[Funland] Việt Nam thời Tây Sơn-Lịch sử nội chiến 1771-1802

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
  • Cả Huệ và Ánh đều theo chủ nghĩa dân tộc. Ánh thì cực đoan hơn nhiều và tư tưởng nước Nam là của riêng ông ko phải thể chia sẻ với các tôn giáo khác. Nên các giáo sĩ dù giúp Ánh thế nào thì Ánh cũng chực chờ tiêu diệt tất. Sử Nguyễn viết về hoàng tử Cảnh ko biết có thật ko nhất là các chi tiết ở trên khi Cảnh bài cúng tổ tiên, bài Phật quá cực đoan. Ánh theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan với tư tưởng nước Nam là của Ánh, của chúa Nguyễn.
  • Huệ theo chủ nghĩa dân tộc với tư tưởng nước Nam là của người Nam. Đó là lí do Huệ đánh Thanh, diệt Xiêm, tấn công Lào, Miên. Ánh đem Xiêm về để lấy lại gia sản chúa Nguyễn.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Pigneau nhận xét, bảo Đạm là người “nghiêm trang, trịnh trọng, cần mẫn và giản dị”. Trong 8-9 tháng cùng Pigneau thảo luận, trao đổi tư tưởng về Khổng giáo, ông đã bị Pigneau quyến rũ, đến nỗi tâu xin Vua bỏ một số nghi lễ ở Triều đình mà ông cho là mê tín, theo như quyết nghị của Giáo hội La Mã về “nghi lễ Trung Hoa”, đến nỗi sau khi giải vây mắc bệnh không về Gia Định được mà ông cứ nằng nặc quyết gặp Giám mục để phải bị chết dọc đường.

Muốn hiểu rõ thái độ này của Tống Phúc Đạm đã gây xúc động cho các quan như thế nào, ta phải phân biệt trường hợp Hoàng tử Cảnh và trường hợp Tống Phúc Đạm. Đạm là bậc huân cựu đại thần, tuổi đã lớn (59 tuổi lúc xảy ra chuyện), tư tưởng khuôn sáo đã thành nếp thế mà bị thuyết phục trong vòng không đầy một năm, thì cậu bé Hoàng tử sẽ ra sao nếu cứ luôn luôn ở bên Pigneau? Năm 1789 còn bảo Cảnh nhỏ bé, chưa từng ở quê nhà nên dễ nhiễm ý tưởng của Pigneau chứ rồi đây Cảnh càng ngày càng lớn, càng độc lập trong tư tưởng đã được uốn nắn một lần rồi mà nay lại theo Pigneau thì nguy hại biết mấy.

Các quan, và cả Nguyễn Ánh nữa đã thấy đe doạ mất tin tưởng truyền thống, quyền lợi riêng tư, một khi Cảnh bị lôi kéo như Tống Phúc Đạm. Gọi là các quan bị đe doạ mất quyền lợi riêng tư, thực đúng như Pigneau đã nói. Nhưng ta cũng khó tách biệt rõ ràng phần tranh đấu cho quyền lợi và phần phản ứng nào bị thúc đẩy bởi va chạm tín ngưỡng.

Ngày Cảnh không lạy ông bà, Nguyễn Ánh đã tìm gặp Pigneau1 để phàn nàn sao Thiên Chúa giáo dạy tín đồ quên ông bà. Pigneau cãi rằng: “ở xứ này, thờ cúng ông bà vì tin rằng ông bà nhận lạy, ăn cỗ bàn, phù hộ con cháu sống lâu, giàu có”. Vì lối thờ cúng đó nghịch với sự thực không được đạo ông công nhận là lẽ tất nhiên. Nhưng Nguyễn Ánh biện bác rằng Pigneau chỉ bằng vào tin tưởng của dân chúng, lúc nào và ở đâu cũng đầy tính cách dị đoan hết. Sự thực ông tin rằng lễ bái chỉ là chứng cớ để cho con cháu nhớ ơn cha mẹ, ông bà: “Khi tôi đi đến các chỗ lễ đó, tôi nghĩ rằng nếu tổ tiên tôi còn sống, tôi muốn đền đáp công ơn trong muôn một. Để chứng tỏ ý nghĩ tôi chân thành và có hiệu quả, tôi muốn ngay bây giờ làm những điều như là ông bà tôi còn sống. Tôi biết rằng họ không còn nữa và những điều tôi sắp làm không có ích lợi gì cho họ cũng như cho tôi. Nhưng tôi muốn tỏ cho mọi người biết rằng tôi không quên họ”. Lý lẽ đến đây thì không còn thuần là tin tưởng mà lợi ích công cộng đã xen vào Tục thờ cúng ông bà có liên quan đến trật tự xã hội, uy quyền của Nguyễn Ánh.

Pigneau gọi là dị đoan lễ rước ông bà cuồi năm, tục đốt vàng mã, lệ thờ thần chủ coi như là nơi trú ngụ của linh hồn người khuất. Nguyễn Ánh cho rằng không thể bỏ được vì sợ gây loạn. Ông nói: “Tôi đã cấm phù thuỷ, thiên văn, tôi đã coi đạo Thần tượng là xấu và sai, nhưng tôi phải giữ đạo thờ ông bà như tôi đã trình bày, vì theo tôi đó là một trong những căn bản giáo dục của xứ tôi”. Nguyễn Ánh xin Pigneau cho bọn tuỳ tướng Thiên Chúa giáo của ông được theo các cuộc lễ như mọi người, khỏi có hại cho uy tín của ông. Chỉ có một chút đó thôi được thoả mãn là không ai ngăn họ tiến lên những địa vị cao cả.

Thế mà lời yêu cầu không được chấp thuận. Tám năm sau, Nguyễn Ánh trong một lúc muốn dùng áp lực bắt Pigneau ra Diên Khánh lần nữa, đã cưỡng ép một ông quan lạy bài vị các tiên chúa với lý luận: “Ta nuôi ông lâu rồi, ban ơn phúc danh vọng cho ông nhiều rồi, sao ông không chịu lạy các đấng khuất của Ta (...), ông không từng lạy các thánh sao? Họ cũng đã chết rồi và không trở lại nữa. Ta cũng không tin rằng ông bà Ta hiện có trong đền, rằng họ có thể trở về đó ăn uống, nhưng chỉ lạy để tỏ lòng biết ơn của Ta trước mọi người thôi (...). Ông muốn Ta gởi đi Xiêm để phật vương bắt lạy Phật không?”2. Điều khó khăn này các giáo sĩ cũng thấy là tế nhị. Những bức thư gửi đi3 đều lưu ý đến tính cách thế tục, không có ý nghĩa tôn giáo của việc lạy xác, thờ cúng, và họ vạch ra rằng ở Pháp vua chết đi được liệm tử tế, đơm cơm để vài ngày mà không ai cho là mê tín cả.

Ông Boisserand kể lại cuộc hội đàm 1789 trên của Nguyễn Ánh, Bá-đa-lộc và tiên đoán rằng nếu người ta bài bác “thì sự thù hằn tăng thêm và mê tín càng vững chắc”. Các giáo sĩ lại chống đối tất cả những tục lệ có sẵn mà họ cho rằng theo “nghi lễ Trung Hoa”. Ngày đầu năm, mỗi vùng đều có góp tiền “theo dị đoan” để làm lễ Kỳ Yên, cầu cho quốc thái dân an. Pigneau sai Liot đề nghị hai người có uy tín, có ơn cũ với Nguyễn Ánh đến xin miễn cho những người Công giáo khỏi bị rầy rà, thì được trả lời theo kiểu “phép vua thua lệ làng”: “Nếu các nơi không đòi người Công giáo phải nộp tiền thì tuỳ họ, nhưng nếu họ bắt buộc thì họ có quyền vì đó là tục lệ lâu đời rồi”. Chưa hết, trong khi Pigneau đi Diên Khánh với Lavoué, Boisserand, Lelabousse, Nguyễn Ánh có sai trùng tu Văn Miếu, các giáo sĩ họp lại cử Hồ Văn Nghị và J.Liot vào tâu Hoàng hậu xin góp tiền cho quốc gia chớ không góp tiền xây cất Khổng miếu. Nguyễn Ánh bác đi vì cho rằng đó là dịp mọi người trả ơn cho người sáng lập, dạy dỗ đạo lý chữ nghĩa. Ra về, các giáo sĩ gởi thư đi các nơi bảo “cương quyết” không nạp. Liot ở lại thúc đẩy tinh thần các quan. Nguyễn Ánh phải chịu bỏ qua trường hợp một viên tướng cứng đầu. Và ở trong dân gian, các tín đồ cũng noi theo gương đó mà cưỡng lại4. Uy quyền vị chúa tể bị xâm phạm nặng nề.

Như vậy, luôn luôn có những ganh ghét, thù hằn ngấm ngầm sôi sục. Nó chỉ bùng nổ khi bọn sĩ phu Gia Định thấy bị đe doạ thật sự. Đó là khi Tống Phúc Đạm xoay chiều. Và khi họ tấn công thì gặp được dịp tốt.
_______________________________________
1. Thư Gpigneau cho Letondal, 17-8-1789 (A.Launay, III, t.320, 321).
2. Thư Pigneau cho Boiret, Saigon, 12-4-1797 (A.Launay, III, t. 311).
3. Thư Boisserand, 11-8-1789, thư Pineau cho Boiret, 15-6-1798, Pineau - Labartette, 5-6-1796, Labartette (ở Bố Chính) cho các Giám đốc trường Dòng của Phái đoàn Truyền giáo, 12-11-1800 (A.Launay, III, t. 322, 328, 332, 335)
4. Thư J.Liot gửi cho Giám đốc trường Dòng của Phái đoàn Truyền giáo, 20-6-1795) (A.Launay, III, t.336 - 338). Thực lục, q7, 3b, mục tháng 2 Giáp Dần (1794) có nói đến việc trùng tu Văn Miếu ở Trấn Biên đúng vào chuyện này
 

mihkun

Tháo bánh
Biển số
OF-173291
Ngày cấp bằng
23/12/12
Số km
2,457
Động cơ
367,826 Mã lực
Pigneau nhận xét, bảo Đạm là người “nghiêm trang, trịnh trọng, cần mẫn và giản dị”. Trong 8-9 tháng cùng Pigneau thảo luận, trao đổi tư tưởng về Khổng giáo, ông đã bị Pigneau quyến rũ, đến nỗi tâu xin Vua bỏ một số nghi lễ ở Triều đình mà ông cho là mê tín, theo như quyết nghị của Giáo hội La Mã về “nghi lễ Trung Hoa”, đến nỗi sau khi giải vây mắc bệnh không về Gia Định được mà ông cứ nằng nặc quyết gặp Giám mục để phải bị chết dọc đường.

Muốn hiểu rõ thái độ này của Tống Phúc Đạm đã gây xúc động cho các quan như thế nào, ta phải phân biệt trường hợp Hoàng tử Cảnh và trường hợp Tống Phúc Đạm. Đạm là bậc huân cựu đại thần, tuổi đã lớn (59 tuổi lúc xảy ra chuyện), tư tưởng khuôn sáo đã thành nếp thế mà bị thuyết phục trong vòng không đầy một năm, thì cậu bé Hoàng tử sẽ ra sao nếu cứ luôn luôn ở bên Pigneau? Năm 1789 còn bảo Cảnh nhỏ bé, chưa từng ở quê nhà nên dễ nhiễm ý tưởng của Pigneau chứ rồi đây Cảnh càng ngày càng lớn, càng độc lập trong tư tưởng đã được uốn nắn một lần rồi mà nay lại theo Pigneau thì nguy hại biết mấy.

Các quan, và cả Nguyễn Ánh nữa đã thấy đe doạ mất tin tưởng truyền thống, quyền lợi riêng tư, một khi Cảnh bị lôi kéo như Tống Phúc Đạm. Gọi là các quan bị đe doạ mất quyền lợi riêng tư, thực đúng như Pigneau đã nói. Nhưng ta cũng khó tách biệt rõ ràng phần tranh đấu cho quyền lợi và phần phản ứng nào bị thúc đẩy bởi va chạm tín ngưỡng.

Ngày Cảnh không lạy ông bà, Nguyễn Ánh đã tìm gặp Pigneau1 để phàn nàn sao Thiên Chúa giáo dạy tín đồ quên ông bà. Pigneau cãi rằng: “ở xứ này, thờ cúng ông bà vì tin rằng ông bà nhận lạy, ăn cỗ bàn, phù hộ con cháu sống lâu, giàu có”. Vì lối thờ cúng đó nghịch với sự thực không được đạo ông công nhận là lẽ tất nhiên. Nhưng Nguyễn Ánh biện bác rằng Pigneau chỉ bằng vào tin tưởng của dân chúng, lúc nào và ở đâu cũng đầy tính cách dị đoan hết. Sự thực ông tin rằng lễ bái chỉ là chứng cớ để cho con cháu nhớ ơn cha mẹ, ông bà: “Khi tôi đi đến các chỗ lễ đó, tôi nghĩ rằng nếu tổ tiên tôi còn sống, tôi muốn đền đáp công ơn trong muôn một. Để chứng tỏ ý nghĩ tôi chân thành và có hiệu quả, tôi muốn ngay bây giờ làm những điều như là ông bà tôi còn sống. Tôi biết rằng họ không còn nữa và những điều tôi sắp làm không có ích lợi gì cho họ cũng như cho tôi. Nhưng tôi muốn tỏ cho mọi người biết rằng tôi không quên họ”. Lý lẽ đến đây thì không còn thuần là tin tưởng mà lợi ích công cộng đã xen vào Tục thờ cúng ông bà có liên quan đến trật tự xã hội, uy quyền của Nguyễn Ánh.

Pigneau gọi là dị đoan lễ rước ông bà cuồi năm, tục đốt vàng mã, lệ thờ thần chủ coi như là nơi trú ngụ của linh hồn người khuất. Nguyễn Ánh cho rằng không thể bỏ được vì sợ gây loạn. Ông nói: “Tôi đã cấm phù thuỷ, thiên văn, tôi đã coi đạo Thần tượng là xấu và sai, nhưng tôi phải giữ đạo thờ ông bà như tôi đã trình bày, vì theo tôi đó là một trong những căn bản giáo dục của xứ tôi”. Nguyễn Ánh xin Pigneau cho bọn tuỳ tướng Thiên Chúa giáo của ông được theo các cuộc lễ như mọi người, khỏi có hại cho uy tín của ông. Chỉ có một chút đó thôi được thoả mãn là không ai ngăn họ tiến lên những địa vị cao cả.

Thế mà lời yêu cầu không được chấp thuận. Tám năm sau, Nguyễn Ánh trong một lúc muốn dùng áp lực bắt Pigneau ra Diên Khánh lần nữa, đã cưỡng ép một ông quan lạy bài vị các tiên chúa với lý luận: “Ta nuôi ông lâu rồi, ban ơn phúc danh vọng cho ông nhiều rồi, sao ông không chịu lạy các đấng khuất của Ta (...), ông không từng lạy các thánh sao? Họ cũng đã chết rồi và không trở lại nữa. Ta cũng không tin rằng ông bà Ta hiện có trong đền, rằng họ có thể trở về đó ăn uống, nhưng chỉ lạy để tỏ lòng biết ơn của Ta trước mọi người thôi (...). Ông muốn Ta gởi đi Xiêm để phật vương bắt lạy Phật không?”2. Điều khó khăn này các giáo sĩ cũng thấy là tế nhị. Những bức thư gửi đi3 đều lưu ý đến tính cách thế tục, không có ý nghĩa tôn giáo của việc lạy xác, thờ cúng, và họ vạch ra rằng ở Pháp vua chết đi được liệm tử tế, đơm cơm để vài ngày mà không ai cho là mê tín cả.

Ông Boisserand kể lại cuộc hội đàm 1789 trên của Nguyễn Ánh, Bá-đa-lộc và tiên đoán rằng nếu người ta bài bác “thì sự thù hằn tăng thêm và mê tín càng vững chắc”. Các giáo sĩ lại chống đối tất cả những tục lệ có sẵn mà họ cho rằng theo “nghi lễ Trung Hoa”. Ngày đầu năm, mỗi vùng đều có góp tiền “theo dị đoan” để làm lễ Kỳ Yên, cầu cho quốc thái dân an. Pigneau sai Liot đề nghị hai người có uy tín, có ơn cũ với Nguyễn Ánh đến xin miễn cho những người Công giáo khỏi bị rầy rà, thì được trả lời theo kiểu “phép vua thua lệ làng”: “Nếu các nơi không đòi người Công giáo phải nộp tiền thì tuỳ họ, nhưng nếu họ bắt buộc thì họ có quyền vì đó là tục lệ lâu đời rồi”. Chưa hết, trong khi Pigneau đi Diên Khánh với Lavoué, Boisserand, Lelabousse, Nguyễn Ánh có sai trùng tu Văn Miếu, các giáo sĩ họp lại cử Hồ Văn Nghị và J.Liot vào tâu Hoàng hậu xin góp tiền cho quốc gia chớ không góp tiền xây cất Khổng miếu. Nguyễn Ánh bác đi vì cho rằng đó là dịp mọi người trả ơn cho người sáng lập, dạy dỗ đạo lý chữ nghĩa. Ra về, các giáo sĩ gởi thư đi các nơi bảo “cương quyết” không nạp. Liot ở lại thúc đẩy tinh thần các quan. Nguyễn Ánh phải chịu bỏ qua trường hợp một viên tướng cứng đầu. Và ở trong dân gian, các tín đồ cũng noi theo gương đó mà cưỡng lại4. Uy quyền vị chúa tể bị xâm phạm nặng nề.

Như vậy, luôn luôn có những ganh ghét, thù hằn ngấm ngầm sôi sục. Nó chỉ bùng nổ khi bọn sĩ phu Gia Định thấy bị đe doạ thật sự. Đó là khi Tống Phúc Đạm xoay chiều. Và khi họ tấn công thì gặp được dịp tốt.
_______________________________________
1. Thư Gpigneau cho Letondal, 17-8-1789 (A.Launay, III, t.320, 321).
2. Thư Pigneau cho Boiret, Saigon, 12-4-1797 (A.Launay, III, t. 311).
3. Thư Boisserand, 11-8-1789, thư Pineau cho Boiret, 15-6-1798, Pineau - Labartette, 5-6-1796, Labartette (ở Bố Chính) cho các Giám đốc trường Dòng của Phái đoàn Truyền giáo, 12-11-1800 (A.Launay, III, t. 322, 328, 332, 335)
4. Thư J.Liot gửi cho Giám đốc trường Dòng của Phái đoàn Truyền giáo, 20-6-1795) (A.Launay, III, t.336 - 338). Thực lục, q7, 3b, mục tháng 2 Giáp Dần (1794) có nói đến việc trùng tu Văn Miếu ở Trấn Biên đúng vào chuyện này
Nghe đoạn Nguyễn Ánh dùng lí luận với Pigenau mới thấy chính các ông Tây vì bị ám ảnh rằng mình là nền văn minh đi khai sáng nên khá bảo thủ. Cụ Ánh thì tài, hiểu được cái lợi-hại của thiên chúa giáo với quyền lực của mình nên ứng xử mềm mại uyển chuyển. Đáng tiếc là vua Minh Mạng sau này thừa hưởng sự thái bình khi mới lên ngôi nên chỉ thấy cái nguy cơ giảm ảnh hưởng với dân khi họ chọn thiên chúa giáo dẫn đến học theo Trung Quốc bế quan tỏa cảng. Vào thời thực dân khai sáng này thì chuyện nhà vua phải chọn bị mất dần quyền lực hoặc đối đầu với phương Tây cũng là điều khó tránh.
Xem ra lịch sử xoay vần thì một cá nhân cũng khó thay đổi được.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Từ 1792, những tin tức về cuộc cách mạng phản đế do bọn lái buôn Bồ đưa đến đã lọt vào tai Nguyễn Ánh. Giáo sĩ Lavoué nhận xét rằng: “Hình như các tin ấy có ảnh hưởng mạnh đến đầu óc ông Hoàng này và làm ông xa rời người Âu. Hiện nay (1795), ông tỏ ra ít dễ dãi đối với đạo hơn mấy năm trước”1. Sửa soạn đi cứu Diên Khánh bị vây lần thứ hai, Nguyễn Ánh đã tống giam Dayot và một tuỳ tướng vì tội làm chìm chiếc tàu được giao trông coi hư hại đến nỗi không thể sửa chữa để dùng được gì cả. Nguyễn Ánh tức giận chửi lung tung. Đúng dịp ấy, 19 người đại thần, trong số đó có người chú vua (Tôn Thất Thăng?) và một người hoàng phái, dâng sớ bày tỏ mối nguy hại nếu cứ để Hoàng tử Cảnh cho Bá-đa-lộc dạy dỗ theo một tin tưởng khác hẳn mối tin tưởng cổ truyền. Họ cầu xin Nguyễn Ánh cắt đứt mối liên lạc ấy và để Cảnh cho các quan triều dạy.

Nghe chuyện, Bá-đa-lộc khôn ngoan ẩn tránh vài ngày. Thấy Nguyễn Ánh có vẻ nghe theo lời sớ, ông lên tiếng phàn nàn thì Ánh đến tận nhà đưa tờ biểu cho ông coi. Bá-đa-lộc nhắc lại công trình ông đã giúp Ánh và lưu ý Ánh rằng ông đến đây không phải với tính cách riêng tư mà là với tính cách đại sứ của vua nước Pháp. Thực ra, thoả ước Versailles đâu có áp dụng mà ông nêu điều này ra. Tuy nhiên, Ánh còn cần Bá-đa-lộc trong khi quân Lê Trung tiến vào cuối Bình Thuận, nên nghe Bá-đa-lộc đòi về, nhân dịp hai người có tên trong sở là Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành không đi cứu Phố Hài, ông kêu về tống giam vừa để trị tội, vừa để làm vừa lòng Giám mục2.

Vụ Tống Phúc Đạm có thể coi như chấm dứt với việc Bá-đa-lộc xin phục chức cho Đức và Thành cho theo quân đánh giặc tháng 3 ất Mão (1795). Nhưng tranh chấp vẫn còn, Bá-đa-lộc trở nên dè dặt hơn vì nhận rằng xúc động của các quan có lý: “Các đại thần ở Pháp sẽ nói sao khi ông Hoàng của họ được đặt vào tay một người ngoại quốc có tôn giáo khác biệt?” Hi vọng của ông như đã ghi nhận ở lá thư 3 năm trước là “nếu dòng họ này nắm quyền thì tôn giáo sẽ yên ổn hơn ở các triều khác”.

Trong lúc đó thì triều đình Gia Định càng ngày càng được củng cố theo mẫu mực Nho giáo.

Tháng chạp Ất Mão, khi cứu Diên Khánh về, Ánh định tháng 3 sang năm mở thi Hội. Theo lệ triều trước kỳ thi trải qua 3 trường, bây giờ các quan họp lại định trường nhất hỏi về hiểu biết kinh truyện, làm thơ, trường nhì làm văn sách, trường ba làm thơ, phú. Những người trúng cách được phân 3 hạng Giáp, Ất, Bính cho bổ quan chức hay miễn dao dịch. Người trúng trường nhất được miễn binh dao từ 2 đến 6 năm. Qua trường nhì, người trúng cách được bổ cao nhất là Lễ sanh, hạng cuối được làm Nhiêu học, miễn binh dao 4 năm. Ở trường ba, 3 hạng đầu là Cống sĩ, Huấn đạo, Lễ sanh; ba hạng sau là Huấn đạo, Lễ sanh, Nhiêu học (suốt đời). Khoa thi tháng ba Bính Thìn (1796) lấy đỗ 273 người3.

Như vậy là tiếp với nhóm Bình Xương cùng các văn quan Bắc Hà, Phú Xuân về đầu, một nhóm cử tử thành đạt càng làm nho sĩ có đủ sức mạnh để bênh vực, khuông phò Khổng giáo. Bọn văn quan này noi gương Hàn Dũ, Trương Hán Siêu sẽ công kích Phật giáo rất dữ, hợp một phần với ý tưởng Nguyễn Ánh. Nhưng thực ra, nằm ở chừng mực tín ngưỡng trung bình, lễ tiết Phật giáo đã hoà lẫn với những tập tục bình dân mà ngay chính nho sĩ cũng không vứt bỏ được trong sinh hoạt hàng ngày. J. Barrow đã vẽ cho ta thấy hình một tượng Phật ở một động phía Nam Đà Nẵng (Ngũ Hành Sơn?) được đặt trên cây đa cao trông như ông thần cây vậy4. Đó có thể là một suy đồi tín lý của Phật giáo nhưng đó cũng là sức mạnh của họ.

Trước sự đe doạ của ý thức hệ do các giáo sĩ đưa lại, Nguyễn Ánh với địa vị chủ tể càng ngày càng thấy phải trở nên khôn ngoan hơn để nghiêng dần về phía những tập tục cổ truyền. Cho nên, ta không ngạc nhiên như Lelabousse:

“Cho tới bây giờ, Đức vua không nhận tôn giáo nào khác hơn đạo thờ ông bà, thế mà từ 2 năm nay, ông đã xây cất nhiều Khổng miếu. Điều làm mọi người ngạc nhiên là ông hoàng này vốn không bao giờ chịu đựng đạo Phật đến nỗi đánh roi những người đem tượng vào phòng Hoàng hậu và đánh 100 roi những ông hoà thượng hành lễ, ông hoàng đó bây giờ lại đi chùa và dự những cuộc lễ của các vị sư mà ông đã luôn luôn ghê tởm”5. Lelabousse giải thích là Nguyễn Ánh muốn làm vừa lòng mẹ, vợ và các phi tần, nhưng điều đó lại đánh dấu một bước lùi nữa trong chương trình của Pigneau.

thắng lợi quân sự tiếp theo đã đẩy Gia Định tiến mạnh trên con đường tổ chức xã hội theo khuôn khổ của Nho giáo để bọn sĩ phu. càng trở nên tự phụ hơn trước các giáo sĩ.

Tháng 2 Bính Thìn (1796), Nguyễn Ánh tổ chức kiểm tra quân dân chặt chẽ bằng cách bắt dân phải mang “tín tích”, một thứ tín bài của Gia Định. Tháng 7 năm đó có tăng tiến tổ chức thuỷ quân trên cơ sở có sẵn: trước kia chỉ có 3 doanh, nay thêm 2 là 5, đủ Tiền, Hậu, Trung, Tả, Hữu6.

Nhưng như kinh nghiệm cho biết, trên bộ, đội tượng binh của Trần Quang Diệu còn làm e ngại quân Nguyễn. Từ mùa đông 1792, Gia Định bắt đầu tổ chức tượng binh, nhưng lực lượng vẫn còn rất yếu ớt. Số voi tăng dần nhờ bắt dân Chàm, Thượng cung cấp, nhờ Vua hay trao đổi bằng cống phẩm với Cao Miên, Xiêm La và bắt được của Tây Sơn. Người huấn luyện điều khiển ban đầu là Chàm, Thượng. Trong trận 1797, Nguyễn Ánh đề ra chiến thuật đánh tượng binh: ông bảo lính cố sức giết cho được tên nài và địch quân ngồi trên đó để cướp voi7. Chiến thuật có vẻ thật là giản dị như Kiêu binh đã từng áp dụng để giết Quận Huy.
____________________________________________
1. Thư Pigneau cho Boiret, 20-6-1792; thư Lavoué cho Giám đốc trường Dòng (A.Launay, III, t.306, chú (I)).
2. Xem lại tiết trước. Chuyện xảy ra vào đầu năm 1795. Tên Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành được xác nhận vì một đằng so với Thực lục (q7,23b, 24a, 27b), một đằng thư Lavoué kể trước có nói: (Ánh) đến nhà Bá-da-lộc trước khi đi đánh Tây Sơn và 2 trong những người tố cáo đang làm quan lớn bị tống giam vì đã bỏ rơi 2 quan khác khi Tây Sơn tiến đánh.
3. Thực lục, q8, 12b, 13a, 15a.
4. Hình chụp lại trong Iconographie historique..., sđd, IX, 13.
5. Thư Lelabousse cho Boiret, 12-7-1796 (A.Launay, III, t.225).
6. Thực lực, q8, 14b, 23ab.
7. Thực lục, q9, 21ab.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Nguy hại thêm cho Tây Sơn là tổ chức nội ứng của Nguyễn Ánh đã lan mạnh trong khu vực của họ. Chúng ta đã biết, theo với đà suy yếu từ trung ương, dân chúng càng lộ vẻ chống đối Tây Sơn. Một bài ngâm như Hoài nam khúc trong đó tác giả nói toàn những chuyến cũ kỹ từ 1774, 1775 mà cũng làm dao động Thuận Hoá và lan rộng đến miền Nam. Cho nên, từ tháng ba Tân Hợi (1791), sử quan đã hãnh diện về số tay chân thương hộ ra ngoài Bình Thuận, Thuận Hoá dò la tin tức1.

Những chuyến đánh ra rồi lại rút về càng tăng thêm lòng nao nức của những người oán Tây Sơn, hướng vọng về Gia Định không kể đến sự thực ở miền trong. Tiếp tục lợi dụng tinh thần đó, trong tháng 7 Bính Thìn (1796), Nguyễn Ánh sai người về Quy Nhơn, Quảng Nam, Thuận Hoá chiêu dụ nghĩa binh làm nội ứng. Một đợt thứ hai những gián điệp như vậy cũng được tung ra vào tháng 11 cùng năm2.

Mùa Xuân Đinh Tỵ (1797), Gia Định phát binh đánh ra ngoài. Họ vừa được Cai đội Nguyễn Văn Vân bạt thuyền bị bắt ở Phú Xuân năm 1793 nay trốn về báo cáo tình hình. Con đường từ Xích Ram đến Ma Ly được sắp đặt ngựa trạm để thông báo tin tức. Loạn Ba Phủ vừa tạm dẹp yên. Gió mùa nổi lên. Nguyễn Ánh sửa soạn tăng cường 200 ghe chiến nhẹ và lô ghe bầu chở 12 súng lớn.

Đội quân xuất phát vào tháng 4-1797 gồm một lực lượng hùng hậu tới 447 thuyền và 42.000 chiến binh trong đó chiếc frégate và chiếc corvette đều do người Âu chỉ huy3. Do đó mà những trận đầu tiên trên biển và ở ngoại vi Quy Nhơn, chiến thắng có vẻ dễ dàng. Nguyễn Văn Trương dẫn thuỷ quân đánh Đô đốc Triêm ở Tiên Châu rồi phá Đô đốc Tính ở đầm Nước Ngọt. Trên bộ, Nguyễn Văn Thành dẫn Hậu quân đánh chợ Hội An (Phú Yên) đuổi Đô đốc Hiếu chạy về La Hai.

Nhưng quân Lê Trung đã dàn ra giữ vững mặt nam Quy Nhơn và cửa Thi Nại. Nguyễn Ánh đành phải bỏ đó đem hơn 100 thuyền ra cửa Đà Nẵng. Hiểu rõ thực lực mình, tránh giao chiến bất lợi, Thống lãnh Đặng Văn Chân rút hết binh thuyền vào trong cùng với bộ binh của Thiếu bảo Nguyễn Văn Huấn dàn hai bên bờ sông dựa nhau cự chiến. Một trận đổ bộ thắng nhỏ không phá vỡ được quân địch, Nguyễn Ánh sai Nguyễn Văn Thành, Trần Văn Tứ, Trần Văn Bố dẫn quân chiếm Câu Đê đến Hải Vân, sát cửa Kinh thành4. Nguyễn Quang Toản sợ hãi vội vã sai Trần Quang Diệu giữ cửa Eo (Noãn khẩu) có Đô đốc Lê Văn An tiến quân trợ giúp.

Mặc cho hai quân đối đầu ở giáp giới Quảng Nam, Thuận Hoá, Nguyễn Ánh lo thanh toán vùng bên trong, nên sai Cảnh tiến vào cửa Đại Chiêm đánh Chiên Doanh (thủ phủ Quảng Nam), có Võ Tánh từ Phú Yên đến trợ giúp. Cảnh chiếm chợ Đông An, Hội An. Võ Tánh đánh Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ bắt tù binh cùng 30 tàu Ô ở Đại Chiêm.

Trên bộ, Tây Sơn phản công dữ. Lê Trung tung quân đánh Hội An ở Phú Yên khiến Nguyễn Văn Thành phải bỏ về giữ Bình Khang. Tháng 6 năm đó, quân Nguyễn thắng mạnh ở Quảng Nam. Nguyễn Văn Trương đánh viện binh của Lê Văn An ở gò Phú Gia chạy về Câu Thai. Võ Tánh đánh Tiết độ Nguyễn Văn Giáp ở sông Mỹ Khê. Hoàng tủ Cảnh thắng ở núi La Qua, để Phạm Văn Nhàn ở lại Đại Chiêm, kéo Vũ Bá Diên đến Phú Triêm. Đang đêm, Nguyễn Văn Khiêm và Olivier mang bọn Chiến tâm quân lẻn đốt thuyền Tây Sơn.

Quân Quảng Nam cố thủ và cầu viện ở Quy Nhơn. Lê Trung sai Đại Đô đốc Lê Chất, Đoạn Văn Cát, Đô đốc Nguyễn Văn Xuân và một người tên Hàn đem 2.000 quân, 40 thớt voi tới cứu, bị đánh tan. Voi bị giết, Hàn bị trúng đạn chết. Tuy vậy Lê Trung còn là mối lo cho quân Nguyễn. Trong tháng 7, Nguyễn Ánh sai Nguyễn Văn Biện, Nguyễn Đức Thiện đổ bộ lên cửa Hợp Hoà đóng ở Bến Ván chận cứu binh Quy Nhơn. Đô đốc Lê Văn An của Tây Sơn cũng cố tiến chiếm Trạm Dã nhưng không được. Nguyễn Ánh hi vọng Phú Yên yếu, Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường có thể chiếm được, nên không nghe lời Nguyễn Văn Biện, Nguyễn Đức Thành xin đánh Trà Khúc sau khi phá được Đô đốc Gia ở Thạch Đậu.

Như vậy là hai nhóm quân Tây Sơn mạnh vẫn còn chiếm một ở Đà Nẵng, một ở Trà Khúc với Lê Trung nơi ấy đang trưng tập đàn để bổ sung quân sĩ.

Thấy khó đánh, Nguyễn Ánh tính đến kế phản gián, sai người bảo Tham tán Tây Sơn là Từ Văn Tú thuyết Tiểu triều Nguyễn Bảo giết Lê Trung. Mặt khác ông tính tuyệt lương địch bằng cách sai Nguyễn Văn Biện giữ Tam Kỳ còn Lê Tấn Tham thì theo sông Thanh Hà đốt luỹ cản trở tiếp tế giữa Nam, Ngãi.

Nhưng nếu Tây Sơn bối rối vì hụt lương thì Nguyễn cũng không hơn gì. Từ lúc mở chiến dịch, họ đã mang lương mễ hơn 12.700 vuông gạo, 500 vuông muối, hợp với 12.800 vuông gạo và 3 vạn quan tiền chở đến Cầu Hin tháng 6 năm ngoái (1796). Không may, Trương Phúc Luật đem thuyền tiếp tế bị gió cản, cướp biển đoạt (Tề Ngôi hải phỉ?), khiến quân Quảng Nam chỉ còn có 5 ngày lương. Cuối tháng 7 đầu, Nguyễn Ánh phải cho lui quân mà không hay rằng thuyền lương kế tiếp đã tới vũng Quất (Quảng Ngãi). Nguyễn Văn Thành chiếm được Phú Yên cũng đành bỏ.

Chiến tranh kéo dài trong 4 tháng, quấy đảo Quảng Nam, đe doạ Phú Xuân trong 3 tháng đã mang lại vui mừng, hi vọng cho các giáo sĩ cùng dân chúng ở vùng này, tưởng như sắp được thoát ách Tây Sơn. Họ thất vọng vì quân Nguyễn rút lui5, nhưng binh tướng Gia Định thì lại phấn chấn tinh thần hơn lên.

Cuối năm Đinh Tỵ, Nguyễn Ánh dẹp được loạn Ba Phủ mới nổi. Đầu năm sau (Mậu Ngọ 1798), Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Trương định đem 7.000 quân giúp Xiêm đánh Miến Điện6. Rõ ràng là Gia Định càng ngày càng tự thấy làm chủ mình và muốn làm chủ người nữa.
_________________________________________
1.Thực lục q5, 9ab. 33a.
2.Thực lục q8. 26b, q9, 5b.
3. Chi tiết về số lượng thuỷ quân do bức thư của Olivier gửi cho St. Lefèbre de Tranquebar, 16-4-1798, trích của A.Slles. “Les Français au service de Gia Long. J.B.Chaigneau”, BAVH, Janv-Mars 1923.
4. Thư Labarlette cho Letondal, 6-10-1797 (A. Launay, III, t.242)
5. Thư Labartette cho Letondal. 6-10-1797 kể trước. Chuyện tiến quân lấy ở Thực lục, q9, 19b - 27a.
6.Thực lục q9, 37a, q19, 2a.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Đám nho sĩ khỏi lo về phía Hoàng tủ Cảnh. Đông cung sống đúng cung cách của một ông hoàng Đông phương: ông vừa có 3 vợ mùa xuân năm ngoái1. Và tháng 3 năm nay (1798), chính ông đã xin làm truyện các bậc trung thần để người ta theo đó mà được dạy dỗ rộng rãi cho trung thành với quân quyền hơn2. Còn nói chi đến Nguyễn Ánh. Tuy vẫn còn kính trọng Pigneau, ông đã bắt đầu biết lợi dụng ông này.

Ngày Tết năm Đinh Tỵ (1797), Pigneau đến chúc đầu năm thì Ánh đề nghị ông đi cùng với Cảnh theo quân. Nhớ lại chuyện rắc rối kéo dài ở Diên Khánh trong 2 năm trước, ông từ chối. Mười lăm ngày sau, Ánh mời đi chơi để nói lại chuyện đó nhưng ông vẫn khăng khăng không nhận. Ánh bèn giở thủ đoạn chính trị ra. Lúc trở về, ông tỏ thái độ không bằng lòng đối với Thiên Chúa giáo. Ông bảo rằng ông đã phải chịu đựng rất nhiều để cho đạo hoạt động trong nước chỉ vì ngưỡng mộ Pigneau, chỉ vì ông này đã làm ơn cho ông. Bây giờ thì nhất định phải xét lại vấn đề đó. Ông lôi một viên quan có đạo ra bắt lạy các bực tiên hiền cho kỳ được để khủng bố tinh thần Pigneau. Quả nhiên Pigneau chịu nhún, đành phải nhận lời đi Diên Khánh3.

Bọn nho sĩ trong triều lại có thế để mà tuyên dương đạo học của họ lên. Sử quan kể một chuyện xảy ra trong tháng 5 Mậu Ngọ (1798) như sau, có thể tóm thâu được hết cả tình hình độc chiếm tư tưởng lúc bây giờ:

“Đất Gia Định chuộng đạo Phật. Có vị cao tăng phạm tội vua muốn giết. Gặp kẻ cản ngăn, lấy lẽ đó là bậc chân tu, Nguyễn Ánh trả lời rằng: “Chân tu thì có ích gì cho nước?” Ông bắt kiểm tra hoà thượng, đạo đồng chỉ miễn dao dịch cho những tăng chúng trên 50 tuổi mà thôi, còn dưới 50 vẫn phải làm xâu như dân thường. Quần thần can làm Ánh lưỡng lự, Ngô Tòng Châu bèn lấy tính cách phụ đạo Đông cung tâu lên Cảnh: “Quân thượng ngài ngại đạo Phật hưng thạnh mà quần thần không tán thành ý đó lại ngăn cản đi. Thần sợ việc làm nửa chừng rồi thôi thì kẻ kia lại bậy bạ ngông cuồng hơn ngày trước. Tăng nhân đối với thần không có ghét bỏ riêng tư, nhưng mà cái hại của Phật, Lão còn hơn Dương, mặc nữa, chẳng lẽ không nói”. Hoàng tử Cảnh đồng ý. Tòng Châu bèn dâng sớ bài bác thậm tệ, Vua mới không phân vân nữa mà quyết thi hành việc kiểm soát tăng chúng”.

Sử quan cũng nhân dịp này mà chêm vào một câu: Bá-đa-lộc nghe Châu bài bác “Tả đạo” trong lòng cũng ghét4. Quả vậy, nho sĩ đã thắng thế rõ rệt. Tháng 10 năm đó, Pigneau đi Diên Khánh với Cảnh. Tuy rằng ở đó Tống Viết Phúc vào tháng giêng năm sau (1799) nói hỗn với ông còn bị cách chức lôi về Gia Định5, nhưng hợp với lúc J. Dayot đã đi, V. Olivier sắp bỏ chức, uy thế Tây phương hạ xuống rõ rệt ở xứ này.

Nho sĩ dựa vào sự trù phú của Gia Định, gặp dịp Tây phương rối loạn trong những chuyển mình về kinh tế, xã hội, mắc lo nội bộ không rảnh phát triển về phương Đông6, lớp nho sĩ đó của đất Việt đã thu thập được một ít kỹ thuật tiến bộ của Tây phương để lớn lên, nhưng chịu đựng được những dao động do sự tiếp viện đem lại để vẫn làm chủ được tình hình. Họ đã biết đem trùm lên trên phần đất miền Nam còn đầy phức tạp với những ảnh hưởng tứ xứ và bản thổ, một lớp sơn Nho giáo đem từ phương Bắc xuống mà tính cách cứng cỏi còn được ghi nhận đến mãi sau này và còn lưu dấu trong toàn thể chính sách quốc gia một khi nền thống nhất được lập lại.
_______________________________________
1. Thư Lelabousse cho Boiret, 5-1797 (A.Launay, III, t.288).
2. Thực lục q10, 3a.
3. Thư Pigneau cho Boiret, 12-4-1797 (A.Launay, III, t.310, 311).
4. Thực lục q10, 12b, 13a.
5. Thực lục q10, 14b-20a.
6. Pháp không thi hành được hiệp ước Versailles chỉ để bốn phiếu lưu giúp nên cạnh tranh nhau, tố cáo nhau làm mất mặt Tây phương trước dân bản xứ. Chúng ta đã thấy vụ Mãn-noàỉ chứng tỏ sự xung đột Bồ - Pháp về Đạo cũng như về Đời trên đất Gia Định. Xung đột còn mãi đến 1801 khi người Bồ tố cáo L.Barizy đầu độc chủ tàu tên R.Henderson, và làm cho Barizy phải bị tù (Chuyện từ thư của Barizy cho Letondal, BAVH, Oct-Déc, t.380-384).
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
__________________________________________________________Tiết 18

ĐÁNH VÀ GIỮ Ở QUY NHƠN


Nỗi khó khăn và những phản ứng của Phú Xuân * Chiến thuật ngoại giao của Nguyễn Ánh * Chiến trận chiếm thành Quy Nhơn * Lòng quyết chiến của Tây Sơn ở Thang Mộc ấp của họ * Trận thuỷ chiến Thi Nại (1801).



Chiến tranh dữ dội trong 3 tháng ở Quảng Nam trả thù những thất bại của quân Nguyễn 24 năm về trước đã làm nức thế những người tự nhận là của phe Gia Định ở miền này và gây khủng hoảng thêm cho triều đình Phú Xuân.

Ta đã nói đến vai trò của các cựu thần, các phiên thần nhà Lê, nhà Nguyễn, nhưng dưới quyền Tây Sơn còn có một nhóm người mang tính cách chống đối ngay từ căn bản tư tưởng: nhóm đạo đồ Thiên Chúa giáo. Thực ra, hoặc vì mang tính cách xuề xoà của người Việt về vấn đề tôn giáo hoặc vì lý lẽ chính trị không muốn gây bất mãn trong dân chúng để nhờ cậy Tây phương qua các giáo sĩ, Tây Sơn đã từng để yên cho các giáo đồ hành đạo. Cuộc nổi loạn lấn chiếm của Tây Sơn có một phần nào bài bác những tin tưởng cũ đã được giáo sĩ Labarlette ở Thuận Hoá vui mừng ngóng đợi tương lai xán lạn cho tôn giáo của ông. Và cũng vì những lẽ đó nên có giáo sĩ mới cho rằng dưới triều Tây Sơn tôn giáo phát triển tiến bộ.

Nhưng ta lại đã nói thêm rằng dù Nguyễn Ánh, dù anh em Tây Sơn cũng đều chia sẻ ý thức hệ Việt Nam hỗn tạp những tin tưởng Nho, Phật, Lão, Thần cho nên sớm muộn gì cũng có xung đột với tin tưởng từ phương xa tới còn nhiều sắc thái khá khác biệt. Cho nên, Nguyễn Nhạc đưa ra một phụng truyền bắt phá các chùa nhỏ ở làng để lập chùa lớn mỗi tổng thì đồng thời cũng bắt phá các nhà thờ để lấy vật liệu cần thiết cho việc xây cất kia. Lệnh bài đạo năm 1785 được tung ra vì một xung đột nghi lễ, tục lệ. Nội dung sắc lệnh bài đạo ngày 17-8-1798 đưa lý lẽ: “Xét rằng kiến thức điều khiển quốc gia đều gồm trong tam cương, ngũ thường (...) trong khi đạo Hoa lang lại đầy mê tín, dối gạt dân chúng và đảo lộn trật tự xã hội”1.

Thế mà những biến động chính trị còn làm cho vấn đề phức tạp hơn. Việc Pigneau xả thân vượt biển giúp Nguyễn Ánh đã được những thương nhân đi Macao về nói lại2. Tây Sơn biết rõ ràng, tất nhiên họ nghi ngờ nhóm giáo sĩ dưới quyền họ. Về phần giáo dân và những người lãnh đạo, theo khuynh hướng cục bộ, họ cũng hướng về Gia Định3 không cần biết rằng ngay ở đó đám nho sĩ đang chèn lấn các linh mục và đã thắng thế.

Những mâu thuẫn càng gay gắt hơn theo với tình thế. Quang Trung còn vững chãi nên chỉ dùng để làm phương tiện bóc lột các tín đồ, bù đắp thiếu hụt ngân sách thôi: tháng 7-1791, ông bắt giáo dân từ Phú Xuân trở ra phải nộp 10.000 cân đồng4. Đến Cảnh Thịnh thì nguy cơ đã lớn hơn. Các đạo đồ theo thời thế đã chống đối rõ rệt. Với các nhà truyền giáo thì việc bức đạo ở Quảng Ngãi tháng 8-1798 thực là dã man. Nhưng họ cũng công nhận rằng Lê Trung bắt một thầy giảng là cốt để phăng lần đến tung tích cha Dominique do Pigneau gởi tới đang lẩn trốn ở Phú Yên5. Tây Sơn nghi ngờ những người này có nhiệm vụ do thám binh tình cho chúa Nguyễn. Cũng như linh mục Emanuel Triệu tử vì đạo trong chuyến này vốn là người quê Tống Sơn, bái quận của nhà Nguyễn, sinh ở Phú Xuân, có cha chết trong khi chống Tây Sơn năm 1775, có gia đình vào Đồng Nai và chính ông cũng đã ở trong đội cận vệ của chúa Nguyễn6. Nghi ngờ của vua quan Tây Sơn nếu không đích xác thì cũng có lý lẽ biện hộ.

Chiến thuật ngoại giao của Nguyễn Ánh cũng mang lại những tác dụng quấy rối đáng kể. Từ lúc ở Xiêm về, ông vẫn cố giữ lấy tình giao hảo với Phật vương để lấy thế tựa bên ngoài nhất là khi hiệp ước Versailles đã không được thi hành. Mỗi lần đánh thắng trận, mỗi lần có rắc rối ở biên cương - như với Chiêu-thùy Biện ở Cao Miên - ông đều sai sứ sang Xiêm với lời lẽ mềm mỏng. Sứ bộ 16-12-1797 gồm có Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Kế Nhuận, Ngô Nhân Tĩnh7. Rồi tháng 8 năm sau (1798) lại có sứ sang Xiêm. Quan trọng hơn cả là sứ bộ tháng 2 Kỷ Mùi (1799) xin Xiêm vương đem quân Chân Lạp, Vạn Tượng đánh vào mặt sau của Nghệ An. Người trông coi việc vận động với Vạn Tượng là Nguyễn Văn Thoại (Thuỵ), Lưu Phước Tường... Từ Diên Khánh, Nguyễn Văn Thành cũng dâng mưu đem các thuyền cướp biển bắt được dâng với Thanh đế để chia rẽ với Tây Sơn. Sứ bộ Ngô Nhân Tĩnh đi làm việc đó, thêm việc dò Lê Hoàng vào tháng 6 Mậu Ngọ (1798).

Những hành động đó đã làm cô lập thêm Tây Sơn. Nhưng phía Nguyễn Ánh cũng gặp những khó khăn nội bộ. Loạn Ba Phủ đang còn là một thứ “tâm phúc chi ưu” dằng dai thì tiếp đó Cai cơ Thuận Thành là Nguyễn Văn Phong lại “làm phản” chiếm sóc Kha8.
______________________________________
1. Thư giáo sĩ Longer cho Giám đốc nhà Dòng các Phái đoàn Truyền giáo, Tonkin, 3-6-1799 (A.Launay, III, t.250.)
2. Thư Longer gởi cho Dufresne, 1-5-1786, cho Letondal, 9-8-1786, Labartette cho Descourvières, 16-5-1788, cho Letondal, 18-6-1788 (A.Launay, III, t 162).
3. Thư Le Gire gởi cho cha mẹ, 11-1-1796, cho Boiret từ Kẻ Lương, Thượng Cochinchine, 12-1-1796, có câu: “Chúng tôi nóng đợi Vua tới... người ta quá hi vọng Vua từ Đồng Nai tới khiến chúng tôi sai lầm... (A.Launay, III t 239, 240).
4. Thư Longer cho Giám đốc Nhà dòng các Phái đoàn Truyền giáo 14-4-1792 (A.Launay, III, t.239).
5. vụ Nguyễn Bảo kể sau.
6. Giáo sĩ Labartette kể lại (A.Launay, III t.251-256), thư Longer 3-6 kể trên.
7. Hai tờ chiếu sai của Nguyễn Ánh, một có ghi chi tiết lễ vật, tất cả để ở từ đường họ Nguyễn Huỳnh, xã Khánh Hậu, tỉnh Long An.
8. Thực lục q10, 13b.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
  • Tây Sơn rơi vào thế cô lập ngay từ ngày đầu khởi nghĩa bị coi là giặc là đám phản loạn. Tây Sơn phải lần mò trong hỗn loạn chiêu dụ nho sĩ Bắc Hà, vỗ về các cựu thần, cố gắng ngoại giao với nhà Thanh và Xiêm, nỗ lực ngoại thương với phương Tây,........nhưng rơi vào trống không..........họ bị Phật giáo tố tàn ác, bị Nho giáo thủ cựu chửi rủa, bị đám cựu thần chúa Nguyễn, nhà Lê-Trinh chống đối, đám người Hoa luôn sẳn sàng cung cấp tiền và nhân lực cho Ánh, các truyền giáo vừa giúp đỡ về vật chất kĩ thuật, con người và hệ thống tình báo cho Ánh...........Tất nhiên tất cả các cuộc khởi nghĩa chống lại triều trình chống lại nhà thờ, chống nho giáo từ Đông sang Tây trong lịch sử nhân loại đều bị cô lập và sau đó bị tiêu diệt.
  • Nhóm người phương Tây bao gồm những sĩ quan, lính đánh thuê, các nhà kĩ thuật, các nhà truyền giáo, thương buôn và hệ thống tình báo của bên truyền giáo.......ngoài ra thế lực người Hoa ở miền Nam nhất là phương diện tài chính và buôn bán.....đã thay đổi cán cân Tây Sơn và Ánh.
  • Tây Sơn chỉ có bên mình 1 đám người mang dòng máu phiêu lưu, dựng nghiệp. Lòng nhiệt huyết, tinh thần quật khởi và tài năng giúp họ vượt qua ranh giới ........Phần lớn họ dựa chính vào nội tại ....thành công lớn nhất là thu phục được tập đoàn cướp Nam Trung Hoa biển phục vụ cho mục tiêu chiến tranh. Tây Sơn giống như 1 con mãnh hổ cô độc.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Tây Sơn lo tìm cách thanh toán bên trong. Đầu tiên là vụ Nguyễn Bảo. Nguyễn Bảo sau trận Quy Nhơn 1793 chỉ còn ăn lộc có huyện Phù Ly. Bị mẹ già nói khích, Bảo ấm ức chờ cơ hội. Lúc đánh ra Quảng Nam, Nguyễn Ánh đã saì người dụ Bảo tập kích Lê Trung. Thế rồi tháng 11 năm Mậu Ngọ (1798), viên Hiếu công Phù Ly này tung quân chiếm Quy Nhơn, Lê Văn Thanh phải bỏ cả quân lính, cạo trọc đầu, ăn mặc rách rưới, trốn chạy lên rừng.

Nguyên do tức thời của biến loạn có lẽ là vì sự khuyến khích của Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường lúc bấy giờ vừa đến đóng ở sông Đà Rằng. Mặt khác cũng vì rối loạn ở Phú Xuân. Trần Quang Diệu vừa bị tước hết quyền bính, Bảo tin rằng tiến quân ra sẽ phối hợp được với quân Lê Trung, người từng chiến đấu bên cạnh Diệu. Nhưng Quang Toản đã kịp thời sai Diệu dụ Lê Trung. Bảo phải rút về cố thủ ở thành Quy Nhơn, sai Đại Đô đốc Đoạn Văn Cát, Đô đốc Nguyễn Văn Thiệu đang đóng ở Hội An (Phú Yên) đưa thư xin hàng Nguyễn Ánh. Chính Quang Toản đích thân vây thành. Cuộc công hãm kết thúc nhanh chóng vì quân trong thành mới là của Quang Toản hôm trước nên đêm lẻn ra chỉ chỗ phòng thủ sơ hở cho bên ngoài. Cứu binh Nguyễn Văn Thành chưa tới kịp thì Nguyễn Bảo đã bị xử theo “tam ban triều điển” rồi. Việc này dẫn theo cái chết của Lê Trung, việc trốn tránh của Lê Chất1 và chắc có ảnh hưởng xa gần tới cái chết của Nguyễn Văn Huấn nữa.

Tuy nhiên quân Nguyễn có muốn thừa thế tiến đánh nữa cũng phải gặp sức phản kháng kịch liệt của Tây Sơn vì đất từ nay họ phải chiếm là nơi phát tích của kẻ thù. Tây Sơn đã tổ chức cả phủ Quy Nhơn thành một đồn binh rộng lớn: dân biến thành lính, mỗi ấp chia thành đội ngũ, ai nấy đều được miễn thuế thân để nức lòng đánh giặc. Truyền thống chiến đấu bừng trỗi dậy gây kính nể cho quân Nguyễn. Mùa xuân 1799, trận chiến Quy Nhơn lại bắt đầu chuẩn bị ở Gia Định. Kho tạm ở Cầu Hin chứa 169.000 vuông gạo từ Gia Định tới hợp với 22.100 vuông gạo, 53.500 vuông lúa, 3.000 cân thuốc đến năm ngoái ở Diên Khánh dành phát cho chiến dịch. Nguyễn Văn Thành đem bộ binh đóng ở Diên Khánh trước.. Hoàng tử Cảnh được lệnh bảo Nguyễn Long giữ chặt Tam Lãnh không để lộ tin tức ra ngoài. Thuỷ binh thì theo Nguyễn Văn Trương.

Tháng 4 âm lịch, Nguyễn Ánh đến Cầu Hin phân phối kẻ giữ người tiến rồi theo thuyền ra cửa Thi Nại. Nguyễn Huỳnh Đức, Võ Tánh đổ bộ đóng ở Phủ Trung; quân Thần Sách qua sông Càn Dương đánh Tây Sơn ở gò Cũ rồi chiếm đóng suối Tre2, đe doạ Thái phủ Lê Văn Ứng. Quân Nguyễn đổ bộ mau như vậy nhờ tình cờ lợi dụng một rối loạn nội bộ của Tây Sơn.

Nguyên Trần Quang Diệu vẫn có mối thù với Lê Văn Ứng về việc Ứng xúi Quang Toản giết Lê Trung nên bàn với Vũ Văn Dũng: “Lê Văn Thanh là phe ta, ta đem binh thuyền vào Thi Nại, mật ước với Thanh nghe súng hiệu ở cửa biển, lừa Ứng rằng quân Gia Định đánh, sai Ứng một mình đến cho ta tập kích bắt”. Diệu tâu với Quang Toản rằng Quy Nhơn là đất căn bản cần phải cho bầy tôi thân tín giữ nên sai Ứng đi. Gặp lúc quân Gia Định ra bắn 3 phát súng, Lê Văn Thanh tưởng binh Diệu, Dũng mới không phòng bị mà sai Ứng đi như đã bàn trước. Không ngờ quân Nguyễn tiến chiếm cả vùng duyên hải, Thanh mới vội vã phân binh với Ứng đón ở Thốc Lốc3, gò Dê.
_______________________________________
1. Chuyện Nguyễn Bảo tổng hợp của Thực lục q10, 16ab, 17b, Liệt truyện q30, 17ab, 46b, 47ab, Hoàng Lê, t.279, 280, thư của Lelabousse cho Giám đốc Nhà Dòng các phái đoàn Truyền giáo, tháng 6-1799, thư khác ngày 24-4-1800 (A.Launay, III, tr.259, 260).
Về nguyên nhân, Hoàng Lê ghi Diệu đưa mật thư bảo Lê Trung phò Bảo. Trung đã kéo quân về đến Quảng Nam “trong ngoài khiếp sợ”. Còn Liệt truyện cho biết nhân dịp Lê Trung vắng mặt ở Qui nhơn, Nguyễn Bảo mới chiếm thành. Có lẽ ở Phú Xuân người ta hoảng lên vì cuộc điều động quân của Nguyên Bảo và Lê Trung chớ chắc Trung chưa có hành động nào rõ rệt là theo Bảo mới dám theo Diệu về ra mắt Quang Toản rồi đi vây Qui Nhơn. Tuy nhiên, thư Lelabousse có câu “(Bảo) profitant de la division qui était entre les grands mandarins”, ta mới có câu kết tạm như trên. Về tên người và diễn biến, Thực lục cho Lê Trung chết ở Thuận Hoá vì Trần Văn Kỷ xúi giục Quang Toản giết. Hoàng Lê cho là vì Thái phủ Màn, và Trung chết ở Qui Nhơn. Liệt truyện cho Trung chết vì Lê Văn Ứng (Thái phủ Màn) dèm pha. Lelabousse không nói đến tên, nhưng nói đến một người bị cách chức rồi bị chết thảm khốc: “chặt 4 chân tay, chém sả đầu, bêu lên, mình đốt ra tro vứt khắp nơi”, là một “chiến tướng có tài, lên chức cao bằng sức mình” - chắc ông chỉ Lê Trung.
Người giữ thành khi Nguyễn Bảo làm loạn, Thực lục ghi Nguyễn Văn Hưng (Phạm Văn Hưng), Hoàng Lê cho là Lê Trung thay Thái bảo Hóa (Nguyễn Văn Huấn) từ khi Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng giảng hoà, Liệt truyện nói Diệu xin Lê Trung giữ Qui Nhơn thay Huấn. Khi Trung dẫn quân về Phú Xuân thì để lại thành cho Uyên Thanh hầu ở lại giúp Bảo, Bảo nghe lời mẹ xúi và tin lời hứa của Nguyễn Ánh “tội cha không bắt đến con” nên mới nổi lên bắt giam Thanh Uyên hầu, chiếm Qui Nhơn. Lelabousse kể chuyện viên trấn thủ ở đó phải cạo đầu chạy trốn trên rừng, rồi sau ra lệnh giết Lê Trung “thay mặt Thượng đế trừng phạt ông này” về tội bắt giáo sĩ(!). Riêng chứng cớ này còn tỏ rằng Trung chết ở Qui Nhơn.
Liệt truyện dùng lẫn lộn Uyên Thanh hầu và Thanh Uyên hầu nhưng chắc cũng chỉ một người, có thể là Lê Văn Thanh, người được Quang Toản cho giữ Qui Nhơn khi dẹp Bảo xong (Tây Sơn cũng từng có 2 tên Hô Hổ hầu và Đô đốc Hô chắc cũng chỉ một người). Chắc Thanh nghe lệnh giết Trung, nhưng vẫn giữ cảm tình đồng liêu, nên che chở cho Lê Chất khi Chất giả chết bị lộ về đầu. Mọi oán thù trút cho Lê Văn Ứng nên Thanh, Diệu, Dũng lập mưu giết Ứng (xem sau) và sau này Lê Chất hàng Nguyễn Ánh mới tìm Ứng đánh đuổi để lịch sử ghi lại cả ở Hoàng Lê lẫn Thực lục.)
2. Trúc Khê của Thực lục, một nhánh của sông La Tinh chảy vào đầm Nước Ngọt.
3.ĐNNTC, tỉnh Bình Định, gọi là “Phúc Lộc”. Chữ của Thực lục là “Ngốc Lộc, Thốc Lộc”. Hình như chính chữ là “Trọc Lóc”.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Cũng như những trận đánh trước, Nguyễn Ánh thừa thế thuỷ quân tiến xa về phía Quảng Ngãi, sai Nguyễn Văn Trương tuần thám ngoài biển, để Lê Văn Duyệt, Nguyễn Đức Thiện đến Tân Quan giữ núi Cung Quăng, Bến Đá, Đoạn Văn Cát giữ núi Thái An, Vĩnh Thuận chặn quân tiếp viện của Diệu, Dũng.

Ghé đầm Nước Ngọt đốt lương, chém Đại đoàn luyện tên Giảng, Lê Văn Duyệt đến Bến Đá cùng dân ứng nghĩa Quảng Ngãi giữ hang Tối Trời, núi Sa Lung có dân Thượng phụ giúp bên trong. Võ Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức tiến đến đồng Cây Cầy đuổi Thiếu uý Trương Tấn Thuý, bắt 13 voi, đuổi theo đến cầu Tân An giết Đô đốc Nguyễn Thực đổi tính mạng Vệ uý Hữu vệ của quân Thần Sách là Tôn Thất Nông. Ở Phú Yên, Tham đốc Nguyễn Văn Điềm hàng Nguyễn Văn Thành.

Chiến thắng làm dao động tinh thần binh tướng Tây Sơn. Bây giờ Lê Chất mới có dịp mang 200 quân ra hàng Võ Tánh cùng với Đại Đô đốc Vũ Đình Giai, Nguyễn Văn Điểm, Đô đốc Lê Văn Niệm, Hồ Văn Viện, Trương Văn Lân, Đô uý Mai Gia Cương, Nguyễn Văn Trí. Quân hàng được theo Nguyễn Huỳnh Đức ở suối Tre đánh giặc.

Lương thực thu tại chỗ, lấy thuế ruộng của dân chưa nạp cho Tây Sơn đem chứa vào kho Nước Mặn. Chính sách đó cũng tiếp tục trong tháng 5 khi Tây Sơn đánh đập Cát, lui toán binh Miên (Xiêm binh). Họ phải mất 20 voi trước thế hợp tác của lính Miên và đội chiến tượng của Nguyễn Đức Xuyên. Dân Tuy Viễn phải theo Nguyễn Văn Thái hàng tướng từ (1793) đánh giặc, ăn lương trong số thuế điền của 3 huyện Tuy Viễn, Phù Ly, Bồng Sơn.

Tháng 6, Nguyễn Văn Thành vượt qua sông Lò Gạch (Đào Lô), chiếm Ưu Đàm để phó tướng Trương Tấn Bảo chiếm An Giá, Đầm Sấu. Nhưng lúc bấy giờ Nguyễn phải lo chống với tiếp viện của Tây Sơn, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng đến Quảng Ngãi nghe Tân Quan bị chiếm bèn bỏ thuyền lên bộ. Diệu đóng ở Bến Đá để Dũng lén đem quân qua suối nhỏ tập kích quân Nguyễn. Sử quan kể rằng quân đi trong đêm có người la “con nai” rồi truyền đi thành “quân Đồng Nai”. Binh rối loạn để Tống Viết Phúc đánh hôi lập được công. Thuỷ quân Gia Định lại thắng tiếp ở cửa Mỹ Á, truy kích đến Sa Kỳ.

Trần Quang Diệu giấu tin thất bại của Dũng, rồi bỏ Bến Đá về đóng ở Thanh Hảo chờ viện binh thuỷ của Trần Viết Kết. Nhưng Tống Phúc Lương phá được Thống binh Phiền Văn Tài coi đám Tề Ngôi ở Kim Bồng, truy kích mãi tận Phú Yên rồi trở lại với Tống Viết Phúc giữ chặt ngoài khơi đầm Mân Khê.

Trên đất liền, Lê Văn Ứng nghe tin viện binh đến bèn đem 6.000 quân cùng 50 voi lên Tây Sơn thượng lấy lương, bị Võ Tánh biết được điều động Nguyễn Văn Thành mang tướng hợp với Nguyễn Đức Xuyên, Lê Chất... đánh tan ở Kha Đáo. Viện binh ngoài không có, lương trong thành thiếu, Tổng quản Lê Văn Thanh, Binh bộ Thượng thư Nguyễn Đại Phác, thiếu uý Trương Tấn Thuý mang 10.300 người ra hàng (tháng 6 âm lịch 1799)1.

Thế là căn bản Tây Sơn đã mất. Nguyễn Quang Toản ở Phú Xuân cũng nôn nóng phải thân cầm binh vào Trà Khúc sai Nội hầu Lê Văn Lợi đem 1.000 quân cùng 20 voi đến đầm Mân Khê. Trần Viết Kết đem 100 thuyền định tràn vào Sa Huỳnh đánh sau lưng Nguyễn Văn Lợi lúc bấy giờ đang cố chống với Lê Văn Lợi. Bị bão đắm thuyền, Kết bỏ quân chạy về Cổ Luỹ. Kinh nghiệm này làm Kết hết sức gàn trở dự định tiến quân đánh nữa của Quang Toản. Kết cục Toản về Phú Xuân, Diệu, Dũng về Quảng Nam, lưu Tiết độ Nguyễn Văn Giáp giữ Trà Khúc.

Nguyễn Ánh mệt mỏi nên cũng không đuổi nữa, chấm dứt chiến tranh trong tháng 8 để lo tổ chức cai trị Quy Nhơn, thu dụng năng lực nhân, vật vùng này.

Trước hết, như đã nói, đất Quy Nhơn đã được Tây Sơn biến thành một đồn quân khổng lồ. Nguyễn Ánh làm chủ mới phải lo thi hành một chính sách nhặt nhiệm khôn khéo. Vì chú trọng đến việc thu phục nhân tâm mà tháng trước đó quần thần đã can ông đừng thu thuế thân là thuế Tây Sơn đã tha cho dân chúng. Tướng Nguyễn Công Hu lên vùng Tây Sơn hiếp gái, lấy của bị đem trị tội ngay. Tiếp theo là việc kiểm soát dân, lính. Ánh sai quân Nguyễn hợp với bọn hàng tướng coi 6 thuộc của 3 huyện Quy Nhơn, phân hàng điểm duyệt 18.900 binh sĩ cũ. Chỉ những người bị thương mới không vào sổ đội ngũ mà thôi. Lại có một sổ riêng cho những người chỉ huy. Khi làm sổ rồi, ai ở đâu yên đấy, dời đổi một ấp, một thôn đều bị tội. Như vậy tạm thời Nguyễn Ánh kiểm soát đám dân binh Tây Sơn khỏi làm loạn. Ông lại còn dùng lợi nhử họ phản bội đồng ngũ cũ: dân Quy Nhơn ai bắt được lính Tây Sơn người Bắc, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Thuận Hoá ẩn trốn trong thôn ấp, ngăn trở họ khỏi mưu chạy về Phú Xuân thì được miễn dao dịch. Ai chứa chấp, biết mà không tố cáo thì bị tội.

Nhưng tinh thần chiến đấu của dân binh nung đúc trong lò Tây Sơn đã làm cho Nguyễn Ánh thán phục. Ông lấy dân ở đây tổ chức thành Ngự lâm quân định lập một đội quân ưu tú nữa sau các đội Thần Sách. Chính sách hơi vội vã khiến có nhiều sơ hở. Sau này khi ra giải cứu Võ Tánh, bọn Ngự lâm quân bỏ chạy rất nhiều để chiến đấu chống đối lại tận lực. Nhưng điều đó không tránh khỏi càng tỏ rõ sự bao dung, sáng suốt của Nguyễn Ánh muốn mở đường cho quân địch về hợp tác, trái hẳn với thái độ hẹp hòi của bọn tuỳ tướng như Tống Viết Phúc chẳng hạn.

Sau khi cải thành Quy Nhơn ra thành Bình Định để tuyên dương công trận, khuyến khích tướng sĩ thấy trước thắng lợi cuối cùng, Nguyễn Ánh lo tổ chức cai trị ở đây, sai Võ Tánh giữ thành với một vạn binh Miên (Xiêm binh) cùng Ngô Tòng Châu, Trịnh Hoài Đức và bọn hàng tướng Lê Chất. Lúc Nguyễn Ánh đang chuẩn bị về Gia Định thì Bá-đa-lộc chết ở Mỹ Cang2. Ánh rất thành thực khi phong tước Quận công cho Giám mục, sai người đến đọc điếu văn. Sử quan nhân dịp này cũng nhắc việc Bá-đa-lộc “tận tâm giúp đỡ” Đông cung Cảnh hồi đi Tây. Nhưng cái chết của ông xảy ra vào lúc Nguyễn Ánh thắng mạnh ở cội gốc Tây Sơn đã chấm dứt một quá khứ nhờ cậy, kêu xin. Vấn đề chính trị quan trọng còn lại chỉ là thái độ đối với tướng cũ Tây Sơn mà thôi.
_______________________________________
1. Các giáo sĩ cho biết thành có 40.000 quân tinh nhuệ ra hàng với vũ khí và 120 chiến tượng (A.Launay, III, t.292).
2. Nhà thờ này ở làng Mỹ Cang quận Tuy Phước (Bình Định)
 

Ksxdcd

Xe điện
Biển số
OF-67951
Ngày cấp bằng
8/7/10
Số km
2,293
Động cơ
455,038 Mã lực
  • Dưới thời Nhạc thì quân Tây Sơn vẫn là quân tình nguyện vẫn có lương nhưng không đáng. Quân phục không có, lính chủ yếu từ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Quân Tây Sơn thiếu thốn,vá víu, lúng túng tìm hướng đi. Quân Tây Sơn vào Nam cách 700-1000km để đóng ở vùng đất lạ, mang tính cách giang hồ, hào kiệt đi chinh phục miền đất mới. Quân Tây Sơn vào Nam là để tìm đầu vào lương thực.
  • Tổng quân số Tây Sơn lúc này khá thấp vì là tình nguyện và không có tiền để nuôi. Không có con số chính xác tổng lực lượng Tây Sơn vào năm 1777, tùy từng đợt vào Nam nhưng vào đông nhất là 10000 lúc đánh với Xiêm. Đánh xong miền Nam thì Tây Sơn thường để lại 3000 quân quản lý toàn bộ khu vực phía Nam
Em ngạc nhiên là tại sao mấy lần Tây sơn đã chiếm Sài gòn Gia định nhưng lại rút về và chỉ để lại 1 lực lượng nhỏ dân đến bị quân Nguyên Ánh chiếm lại dex dàng.
Đất Tây sơn khì khó khăn - tại sao không để đại quan lại Gia định tiêu diệt gốc rễ quân của Ng Ánh và khái phá, khai thác vùng đất trù phú của NAm bộ?
Ng Nhạc nói có trí lớn muốn lấy hết đất của Chân lạp, đánh cả Xiêm nhưng lại chỉ bo bo giữ mỗi cái thành Qui nhơn - Đồ bàn thôi thì quá thiển cận !
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
  • Đừng nhìn Nguyễn Nhạc dưới góc 1 vị vua như là thiên tử mà đơn giản là thủ lĩnh của quân nổi dậy như các anh hùng Lương Sơn Bạc. Lúc Nhạc khởi nghiệp đâu phải chỉ 1 mình còn nhiều thế lực khác : chỉ là đệ nhất trại chủ còn có đệ nhị, đệ tam trại chủ, chưa kể còn Tập Đình và Lý Tài.......đến bây giờ vẫn còn tranh cãi Nguyễn Thung hay Nhạc đã hạ thành Quy Nhơn. Ngoài ra còn có Châu Văn Tiếp liên kết với người Thượng ở Phú Yên.
  • Tuy nhiên, sau khi lấy thành Quy Nhơn nhờ khả năng ngoại giao liên kết với Tập Đình-Lý Tài cộng với khả năng cầm quân trận mạc Nhạc đã loại dần vai trò của Nguyễn Thung-Huyền Khê. Dưới sự cai trị của Nho giáo trong lịch sử phương Đông chưa có 1 lực lượng người dân nước nào có khả năng chống lại triều đình.......chỉ duy nhất : Tây Sơn. Đình đám cơ Lương Sơn Bạc cuối cùng cũng quy phục triều đình.
  • Dân đinh Quảng Nam, Quảng Ngải, Bình định khoảng trên 30000 mà ko phải ai cũng tình nguyện nhưng thực sự cái khó của Tây Sơn cũng như tất cả các cuộc khởi nghĩa người dân là thiếu tiền....lấy gì mà nuôi 30000 quân. Quân số của Tây Sơn ko thể rải khắp miền Nam để kiểm soát dân. Trong Nho giáo thì Tây Sơn là giặc nên lòng dân miền Nam ngóng chúa Nguyễn........Nguyễn Ánh đi đến đâu thì có các thương gia người Hoa, giáo sĩ, thương buôn ...giúp đỡ. Chỉ cần Ánh chạy thoát thì hôm sau có liền hàng ngàn quân theo..........nếu Ánh ko chết thì trước sau gì Tây Sơn cũng bị diệt.
  • Tây Sơn hùng dũng lần mò trong mớ Nho giáo tìm kiếm hướng đi........đi đến đâu biết đến đó.......ko thể đòi hỏi Tây Sơn có kiến thức thế kỉ 22 được.
  • Tây Sơn nhiều lúc đã bình định xong miền Nam và Ánh đã ở Xiêm...nhưng nếu muốn xây dựng thể chế ở miền Nam thì cần phải ít nhất 20 năm : Nhạc ko có thời gian....về sau các tướng của Nhạc theo Huệ và lúc ấy kỹ thuật quân sự của Ánh đã vượt trội Nhạc và Huệ.
  • Nói chung : Nhạc ko có lực để khống chế miền Nam
 

hoangtung36

Xe điện
Biển số
OF-195201
Ngày cấp bằng
22/5/13
Số km
2,430
Động cơ
348,932 Mã lực
Nơi ở
Gara Tiên Phong - Ngõ 85 Láng Hạ
Ý tưởng chỉ dẫn đành rằng khá tiến bộ nhưng cũng cho ta thấy tính cách vụn vặt, tản mát của phương pháp. Nhất là chủ đích luân lý trong sự biên chép còn đè nặng ở đây: “người lành người ác, chuyện lạ chuyện hay mà có báo ứng từ trước đến nay”. Quan điểm của sách Xuân Thu đó chi phối rất nhiều các nhà viết sử xưa từ sử quan của triều đình tới những nhà nho sáng tác riêng tư nhưng vẫn có ý định dùng lịch sử làm gương đạo đức cho người đời. Thế rồi đứng trước sự thử thách của thực tế, giáo lý trung trinh của họ bị lung lay, khiến họ phải lúng túng. Kẻ theo thì tán tụng triều mới nhưng còn nhớ triều cũ, kẻ chống lại vì đã trót làm tôi một ông chúa nhưng cũng thấy đối phương có nhiều khả năng...

Tuy nhiên trở ngại vẫn không hẳn là giới hạn của quan niệm đạo đức lúng túng đó. Tài liệu đòi hỏi được giải thích. Và lịch sử là sự hiểu thấu tài liệu của sử gia. Điều này lại còn tăng tiến và tuỳ thuộc theo với kiến thức, khuôn mẫu tư tưởng mà người đọc sách chịu thu nhận. Chính vì lẽ đó, lịch sử triều Tây Sơn với các sử quan phải chịu tuỳ thuộc vào hành động của Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Dương, Phúc Ánh. Vậy mà dưới ảnh hưởng của các thuyết cách mạng Tây phương và những biến động mới đây, nó đã trở thành một triều đại với Trần Trọng Kim, rồi bỏ chữ “triều đại” còn mang dấu tích phong kiến, nó trở thành lịch sử một cuộc cách mạng, để nhân tiện tác giả quyển sách đặt chen vào đó những ý tưởng chính trị giai đoạn bây giờ1.

Vì lẽ đó, tuy sử quan trong Thực lục kể chuyện quan chức thuyên chuyển lòng thòng, chép việc chính trị, quân sự nhiều, ta vẫn có thể tìm được ở đấy những ý nghĩa kinh tế, văn hoá. Qua sự sắp đặt cai trị Ba Thắc, Trà Vinh, ban đầu Nguyễn Ánh giết tù trưởng phản kháng Ốc-nha Ốc, cai trị bằng quân tướng rồi rút lui đi để “phiên liêu” Gia- tri-giáp coi sóc, dẹp loạn rồi cho họ tự trị một phần qua chính quân đội, một phần qua đám người Trung Hoa ngụ cư, chúng ta biết được mối tăng tiến tiếp xúc của các nhóm chủng tộc, trình tự Việt hoá của các nhóm thiểu số vùng Hậu Giang (tiết 14). Qua vụ định cư lưu dân Phú Yên, Bình Thuận ở Gia Định, ta biết được chênh mực kinh tế giữa 2 vùng thù nghịch...

Có những giải thích phải được chứng thực thêm khi phối hợp với những tài liệu Tây phương để có tầm ảnh hưởng quan trọng hơn. Tài liệu thuộc loại này gồm một phần là những hình ảnh, đồ bản... của người Tây phương về những nhân vật đương thời, ghi bằng những con số chính xác các vị trí sông biển trong xứ. Nhờ có thói quen làm việc đúng đắn của họ, ta biết được hình ảnh trung thực của cậu bé Hoàng tử Cảnh non trẻ mà vẫn làm dáng oai nghiêm, khuôn mặt một Nguyễn Phúc Ánh rắn rỏi rõ ra của một vị vua từng trải phong sương, khuôn mặt một Bá-đa-lộc đầy tự tin và đáng chú ý vì hoàn cảnh hơi khác lạ là hình dáng một Chaigneau có vẻ Việt Nam hẳn đi với chiếc khăn quấn đầu, bộ áo quần rộng nhiều nếp, thắt chẽn ngang lưng và chân quấn xà cạp, đi đất. Ta thấy được các bản đồ vụng về vẽ của Thi Nại, cửa Thuận An của L. Barizy kề bên các bản đồ khá chính xác do J.M. Dayot cung cấp tài liệu. Một sự phối hợp nhỏ bé của các tài liệu ta và Tây xuất hiện trong đồ bản thành Diên Khánh có hình thức một công sự Vauban mà bên góc lại ghi 4 chữ Hán “Diên Khánh đại đồn”.

Vì sự có mặt của giáo sĩ ở khắp nơi, của những nhà buôn, lính tráng Tây phương trên đất nước này mà chúng ta có thêm một lô những tài liệu gồm những bức thư kể cho nhau nghe về tình hình trong, ngoài nước, nhận xét của họ về những nhà cầm quyền bản xứ, về tương quan giao tiếp giữa chính quyền, dân chúng bản xứ và người ngoại quốc. Các giáo sĩ Phăng-xi-cô: Diego de Jumilla, J.M. de Castuera, Ginestar..., thương nhân Chapman... đã làm nhân chứng cho những ngày đầu Tây Sơn khởi nghĩa, những ngày lao đao của Duệ Tông, rồi những ngày đầu phục hưng của Nguyễn Ánh. Các giáo sĩ De Gire, Serard, Ceram... ở vùng Trịnh, Labartette, Doussain ở vùng Tây Sơn, Lelabousse, Lavoué, J. Liot - không cần kể tới Pigneau - và các tướng Olivier, J.M. Dayot, L. Barizy... ở vùng Nguyễn đều làm đầy đủ nhiệm vụ quan sát với thói quen đòi hỏi tính cách xác thực và với sự tò mò được kích thích thêm vì thấy gì chung quanh cũng lạ, cũng mới. Giá trị chứng nhân được ghi nhận ngay lúc đương thời: Nguyễn Ánh sai Olivier viết thư cho người đại diện các phái đoàn Truyền giáo là Letondal ở Macao đã lâu để xin dò xét về chi tiết cuộc giao thiệp hoà bình hay chiến tranh giữa Tây Sơn và nhà Thanh vì những tài liệu do ông này cung cấp thì “chắc chắn hơn từ những nơi khác đưa đến”.

Chuyện họ ghi lại thường nhiều chi tiết. Điều đó có một phần là do họ có những tiếp xúc cá nhân trong những vụ liên quan đến họ. Lelabousse, Pigneau, Lavoué... ghi rất rõ hành vi, cử chỉ của Hoàng tử Cảnh lúc mới về, thay đổi như thế nào lúc lớn lên và sự xung đột giáo sĩ - nho sĩ trong triều một cách tỉ mỉ, chân xác trong khi sử quan chỉ nhắc nhở bên lề vụ chống tăng chúng rằng: “Nghe Ngô Tòng Châu bài bác tả đạo, Bá-đa-lộc cũng ghét”, hay vụ Tống Viết Phước bị cách chức vì thường “hay nói hỗn với Bá-đa-lộc” nhưng quên luôn ý định cải giáo của Hoàng tử.

Sự tỉ mỉ còn từ quan điểm nhận xét của nhân chứng nữa. Ta thấy sử quan cũng đã tỉ mỉ trong việc liệt kê quan tước, thuyên chuyển chức vụ, chăm chú trong khi ghi chép lời vàng ngọc của vua họ. Trong khi đó, L.M. Jumilla tỉ mỉ khi kể cuộc khởi loạn, không lưu ý đến chính, nguỵ, Chapman cho thấy tình trạng lúng túng của nền kinh tế Tây Sơn qua sự vuốt ve thương nhân này của Nguyễn Nhạc, qua cảnh tàn phá ở Hội An kéo theo sự biến mất lớp người Hoa làm trung gian buôn bán với bên ngoài. Các giáo sĩ vùng Trịnh khiến chúng ta lưu ý đến một tầng lớp thương nhân các lái ở Thanh, Nghệ, xứ “cậy thế, cậy thần”, vạch rõ sự cấu kết của một thứ thương ban không chính thức với văn, vũ, giám ban của họ Trịnh.

Nhưng không phải những tài liệu này không có khuyết điểm. Những khuyết điểm này chính là bề trái của điều mà ta khen là ưu điểm. Đứng ngoài một khuôn mẫu văn hoá, người Tây phương có những nhận xét khách quan, nhưng đồng thời, họ cũng bị bó trong những thành kiến sinh ra vì giáo dục đã hấp thụ được, nên những thiên lệch trong phán đoán lại xảy ra. giống như bề tôi Tây Sơn khinh bỉ gọi người Tây phương là “những xác chết trôi từ biển Bắc xuống”, các giáo sĩ cũng chê trách những tay phù thuỷ, gọi đạo Phật là “đạo Thần tượng”, lễ Văn Miếu, tục thờ cúng tổ tiên là “dị đoan, mê tín”. Họ không ngớt lời dài dòng ca tụng một ông Hoàng hứa cải giáo, một ông Giám quân tỏ thiện ý với Bá-đa-lộc trong khi họ đả kích mạnh những nho sĩ chống đối lại họ là những Sa tăng tranh đấu vì tước vị, quyền lợi mà không thấy trong đó một chống đối vì lý tưởng, vì ý thức hệ. Đó là chưa kể họ cũng theo thời mà gọi Tây Sơn là “bọn phản loạn”, “bọn vô đạo”, “tên bạo chúa”...

Một khuyết điểm nữa cũng do nơi tính cách ngoại quốc của họ. Họ quan sát, ghi trung thành sự việc - tuy qua lăng kính văn hoá của họ - kiểm điểm được ngày tháng chính xác mà không làm sao ghi đúng được tên người, tên xứ nên có khi bỏ luôn không thèm nói tới. May mắn là khi nhắc về một người có thành tích, họ chỉ tên bằng cách nói vòng quanh đến công việc của những người này nên ta cũng dễ biết: ví dụ như khi L. Barizy nói đến một ông Giám quân từng qua Pháp (Phạm Văn Nhân), ông tướng thuỷ quân trước kia theo Tây Sơn (Nguyễn Văn Trương). Còn ngoài ra là những tên người kỳ quái: Ou doi be, Hoe Hanh Loie, Noe Hau Loée, Dou Doue Cane, Bahaa, les Sang leys (lính của Lý Tài), những tên đất tức cười: Dou hau, Choya, ong Datte, cua Heo...

Để chỉ định người, vật họ đã dùng những chữ không tương đương vì thế có nghĩa hoặc thiếu sót, hoặc dư thừa. Những người Pháp dùng chữ “oncle maternel du roi” để chỉ một viên tướng tài ba của Tây Sơn (ta đoán là Trần Quang Diệu) mà không lưu ý rằng với sự minh định quá tỉ mỉ trong tông tộc Việt Nam xưa, chữ đó có thể chỉ từ Bùi Đắc Tuyên sang Phạm Văn Sâm, Phạm Văn Hưng đến Trần Quang Diệu, ông dượng của Cảnh Thịnh (bà con qua Bùi Thị Xuân, nếu có thể gọi là bà con vì Bùi Đắc Tuyên là anh em cùng cha khác mẹ với Phạm Hoàng hậu, mẹ Cảnh Thịnh). Thấy những tên to lớn “Tây dương dạng thuyền”, “Đại hiệu thuyền”, “Hải đạo thuyền”, sử quan dùng mà không tả ra, ta muốn tìm ở các tài liệu Tây phương để rõ hơn thực lực thuỷ quân Nguyễn Ánh, thì lại không khỏi ngơ ngẩn trước các tên: frégate, corvette, chaloupe canonière, demi-canonière... lẫn lộn với Thao, ghequienne... trong các bức thư.

Nho sĩ và Tây nhân thường không chú ý lắm hoặc ghi sót những câu ca dao, truyền thuyết của dân chúng. Có khi loại tài liệu này xuất hiện dưới hình thức những sấm ký có mục đích “tuyên truyền chính trị”, nói theo lối bây giờ. Chẳng hạn như câu:

Đầu cha lấy làm chân con,
Mười bốn năm tròn, hết kiếp thì thôi.


Hay:
Cha nhỏ đầu, con nhỏ chân,
Đến năm Nhâm Tuất (1802) thì thân chẳng còn.

[Chữ “tiểu” trên đầu chữ “quang” (trung) xuất hiện dưới chữ “cảnh” (thịnh)].

Có khi là một ước mơ thốt nên lời, chứng tỏ được chuyển biến tâm lý trong dân chúng:
Đục cùn thì giữ lấy tông (tên Trịnh Khải),
Đục long, cán (Trịnh Cán) gẫy còn mong nỗi gì.

Có khi là lời ghi nhận sự kiện, một sử sự ngắn, trống trơn hoặc bao gồm cả nguyên nhân, kết quả:
- Binh Triều: Binh Quốc phó; Binh ó: Binh Hoàng tôn.
- Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần.
- Sự này chỉ tại Bà Chè (Đặng Thị Huệ),
Cho Chúa mất nước, cho nghè làng xiêu.
____________________________________________
1. Văn Tân, “Cách mạng Tây Sơn”, Hà Nội. Văn Sử Địa xuất bản, 1957
Hay quá, em đánh dấu đọc dần :) cảm ơn cụ chủ nhiều
 

DEAM

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-465244
Ngày cấp bằng
25/10/16
Số km
488
Động cơ
205,136 Mã lực
Nơi ở
Alaska
Chủ đề hay
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Sự đóng góp của giám mục Pigneau De Béhaine vào công cuộc cải cách ở Gia Định
This entry was posted on Tháng Chín 1, 2017, in Lịch sử Việt Nam and tagged bá đa lộc, Bồ Ðào Nha, chúa Nguyễn, gia định, Hoà Lan, nguyễn ánh, nguyễn duy chính, Pigneau de Béhaine, tây ban nha. Bookmark the permalink. Bạn nghĩ gì về bài viết này?




Nguyễn Duy Chính

LỜI MỞ ÐẦU

Trong chiều hướng đưa ra một lời giải thích cho thời kỳ tranh hùng cuối thế kỷ XVIII giữa hai thế lực Tây Sơn và chúa Nguyễn, nhiều sử gia cận đại đã đồng hóa những giáo sĩ với các thế lực ngầm khuynh loát trong các âm mưu chính trị. Quan điểm này còn nhiều điểm cần đánh giá lại. Tuy không thể phủ nhận những thừa sai có ý định khai thác ảnh hưởng với chính quyền để truyền đạo nhưng ngược lại nhà cầm quyền cũng lắm phen sử dụng họ vào những mục tiêu quân sự.



Mọi việc không đơn giản khi chúng ta lại tìm ra những chứng cớ chúa Nguyễn và đồng minh thân cận nhất của ông là giám mục Pigneau de Béhaine [1741-1799] – thường được biết dưới tên Hán dịch là Bá Ða Lộc – đã bôn ba cầu viện không phải một thế lực mà gõ cửa rất nhiều nơi, lân bang cũng có, các nước Tây phương như Anh, Bồ Ðào Nha, Tây Ban Nha, Hoà Lan, Pháp … cũng có. Vai trò độc đáo của chúa Nguyễn khiến cho nhiều thế lực công khai đầu tư vào ông như một hình thức buôn vua đủ biết chính chúa Nguyễn cũng có những hình thức tự vận động rất đáng kể. Tuy ông được người Xiêm giúp đỡ trong một số trường hợp nhưng không phải không có lúc lâm nguy một khi chính ông lại trở thành một mầm hoạ đáng quan ngại cho chính họ.

Cuối thế kỷ XIX, khi người Pháp dùng võ lực chiếm Việt Nam họ đã nỗ lực đề cao vai trò của Bá Ða Lộc và các giáo dân trong khuynh hướng làm nổi bật sự đóng góp vào công cuộc trung hưng của nhà Nguyễn – biến ông thành một “điệp viên chính trị” đi tìm cơ hội bành trướng thuộc địa nên đã trở thành mục tiêu tấn công của một số người có tinh thần cực đoan chính trị hay tôn giáo.

Sau khi hoàn thành việc thống trị toàn cõi Ðông Dương, một pho tượng cao gần 3 thước tạc giám mục Pigneau de Béhaine, một tay dắt hoàng tử Cảnh, một tay đưa ra bản hiệp ước Versailles 1787 được nhà cầm quyền Pháp dựng lên ngay trước nhà thờ Sài gòn trong một đại lễ năm 1901.[1] (1)

Khi tường thuật về vai trò của Pigneau de Béhaine, các tác giả Tây phương thường nhấn mạnh vào việc ông xả thân cứu chúa Nguyễn khi còn đang bôn đào nhất là được tin cậy để cầm quốc ấn và đưa hoàng tử Cảnh qua Pháp cầu viện rồi trở về Gia Ðịnh với một số chiến thuyền, thủy thủ, súng ống. Người ta cũng nhắc đến vai trò của ông trong những chiến dịch đánh với Tây Sơn trước khi ông qua đời nhưng lại đề cập rất giản lược vai trò trung gian trong du nhập kỹ thuật và văn hóa vào nước ta, coi như một chuyện bình thường. Chính vì thế vị thừa sai chỉ được coi như một kẻ chủ mưu đáng lên án và những người ngoại quốc đến giúp chúa Nguyễn cũng chỉ coi như một số lính đánh thuê vì mục tiêu danh lợi chứ không phải là những cố vấn đóng góp vào việc xây dựng một quốc gia theo kiểu mẫu Tây phương.

CON NGƯỜI BÁ ÐA LỘC

Cho đến nay, khi viết về giám mục Pigneau de Béhaine [1741-1799], tức Evêque d’Adran, hay Bá Ða Lộc, mỗi sử gia có một nhận định, đôi khi hoàn toàn trái ngược. Một số nhà biên khảo kết án giám mục Pigneau có đầu óc thực dân đã mở đường cho cuộc xâm lăng của Pháp nhưng một số khác lại cho rằng ông thuần tuý là một nhà tu, những việc ông giúp chúa Nguyễn ngoài tình bạn cũng chỉ nhằm mục tiêu được dễ dàng hơn trong việc truyền giáo sau này.

Tiểu sử của ông chép trong Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện quyển XXVIII là quyển chép về những người nước ngoài theo giúp chúa Nguyễn như Hà Hỉ Văn, người Trung Hoa [một dư đảng Thiên Ðịa Hội], Nguyễn Văn Tồn, người Cao Miên, Hà Công Thái, người Mường, Bá Ða Lộc, người Pháp và Vĩnh Ma Ly, người Xiêm.[2] (2)

Nói chung, tuy Bá Ða Lộc có công lớn nhưng sử triều Nguyễn chép về ông lại khá sơ sài, có vẻ muốn cho lu mờ để nâng cao vai trò sáng nghiệp của Nguyễn Ánh. Tuy nhiên, nếu đánh giá cho khách quan và dù mục tiêu đích thực của ông là gì chăng nữa, Bá Ða Lộc quả đóng góp rất lớn trong việc phục quốc của chúa Nguyễn.

Khác hẳn với lối nhìn của Á Ðông khi đưa ra mẫu người “quân sư” mưu trí “ngồi trong trướng mà quyết thắng chuyện ngoài ngàn dặm”, giám mục Pigneau hành động giống như những cố vấn Tây phương gần đây, đưa ý kiến đồng thời phân tích lợi hại để chúa Nguyễn chọn lựa giải pháp chứ không ép buộc hay đòi hỏi kế hoạch của mình phải được thực hiện triệt để. Nhiều lý do khiến chúng ta có thể tin rằng những mâu thuẫn hay xung đột với vị giáo sĩ nếu có thường bắt nguồn từ tính đa nghi của Nguyễn Ánh và sự ghen ghét của những cận thần.

Cũng vì thế tuy Bá Đa Lộc qua đời khá đột ngột, sự nghiệp của chúa Nguyễn không bị bế tắc như Lưu Bị mất Khổng Minh. Cái chết của giám mục Pigneau gần như không ảnh hưởng gì đến thế lực của chúa Nguyễn lúc bấy giờ và người thừa sai đã hoàn tất vai trò đầu cầu trung gian, tạo điều kiện để Nguyễn Ánh tiếp thu được văn minh Âu Châu làm nền tảng cho những cải cách. Ðối chiếu với phát triển thực tế, những thay đổi mạnh mẽ về tổ chức và kỹ thuật là những nhân tố cốt yếu giúp chúa Nguyễn thành công.



Nếu không có Bá Ða Lộc, chúa Nguyễn sẽ không thể đột phá được những bế tắc của khu vực và rất khó tồn tại khi lực lượng của Gia Định so với anh em Tây Sơn quả là kém thế. Thắng lợi của Nguyển Ánh đã khiến cho cả Xiêm lẫn Pháp đều cho rằng vai trò của mình quan trọng hơn nhưng thực tình mà nói, Xiêm La cho ông nương thân khi còn hàn vi nhưng giúp đỡ cũng có giới hạn, một phần vì họ còn nhiều việc phải lo, phần khác cũng không thực tâm muốn Việt Nam sẽ trở thành một nước láng giềng nguy hiểm. Ngược lại, giám mục Bá Ða Lộc có quyết tâm giúp chúa Nguyễn vì mục tiêu lâu dài trong công tác truyền giáo ở Á Ðông và có thể ảnh hưởng từ chủ trương của một số người đi trước. Việc ông đưa bán đảo Tourane vào trong nhượng địa mà chúa Nguyễn sẽ phải nhường cho Pháp cho thấy ông đã đồng tình với Poivre [một nhà truyền giáo sau đổi sang nghề con buôn] về khởi đầu một chủ trương can thiệp sâu hơn vào bán đảo Ðông Dương nhưng cũng có thể chỉ là một đổi chác thường tình. Nếu so sánh với những ưu đãi mà Nguyễn Nhạc đề nghị với Chapman[3] (3) khi đòi mua khí giới và nhờ người Anh giúp đỡ thì thái độ của chúa Nguyễn còn dè dặt hơn và cũng không đáng kết án một cách nghiệt ngã.

Một điều chắc chắn, chúa Nguyễn không bị ai dẫn dắt theo đường lối của họ mà chỉ tham khảo rồi có quyết định tối hậu, dẫu rằng khi đúng, khi sai. Ông là kiến trúc sư trong việc xây dựng mô hình quốc gia và cũng là vị tham mưu trưởng trong mọi chiến dịch lớn.

VIỆC CẢI CÁCH Ở GIA ÐỊNH

Trong bài này chúng tôi lược bỏ phần giám mục Adran đưa hoàng tử Cảnh sang Pháp để cầu viện và ký với bá tước de Montmorin [khi đó là ngoại trưởng nước Pháp thời vua Louis XVI] một bản hiệp ước gọi là hiệp ước Versailles (1787). Vì nhiều lý do, hiệp ước này không thi hành được nên giám mục Bá Ða Lộc phải xuất tiền ra chiêu mộ binh sĩ và mua chiến thuyền đem về Gia Ðịnh năm 1789. Những chi tiết cụ thể về chuyến đi này có thể tìm thấy trong những biên khảo về công cuộc khôi phục của vương triều Nguyễn, đặc biệt là tiểu sử của Bá Ða Lộc trong Mgr Pigneau de Behaine, Évêque d’Adran của Alexis Faure (Paris, 1891).



Nguồn kiến thức dùng trong cải cách

Theo hai tác giả đến Ðàng Trong trong những thời điểm mà ảnh hưởng và vai trò của giám mục Adran còn hiện hữu, chúng ta biết được một số chi tiết sử triều Nguyễn đã không nhắc đến khiến vai trò của vị thừa sai mờ nhạt hơn nhưng thực ra công lao của ông là những trọng điểm đưa đến sự thành công của vua Gia Long sau này.

Trong A Voyage to Cochin China [John Barrow, 1806], tác giả người Anh ghi lại những điều mắt thấy tai nghe ở Ðàng Trong khi Barrow cùng phái bộ Macartney có dịp ghé ngang nước ta trên đường sang Trung Hoa năm 1792.

Gần 30 năm sau [1819] John White, một thương gia người Mỹ trong một tác phẩm cùng tên [A Voyage to Cochin China, 1824] ghi lại những gì ông ta thấy ở Gia Ðịnh giúp chúng ta kiểm chứng được những gì đã thực sự hiện hữu 30 năm trước.

Theo Barrow, khi tìm hiểu bản dịch bộ Encyclopedie của giám mục Pigneau de Béhaine, Nguyễn Ánh đặc biệt quan tâm về hai phương diện: hàng hải và đóng thuyền(navigation and ship-building).[4] (4)

Chi tiết này quan trọng và cho chúng ta thấy giám mục Adran đã trao lại cho chúa Nguyễn kiến thức khoa học và quân sự Tây phương thông qua một số đề tài thích đáng trong bộ bách khoa vì đó là nguồn tài liệu tương đối cập nhật và chính xác, đại diện cho văn minh Âu châu thời đó. Một số thành quả khác do những người đi cùng với Pigneau de Béhaine đến Ðàng Trong còn được ghi lại trên giấy trắng mực đen, chẳng hạn như Victor Olivier là tổng công trình sư (chief engineer) xây thành Gia Ðịnh và Le Brun được coi như đại kế hoạch gia (principal architect-planner) của Saigon khi đó. Ðây là mô hình thiết kế đô thị (urban planning) theo khuôn mẫu Tây phương sớm sủa nhất ở khu vực Ðông Nam Á thời bấy giờ.

Một vai trò quan trọng khác cũng ít được nhắc đến là việc Pigneau de Béhaine đã thực hiện công tác phiên dịch các tài liệu kỹ thuật Tây phương sang chữ Hán [và có thể cả tiếng Nôm hay quốc ngữ] để chúa Nguyễn và ban tham mưu có ý niệm và hiểu biết về văn minh cơ khí trong một giai đoạn còn manh nha, đi trước tất cả mọi nơi khác trong khu vực. Công lao của ông riêng trong lãnh vực phiên dịch cũng đã là một đóng góp to lớn cho việc khai sinh ra vương quốc Ðồng Nai.



Giám mục Pigneau vốn là một chuyên gia ngôn ngữ, đã đóng góp chính yếu trong việc hoàn thành bộ từ điển Annamite-Latin [Dictionarium Anamitico-Latinum] vào khoảng 1772-3, được giám mục Jean-Louis Taberd bổ túc và ấn hành năm 1835. Ông cũng thông thạo tiếng Việt và am hiểu chữ Hán, chữ Nôm nên có lẽ ông đã dùng thì giờ khi đi trên tàu từ Pháp về Gia Ðịnh để tìm hiểu, chọn lựa và phiên dịch những gì ông thấy rằng cần thiết cho chúa Nguyễn.

Cũng nên thêm rằng, bộ bách khoa đại từ điển không phải chỉ thuần túy là chữ mà có rất nhiều hình vẽ được in theo lối đồng bản họa (copper plate printing) nên chúa Nguyễn cũng có thể tìm hiểu nguyên bản, xem hình ảnh. Không thấy tài liệu nào nói Nguyễn Ánh có biết chữ viết theo mẫu tự Latin hay không nhưng Rei, một thương gia người Pháp có đề cập đến thái tử Ðảm biết viết chữ quốc ngữ.[5] (5) Trong những lá thư của các thừa sai gửi về giáo hội hay liên lạc với nhau, thỉnh thoảng chúng ta cũng thấy kèm theo một số từ ngữ Việt viết theo lối mẫu tự Latin.

Do đó, muốn tìm hiểu xem chúa Nguyễn đã học hỏi được gì về kỹ thuật của Tây phương – một phần chìm mà sử sách không đề cập đến nhiều – chúng ta phải đi sâu vào nguồn kiến thức, nếu không có nguyên bản bộ sách mà giám mục Adran đã dùng thì ít ra cũng phải qua sách vở cùng thời kỳ để dựng lại một quá trình học hỏi và ứng dụng trong việc canh tân tổ chức hành chánh và quân sự.

Chúng ta cũng có thể xem những miêu tả, qua bản đồ, hình ảnh của những người có mặt ở Ðàng Trong thời kỳ đó để ít nhiều biết được ảnh hưởng Tây phương như thế nào, hay những gì mà sinh hoạt truyền thống chưa hiện hữu. Trước đây khi đề cập đến thắng lợi của chúa Nguyễn, các sử gia thường chỉ nhấn mạnh vào sự tiếp sức của người Pháp qua viện trợ súng đạn và số tướng sĩ đi theo giám mục Adran sang giúp mà thường không nhắc đến những định chế tổ chức và mô hình hành chánh là nền tảng giúp cho cải cách có cơ hội phát triển.

Về bộ Encyclopedie mà giám mục Pigneau de Béhaine có thể tìm được trong khoảng tháng 2 đến 12-1787 là thời gian ông và hoàng tử Cảnh ở Pháp thì chỉ có bộ Encyclopédie của Denis Diderot, ấn hành trong khoảng từ 1751-1766 mà bộ này cũng chỉ dịch lại từ bộ Cyclopaedia của Anh ấn hành năm 1728. Tuy nhiên bộ Encyclopédie của Diderot khó có thể kiếm được tại Paris sau 21 năm xuất bản, nhất là bộ này có nhiều chi tiết bị coi là trái với đường lối của giáo hội (heretical).

Bộ đại từ điển dễ kiếm hơn trong thời gian đó có lẽ là bộ Encyclopedia Britannica ấn bản đầu tiên in từ năm 1768 đến 1771 [gồm 3 quyển, 2391 trang, với 160 trang đồng bản hoạ] hay lần thứ hai năm 1784 được cải biên có thêm phần lịch sử, địa lý và tiểu sử các danh nhân thế giới [tổng cộng 10 quyển, 8,595 trang và 340 trang hình vẽ].[6](6) Do đó, muốn tìm hiểu những kiến thức và kỹ thuật mà giám mục Bá Ða Lộc mang từ Tây phương truyền đạt cho chúa Nguyễn, chúng ta không thể không tìm hiểu về những sở đắc cụ thể hiện hữu trong bộ sách này.

 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
TỔNG QUÁT

Từ những kiến thức mang tính thời đại, chúng ta có thể dựng lại những mô hình gần nhất với kiến thức khoa học quân sự từ bốn mục quan trọng là kỹ thuật xây thành(fortification), kỹ thuật hàng hải (navigation), kỹ thuật chế tạo súng (gunnery) và kỹ thuật đóng tàu (ship building) để đối chiếu với những gì được thực hiện ở Ðàng Trong trong khoảng từ 1789 đến 1799 là thời gian Bá Ða Lộc cộng tác mật thiết với Nguyễn Ánh. Ngoài ra chúng ta cũng không thể quên được những dự án về xây dựng đô thị (urban planning) rất mới mẻ so sánh với những thành phố khác trên bán đảo Ðông Dương. Thành phố Saigon vào cuối thế kỷ XVIII là một mô hình Tây phương, ngoài thành trì là căn cứ quân sự còn có những đường sá thẳng và rộng được trắc địa theo ô vuông, có những khu vực trại lính, kho gạo, xưởng đóng tàu, lò đúc súng và cả một nghĩa địa riêng biệt thay vì bạ đâu chôn đó như tập quán của người Á Ðông.

Chúng ta cũng không thể bỏ qua mô hình hành chánh vì đó là nền tảng cơ sở để có thể ứng dụng những kỹ thuật mới. Tuy chỉ trong một thời gian rất ngắn, trên dải đất Việt Nam thời đó đã xuất hiện một tiểu quốc mà người ngoài thường gọi là nước Ðồng Nai, người Thanh gọi là đất Nông Nại còn sử nước ta quen gọi là Gia Ðịnh, những cái tên còn tồn tại đến tận bây giờ. Theo những chi tiết mà chúng ta có được, về phương diện hành chánh vương quốc này có thể coi là thoái thân của vương triều Nguyễn, được tổ chức theo một khuôn mẫu tổng hợp nhiều mô hình nhưng đã được cải biên cho phù hợp với nhu cầu. Trên nhiều lãnh vực, chúa Nguyễn Ánh đã áp dụng nhiều canh tân và học hỏi từ Xiêm La và các nước Ðông Nam Á nhưng cũng mạnh dạn cải cách theo đường lối Tây phương, chủ yếu là các lãnh vực quân sự, thương mại, kỹ thuật.

Giữa Bá Ða Lộc và Nguyễn Ánh, chúng ta thấy hai người tuy vẫn hết lòng với nhau nhưng mặt khác cũng tìm cách khai thác cho mục tiêu riêng của mình. Chúa Nguyễn muốn Bá Ða Lộc làm đầu cầu trung gian để thủ đắc kỹ thuật và sự giúp đỡ của Tây phương, trong khi vị giám mục cũng mong việc làm của mình sẽ đem tới những ưu đãi để truyền đạo một khi chúa Nguyễn thành công.

Không nói tới những âm mưu hay tham vọng dựa trên suy luận cảm tính, trong biên khảo này chúng tôi cố gắng đào sâu vào một số chi tiết cụ thể, những kỹ thuật mới du nhập vào nước ta trong đó bao gồm các kỹ thuật quân sự và một số định chế được giám mục Pigneau de Béhaine giới thiệu vào một tiểu quốc mới thành lập: Ðồng Nai hay đất Gia Ðịnh. Việc du nhập đó được áp dụng một phần lớn vì đã giúp cho chúa Nguyễn gia tăng khả năng chống lại Tây Sơn nhưng đồng thời cũng là một mô hình thí nghiệm theo kiểu Tây phương đầu tiên trong vùng Ðông Nam Á. Miền nam nước ta đã hình thành một quốc gia với đầy đủ cơ chế, dung hợp thực lực bản địa với ba nguồn “chân khí ngoại chủng”, từ Trung Hoa của những người di dân gốc nhà Minh, từ Xiêm La mà chúa Nguyễn đã lưu ngụ rút tỉa kinh nghiệm chiến đấu, từ Tây phương do những thừa sai và những người Âu Châu sang giúp.

Những vấn đề chính trị xen kẽ với quân sự và một tập thể đa dạng đặt ra những câu hỏi về quản trị. Cũng vì trưởng thành trong gian nan và luôn luôn bị đe doạ bởi chung quanh, chúng ta phần nào có thể hiểu được thái độ quyết liệt, lắm khi tàn nhẫn của chúa Nguyễn khi đã lên nắm quyền. Trên thực tế Nguyễn Ánh vẫn khôn khéo quân bình mọi lực lượng phò tá ông nên tuy những người Pháp có nổi bật trong những ngày đầu về sau lại lui vào bóng tối khi người Việt đã thủ đắc những ưu điểm về quân sự và kỹ thuật của họ. Ngoài Bá Ða Lộc hầu như không một người ngoại quốc nào được coi trọng hơn một tướng lãnh bậc trung.

Trong một thời gian tương đối ngắn 1788 – 1792, chúa Nguyễn đã hoàn thành được những cơ cấu căn bản để chuẩn bị tấn công. Trong những năm sau đó, ông đã đẩy đối phương vào thế thủ và chưa đầy 10 năm thì ông đã lấy lại được vương quốc của Nguyễn Nhạc và chiếm luôn cả lãnh thổ miền bắc trong tay Nguyễn Quang Toản.

Việc cải cách ở Gia Ðịnh không phải chỉ nhằm mục tiêu khai khẩn một vùng đất hoang hay tổ chức một vương quốc độc lập mà mục tiêu tối hậu là khôi phục lại vùng lãnh thổ ở phương nam nói theo từ ngữ ngày nay là xây dựng một hậu phương để hoàn thành công việc bắc tiến. Tuy nhiên, đó chỉ là một suy luận sau khi ông đã thành công còn ngay trong thời điểm đó, tuy Nguyễn Ánh vẫn nhắm tới vùng đất của cha ông từ sông Gianh đổ vào nhưng làm sao bảo đảm được khu vực Ðồng Nai không bị anh em Tây Sơn xua quân vào chiếm lại như thời kỳ trước mới thực sự quan trọng.

Kinh nghiệm cũ cho thấy một khi bị địch quân đuổi đánh phải bôn đào, mọi công trình chúa Nguyễn đã và đang xây dựng đều trở thành tay trắng, tan biến như những viên cát tròn của con dã tràng trên bờ biển khi bị sóng đánh qua. Do đó, trước khi tập trung được sức mạnh để tiến ra bắc, nỗ lực củng cố, xây dựng và phòng thủ là ưu tiên hàng đầu lúc bấy giờ.

Cuối thế kỷ XVIII, cuộc nội chiến tại Việt Nam cũng đưa đến những phát triển căn bản khiến chiến lược, chiến thuật phải thay đổi theo. Những tiến bộ kỹ thuật về vũ khí và qui mô của đội hình, vận chuyển để sử dụng những đội quân đông đảo nên việc phòng thủ theo kiểu cũ không còn hiệu quả. Súng đại bác và thần công đã tương đối thông dụng nên hai bên không còn phải cận chiến mà có thể bắn từ xa. Thành trì vì vậy được tổ chức sao cho linh hoạt hơn, có thể tự túc được một thời gian dài mà không bị kiệt quệ về lương thực, nước uống hay đạn dược.

Những cuộc công thành vì thế thường lâu hơn, kéo dài hàng tháng, có khi hàng năm nên chiến thuật “thần tốc”, đánh mau đánh mạnh, lấy số đông để áp đảo không còn hiệu quả. Thành Qui một mặt dựa vào sông Sài Gòn, ba mặt còn lại có nhiều đầm lầy là những chướng ngại thiên nhiên.

Nỗi ám ảnh lớn nhất của chúa Nguyễn khi mới lấy lại được Gia Ðịnh là e ngại một cuộc tấn công qui mô của Tây Sơn, chiếm lại những gì ông vừa có được. Chính vì thế, trong giai đoạn đầu ông trông chờ ở viện binh do giám mục Bá Ða Lộc đang đi vận động. Ông đã thiết lập những hệ thống thông tin từ biển vào đất liền để có được những tin tức sớm sủa nhất.

Khi Bá Ða Lộc trở về, tuy không mang được những gì ông mong đợi nhưng lại có được những cơ bản cần thiết đúng lúc mà ông yêu cầu. Không phải vũ khí hay nhân sự, tiền bạc, giám mục xứ Adran đã trao lại cho ông kỹ thuật của Tây phương, ngay cả những gì thuộc loại bí mật, không như người Á Ðông thường thường dấu kín cho riêng mình.

Việc đầu tiên mà chúa Nguyễn nhờ đến người Tây phương giúp sức là xây dựng một thành phố nhưng phòng thủ được (fortified citadel). Cứ theo những tường thuật của người nước ngoài, từ nam chí bắc cho tới lúc đó người Việt chưa xây được một thành theo nghĩa đó, nếu không có chướng ngại thiên nhiên như sông núi, đầm lầy thì chỉ biết đắp lũy, đào hào và dựng những chướng ngại chung quanh nơi đóng quân. Lũy Ðồng Hới hay Lũy Thầy do Ðào Duy Từ thiết trí được coi là một công trình lớn nhưng thực tế chỉ là một bức tường có đặt súng theo mẫu Vạn Lý Trường Thành của Trung Hoa ở một qui mô nhỏ.

Trong khi đó, Tây phương thời trung cổ đã có những tiến bộ đáng kể về việc xây dựng những thành trì (citadel) và lâu đài (castle) và đạt tới một hệ thống công sự (fortification) chu đáo. Muốn đạt tới tiêu chuẩn này, một thành phố phải có thể tự bảo vệ được và nhất là mọi cơ cấu trong đó đều thông được với nhau khiến cho chỉ cần một nhóm nhỏ có thể ngăn chặn được một lượng địch quân lớn và theo thời gian, quân địch sẽ hao binh tổn tướng để chờ dịp phản công.

Trong bộ Encyclopaedia Britannica in lần thứ nhất (1771) phần công sự đã được miêu tả kỹ lưỡng trong 8 trang chữ nhỏ và ba trang hình ảnh, khá đầy đủ chi tiết bình đồ, thiết đồ đủ thiết kế một tòa thành với những ưu điểm vượt trội.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
  1. Hành chánh, tổ chức
Về phương diện tổ chức quốc gia, thời kỳ đầu chúa Nguyễn mới lấy lại Gia Ðịnh chúng ta thấy có những kế hoạch xây dựng một kinh đô cho tiểu vương quốc, tái phân chia lại địa giới các khu vực để hình thành một bộ máy chính quyền tương đối hữu hiệu nếu không hơn thì cũng không kém các nước láng giềng.

Việc xây thành Qui có thể do Nguyễn Ánh nung nấu đã lâu, kết hợp cả những điều mới học hỏi lẫn kinh nghiệm đã qua. Muốn biết ông học hỏi được gì, chúng ta không thể không xét đến quá trình lưu vong tại Xiêm La trong khoảng thời gian 1784 đến 1787 và những gì ông chứng kiến quân Xiêm đối phó với những cuộc tấn công khốc liệt của quân Miến từ phương bắc kéo xuống. Có thể nói, chính cuộc chiến tranh Xiêm – Miến đã là một mô hình tốt để ông suy ngẫm về phương thức đối phó với Tây Sơn mà ông sử dụng sau này.

Hoàn cảnh của Xiêm La có thể nói rất gần với hoàn cảnh của Việt Nam thời đó, chỉ khác nhau là những việc xảy ra ở Xiêm đi trước Việt Nam khoảng vài mươi năm. Vào giữa thế kỷ XVIII, người Miến thường xuyên đem quân xuống cướp phá kinh đô Ayutthaya ở lưu vực sông Chao Phya. Năm 1767, quân Miến phá kinh đô Ayutthaya thành bình địa, giết và bắt làm nô lệ gần như toàn bộ dân chúng khi đó khoảng một triệu người. Quốc vương bị giết và chỉ khoảng 10,000 người thoát chết.[7] (7)

Một trong những tướng lãnh tên là Taksin trốn thoát, chiêu tập binh mã chỉ một năm sau đánh đuổi quân Miến và dựng lại một kinh đô mới ở phía nam là Thonburi, bên kia sông của một làng chài có tên Bangkok.[8] (8) Cũng thời gian đó, gần như toàn bộ lực lượng Miến Ðiện bị cầm chân trong chiến tranh với Trung Hoa năm 1768 khiến cho việc chiếm đóng Ayutthaya lỏng lẻo và Taksin có thể tiến đánh từng doanh trại của người Miến không mấy khó khăn.[9] (9) Cục diện hoàn toàn thay đổi khi quân Xiêm do tướng Suki chỉ huy tại Posamton thắng được một trận quyết liệt đưa đến thắng lợi hoàn toàn. Năm 1782, Taksin bị hạ bệ và xử tử, tướng Chakkri lên ngôi vua [sử gọi là Rama I] rồi dời đô sang Bangkok.

Việc thiên đô này có mục tiêu chiến lược của nó. Vua Rama I cho rằng việc thành lập kinh đô ở phía đông của bán đảo có lợi thế về phòng thủ vì hơn một nửa chu vi bao quanh là sông. Ngoài ra, việc chọn một kinh đô mới cũng là dấu hiệu của việc khởi đầu một triều đại theo tin tưởng của người dân Nam Á.[10] (10) Vua Rama I cũng đổi tên Bangkok thành Krungthep [City of Deities] nhưng người ngoại quốc vẫn quen gọi theo tên cũ.

Thời gian chúa Nguyễn sống lưu vong giúp ông học hỏi kinh nghiệm thực tế của nước Xiêm và tham gia một số trận đánh với quân Miến Ðiện. Thành Gia Ðịnh có khá nhiều tương đồng với kinh đô Krungthep, cũng nằm cạnh bờ sông cách biển không xa lắm. Tuy nhiên, ngoài vị trí địa lợi, chúa Nguyễn còn đi thêm một bực là xây thành không phải chỉ là một hoàng cung như mẫu của Xiêm La mà còn là một mô hình phòng thủ Tây phương mà chúng ta thường gọi là kiểu Vauban đề phòng một trận tấn công đại qui mô của Tây Sơn từ Thuận Hóa đánh vào nhất là sau khi vua Quang Trung đánh bại quân Thanh tạo nên một chiến tích lẫy lừng. Việc xây một toà thành kiên cố ở Gia Ðịnh kết hợp nhiều nguyên nhân, từ việc chọn địa điểm phù hợp với phong thuỷ, cho đến sự thuận lợi để phòng thủ và là hậu phương để làm điểm xuất phát tấn công ra bắc.

Trước đó đất Gia Ðịnh mới khai khẩn, tình trạng tổ chức sơ sài, chưa thích hợp cho tổng hành dinh qui mô để trú đóng lâu dài. Gia Ðịnh Thành Thông Chí viết:

Trấn Gia Ðịnh xưa có nhiều ao đầm, rừng rú, buổi đầu thời Thái Tông (Nguyễn Phúc Tần 1648-1687), sai tướng vào mở mang bờ cõi, chọn nơi đất bằng rộng rãi, tức chỗ chợ Ðiều Khiển ngày nay, xây cất đồn dinh làm chỗ cho Thống suất tham mưu trú đóng, lại đặt dinh Phiên Trấn tại lân Tân Thuận ngày nay, làm nha thự cho các quan Giám quân, Cai bạ và Ký lục ở, được trại quân bảo vệ, có rào giậu ngăn cản hạn chếvào ra, ngoài ra thì cho dân trưng chiếm, chia lập ra làng xóm, chợ phố. Nơi đây nhà ở hỗn tạp, đường sá chỗ cong chỗ thẳng, tạm tuỳ tiện cho dân mà chưa kịp phân chia sửa sang cho ngăn nắp. Chức Khổn suý thay đổi lắm lần cũng để y như vậy. Ðến mùa xuân năm Ất Mùi (1775), đời vua Duệ Tông (Nguyễn Phúc Thuần) thứ 11, xa giá phải chạy đến trú ở thôn Tân Khai. Mùa thu năm Mậu Thân (1788) năm thứ 11, buổi đầu đời Thế Tổ (Nguyễn Phúc Ánh) Trung hưng, việc binh còn bề bộn, ngài phải tạm trú nơi đồn cũ của Tây Sơn ở phía đông sông Bình Dương để cho nghỉ quân dưỡng dân.[11](11)

Việc cải tổ hành chánh của Nguyễn Ánh bao gồm cả cải cách tổ chức lẫn định chế cai trị. Về tổ chức, chúa Nguyễn chia lại địa giới các tỉnh và xây dựng một mạng lưới giao thông, liên lạc. Những cải cách kinh tế đã biến vùng Ðồng Nai từ một khu vực hoang vu, ít người ở thành một tiểu quốc trù phú. Vì miền nam là một tâm điểm giao lưu, một khi tình hình an ninh được ổn định, các thương thuyền qua lại buôn bán đem đến những món tiền lớn.

Trong một thời gian tương đối ngắn, đất Ðồng Nai có thêm nhiều đại lộ, được vẽ và trắc địa theo kiểu Tây phương, một hệ thống sông đào qui mô vừa thuận tiện cho việc giao thông, vừa cải cách hệ thống thoát nước để thuần hoá một khu vực rộng vốn chỉ là đầm lầy không thể canh tác được.

Những con đường trong thành phố cũng được mở theo đường thẳng và nếu định vị với bản đồ Saigon về sau, chúng ta còn có thể tìm ra được một số đại lộ chính. Nhờ các phóng đồ này, khi người Pháp chiếm Nam Kỳ, việc mở rộng thành phố không đòi hỏi việc tái qui hoạch toàn bộ khu vực mà chỉ tiếp nối vào những công trình cũ còn dở dang hoặc thoái hóa vì đã lâu không tu bổ.

Theo tài liệu của người nước ngoài, một số định chế pháp luật tương đối mới mẻ và công bình được ban hành. Các chính quyền triều đại của phương Ðông thường không minh bạch về luật lệ và dành quyền phán quyết cho các quan lại. Vì thế để có được những dễ dãi, các thuyền buôn thường phải biếu xén rất nhiều cấp, nhiều lần vì chỗ nào cũng có thể gây khó khăn, hạch sách làm ngăn trở công việc.

  1. Phát triển kinh tế
Ngoài ý nghĩa giao thông, hệ thống đường bộ, đường sông cũng giải quyết việc lương thực, hậu cần để cung ứng cho chiến tranh với đối phương ở Ðàng Ngoài.

Theo Barrow, chúa Nguyễn có mấy năm tương đối bình yên[12] (12) và nhờ sự cố vấn của giám mục Pigneau de Béhaine, ông đã dốc toàn lực vào việc kiến tạo đất nước. Ông xây dựng một nhà máy diêm tiêu (salpetre) ở Fen-tan (Tsiompa)[13] (13), mở mang liên lạc giữa những vị trí quan yếu từ thành phố này đến thành phố khác, và trồng cây hai bên đường lấy bóng mát.

Chúa Nguyễn cũng khuyến khích việc tái xây dựng những đồn điền trầu cau bị phá hủy vì chiến tranh và khuyến khích việc trồng dâu, nuôi tằm. Ông dành một vùng đất lớn để trồng mía làm đường và xây dựng những xưởng làm keo, nhựa trét và hắc ín [dùng trong kỹ nghệ đóng thuyền].[14] (14)

Tuy không biết rõ có những cải tiến nào cho kinh tế địa phương, nhưng ngay cả trong thời kỳ suy thoái cũng có rất nhiều mặt hàng, đặc biệt giá cả rất rẻ so với các quốc gia khác.



Chú thích:

1.James P. Daughton, “Recasting Pigneau de Béhaine” trong Tran Tuyet Nhung & Anthony Reid (chủ biên). Việt Nam – Borderless Histories (Wisconsin: The University of Wisconsin Press, 2006) tr. 307

  1. Một số sĩ quan được liệt kê Chaigneau, de Forçant, Vannier, Dayot, Ollivier, Le Brun, Barizy, Girald de l’Isle Sellé, Despiaux, Guillion, Guilloux … [A. Folliot, Notions sur l’histoire de l’Annam et sur les résultats de l’occupation Française, (Saigon, 1905)] tr. 20. Cũng theo Folliot thì những người Âu có kiến thức và năng động này đã giúp ông xây dựng một đội chiến thuyền, phòng thủ thành trì và xung phong giúp ông trong mọi trường hợp cần đến sự can trường và thiện chí của họ (…Ces auxiliaires instruits et énergetiques lui construisirent une flotte, lui fortifièrent ses villes eit lui prétèrent dans toutes les circonstances l’appui de leur courage et de leur dévouement)
3….They were no less than to subdue the Kingdom of Cambodia with the whole peninsula as far as Siam, and the Provinces belonging to Cochin China to the north now in the hands of the Tonquinese. To effect these (and indeed it would be requisite) he wished much for the assisstance of some English vessels, in recompense for which he would make them such grants of land for settlement as they might think proper. “… Phải làm sao chinh phục vương quốc Cambodia và toàn thể bán đảo cho tới tận Xiêm La, cùng [lấy lại] những tỉnh thuộc Ðàng Trong ở phía bắc nay đang ở trong tay người Ðàng Ngoài. Và để thực hiện dự tính đó, ông (Nguyễn Nhạc) mong được người Anh giúp cho một số tàu chiến, và để trả lại thì ông sẵn lòng nhường cho họ mảnh đất nào họ thấy thích hợp để trú đóng.” Alastair Lamb, The Mandarin Road to Old Hué: Narratives of Anglo-Vietnamese Diplomacy from the 17th century to the eve of the French Conquest (London: Chatto & Windus, 1970) tr. 100

  1. …and, through the translations into the Chinese character of the Encyclopedie by the Bishop Adran, he has acquired no inconsiderable knowledge of European arts and sciences, among which he is most attached to such as relate to navigation and ship-building.
… qua bản dịch bộ Encyclopedie sang chữ Hán do giám mục Adran thực hiện, ông đã thu lượm được một số kiến thức Tây phương đáng kể về kỹ thuật và khoa học trong đó hai ngành ông chú trọng nhất là hải hành và đóng tàu. John Barrow, A Voyage to Cochinchina (Kuala Lumpur: Oxford University Press, 1975) tr. 277

  1. “Voyage from France to Cochin-China : in the Ship Henry / Captain Rey, of Bordeaux, in the years 1819 and 1820” (London : Printed for Sir Richard Phillips and co., 1821)
  2. Hiện nay trên thị trường còn có một ấn bản chụp lại y như bản chính – kể cả những dấu giấy cũ và những phần bị loại bỏ theo lệnh giáo hội [Authentic Replica of the First Edition of the Encyclopedia Britannica, 1768-1771 (Three Volume Facsimile Set) (Hardcover)]. Dựa theo nội dung trong bộ từ điển này, chúng tôi dựng lại các kiến thức cơ bản mà giám mục Bá Đa Lộc đem về cho chúa Nguyễn trong thời gian ấy.
  3. John Blofeld, Bangkok (TIME-LIFE International, 1979) tr. 10
  4. Việc khôi phục lại vương quốc Xiêm La thành công chính vì quân Miến chỉ xuống để cướp bóc tài vật và bắt người về làm nô lệ mà không có ý định chiếm đóng đất đai, tương tự như quân Tây Sơn khi xuống Gia Ðịnh hay vào Thăng Long với chủ đích thu góp chiến lợi phẩm, tiền bạc rồi lại rút về nên sau khi địch đi khỏi chúa Nguyễn lại có cơ hội hồi sinh.
  5. Các sử gia Thái Lan cũng vì quá đề cao việc phục quốc của Taksin nên không chú trọng đến yếu tố Miến Ðiện đang có chiến tranh với Trung Hoa, tương tự như trường hợp chúa Nguyễn nhờ vào mâu thuẫn của Nguyễn Nhạc – Nguyễn Huệ và việc triều đình Quang Trung đang vướng mắc vào vấn đề ngoại giao với Thanh triều.
  6. … This was a strategic move, since Bangkok was well protected by water on one side and by a vast swampy plain stretching away to east and south on the other. It was also a symbolic move, intended as a fresh and auspicious start for the kingdom. Blofeld, Bangkok, tr. 10. Khi Lý Công Uẩn lên ngôi, ông cũng dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long với cùng một ý nghĩa và mục tiêu như việc vua Rama I chọn Bangkok làm kinh đô mới.
  7. Trịnh Hoài Ðức,Gia Ðịnh Thành Thông Chí[bản dịch Lý Việt Dũng] (Biên Hòa: nxb Tổng Hợp Ðồng Nai, 2005) tr. 216
  8. John Barrow, sđd. tr. 273. John Barrow ghi lại theo lời tường thuật của người khác nên nhiều chỗ không chính xác, nhất là niên biểu. Ông chép rằng hai năm bình an đó là 1797 và 1798 nhưng thực ra hai năm này là hai năm chiến sự đang căng thẳng.Hai năm mà chúa Nguyễn được thong thả để củng cố lực lượng phải là năm 1789 và 1790 khi Bá Ða Lộc vừa ở Pháp về, Nguyễn Huệ đang bận giao thiệp với nhà Thanh nên chưa tính chuyện đánh vào nam.
  9. Tsiompa có lẽ là phiên dịch hai chữ Chiêm Ba (tức Champa hay Chiêm Thành) nhưng không biết địa điểm nào. Vào thời đó, người Tây phương gọi chung cà khu vực là Champa. Fen-tan có thể là Phiên An, tên cũ của thành Saigon, tức ngay tại thủ phủ Gia Định.
  10. John Barrow,sđd.tr. 273-4
  11. Miền nam gọi là một quài chuối, gồm nhiều nải chưa cắt riêng.
 

Pie.9x

Xe hơi
Biển số
OF-407748
Ngày cấp bằng
1/3/16
Số km
148
Động cơ
226,640 Mã lực
Tuổi
33
Nơi ở
Hà Nội
Thi thoảng vào đọc để biết sử ta
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
  1. Thiết kếđô thị
Việc quan tâm đầu tiên của chúa Nguyễn có sự đóng góp của người ngoại quốc là xây dựng một kinh đô. Kinh đô đó vừa là nơi thị tứ tập trung được một số lượng quần chúng đông đảo để bảo đảm cho việc bổ sung theo nhu cầu mà còn phải thuận tiện cho thuyền bè nước ngoài vào buôn bán. Riêng trường hợp của chúa Nguyễn, xây dựng kinh đô cũng là củng cố căn cứ phòng thủ chống lại những trận “giặc mùa” của Tây Sơn nên hai mục tiêu kinh tế và quân sự đều phải quan tâm.

Việc trở về của Pigneau de Béhaine khiến ông thất vọng khi không có tất cả những gì ông mong đợi nhưng cũng đem lại một số niềm vui. Hiệp ước Versailles không thi hành nên sau này ông không vướng vào món nợ với nước Pháp và những người sang giúp ông lại có khả năng thiết kế một mô hình đô thị phòng thủ (city-fortress). Một số bản đồ về thành phố Saigon còn tồn tại đến ngày nay có thể giúp chúng ta đưa ra một số phỏng đoán về khả năng của họ.

Bản đồ thứ nhất có ghi Plan de la ville de Saigon fortifiée en 1790 par le Colonel Victor Olivier, Reduit du Grand Plan Levé en 1795 par ordre du Roi de Cochinchine par Brun Ingénieur. [Bản đồ “thành phố phòng ngự” Saigon do đại tá Victor Olivier vẽ năm 1790 – được kỹ sư Brun thu gọn từ Đại Kế Hoạch năm 1795 theo lệnh của vua nước Cochinchine] (bản đồ Brun)

Bản đồ thứ hai mang tên Plan de la Ville de Saigon fortifiée en 1790 par le Colonel Victor Olivier, Reduit du Grand Plan Levé par Ordre du Roi en 1795 par Mr. Brun, Ingénieur de sa Majesté, par Mr Dayot 1799. [Bản đồ vẽ “thành phố phòng ngự” Saigon do đại tá Victor Olivier vẽ năm 1790 – kỹ sư Brun thu gọn từ Đại Kế Hoạch năm 1795 theo lệnh của vua nước Cochinchine – họa lại bởi ông Dayot năm 1799] (bản đồ Dayot).

Một cách tổng quát, năm 1790 Olivier đã vẽ một mô hình “thành phố phòng ngự” (ville fortifiée) là mẫu xây dựng theo lối các đô thị được xây gần bờ biển bao gồm một thành xây (thường là theo kiểu Vauban), chung quanh là phố xá. Loại thành này khó tấn công, dù có chiếm được khu vực bao quanh thì vẫn có khả năng tự tồn trong một khoảng thời gian để chờ dịp phản công. Chúng tôi không tìm thấy bản đồ gốc của Olivier. Tuy nhiên đặc điểm chung của kỹ thuật vẽ bản đồ thời đó là người đi sau thường chỉ vẽ lại bản đồ có sẵn rồi thêm bớt một số chi tiết mới nên chúng ta biết rằng bản đồ Olivier không khác với bàn đồ Brun và Dayot bao nhiêu.

Mô hình của Olivier được chúa Nguyễn sai Brun thu gọn năm 1795 và Dayot họa lại theo mẫu cũ của Brun năm 1799. Hai bản đồ này vẽ cách nhau 4 năm, nói chung không có gì khác biệt mặc dầu bản đồ của Brun có vẽ và ghi chú một số chi tiết chung quanh khu vực đô thị, các vườn dừa, chuối hay ruộng lúa … Bản đồ của Dayot có thêm độ sâu của sông Ðồng Nai ở nhiều nơi cạnh thành phố Saigon nhưng tổng quát chỉ là bản sao của Brun.

Cả hai bản đồ có những ghi chú rõ ràng cung Vua (Palais du Roi), cung Hoàng Hậu (Palais de la Reine), cung Thái Tử (Palais du Prince), nhà thương (Hopital), trại lính (Magasin des Troupes), kho súng và lò đúc (Arsenal et Forges), Nhà để xe (Charonnerie), kho thuốc đạn (Magasin à Poudre), dãy súng thần công (Pare d’Artillerie), Kho khí giới (Place d’Armes), kỳ đài (Mat de Pavillion), lò gạch (Briqueteries), công trường (Chantier de construction), bãi tắm voi (bassin), đệ trạch của Bá Ða Lộc (Maison de l’Êveque d’An-nam), kho bạc (Monnaie).




Bản đồ White (1820)

Bản đồ vẽ sông Đồng Nai từ Vũng Tàu vào Saigon

Phụ Trương của A Voyage to the China Sea -John White [Boston, 1823]

Map of the River of Don-Nai from Cape St. James to the City of Saigon, from the original by M. Dayot, Hydrographer to the King of Cochin China 1791 with additions to 1820 by John White U.S.N.


Bản đồ Brun (1795)


Bản đồ Dayot (1799)

Một bản đồ thứ ba bao trùm một không gian rộng lớn hơn từ Vũng Tàu vào Saigon nhan đề “Bản đồ sông Ðồng Nai từ Mũi St. James đến thành phố Saigon” [Map of the River of Don-Nai from Cape St. James to the City of Saigon] do John White vẽ năm 1820 với ghi chú là “Dựa theo Nguyên bản của M. Dayot, thuỷ hoạ viên của vua xứ Ðàng Trong” vẽ năm 1791.[1] (1) So sánh bản đồ White và bản đồ Dayot, trong 20 năm, thành phố Saigon đã mở rộng khá nhiều về hướng tây, quan trọng nhất vào thời gian từ sau khi vua Gia Long thống nhất sơn hà và Gia Định dưới quyền cai trị của tổng trấn Lê Văn Duyệt.

Bản đồ của White trắc địa từ ngoài khơi Vũng Tàu [ngoài tên Vung-tau còn có tên Cape St. James tức St. Jacques theo các bản đồ Pháp] theo sông Ðồng Nai vào tới tận Saigon nhưng khi đó chỉ mới có thành Gia Ðịnh và một số đường phố dọc theo bờ sông.

Ngoài bản đồ này, chúng ta cũng còn có thể kiếm được bản đồ của một họa viên người Việt là Trần Văn Học năm 1815, có lẽ là một trong những kỹ thuật Tây phương sớm nhất do người bản xứ thực hiện. Trần Văn Học cũng tháp tùng Bá Ða Lộc khi qua Pháp và học được phương pháp này của Âu châu. Bản đồ này bao phủ một khu vực rộng hơn bản đồ của Brun nhưng không vẽ đường sá mà chỉ có các dinh thự (cadastral footprints).

Khi nghiên cứu về những bản đồ này, chúng ta thấy những họa viên và kỹ sư người Pháp đã áp dụng kỹ thuật mới mẻ nhất của thời đó nên độ chính xác khá cao, vượt trội những bản đồ trước đây liên quan đến khu vực Ðông Dương và Ðông Nam Á. So sánh với bộ bản đồ hiếm hoi mà vương quốc Thái Lan còn giữ được[2] (2) [có niên đại sau các bản đồ này một vài chục năm] dựa theo phương pháp quan chiếu địa lý (geo-reference) thì chúng ta thấy bản đồ Saigon chính xác hơn chứng tỏ đã được trắc địa bằng kỹ thuật tam giác (triangulation) là cách thức định vị trí, khoảng cách và cao độ chính xác mới phát minh và được áp dụng ở Âu Châu chưa lâu.

Những bản đồ đó không những vượt trội so với bản đồ của nước ta thời Lê mà còn hơn hẳn bản đồ thời Nguyễn trong bộ Ðồng Khánh Ðịa Dư Chí. Cho tới đầu thế kỷ XX, những họa đồ của người Việt vẫn minh họa theo cách thức nhiều biểu tượng, ít hiện thực của Trung Hoa mà không theo một phương pháp kỹ thuật nào nên chỉ hình dung được mặt đất chứ không dùng để tính toán độ dài hay diện tích được.[3] (3)

Ðứng về mặt kiến trúc, thành phố Sài Gòn cuối thế kỷ XVIII là thành phố Việt Nam đầu tiên được thiết kế và xây dựng theo mẫu Tây phương. John White cũng miêu tả khá chi tiết về sinh hoạt tại đây, trên bản đồ thuỷ lộ từ Vũng Tàu về Sài Gòn chúng ta còn thấy một số đại lộ có cây trồng thành hàng dọc theo hai bên đường có tên là palmaria (mù u?). [4] (4)

Theo Trịnh Hoài Ðức, thành phố Sài gòn khi ấy “đường sá chợ phố ngang dọc được sắp xếp rất thứ tự, bên trái là đường cái quan từ cửa Chấn Hanh qua cầu Hòa Mỹ đến sông Bình Ðồng tới trấn Biên Hòa, đường cái quan bên phải gặp chỗ nào cong thì giăng dây để uốn thẳng lại, đầu từ cửa Tốn Thuận qua chùa Kim Chương, từ phố Sài Gòn đến cầu Bình An qua gò chùa Tuyên đến sông Thuận An. Bến đò Thủ Ðoàn đưa qua sông Hưng Hòa, trải qua gò Trấn Ðịnh rồi đến gò Triệu. Ðường rộng 6 tầm, hai bên đều trồng cây mù u và cây mít là những thứ cây thích hơp với đất này. Cầu cống thuyền bến đều luôn được tăng gia việc tu bổ, đường rộng suốt phẳng như đá mài, gọi là đường thiên lý phía nam”.[5] (5)


Bản đồ Trần Văn Học (1815) Trích từ Saigon – Gia Định xưa: tư liệu & hình ảnh (TP HCM, 1997) tr. 30-31
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Thành trì phòng ngự

Năm 1789, giám mục Bá Ða Lộc đem hoàng tử Cảnh về lại Gia Ðịnh cùng với ba chiếc tàu thuỷ và một số người Pháp sang giúp chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn liền bắt tay vào việc xây dựng thành Gia Ðịnh.

Trịnh Hoài Ðức trong Gia Ðịnh Thành Thông Chí [quyển VI, Thành Trì Chí] miêu tả như sau:

Ngày 4 tháng 2 năm Canh Tuất thứ 13 (1790), tại chỗ gò cao thôn Tân Khai thuộc đất Bình Dương, ngài mới cho đắp thành bát quái như hình hoa sen, mở ra 8 cửa, có 8 con đường ngang dọc, từ đông đến tây là 131 trượng 2 thước ta, từ nam đến bắc cũng như thế, bề cao 13 thước ta, chân dày 7 trượng 5 thước ta, đắp làm ba cấp, toạ ngôi Càn, trông hướng Tốn. Trong thành, phía trước bên tả dựng Thái miếu, giữa làm sở hành tại, bên tả là kho chứa, bên hữu là Cục chế tạo, xung quanh là các dãy nhà cho quan túc vệ ở. Trước sân dựng cây cột cờ ba tầng, cao 12 trượng 5 thước ta, trên có làm chòi canh vọng đẩu bát giác toà, ở bên treo cái thang dây để thường xuyên lên xuống, trên ấy có quân ngồi canh giữ, có điều gì cần cảnh báo thì ban ngày treo cờ hiệu, ban đêm treo đèn hiệu canh gác, các quân cứ trông hiệu đó để tuân theo sự điều động.[1](6)

Tuy nhiên Trịnh Hoài Ðức không đề cập đến việc khởi đầu được thiết kế như thế nào, nhất là nguyên nhân chiến lược của việc kiến tạo toà thành qui mô đó. Frédéric Mantienne cho rằng khi biên soạn, họ Trịnh đã “dè dặt loại bỏ những đề cập liên quan đến người ngoại quốc trong công tác này”.[2] (7) Mantienne cũng ghi nhận là trong mấy trang tiểu sử Bá Ða Lộc và những người Âu theo giúp chúa Nguyễn [trong DNCBLT] cũng không nói gì đến việc đó.

Việc khởi đầu xây thành Gia Ðịnh tính ra khoảng 8 tháng sau khi giám mục Bá Ða Lộc về lại Gia Ðịnh, một khoảng thời gian đủ dài để những kiến trúc sư người Pháp có thể đưa ra một mẫu hình đô thị (master plan) mặc dù vị trí chiến lược của thành Qui có thể do chúa Nguyễn quyết định. Sở dĩ chúng ta có thể khẳng định ảnh hưởng Âu châu của thành Gia Ðịnh vì mô hình tường thành và các pháo đài hoàn toàn đúng như các kiểu mẫu tìm thấy trong bộ Brittanica mà ở các nơi khác chưa hề có cho thấy đây là một đột phá về kỹ thuật xây thành và phòng thủ thời đại đó.

Vào khoảng 1673, trưởng kỹ sư binh bị của vua Pháp Louis XIV là Sebastien Le Prestre de Vauban đưa ra một dự án cải cách phương thức phòng ngự. Ông nghiên cứu suốt 30 năm và thuyết phục Pháp hoàng kiến trúc hoặc xây lại 133 thành luỹ ở biên phòng thông với đất địch. Những thành luỹ đó có qui mô lớn đủ để chứa đựng quân nhu và binh sĩ trong cả công tác bảo vệ lẫn tấn công. Việc phòng thủ hiệu quả cũng còn làm gia tăng được số quân chiến đấu để điều động vào những mặt trận khác.[3] (8)

Theo những tài liệu của người Pháp, thành Gia Ðịnh do Theodore Lebrun hoạ kiểu và Victor Olivier de Puymanel thiết kế. Trong lá thư của De Guignes gửi Bộ Ngoại Giao Pháp đề ngày 29 tháng 12 năm 1791 còn tàng trữ tại Hồ Sơ Bộ Hải Ngoại về Á Châu, trích lại theo Frédéric Mantienne thì có khoảng ba vạn nhân công được điều động để xây thành, dân chúng vì bị đè nén quá nên đã nổi loạn.[4] (9)

John White đến Gia Ðịnh năm 1819 [vào thời kỳ mà vua Gia Long còn sống nhưng đang ở Huế] miêu tả như sau:

… Chúng tôi tới một chiếc cầu đẹp làm bằng đá và đất bắc ngang một hào rộng và sâu, dẫn đến cửa đông nam của tòa thành, hay chính xác hơn, một quân trấn vì các bức tường đều bằng gạch và đất cao khoảng 6 mét, dày vô cùng, vây quanh một khu vực hình tứ giác mà mỗi bề đến hơn 1km.

Nơi đây viên tổng trấn[5](10) và các võ quan ở, ngoài ra có những doanh trại khang trang, tiện nghi đủ sức chứa đến năm vạn quân. Dinh vua ở nằm ở giữa thành trên một vùng đất xanh tươi tổng cộng chừng 8 mẫu chung quanh có hàng rào cao. Dinh thự đó hình chữ nhật, một bề 30, một bề 18 mét, xây chủ yếu bằng gạch với mái hiên có che mành, cao hơn mặt đất chừng 1.8 mét trên một nền gạch và đi lên bằng những bậc thang gỗ chắc chắn.

Mỗi bên bốn bề của cung điện cách chừng 30 mét ở đằng trước là một tháp canh hình vuông, cao khoảng 9 mét, bên trên treo một cái chuông lớn. Ở phía sau dinh cách chừng 45 thước là một cung điện cũng bề thế không kém, bao gồm những phòng cho các bà và những văn phòng đủ loại, mái lợp ngói tráng men, trang trí bằng hình rồng phượng và các quái thú chẳng khác gì ở Trung Hoa.[6](11)

Theo các thương nhân Âu châu có dịp ghé Gia Ðịnh và hoạ đồ của thành phố Saigon còn lưu lại, thành Qui xây bằng đá, chu vi đo được 4,176 mét. Trịnh Hoài Ðức viết:

… Hào rộng 10 trượng 5 thước, sâu 14 thước ta, có cầu treo thả ngang qua, bên ngoài đắp lũy đất, chu vi 794 trượng, vừa hiểm trở, vừa kiên cố tráng lệ.[7](12)

Thành được xây theo hình đa giác, có bốn hướng chính, bốn góc là bốn pháo đài, ba cạnh lại có thêm hai pháo đài phụ, tổng cộng cả thảy là 10. Thành được đặt tên theo tám hướng Càn Nguyên, Ly Minh, Chấn Hanh, Cấn Chỉ, Khôn Hậu, Khảm Hiểm, Ðoài Duyệt, Tốn Thuận. Việc dung hợp và pha trộn giữa Ðông và Tây trong kiến trúc tương đối khá phổ biến tại Ðông Á thời kỳ này. Do đó thành Qui được đặt tên theo bát quái, lại miêu tả như hình hoa sen.


Một số hoạ bản trong bộ Encyclopaedia Britannica (in lần thứ nhất, 1771) Gunnery (giữa tr. 756-7) Fortification (giữa tr. 620-1)


(Giữa tr. 616-7)


(Giữa tr. 620-1)


Ship (giữa tr. 584-5)

Theo Trương Vĩnh Ký, thành Qui và các cầu xây bằng đá Biên Hòa, tường cao 5.2 mét, giữa có kỳ đài, tám cửa có tên Gia Ðịnh, Phan Yên, Vọng Khuyết, Cộng Thìn, Hoài Lai, Phục Viễn, Ðịnh Biên, Tuyên Hóa.[1] (13)

Việc tổ chức lại thành Gia Ðịnh theo kiểu Vauban đã có những kết quả tốt. Tuy về sau quân Tây Sơn không còn tấn công vào Gia Ðịnh nhưng thành Qui đã chứng minh được sự hữu hiệu trong công tác phòng thủ khi Lê Văn Khôi làm phản, quân triều đình vây thành hơn 3 năm mới hạ được. Năm 1836, thành Qui bị phá huỷ và triều đình cho xây lại một thành nhỏ hơn, chỉ có bốn cạnh gọi là thành Phụng.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top