng của văn hoá Trung Nguyên còn hình thức phô trương ra bên ngoài bao gồm lễ khí và nghi thức mà cổ nhân cho rằng cũng như “cây trúc có vỏ ngoài màu xanh, tùng bách có lõi hình tròn” hai bên phải tương ứng với nhau. Theo quan niệm đó, thiên tử là cốt lõi, là tâm điểm để mọi nơi hướng về cũng giống như các vì sao nhỏ chầu đến sao Bắc Thần [Bắc Cực] (chúng tinh củng chi). Tương quan giữa nước nhỏ và nước lớn, giữa thiên tử với phiên thuộc là một sắp đặt thiêng liêng mà mọi nước phải tuân thủ.

Việc tiểu quốc được công nhận và phong tước là sự thể hiện một trật tự xã hội để hai bên cùng có sự chính danh. Tiến trình công nhận vua Quang Trung vì thế vượt ra khỏi đàm phán giảng hoà mà là thiết lập quan hệ để nước ta có một vị trí theo tôn ti Khổng giáo, trước là đối với Trung Hoa, sau là sánh với các nước cũng thần phục thiên triều như Triều Tiên, Xiêm La, Miến Điện, Nam Chưởng, Lưu Cầu… Trong cái trật tự tiền chế đó, những từ ngữ mà Thanh triều dành cho nước ngoài đều nhất nhất nói lên vị thế không sai chạy (quốc thư, sứ thần, bồi thần, tòng [tụng] thần, quốc vương, nhập cận, triều cống …) chưa kể tạo ra uy nghi của triều đình khiến cho người nước ngoài phải run sợ dù rằng thực tế có thể không đúng như vậy.

Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Gia Văn Phái, một bộ lịch sử tiểu thuyết có ảnh hưởng sâu rộng trong cả quần chúng lẫn giới nghiên cứu chép:

… Lại nói tân đốc thần Lưỡng Quảng là Phúc Long An [đúng ra là Khang An] là người thuộc Nhương Hoàng Kỳ Mãn Châu, từ ấm sinh lên đến chức vụ cao tột bực, được vua Thanh rất tin dùng, cho nên mới ủy thác cho việc lo liệu chuyện nước Nam.

Khi mới thay Nghị làm tổng đốc, theo đường dịch đến mạc phủ Quảng Tây, tận mắt thấy Nghị một thân chạy về, lại nghe Bắc Bình Vương thế mạnh, không khỏi có ý sợ sệt, lại nhận được thư ở biên cương, lấy hết can đảm đứng ra lo việc phương nam, bí mật nói với phân phủ họ Vương phủ Thái Bình rằng: “Nam Bắc bãi binh ấy là phúc của sinh linh mà cũng là việc cực may mắn cho kẻ biên thần! Ta nghe nước Nam có một bầy tôi chuyên về văn thư là Ngô Nhậm, vốn việc từ trát rất giỏi, vậy ông hãy trả lời cho y bảo y chuyên chú việc nghị hòa, viết biểu cho hay mà đệ lên, ta ở bên trong giúp cho thì việc thể nào cũng xong”.

Vương phân phủ đi ra, lập tức viết trát gửi Ngô Nhậm, Nhậm đem việc đó bẩm với Bắc Bình Vương. Vương tuy đã định được Bắc Hà nhưng biên cương phía nam vẫn còn chuyện phải lo nên đưa binh về, nhân dịp đó nói với chư tướng: “Việc binh ở Bắc Hà ta giao cho Văn Sở, Văn Lân còn việc Trung Quốc ta ủy cho Ngô Nhậm, Phan Ích, mọi việc cứ thấy phải thì làm. Khi ta về rồi, nếu việc không quan trọng thì không cần qua lại bẩm báo làm gì”. [4]

Nếu như thế, việc giao thiệp với Trung Hoa tưởng như bỡn cợt nên hậu nhân coi cuộc giảng hòa không có gì quan trọng mà cả hai bên đều giả dối cho qua chuyện. Không hiếm tác giả hoàn toàn không đề cập đến việc tái lập bang giao mà coi xung đột vẫn tiếp tục dưới những hình thức khác cho đến khi Nguyễn Huệ từ trần.

Thực tế, việc qua lại với nhà Thanh cuối thế kỷ XVIII bao gồm nhiều việc lớn kế tiếp nhau mà trước đây riêng một việc cũng đã mất hàng năm [có khi nhiều năm], đi đi lại lại rất phiền toái, nay tuy thuận lợi nhưng không phải không phức tạp.
 

supersonic

Xe tải
Biển số
OF-13052
Ngày cấp bằng
10/2/08
Số km
419
Động cơ
522,690 Mã lực
Cảm ơn tác giả và chủ thớt đã tái hiện một giai đoạn lịch sử hào hùng. Cụ có tư liệu trận Rạch Gầm - Xoài Mút thì cho chúng em đọc với nhé.
 

Hươngquê73

Xe tăng
Biển số
OF-374797
Ngày cấp bằng
23/7/15
Số km
1,362
Động cơ
256,850 Mã lực
Nói tóm lại, công nhận và phong vương không phải là nước lớn đáp ứng một yêu cầu của nước nhỏ mà là một chuỗi dài các tranh biện về lễ nghi để hợp thức hóa một triều đại chính thống.

Sau khi thoả thuận những điểm cơ bản đó, nước ta phải thực hiện một số “nhiệm vụ” trong quĩ đạo “phiên thuộc – thiên triều”, từ việc gửi thư sang trần tình, tạ tội đến đưa người sang dâng biểu cầu phong. Nước ta cũng phải tái tục lệ triều cống mà hai bên đã thực thi trong nhiều năm – ba năm một lần triều cống, sáu năm cho sứ thần mang cống phẩm cả hai lần gộp lại.

Khi công nhận nước ta là phiên thuộc, Thanh triều sẽ ban cho một quả ấn [lần này thay thế quả ấn ban cho Lê Duy Kỳ (vua Chiêu Thống) đã thất lạc] và một sắc thư chính thức công nhận Nguyễn Quang Bình (vua Quang Trung) làm An Nam quốc vương rồi cho người sang quốc đô làm lễ. Nước ta cũng phải chiếu theo cựu lệ mà tiếp đón.

Khi xem xét những qui luật lễ nghi đó chúng ta có thể hiểu được cơ sở tranh luận và lý lẽ của hai bên, những được và mất hầu không bị thành kiến chủ quan làm lệch lạc vấn đề.

điển tịch

Tài liệu của nước ta liên quan đến giao thiệp với Trung Hoa không nhằm ghi nhận những biến cố lịch sử mà chỉ ghi lại khuôn mẫu cho đời sau một khi gặp phải một trường hợp tương tự. Thư từ gửi đi phần lớn là những biện bạch để xin được công nhận và phong vương cho người đứng đầu nước. Dù thực tế có hiển nhiên và hợp lý thế nào chăng nữa, lời lẽ trong văn chương ngoại giao vẫn phải giữ vẻ khiêm cung coi như được thiên triều ban cho một đặc ân. Những văn kiện còn lưu lại trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí [phần Bang Giao Chí] (Phan Huy Chú), Bang Giao Lục (Lê Thống) , Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ (Quốc Sử Quán triều Nguyễn), Tây SơnBang Giao Tập … cho thấy hai nước không trao đổi những vấn đề quốc gia (kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá …) mà chỉ minh xác một vị thế: nước ta phải thần phục nước lớn theo trật tự phiên thuộc – thiên triều.

Đọc lại văn thư Lê Lợi cầu phong với nhà Minh chúng ta mới hiểu tại sao đời Mạc, đời Lê trung hưng vẫn chỉ lập lại cùng một cách thức mà ai cũng biết rằng giả dối: dâng biểu do các kỳ lão khai là họ cũ không còn ai, nay thay một họ mới. Thảng hoặc đôi khi sứ thần nước ta có phản ứng khi tiếp xúc với Trung Hoa thì thường chỉ là tiếng kêu của kẻ yếu bị ức chế quá đáng chứ chưa hẳn là tranh biện để đòi hỏi một vị thế khác.

Cuối đời Lê, khi Nguyễn Huệ ra bắc diệt họ Trịnh, ông cũng lập lại như các thời trước (hẳn là do các văn quan nhà Lê chỉ dẫn). Đối với Trung Hoa, ông đưa ra một người họ Lê làm “giám quốc” nhưng thực tế là một thứ “bù nhìn”, không có thực quyền (tương tự như Trần Cảo sau khi đuổi được giặc Minh). Ngoài các tờ biểu suy tôn của một số sĩ phu để tìm sự chính danh ở Bắc Hà, ông còn ép Lê Duy Cẩn và triều thần viết thư sang Trung Hoa xin tự ý nhường quyền trị nước cho mình nhưng không thành công. Những người ký tên trong tờ biểu này về sau đã bị vua Chiêu Thống trừng phạt.

Khi quân Thanh sắp sửa sang đánh, vua Quang Trung cũng làm tờ khai [do các kỳ mục ký tên] để giãi bày tình hình chính trị và lý do tại sao trước đây ông phải đem quân ra Bắc. Chỉ sau khi Tôn Sĩ Nghị bại trận, tư thế mới dần dần thay đổi nhất là từ khi “bắt thóp” được đối phương đang cần nước ta cho một nhu cầu “quốc thể”, tiêu chí mà Phúc Khang An khi nhậm chức tổng đốc Lưỡng Quảng đã khẳng định với vua Càn Long rằng sẽ hết sức để chu toàn.
 

Hươngquê73

Xe tăng
Biển số
OF-374797
Ngày cấp bằng
23/7/15
Số km
1,362
Động cơ
256,850 Mã lực
Để công nhận Nguyễn Huệ nhà Thanh phải có một lý do chính đáng (rất có thể chỉ là bịa đặt) nên Nguyễn Huệ đã khai rằng gia đình ông chín đời ở đất Tây Sơn, là người dân không quan tước (bố y) chỉ có liên hệ hôn nhân chứ không có tình nghĩa quân thần với vua Lê. Vin vào đó Thanh triều giải trừ việc kết án ông là loạn thần cướp nước mà trước đây họ đã nhân danh “hưng diệt kế tuyệt” để đem quân sang nước ta. Lý lẽ này hẳn hai bên có trao đổi để cùng chấp nhận được.

Thanh triều cũng nhất loạt đổ tội cho Lê Duy Kỳ [tức vua Chiêu Thống] đánh mất ấn tín, bỏ chạy trước làm hoảng loạn quân dân gây ra thất trận. Nhiều chứng cớ cho thấy thực tế chính Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy trước, vua Lê hốt hoảng chạy theo. Vả lại nội dung trong thư từ trao đổi bí mật giữa triều đình nhà Thanh với Tây Sơn không tiết lộ ra ngoài, dù nạn nhân có bị vu oan cũng không tài nào biện bạch.

Về trận đánh quân Thanh, Nguyễn Huệ khai rằng ông chỉ muốn ra Thăng Long để bày tỏ phải trái với Tôn Sĩ Nghị nhưng vì quân thiên triều quá dũng mãnh nên đành phải chống đỡ cho khỏi chết chứ thực tâm không dám kháng cự thiên binh. Để chứng tỏ thành tâm, Nguyễn Huệ trả về các binh sĩ bị bắt coi như thực lòng qui thuận.

Trong khi đàm phán, nhà Thanh cũng gia tăng áp lực bằng cách đưa ra những điều kiện tương tự như các triều đại Trung Hoa trước đây đã đòi hỏi chẳng hạn như dâng đất (đời Mạc), cống voi (đời Lý), quốc vương đích thân sang chầu (đời Trần) hay lên Nam Quan làm lễ thụ phong (đời Lê Trung Hưng) … Những yêu sách đó đều bị bác bỏ và nước ta chỉ bằng lòng lập một đền thờ những người tử trận và xét xử [trên giấy tờ] những ai đã giết hại quan tướng nhà Thanh.

Để đáp lại yêu sách nếu quốc vương không tới Nam Quan xin phong vương thì phải cống người vàng, vua Quang Trung đã cho cháu là Nguyễn Quang Hiển “tuy đại do thân” (tuy thay mặt nhưng cũng như chính mình) đem biểu cầu phong lên kinh đô khiến vua Càn Long vui mừng công nhận Nguyễn Quang Bình làm An Nam quốc vương và xúc tiến các thủ tục bình thường hoá ngoại giao.
 

Hươngquê73

Xe tăng
Biển số
OF-374797
Ngày cấp bằng
23/7/15
Số km
1,362
Động cơ
256,850 Mã lực
Trước hết là việc triều cống định kỳ (sách gọi là tuế cống). Đời Lê nước ta ba năm một lần triều cống nhưng sáu năm mới sai sứ đi một lần, mang theo cả hai lần cống phẩm. Lần sau cùng nước ta đem cống vật sang nhà Thanh là năm 1783 đời vua Hiển Tông, đến năm Kỷ Dậu 1789 vừa đúng 6 năm. Theo đúng thủ tục, cống phẩm phải đưa tới Lạng Sơn và thông báo cho quan nhà Thanh để trình lên, việc Thanh triều bằng lòng coi như chính thức công nhận.

Kế tiếp hoàng đế nhà Thanh sẽ ban cho nước ta một ấn bạc mạ vàng, núm hình lạc đà nằm và viết một sắc thư công nhận Nguyễn Quang Bình (vua Quang Trung) là An Nam quốc vương rồi sai người sang tuyên thị cho mọi người biết và từ đó quốc ấn mới được dùng để đóng vào công văn gửi đi các nước khác. Cũng từ đó, nhà Thanh mới gọi ông là quốc vương thay vì quốc trưởng (khi gửi riêng trong nội bộ có khi họ gọi là tù trưởng, trưởng mục …). Trong công văn, vua Quang Trung cũng không còn phải tự xưng là An Nam quốc tiểu mục, trưởng mục, tiểu phiên … như trước.

Những thủ tục hình thức ấy được thực hiện gấp rút một cách bất thường không phải vì nhà Thanh khiếp sợ như nhiều người suy diễn mà ẩn náu một đòi hỏi là vua Quang Trung phải minh định sẽ đích thân sang chúc thọ vua Càn Long năm Canh Tuất.

Tuy đây là một mặc cả khá thuận lợi cho nước ta nhưng lại dấy lên nhiều quan ngại. Việc lần đầu tiên trong lịch sử một quốc vương An Nam sang triều cận có thể đưa đến hoang mang và dị nghị trong quần chúng. Ngoài nguyên nhân thực tế phải xa nước lâu ngày, vua Quang Trung cũng sợ Thanh triều dùng kế điệu hổ ly sơn, nhân cơ hội mình vắng nhà mà đưa vua Chiêu Thống về nước.
 

Hươngquê73

Xe tăng
Biển số
OF-374797
Ngày cấp bằng
23/7/15
Số km
1,362
Động cơ
256,850 Mã lực
Để bảo đảm rằng vai trò của Lê Duy Kỳ đã hoàn toàn bị loại trừ, Phúc Khang An sắp xếp cho phái đoàn Nguyễn Quang Hiển được gặp vua Chiêu Thống và tòng vong – nay đã cắt tóc thay áo theo y phục nhà Thanh – hiện đang an tháp ở Quế Lâm. Viên tổng đốc Lưỡng Quảng cũng bí mật sai người đưa nhóm đầu não thân Lê ở trong nước ra bên ngoài rồi giữ họ lại trước khi cử người sang Thăng Long làm lễ phong vương.

Tuy nhiên, một sự việc tương đối trái chiều khiến nhiều dự định phải thay đổi. Khi vua Càn Long chấp thuận cho cháu vua Quang Trung là Nguyễn Quang Hiển lên kinh đô chiêm cận (triều kiến hoàng đế) như một hình thức thay mặt quốc vương sang chầu, nhà Thanh đã có ý làm rềnh rang nhằm khoả lấp việc thua trận, đồng thời nêu cao thành quả “thắng mà không cần dụng binh” nên ngoài việc tiếp đãi long trọng trên đường đi, ông cũng cho Nguyễn Quang Hiển được dự yến với các vương công đại thần và làm một đại lễ trao sắc ấn ở kinh đô để sứ thần An Nam mang về nước.

Vua Càn Long cũng muốn phô trương việc công nhận Nguyễn Quang Bình mà ông chủ quan cho rằng uy tín của thiên triều sẽ triệt tiêu sự chống đối của thành phần hoài Lê ở Bắc Hà – một hình thức thi ân để vua Quang Trung càng thêm kính sợ. Ngay khi Nguyễn Quang Hiển còn trên đường lên Bắc Kinh, vua Thanh đã gửi một đặc dụ và một bài ngự thi xuống Quảng Tây với lời dặn Phúc Khang An phải cho người đích thân mang sang Thăng Long giao tận tay cho vua Quang Trung hầu công bố cho toàn cõi An Nam biết rằng mệnh trời đã đổi và ngầm ý rằng khi Nguyễn Quang Hiển mang sắc ấn về thì Phúc Khang An sẽ đích thân sang phong vương để sự công nhận vua Quang Trung còn huy hoàng hơn Tôn Sĩ Nghị trước đây làm lễ cho vua Chiêu Thống.
 

Hươngquê73

Xe tăng
Biển số
OF-374797
Ngày cấp bằng
23/7/15
Số km
1,362
Động cơ
256,850 Mã lực
Việc hai sứ bộ kế tiếp nhau (thông báo trước, phong vương sau) theo kế hoạch của vua Càn Long nảy sinh nhiều trở ngại về tổ chức cũng như thực hiện. Sau nhiều năm binh hoả, nhân hoạ, thiên tai kinh đô Thăng Long nay tiêu điều, hoang phế không còn được sầm uất như trước, nếu tổ chức phong vương ở đây sẽ phải tốn phí rất nhiều tài lực, nhân lực cho việc trùng tu. Quan trọng hơn, với niềm tin vào “phong thuỷ” và ám ảnh của người dân Nam Á, vua Quang Trung muốn việc thay đổi triều đại phải đi kèm với việc dời đô như truyền thống của Chiêm Thành, Xiêm La … Việc xây dựng kinh đô mới ở Nghệ An, sắp xếp cung điện, cưu tập dân chúng cần một thời gian khá dài nên tuy xây dựng gấp rút cũng chưa sẵn sàng để thành một quốc đô bề thế.

Về phần Phúc Khang An, chủ đích không phải là làm cho việc phong vương thêm long trọng mà là ép vua Quang Trung cam kết sang chúc thọ vào năm sau – một công tác ảnh hưởng rất lớn đến hoạn lộ của ông ta. Kế hoạch hai sứ đoàn, hai nhiệm vụ đòi hỏi phải chuẩn bị lớp lang mà thời gian lẫn phương tiện hầu như bất khả.

Vì tình hình cấp bách trong khi nhiều vấn đề lớn cần giải quyết ngay nên Thanh triều đã gộp chung phái đoàn tiền sát [đem đặc dụ và ngự thi] và phong vương làm một đưa đến sự hoang mang và lúng túng cho cả hai bên. Thay vì chỉ một sứ đoàn với một nhiệm vụ, sứ bộ phong vương cho vua Quang Trung đã bao gồm ba thành phần gồm ba nhiệm vụ khác nhau:

1. Hậu bổ đạo Thành Lâm mang theo tờ đặc dụ của vua Càn Long (dùng như một văn kiện thay thế sắc thư công nhận),

2. Thự đồng tri Vương Phủ Đường mang bài ngự thi ban tặng (trên hình thức thay thế quốc ấn),

3. Đặc mệnh của Phúc Khang An do viên tổng quản thân tín sang trao đổi về việc triều cận (trên danh nghĩa đem quà sang chúc mừng).
 

Hươngquê73

Xe tăng
Biển số
OF-374797
Ngày cấp bằng
23/7/15
Số km
1,362
Động cơ
256,850 Mã lực
Chính vì thành phần đa dạng, trong văn thư hai bên trao đổi đã phân biệt sắc sứ (sứ thần mang sắc dụ) và đại viên (viên chức lớn) mang ngự thi là hai người thay mặt Thanh đình [đều do Phúc Khang An chỉ định, không phải vua Càn Long sai đi] nhưng ít ai nhận ra sự phân biệt đó. Riêng viên tổng quản là một thành phần bán công khai nên chỉ mãi về sau nước ta mới biết và nhắc đến trong các thư từ giao thiệp với Phúc Khang An.

Chính vì lễ phong vương cho vua Quang Trung không có sắc ấn [Nguyễn Quang Hiển đang trên đường mang từ Bắc Kinh về nước] nên triều đình Tây Sơn nghi ngại và tìm đủ cách để thay đổi việc phong vương. Đây cũng là lần đầu tiên mà sứ giả nhà Thanh phải chờ đợi đến hai tuần ở Nam Quan và khi đến ngoại ô kinh đô lại phải tạm trú gần một tháng ở Gia Quất với lý do chờ vua Quang Trung [bị bệnh] chưa ra đến Thăng Long. Triều đình Tây Sơn cũng mấy lần xin đổi địa điểm, khi thì đòi vào Nghệ An là kinh đô mới, khi lại xin vào Phú Xuân là cựu đô của chúa Nguyễn, dân cư trù mật thành quách huy hoàng.

Ngoài việc phong vương bị trở ngại, quyết định sang dự lễ Bát Tuần Khánh Thọ cũng không dứt khoát vì vua Quang Trung chưa có đủ tin tức để đánh giá về sự thành thật của Thanh triều [phái đoàn Nguyễn Quang Hiển đang trên đường trở về]. Thêm nữa, trước đây Tôn Sĩ Nghị có gửi thư cho Xiêm vương yêu cầu đem quân chặn đường rút lui của quân Tây Sơn một khi bị đánh bại. Vì thông tin bị chậm trễ (do chuyển đi theo thuyền buôn) nên đến tháng Hai (năm Kỷ Dậu, khi quân Thanh đã thua trận) vua Xiêm mới nhận được và yêu cầu chúa Nguyễn Ánh (Gia Định khi đó coi như thuộc quốc của Xiêm La) động binh. Tháng Năm, chúa Nguyễn chuẩn bị ra quân, một mặt cho chở lương thực (bằng đường biển) yểm trợ quân Thanh (nhưng bị bão đánh chìm) đưa đến những nghi ngại mà vua Quang Trung cho rằng nhà Thanh dùng kế điệu hổ ly sơn, dụ ông ra Thăng Long để đánh tập hậu bằng đường thuỷ vào Thuận Hoá.
 

Hươngquê73

Xe tăng
Biển số
OF-374797
Ngày cấp bằng
23/7/15
Số km
1,362
Động cơ
256,850 Mã lực
Sau hơn một tháng giằng co, sau cùng thì ngày 15 tháng Mười năm Kỷ Dậu [vốn ấn định vào cuối tháng Tám hay đầu tháng Chín] việc phong vương cũng hoàn tất. Nương theo thế đang được chiều đãi, vua Quang Trung yêu cầu mở cửa thông thương ở biên giới để giải tỏa một số áp lực về kinh tế trong mấy chục năm qua. Lá thư chính thức gửi lên vua Càn Long nhân danh tân quốc vương mới được phong cũng để đến sau lễ khai ấn vào ngày đầu năm [đến giữa tháng Một thì Nguyễn Quang Hiển mới về đến Nam Quan].

Việc thay đổi và trì hoãn đưa tới nhiều đồn đãi – nhất là trong giới cựu thần nhà Lê – về những trá ngụy và tranh chấp khiến Phúc Khang An phải đề nghị cho người giả đi thay. Tuy nhiên, nếu không bị ảnh hưởng bởi thuyết âm mưu (conspiracy theories) thường gặp trong tiểu thuyết đời Minh Thanh mà đi sâu vào thủ tục, nghi lễ dựa trên văn thư chính thức còn lưu lại của hai phía thì chúng ta sẽ có những nhận định phù hợp hơn.

Khi nhận ra những bất toàn của phía nhà Thanh, triều đình Tây Sơn dùng chính các nguyên tắc lễ nghi [là những tiêu chí và tôn chỉ họ đề cao] để bẻ lại những yêu sách hay thay đổi không thích hợp – một hình thức “gậy ông đập lưng ông” khiến cho đối phương phải nhượng bộ. Nói tóm lại, tiến trình ngoại giao Thanh – Việt cuối thế kỷ XVIII là một hình thức “đấu trí” mà nhà Thanh tưởng rằng trong cương vị đại quốc họ có ưu thế áp đặt nhưng những đòi hỏi của họ đều bị giới nho gia nước ta phủ bác.
 

Hươngquê73

Xe tăng
Biển số
OF-374797
Ngày cấp bằng
23/7/15
Số km
1,362
Động cơ
256,850 Mã lực
Tài liệu Việt Nam

Về việc nhà Thanh công nhận vua Quang Trung, chính sử triều Nguyễn [Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Đại Nam Thực Lục hay Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện] ghi chép rất sơ sài, có thể nói là làm cho có lệ. Điều đó cũng dễ hiểu vì triều đại Tây Sơn là triều đại bị lãng quên và sử chép về họ có lẽ chỉ được bổ túc vào hậu bán thế kỷ XIX khi có sự thỉnh cầu và phê phán của giới nho gia miền Bắc. Khu vực Đàng Ngoài là một khu vực mới chinh phục, vốn dĩ bị triều đình nhìn bằng cặp mắt nghi kỵ, không được coi là đi cùng chiều với Đàng Trong.

Tuy tài liệu về tổ chức hành chánh, kinh tế, quân sự … thời kỳ Tây Sơn hầu như rất ít – và chỉ được ghi chép trong dã sử do người ngoài triều đình ghi nhận theo lối mắt thấy tai nghe – nhưng việc giao thiệp với Trung Hoa thì khá phong phú so với những thởi kỳ khác khiến chúng ta phải dấy lên một số câu hỏi. Những tài liệu về thời kỳ này chủ yếu là văn thư trao đổi giữa hai bên, khi thoả hiệp, khi tranh biện mà mục đích chính yếu là nghi lễ vốn dĩ rất được coi trọng. Những nho sĩ được giao cho công tác giao thiệp với Trung Hoa đều thấy đây là một ân điển đặc biệt lớn rất vinh dự cho gia đình, cho dòng họ. Những người được cử đi sứ cũng rất phấn khởi nên nhiều thi tập ghi lại hành trình còn tồn lưu cho thấy họ hoàn toàn không bị ép buộc hay miễn cưỡng, lại càng không phải bị đặt vào thế phải tham gia một vở kịch đem tính mạng ra đánh cuộc.

Theo Thư Mục về Tây Sơn Nguyễn Huệ do Thư Viện Khoa Học Tổng Hợp thuộc sở Văn-Hoá Thông Tin, Uỷ Ban Khoa Học – Kỹ Thuật tỉnh Nghĩa Bình (Nguyễn Trí Sơn biên tập nội dung) ấn hành năm 1988 tại Hà Nội thì tới thời gian đó đã có tới 1623 tài liệu/sách/bài viết về thời kỳ này. Trong số các tài liệu ghi nhận, phần lớn là các bài viết hay sách nghiên cứu. Số lượng tài liệu gốc thực sự không nhiều và lẫn lộn nhiều văn kiện không mấy giá trị.

Tây Sơn Bang Giao Tập (西山邦交集), còn có tên là Bang Giao Lục (邦交錄), hiện nay còn hai bản sao các văn thư qua lại, tàng trữ trong kho sách Viện Hán Nôm chép các tài liệu và văn thư ngoại giao đời Tây Sơn:

– A. 1916 nhan đề Bang Giao Lục, 183 trang

– A. 2364 nhan đề Tây Sơn Bang Giao Tập, 114 trang

Tài liệu viết tháu, khó đọc nhưng có nhiều văn thư đặc biệt trong chuyến đi của vua Quang Trung sang Yên Kinh. Nếu tổng hợp và đối chiếu với những tài liệu khác chúng ta có thể dựng lại nghi lễ và bang giao với Trung Hoa đầu đời Cảnh Thịnh (khi vua Càn Long còn tại thế).

Bang Giao Hảo Thoại (邦交好話), tác giả Ngô Thì Nhậm (呉時任)

Ngô Thì Nhậm (1746-1803), tiến sĩ khoa Ất Mùi (1746) tự Hi Doãn, hiệu Đạt Hiên được phong tước Tinh Phái Hầu. Bang Giao Hảo Thoại hay Bang Giao Tập là tập hợp văn thư giao thiệp chủ yếu là nghị hoà thời Quang Trung và giao thiệp với nhà Thanh thời Cảnh Thịnh.

Dụ Am Văn Tập (裕庵文集), tác giả Phan Huy Ích (潘輝益) TVKHXH A.604

Phan Huy Ích (1751-1822) tự Khiêm Thụ Phủ, hiệu Dụ Am giữ việc bang giao đời Quang Trung cùng với Ngô Thì Nhậm, được phong tước Thuỵ Nham Hầu.

Sách chép tay, gồm 8 quyển (sách), các quyển I, II, III, IV chép các loại biểu chương, giản trát gồm nhiều văn thư liên quan đến việc bang giao đời Tây Sơn.

Hoa Nguyên Tuỳ Bộ Tập (華原隨步集), tác giả Vũ Huy Tấn (武輝瑨)

Vũ Huy Tấn (1749-?), tự Tự Chiêu, người Mộ Trạch đời Tây Sơn làm thị lang bộ Công, phong tước Hạo Trạch Hầu. Hoa Nguyên Tuỳ Bộ Tập ghi lại một số văn thơ của VHT trong chuyến đi sứ lần đầu năm Kỷ Dậu (1789) từ khoảng tháng Năm đến tháng Chạp. Lần này ông làm phó sứ tuế cống cho Hô Hổ Hầu Nguyễn Hữu Trù sau khi nhà Thanh công nhận Nguyễn Quang Bình [vua Quang Trung] làm An Nam quốc vương. Chuyến đi này khá đặc biệt vì cùng với Nguyễn Quang Hiển là cháu vua Quang Trung thay mặt sang triều cận và được vua Càn Long đặc biệt cho cầm sắc ấn mang về.

Bản chúng tôi có trong tay là bản chép tay số hiệu A 375 của Viện Hán Nôm Hà Nội, được in lại theo lối ảnh ấn trong Việt Nam Hán Văn Yên Hành Văn Hiến Tập Thành, quyển số VI [đệ lục sách] từ trang 293 đến 343. Bản viết rõ ràng theo lối chân phương, mỗi trang 9 hàng, mỗi hàng 20 chữ.

Trong phần “Tự” ông kể khá rõ ràng việc ông được vời ra sau khi vua Quang Trung đánh tan quân Thanh và cần người giao thiệp với phương bắc nên được đưa lên Lạng Sơn hầu mệnh rồi được cử đi sứ ngay. Tuy không cho biết quan điểm của ông trong các vấn đề quan trọng khác nhưng với lối tường thuật cuộc hành trình chúng ta biết rằng những ghi nhận của họ Vũ được đánh giá rất cao và ngay khi vừa về đến nhà ông lại được đi trong sứ bộ của vua Quang Trung năm Canh Tuất.

Lịch Triều Tạp Kỷ (歷朝襍紀), tác giả Ngô Cao Lãng (呉高朗)

Lịch Triều Tạp Kỷ là sách chép tay, tất cả 6 quyển nhưng nay chỉ còn 5 (quyển V chưa tìm thấy). Trong công việc giao thiệp với phương Bắc, một số tài liệu hiếm có được trích lại trong quyển VI, nhan đề Chiêu Thống Đế. Tuy chép về vua Chiêu Thống nhưng có phần phụ Tây Sơn Vương chép nhiều chuyện bang giao và tình hình miền Bắc tương đối trung thực. Về tài liệu, một số văn thư gốc được sao lục phần lớn tìm thấy trong Đại Việt Quốc Thư, Bang Giao Hảo Thoại hay Dụ Am Văn Tập nên có lẽ tác giả cũng tham chiếu từ các nguồn này. Cũng có một số tài liệu không thấy xuất hiện ở nơi khác nhưng nội dung ăn khớp với tài liệu nhà Thanh nên có thể tin rằng Ngô Cao Lãng sưu tầm được nhiều tư liệu hiếm có còn tồn tại ngay trong thời ấy.

Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí (歷朝憲章類誌) của Phan Huy Chú (潘輝注)

Phan Huy Chú (1782-1840), tự Lâm Khanh, hiệu Mai Phong tuy chỉ đỗ tú tài nhưng là một nhà nho uyên bác. LTHCLC chép theo chí truyện là tác phẩm kỹ càng về công việc tổ chức hành chánh và điển nghi của triều đình gồm 49 quyển chia làm 10 loại. Bang Giao Chí chép từ quyển 46-49.

Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ (欽定大南會典事例) gồm 262 quyển do nội các triều Nguyễn biên soạn.

Bộ sách này được khởi thuỷ soạn từ đời Thiệu Trị sang đến năm Tự Đức thứ 4 thì xong chia theo cách thức của Đại Thanh hội điển sự lệ. Phần Bang Giao chép trong quyển 129 có thể dùng để đối chiếu về đường đi của sứ bộ từ Lạng Sơn xuống Thăng Long.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top