[Funland] Việt Nam thời Tây Sơn-Lịch sử nội chiến 1771-1802

Biển số
OF-554471
Ngày cấp bằng
17/2/18
Số km
802
Động cơ
159,171 Mã lực
Cá nhân em thấy việc tẩn nhau của các anh em quan lại chẳng mang lại lợi lộc gì cho dân. Vì suy cho cùng anh nào làm Vua thì cũng đè dân ra mà thu thuế để tồn tại. Anh này oánh anh kia xong lại lên thâu thuế. Dân thì chuyển từ cái máng lợn này sang máng lợn khác thôi. Đang yên thì bị các anh ấy lôi ra bắt choảng nhau. Mà các anh ấy tài lắm gạ dân đen nổi dậy cướp nhà giầu chia cho nhà nghèo. Nhưng cướp xong là của các anh ấy tất.
Nó có khác nhau về tâm thế người dân khi thấy kẻ lãnh đạo là người cùng hay khác sắc tộc với mình và đó là vấn đề được các chính trị gia khai thác để tranh quyền đoạt lợi.
 
Chỉnh sửa cuối:
Biển số
OF-554471
Ngày cấp bằng
17/2/18
Số km
802
Động cơ
159,171 Mã lực
Muốn biết cái gì thì vào đây mà đọc.
Còn nhiều sách nữa nói về giai đoạn này, đặc biệt là ghi chép của quan lại, giáo chức người Pháp sống gần Nguyễn Ánh khi xưa. Giờ việc kiểm duyệt của ta đã thông thoáng hơn nên nhiều ấn phẩm nhạy cảm lịch sử đã được phát hành. Tây họ ghi lại như là nhật ký luôn, rõ ngày tháng năm và giờ giấc của sự việc cách đây 200 năm lẻ. Đại thể là Nguyễn Ánh thức khuya dậy sớm, hay làm việc về đêm, mỗi ngày chỉ ngủ dăm tiếng, ăn uống đơn giản, tính khí hoà nhã, ứng xử khéo léo.... Họ còn mô tả tỉ mỉ cảnh nhà cửa, ăn mặc, thói quen của người dân Hội An cách đây gần 400 năm cứ như mới đây vậy.
 

taico

Xe buýt
Biển số
OF-394816
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
935
Động cơ
240,810 Mã lực
Tuổi
28
Dưới đây là 1 đoạn sử Thực lục dưới triều Nguyễn Ánh ghi. 1 số bác dùng nó là bằng chứng Huệ quật mộ 9 đời chúa Nguyễn. Nói chung là mang tính truyền thuyết dùng 2 con cọp để viết sử để ngụy biện cho vấn đề trả thù Tây Sơn quá đà. Người đời chỉ nhắc đến chuyện Ánh trả thù Tây Sơn chứ chả thấy ai nói đến Huệ phá mộ chúa Nguyễn . Ngoài ra chẳng có tài liệu nào khác

Trước kia giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ tham bạo vô lễ, nghe nói chỗ đất phía sau lăng Kim Ngọc (tức lăng Trường Mậu) [lăng của chúa Ninh Nguyễn Phúc Thái] rất tốt, định đem hài cốt vợ táng ở đó. Hôm đào huyệt, bỗng có hai con cọp ở bụi rậm nhảy ra, gầm thét vồ cắn, quân giặc sợ chạy. Huệ ghét, không muốn chôn nữa. Sau Huệ đánh trận hay thua, người ta đều nói các lăng liệt thánh [các chúa Nguyễn] khí tốt nghi ngút, nghiệp đế tất dấy.

Huệ bực tức, sai đồ đảng đào các lăng, mở lấy hài cốt quăng xuống vực. Lăng Hoàng Khảo ở Cư Hóa [lăng Cơ Thánh của Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long] Huệ cũng sai Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ đào vứt hài cốt xuống vực ở trước lăng. Nhà Ngũ ở xã Kim Long bỗng phát hỏa. Ngũ trông thấy ngọn lửa chạy về. Người xã Cư Hóa là Nguyễn Ngọc Huyên cùng với con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài ban đêm lặn xuống nước lấy vụng hài cốt ấy đem giấu một nơi. Đến nay, Huyên đem việc tâu lên
 

taico

Xe buýt
Biển số
OF-394816
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
935
Động cơ
240,810 Mã lực
Tuổi
28
Quan điểm cá nhân mình thì Ánh trả thù Huệ tận gốc như thế là bình thường trong thời phong kiến.
Hiện giờ thì chưa thấy tài liệu nào gọi có chứng cứ nói Huệ quật mồ chúa Nguyễn cả. Ánh cũng rất rõ ràng là trả thù, ông chả nói gì đến Tây Sơn quật mồ cả. Phần còn lại là Thực lục hợp thức hóa cho việc trả thù.
 

taico

Xe buýt
Biển số
OF-394816
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
935
Động cơ
240,810 Mã lực
Tuổi
28
Tạ Chí Đại Trường

Tháng 10 Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Ánh ban sư về Gia Định. Việc mất thành Quy Nhơn cũng gây ra rối loạn về phía Tây Sơn, theo lẽ thường của một triều chính nghiêng ngửa có những kẻ giữ trách vụ nhưng không muốn đảm đương trách nhiệm. Ở Thuận Hoá, Kiểm điểm Trần Viết Kết, Phụng chính Trần Văn Kỷ, Thượng thư Hồ Công Diệu giả thư Quang Toản nói Quy Nhơn mất là tại Trần Quang Diệu, đưa cho Vũ Văn Dũng bảo Dũng giết đi. Không ngờ Dũng được Diệu ém nhẹm việc thua quân ở Quảng Ngãi, hàm ân nên mới đưa thư cho Diệu xem.

Trần Quang Diệu tức tốc kéo binh về bờ nam sông Hương vây thành. Kỷ đổ cho Kết, trốn mất để Hồ Công Diệu chịu tội thay. Ổn thoả nội bộ rồi, việc chính của Tây Sơn là lo lấy lại đất Quy Nhơn. Hai viên tướng nổi bật, được nhắc nhở từ đây là Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng, đến nỗi đối địch, Nguyễn Ánh truyền rao ai bắt được 2 người ấy, Chánh quản được phong tước Công, Phó quản thêm một hàm, thưởng tiền vạn quan. Danh tiếng Trần Quang Diệu có phần lấn át cả Vũ Văn Dũng. Giáo sĩ De la Bissachère1 đã khen “viên tướng mà ngay ở Âu châu người ta cũng phải coi là dũng mãnh, anh hùng”. Lực lượng dưới quyền ông tỏ ra vững mạnh đến nỗi khi gần tàn cục vẫn còn làm cho Giáo sĩ tưởng rằng đạo quân đó có những danh tướng chỉ cần ló mặt ra là quân Nguyễn phải rút về và đủ để đánh tan đạo quân gấp 3 lần quân chiến thắng luỹ Thầy!

Tháng Giêng Canh thân (1800), Vũ Văn Dũng đổ bộ lên Thi Nại, Trần Quang Diệu mang bộ binh đuổi Nguyễn Văn Biện đang giữ Bến Đá chạy về Bình Định. Võ Tánh trong thành gọi binh Phú Vên tới. Lưu thủ Hồ Đắc Vạn đã sai người vận lương tiền trước, nay sai thêm hàng tướng Phạm Văn Điềm cùng Sái Văn Long lấy du binh đi trước rồi tự dẫn quân theo sau. Đêm qua Cù Mông, Điềm cùng Đô uý Đỗ Văn Nguyệt, Ngô Văn Huyền, Đô tư Nguyễn Văn Soái, Hoàng Văn Tráng cùng các cựu tướng Tây Sơn, quay lại chiếm Phú Yên đuổi Cai bạ, Ký lục chạy về Bình Khang. Điềm làm hàng tướng Tây Sơn phản Nguyễn sẽ mở đường cho một loạt những hàng tướng trở giáo tiếp theo, gây khốn đốn cho Nguyễn Ánh nhiều nhất vì cái thế không lùi lại được của họ.

Sự trung thành này gây ra lo lắng và ngạc nhiên không ít cho phe Nguyễn. Nguyễn Ánh giải thích là lòng nhớ quê xúi giục họ. Nhưng điều đó chỉ hợp với binh tướng bị lôi về Gia Định chứ không hợp với hàng binh ở lại Bình Định và Phạm Văn Điềm. Nguyên do là Tây Sơn cũng đã tạo ra một lề lối sinh sống mà tướng binh họ còn quyến luyến. Họ hàng chỉ là thế bất đắc dĩ như trường hợp Lê Văn Thanh sau này đã lẻn mang một thuyền trốn về Tây Sơn. Tủi nhục của kẻ hàng đầu cũng khiến họ phải trở giáo: Tống Viết Phúc cứ thường chửi Từ Văn Chiêu là hàng tướng đến nỗi khi phản lại, Chiêu luôn chận đánh Phúc và giết được khi chiến thắng quân Nguyễn đã gần kề2.

Riêng ở đây, Phạm Văn Điềm đã giúp ích Tây Sơn rất nhiều. Ông tổ chức Phú Yên trong thế tử chiến “bắt hết cả dân làm lính”, đắp 9-10 luỹ chỉ trong mấy tháng khiến Nguyễn Đức Xuyên nghe thế mạnh không dám tiến nữa mà phải dừng lại ở Diên Khánh.

Ở Diên Khánh, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng quyết hạ Võ Tánh. Diệu bao vây 4 mặt từ mồng hai tết Canh Thân (26-1-1800)3. Ông sai đắp thành đất một vòng ngoài dài 4.340 trượng để làm điểm tựa công kích. Trong ý chí quyết lấy lại đất cũ, Tây Sơn dùng đến hình thức khích động tinh thần quân dân. Phan Huy Ích làm bài hiểu dụ dán nơi quân thứ Quy Nhơn, đã đưa ra những câu kêu gọi đến ý thức địa phương, khiêu gợi niềm hãnh diện làm dân đất khởi nghĩa một dòng vua:

“Quý phủ ta: cội gốc nền vương, dậu phên nhà nước,

“Miền thang mộc vốn đúc non xây bể, mở mang bờ cõi bởi từ đây. Hội phong vân từng dìu phượng vịn rồng, ghi tạc thể quyền dành dõi để.

“Dấu cờ nghĩa đã sáng công dực vận, buổi xe nhung thêm dong sức cần vương.

“Mấy phen gió bụi nhọc con đòng, giúp oai võ cùng đều nhờ đất cũ. Ba huyện đá vàng đền tấc dạ, căm cừu thù chi để đội trời chung”

Chúng ta không có tài liệu để biết về sự sôi động của dân chúng Quy Nhơn khi Tây Sơn trở lại. Nhưng ngay chính ở đất Gia Định mà Ánh đã coi là căn bản, khoảng hơn năm sau, L. Barizy cho ta thấy nỗi lo sợ phập phồng của tướng Nguyễn giữa khung cảnh hiềm thù đe dọa vô hình:

“Lúc nào chúng tôi cũng trông tin Nhà Vua và mọi người ở đây đều xao động đến cực độ, nông công binh đều lo lắng. Bọn giặc ở đây có những bè đảng bí mật không ai hay biết và lâu lâu lại có một tin loan ra gây hoảng hốt và làm cho dân chúng xáo động.

“Ngày 13 tháng này, lúc 2 giờ 30, lửa bắt đầu trong thành ở 5 chỗ khác nhau, nơi kho lúa gạo, kho vải vóc, kho tơ lụa, nhà của Vua và các Hoàng tử. Duy chỉ cháy có đồn Tả quân mà thôi”4.

Nhưng ở Bình Định, những sự kiện thuần tuý quân sự cũng tỏ rõ được cái không khí đó. Tháng 4, hàng tướng coi Ngự lâm quân là Võ Văn Sự, Nguyễn Bá Phong, giết tướng mở cửa Bắc ra ngoài đầu, Võ Tánh thấy mình lo đúng khi sai Lê Chất đem quân bản bộ về Diên Khánh trước lúc bị vây, bây giờ bèn bảo bộ tướng Ngô Văn Sở cướp lại thành, chỉ để lọt có 400 người. Để phòng hậu hoạ, Tánh sai giết bọn hàng binh còn lại.
_____________________________________
1. Ch. B. Maybon, La relation sur le Tonkin..., sđd, t.112, 113.
2. Liệt truyện q13, 10a. Lê Chất (Liệt truyện, q24) cũng phải chịu cảnh nhục nhã đó tuy không thể phản bội được: khi Bắc phạt, Chất được coi Hậu quản, phong Bình Tây tướng quân, có người nói “Chất bình Tây thì ai bình Chất?”
3. Chi tiết theo lời dẫn bằng chữ Nho đặt trên đầu bài dụ trích trong Quốc văn đời Tây Sơn, sđd, t.44 - 49.
4. Thư của L. Barizy gởi cho Letondal, Marquini, 16-4-1801, dẫn bởi G.Taboulet, La geste française, sđd, t. 253, 254, bởi L. Cadière trong BAVH, Oct-Déc, 1926, t. 397-400. Taboulet trong lời chú (1) của ông cho rằng nơi nói đến là thành Qui Nhơn, dựa trên lẽ Barizy trong thư 16-7-1801 có dẫn thư ngày 8-5 nói chuyện lấy Tourane hôm 8-3 mà cho ông này có tham chiến ở đây. Thực ra, thời gian viết thư 16-4, Barizy còn ở Gia Định, mới ở tù ra. Ngày 17-5 dl, ông mới theo quân tiếp viện Gia Định ra tới Qui Nhơn. Có lẽ ngày 8-3 là ngày âl vì tuy Barizy có viết rõ “8 Mars”, nhưng vẫn kể chuyện trong các thư bằng ngày tháng âm lịch khi có liên quan đến trận đánh (như chuyện đồng Cây Cầy), vì lẽ giản dị là quan, dân ta dùng âm lịch, 8 Mars tương đương với 21-1 Tân Dậu không hợp với trận đánh nào hết ở Quảng Nam. Chỉ có 8-3 âl (20-4-1801) mới hợp với trận Tourane mà sử quan ghi vào đầu tháng 3 âl thôi. Và thành Qui Nhơn chưa giải vây thì Barizy có ở Thi Nại cũng làm sao vào trong đó được? Thực lục q12, 16a ghi: “Cho Ba-la-di về nước, cấp 1 thuyền” là chỉ việc cho chiếc thuyền chìm đã làm ông ấm ức chớ ông vẫn còn có mặt ở Thi Nại ngày 27-5 như đã nói, và ở Đà Nẵng sau đó.
 

taico

Xe buýt
Biển số
OF-394816
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
935
Động cơ
240,810 Mã lực
Tuổi
28
Nhưng bây giờ viện binh Gia Định đã ra. Đây là lần đầu tiên sử quan xác nhận vai trò quan trọng của những người Pháp trong thuỷ quân Gia Định. Tháng 2 năm đó, cho rằng người Hồng Mao (!?) “giỏi thuỷ chiến”, Ánh sai Cai đội Ba-la-di họp thuyền bè, dự bị quân nhu, chiến cụ đợi lệnh. Đồng thời, lại cho Nguyễn Văn Chấn coi Phụng Phi Đại hiệu thuyền chở 26 đại bác, có Renon phụ tá. Tàu Long Phi của Nguyễn Văn Thắng có 32 đại bác, tàu Bằng Phi của Lê Văn Lăng có 26 đại bác, mỗi tàu chở trên 300 người, tất cả đều sửa soạn đi đánh giặc1.

Chuẩn bị đâu đó rồi quân sĩ lên đường vào tháng 3. Những kẻ hăng hái chắc còn nghe vang vang lời khuyến dụ “thành Quy Nhơn chỉ bắc, đạp phá trùng vi; đô Thuận Hoá rung cờ, dẹp yên đảng nguỵ”.

Tháng tư nhuận, trên bộ, Nguyễn Đức Xuyên, Đặng Trần Thường dẫn voi tiến đánh Phú Yên. Nguyễn Văn Trương vẫn coi thuỷ quân. Trần Quang Diệu vội vã sai thêm Đô đốc Đào Công Giản, Đô đốc Tuấn vào La Hai, Hội An phụ với Phạm Văn Điềm. Chỉ đợi Nguyễn Ánh đến vũng Trích sai Nguyễn Văn Thành đổ bộ Xuân Đài cầm quân trên đất là trận tấn công bắt đầu.

Ở Phú Yên, chiến thắng tương đối dễ dàng. Nguyễn Văn Thành sai Đô thống chế Lê Chất, Nguyễn Đình Đắc, Trương Tấn Bửu phân binh 3 đạo đánh Đất Đỏ, Thạch Kỳ rồi tiến về Hội An. Đô đốc Tuấn và Phạm Văn Điềm phải lui về gò Ải Thạch dựa núi chống lại. Giáp trận với quân voi của Nguyễn Đức Xuyên, họ lui thêm về giữ La Hai. Thành sai binh đi vòng đánh tập hậu đuổi bắt được Giản, Tuấn. Điềm trốn thoát lên núi chờ cơ hội xuống quấy rối.

Quân Nguyễn cũng gặp khó khăn vì hàng ngũ mới kết hợp dần dần tan rã. Thực ra binh đã trốn nhiều từ tháng tư đầu nhưng càng đi sâu vào nội địa Tây Sơn, dân lính Tây Sơn trong quân Ngự lâm càng thấy có cơ hội để đào ngũ hơn. Lính trốn nhiều đến nỗi Nguyễn Ánh phải lo vỗ về an ủi Lê Chất và khi cho Ngự lâm quân tiến đến Cù Mông, ông phải sai Nguyễn Huỳnh Đức ra cầm quân cho chắc dạ.

Tuy nhiên trong tháng năm âm lịch đường đến Bình Định đã mở. Khi Võ Tánh nghe tin viện binh tới, bèn mở cửa Nam ra đánh một trận định liên lạc với bên ngoài nhưng không được, thì mặt trận đồng Cây Cầy (còn gọi là Gò Cầy) bắt đầu và kéo dài đến nửa năm.

Phải dừng lại để điểm xét địa thế của vùng phía nam thành Chà Bàn, nơi xảy ra trận chiến quyết liệt, nhiên hậu chúng ta mới theo sát cuộc so tài này. Đường đi từ Phú Yên ra có hai lối. Một men theo gần biển qua đèo Cù Mông dọc thung lũng sông Phú Huề, từ đó có thể đến đồng Bình Thạnh, Phú Trung ở mặt sau Thi Nại để lên Thành. Về phía tây, nơi thung lũng của hai sông La Hai đổ xuống phía nam (Phú Yên) và sông Hà Thanh ngược hướng đông bắc (rồi đổ vào đầm Thi Nại), có đường thông thương ngày nay làm đường liên tỉnh và thiết lộ. Vẫn ở phía tây, các khe nguồn hợp nên sông Kỳ Lô có những ngõ ngách giữa núi Chúa, đồng Cây Cầy, nơi quân Nguyễn - Tây Sơn đang giằng co nhau, nơi mà lần nào tiến quân ra, quân Nguyễn cũng phải tử chiến mới xô đuổi được Tây Sơn để uy hiếp thành Chà Bàn.

Lúc mới tấn công trên đất Bình Định, Nguyễn Văn Thành sai Nguyễn Đình Đắc, Lê Chất đi hai bên, Trương Tấn Bửu đi giữa để ông cùng Nguyễn Đức Xuyên đem voi ứng tiếp đánh núi Lão Hương. Tây Sơn lui về núi Chúa, nhưng viện binh của họ tới tăng tinh thần binh sĩ. Nguyễn Văn Thành đổ ra đánh từ mờ sáng tới trưa. Rốt lại chỉ làm cho Nguyễn Văn Sử chết, tướng nản. Lương Văn Cương, Nguyễn Văn Vân2 đang trông coi Ngự lâm quân mang cả 200 thuộc binh chạy về phía Tây Sơn để tiếp tục chiến đấu.

Lúc này, Tây Sơn cũng bối rối ở Nghệ An. Ta đã biết việc Nguyễn Văn Thụy (Thoại), Lưu Phước Tường, Nguyễn Hoài Châu, Lê Văn Xuân đem 150 người dụ Vạn Tượng đánh sau lưng Nghệ An. Phái bộ đi từ tháng 4 năm ngoái, đến Viên-chăn vào lúc Nguyễn Ánh sắp rút về nên vua Lào không quyết tâm giúp. Tháng 3 năm nay, Thụy lại về Gia Định xin thêm người, đến tháng 6 thì đem binh tràn xuống Nghệ An đánh Nguyễn Đình Lạc ở Đồn Bố, đuổi Phò mã Nguyễn Văn Trị ở Đồn Lam chạy về Thanh. Chiến dịch có lẽ không lấy gì làm dữ dội, nhưng có tiếng vang lớn vì đánh ngay trong nội địa Tây Sơn. Các thổ hào, phiên liêu như Hà Công Thái ở Thanh Hoá, Phan Bá Phụng ở Hưng Hoá cùng khắp nơi Bắc Hà nhân dịp này nổi dậy đánh phá.

Ở Bình Định, Tây Sơn vẫn chưa bị lay chuyển. Nguyễn Ánh thấy đồng Cây Cầy vững chắc muốn chuyển mũi dùi tiến quân về dưới đồng bằng. Ông sai Lê Văn Duyệt với Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành mon men ra Phú Trung. Thực lực không đủ, ông mới đưa thư bảo Nguyễn Văn Thành chia một nửa voi đi gặp Duyệt. Thành không chịu vì một mặt ông phải lo đối phó với Tây Sơn đang biết rõ ông vì hàng ngày vẫn có người bỏ qua bên kia, mặt khác ông phải lo kềm giữ chính quân ông vì “bọn ở lại cũng không đủ tin”.

Chiến trận càng kéo dài thì tinh thần binh tướng càng lung lay, nhất là ở những phần từ chưa đồng hoá. Tháng 7, hàng tướng coi Ngự lâm quân là Từ Văn Chiêu làm phản với Nguyễn Văn Điểm cùng 500 thuộc binh. Tây Sơn lại được thêm một viên tướng có tài, liều lĩnh, ngăn chặn không biết bao nhiêu trận tấn công của Nguyễn. Ánh phải vội vàng an ủi Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Trương. Nhưng cũng không ngăn được 150 quân Ngự lâm nữa trốn đêm ở Hội An, Ánh gượng giải thích: “nhớ quê, nhớ nhà, ai lại không vậy”.

Chưa hết bối rối cho Gia Định. Nơi đồng Cây Cầy. Thành sai người đến núi Chúa chôn thuốc nổ đốt, nhưng không lui được giặc mà còn làm chết thêm Nguyễn Công Trọng. Khi Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng nghe chuyện Nghệ An, muốn kéo binh đánh rốc một lần ở núi Hoa An nơi mà Lê Văn Duyệt vừa đuổi Tư khấu Định tháng trước, thì viên tướng Miên Cao-la-hâm-sâm của Thành lại tư thông với Tây Sơn khiến Ánh vội vã trả lại cho Thành tướng Nguyễn Đức Xuyên (vừa đem voi và Lê Chất xuống) để đổi quân Miên về giữ Cù Mông.
_____________________________________
1.Thực lục, q12, 4b, 5a.
2. Không phải Nguyễn Văn Vân, con Nguyễn Văn Trương, bị bạt gió năm 1793, về năm 1797. Nguyễn Ánh tổ chức 5 đồn quân Ngự lâm quân, lấy hàng tướng chỉ huy lính cũ Tây Sơn, dưới quyền tướng Ánh. Trong danh sách có tên Lương Văn Chương, nhưng không có Nguyễn Văn Vân, vì ở đây (Thực lụcq11, 10a 0 12b) chỉ liệt kê Đô thống chế, Thống chế đồn, Trưởng, Phó chi mà không nói đến Trưởng hiệu, cấp bực của Vân. Trưởng hậu chi của Vân là Nguyễn Văn Lân.
 

taico

Xe buýt
Biển số
OF-394816
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
935
Động cơ
240,810 Mã lực
Tuổi
28
Chiến tranh dằng dai thì vấn đề lương phạn, tiếp tế đạn dược phải gặp nhiều rắc rối, bất ngờ. Tây Sơn bị Nguyễn Văn Trương cướp mất ở Đề Di 3 vạn vuông lúa cùng thuốc đạn, khí giới chở từ Thuận Hoá, Bắc Hà vào trên 150 thuyền. Thống lãnh tên Thụy bỏ thuyền lên bộ chạy báo tin chẳng lành cho Diệu.

Nguyễn Ánh cũng gặp trở ngại. Ông có lương ở kho Diên Khánh, phụ thêm ở phủ Thuận Thành, ở kho La Hai, Hội An (đánh thuế điền, đinh nơi lính, dân Phú Yên), ở kho các nơi khác bằng cách lấy trước thuế năm sau. Lương chở đường thuỷ thường gặp các thuyền Tề Ngôi cướp phá. Từ khi Trần Quang Diệu vào Quy Nhơn thì đội thuỷ quân đặc biệt của Tây Sơn này đã lảng vảng vào đến tận Hòn Khói. Họ lẩn lút trên mặt biển cướp thuyền, thuốc đạn vật dụng của Nguyễn Văn Yến chở từ Cầu Hin đi. Họ chân đánh thuyền chở cá muối của Bình Thuận. Một mối cản trở khác chờ đợi Nguyễn Ánh là các luồng gió bấc: trong tháng 10, thuyền lương chở qua vũng Ma Văn (vũng Nại, Ninh Thuận) bị gió lớn lật úp, chết hơn 100 người, hao hơn vạn quan tiền, 4 vạn vuông gạo.

Thiếu lương, Ánh sai Lưu Tấn Hoà đi Bình Thuận, Bình Khang thu thuế với lời dụ đặc biệt: “cứ tuỳ tiện làm việc không nệ nơi lệ thường”. Cần gạo, Ánh tính lấy gạo cả nơi người Thượng ở Đồng Hương nữa. Tháng 11, điền tô tăng. Khó khăn như vậy không trách trong tháng 9 khi Lê Văn Thanh trốn đi, Vệ uý Hồ Văn Huệ bị Tây Sơn bắn chết ở núi Chúa, Nguyễn Đức Xuyên đã dâng sớ xin dừng binh chờ sang lăm gió hơi thuận sẽ đánh.

Nhưng một may mắn đã đến với quân Nguyễn. Nhờ hỏi dò dân Thượng biết được có đường đi vòng đánh tập hậu, Nguyễn Văn Thành xin thêm Tống Viết Phúc và Lê Văn Duyệt. Nguyễn Ánh đẩy Lê Chất về La Hai và cho tin quân Cù Mông chuẩn bị. Ngày 5-1 (1801), trận đánh xảy ra: Lê Văn Duyệt mặt trước, Nguyễn Văn Thành mặt sau, quân Nguyễn tấn công với một đội súng thuần thục và độ 20 đại bác cỡ nhỏ bắn gần được. Tây Sơn phải bỏ chạy đi nguồn Cơ, Đô đốc Hoan bị giết. Tiếp tục truy kích, quân Nguyễn gặp Tây Sơn góp quân lại đánh ở Tuần Dã (đồng Vòng?) ngày 11-1.1 L. Barizy đếm số địch quân đến 223.000 người. Thật quá nhiều. Viên tướng chống đối là Từ Văn Chiêu đã bày tỏ gan dạ Tây Sơn. Họ đánh rất dữ nhờ chiếm được địa thế tốt, chỉ phải chịu thua vì súng lớn, súng nhỏ của quân Nguyễn thôi. Chiêu thua bỏ chạy để Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành mở tiệc ăn mừng, quá hăng say chiến thắng, khích bác nhau, để hiểm thù kéo dài mãi về sau.

Những trận tiếp theo chỉ là những cuộc thanh toán nhỏ, Nguyễn Văn Thành đến đồng Dài sai Tống Viết Phúc đánh núi An Tượng. Tiếp theo là các trận Đầm Sanh, Sơn Chà. Tây Sơn bỏ từ núi Đá Mài đến Hoa An, Hoa Lục. Như vậy 2 đạo binh Cây Cầy đã thông được với nhau. Họ đóng binh dọc sông Hà Thanh, từ Quán Rạp đến Vân Sơn. Thành Bình Định bị vây tính gần tròn năm. Lực lượng Gia Định tuy đã tiến nhiều nhưng không đủ uy hiếp mặt sau của Thi Nại nên một số quân quan trọng của họ còn kẹt ngoài khơi với 91 thuyền và 50.000 người2. Bộ, thuỷ Tây Sơn còn đóng ở Thi Nại cản đường quân Nguyễn Ánh đổ bộ lên, và đe doạ phía sau lưng quân Nguyễn Văn Thành nữa. Nhìn vào bản đồ vụng về của L. Barizy vẽ rồi so sánh các tài liệu khác cùng địa thế thực tế, ta thấy vị trí chống đánh của hai đối phương trước của Thi Nại. Đường nước bên trong đầm đã hẹp mà Vũ Văn Dũng đem hai chiếc Định quốc Đại hiệu thuyền chở từ 5 đến 60 khẩu đại bác chắn ngay cửa với dày đặc bên trong là 40 tàu lớn, 20 tàu nhỏ hơn, 100 ghe chiến đậu san sát đến cửa sông đưa vào Nước Mặn. Ông còn đặt đại bác trên núi Tam Toà, trên đất liền, bãi Nhạn (phía thành phố Quy Nhơn bây giờ) dựa vào núi cao chĩa xuống bảo vệ đoàn thuyền trấn giữ. Trên bộ còn hơn 60 voi với quân lính.

Nguyễn Ánh lúc bấy giờ đang ở hòn Nần3. Từ tháng chạp Canh Thân (15-01 - 12-02-1801), ông đã dự tính sắm sẵn thuyền nhỏ, chất đồ dẫn hoả rồi móc lấy thuyền Tây Sơn đốt. Tống Viết Phúc xin đảm nhận việc đó. Ánh báo cho Thành biết mưu tính để hợp lực ngăn chặn bộ binh không cho tiếp cứu. Theo ý Thành, Lê Văn Duyệt được cử thay Phúc. Tướng sĩ lâm trận được khuyến khích bằng một lời dụ: “Đây là lúc các người báo đền ơn nước, sống thì phú quý đồng hưởng, chết thì ân điển chẳng quên; anh em trong quân, nếu anh chết em lên thay chức…”. Sử quan cũng ghi thêm rằng: “mọi người đều nức lòng đánh giặc”.
_______________________________________
1. Thời điểm “21-11 âm lịch”, “27-11 âm lịch” là của Barizy trong bức thư kể sau.
2. Theo ước lượng của L. Barizy trong bức thư gởi cho Letondal ngày 11-4-1801. Đáng lưu ý là Barizy không có dự vào trận Thi Nại. Cũng trong thư này ông phàn nàn về việc bị các quan bắt đóng gông, nhưng hai tháng sau ông đã có mặt ở Quảng Nam trong đoàn thuyền với Chaigneau, Vannier, de Forçan...
Trận Thi Nại sắp kể đây dựa vào các tài liệu: Thực lục q13,3b-6b, thư của Chaigneau (có dự trận) cho Barizy, 2-3-1801, ngay ngày sau lúc đánh nhau, thư của Lelabousse cho Nhà Chung từ Nha Trang, 20-4-1801 (G. Taboulet, La geste française..., sđd, t. 259, 260. Thư Barizy kể trên L.Cadière “Les Francais au service de Gia Long - II - Leur correspondance” BAVH, Oct - Déc 1926, t,373- 391) có kèm bản đồ vẽ cửa Thi Nại.
Về thực lực đôi bên, Barizy đã ước lượng Tây Sơn như sau: 1.800 thuyền với 6.000 khẩu đại bác? Ta phải ước giảm bớt vì nhớ rằng Barizy không dự trận và vốn có tính dễ xúc động. Chaigneau viết thư cho ông chỉ tỏ vẻ ngạc nhiên vì khả nàng chống cự của thuỷ quân Tây Sơn thôi. Lelabousse kể chuyện có những điểm sát với Thực lục. Ví dụ ông đã chỉ đích trận từ 10 giờ đêm đến 10 giờ sáng, việc thuyền Nguyễn nhờ đêm tối và gió tiến đến gần thuyền địch đốt cháy theo kế hoả công.
3. Sử quan viết là Nan Dự. ĐNNTC, tỉnh Phú Yên gọi là Bàn Than Dự, và còn chỉ thêm một hòn đảo khác tên là Than Dự trên có khắc chữ “nan” “không biết từ thời nào”. Hòn Bàn Than và hòn Nần là một vì đều được xác nhận là một hòn đảo bên trong vùng Cù Mông, có miếu Công thần. Nguyễn Ánh ở đó điều khiển quân tướng tránh được sóng gió mà cũng cách biệt với quân thù hơn. Duy lúc đánh trận Thi Nại thì chắc ông phải dời ra đóng ở hòn Đất ngoài cửa biển Qui Nhơn. L. Barizy chỉ “Ile ông Datte”, L.Cadière gọi theo âm đọc “hòn Đạt” là sai. Đó là một trong 3 hòn: hòn Khô, hòn Đất, hòn Ngang (Khô dự, Thổ dự, Hoành dự) của ĐNNTC. q9, 15b.
 

taico

Xe buýt
Biển số
OF-394816
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
935
Động cơ
240,810 Mã lực
Tuổi
28
Chiến trận xảy ra vào đêm 16 tháng giêng Tân Dậu (28-2-1801). Tiền chi Hoàng Văn Khánh đem bộ binh lén đến Vũng Dừa đợi ở Tiêu Cơ lửa cháy thì tiến lên công hãm trại giặc và đi vòng núi mai phục để cản tiếp viện (theo vùng đèo Son bây giờ?). Quân Nguyễn qua Tiêu Cơ bắt được thuyền tuần Tây Sơn, truy ra khẩu hiệu. Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương bèn đem thuyền nhỏ nhắm Hổ Cơ xông vào, đốt thiêu thuỷ đồn làm hiệu.

Và trận tấn công bắt đầu. Theo Lelabousse, quân Nguyễn chỉ dùng có 4.000 người trên 26 ghe chiến và 100 thuyền nhỏ. Lúc đó quân Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương đã đổ bộ rồi. Các ghe chiến còn lại chở ông Tổng thuỷ “to họng”1 Võ Di Nguy đi trước.

Quân lính “thừa đêm tối và gió xuôi, tiến vào tàu thứ nhất, nhảy lên đốt phá. Họ xông vào cửa biển, ném vung các bó đuốc và đổ dẫn hoả ra”. Thế rồi trận đánh trở nên dữ dội. Quân Tây Sơn từ trên núi và từ các tàu bắn vãi đến. Hà tiện lời như sử quan mà cũng tả ra là “tiếng súng vang trời, đạn bay như mưa”. Võ Di Nguy trúng đạn ngã lăn ra chết. Lê Văn Duyệt không quay đầu lại, đánh mạnh hơn đến Nguyễn Ánh bảo lùi cũng không chịu. Đám sĩ quan Tây phương: Chaigneau, Vannier, de Forçan đưa các ghe chiến vào rồi quay lại bảo vệ Nguyễn Ánh khi trận chiến xảy ra. Nhưng nóng lòng, sốt ruột, máu chiến sĩ nổi lên, de Forçan lẻn đi trong đêm tối, tự mình đốt được 7 ghe chiến địch. Chiến trận kéo dài 3 giờ sáng đến đứng trưa 1-3-1801 (“Dần tới Ngọ” của Thực lục). Thuyền Tây Sơn cháy tan, nhưng họ còn cố chống giữ trong các giàn súng tới khi cuối cùng đám cháy lan đến các thùng thuốc súng làm nổ tung hết lên. Như lời Chaigneau báo cho Barizy biết chiến thắng, “ta đốt hết cả thuỷ quân giặc, không sót một chiếc thuyền nhỏ nào”2.

Ông thấy rằng “người Nam chưa bao giờ phải đánh trận dữ dội như vậy” và sử quan cũng không quên kết luận: “Người ta gọi trận này là đệ nhất vũ công”.

Ngày đó, Nguyễn Ánh đổ bộ lên chợ Giã3, ra dụ chiêu an rồi sai người đi báo cho Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận biết. Ông lại bảo Gia Định truyền sứ cho tin đến tận Cao Miên, Xiêm La. Tuy vậy, Ánh cũng mất đến hơn 600 người. Tướng thì ngoài Võ Di Nguy còn có Cai cơ Hoàng Văn Định, Phó Tiền thuỷ dinh và Phó Vệ uý Nguyễn Vĩnh Hựu của đạo Thần Sách.

Phía Tây Sơn, họ “chống giữ đến chết” như Chaigneau nói, cho nên toàn bộ thuỷ quân đều bị tiêu diệt. Từ nay họ không còn chút uy thế nào trên mặt bể nữa, trước cả khoảng tháng 4 âm lịch khi Đông hải vương Mạc Quần Phù cùng các tướng bị bắt lúc bị gió dạt ngoài khơi Thi Nại. Họ hoàn toàn không kiểm soát được mặt bể để tha hồ cho thuỷ quân Gia Định tung hoành ra lấy Phú Xuân mà không sợ một lực lượng lưu động nào theo kịp ngăn trở nữa. Trần Quang Diệu còn bức được Võ Tánh chết, nhưng sự thực đám quân tướng Tây Sơn ở đây mấy tháng sau phải tan rã trên rừng chính vì không thể nào di động theo các đồng bằng dọc biển mà không có yểm trợ của thủy quân, chính vì sự tan vỡ ở trận Thi Nại này vậy4.
______________________________________
1. Biệt hiệu của người Tây gọi Võ Di Nguy, theo Barizy. Cũng Barizy cho biết người ở tiền tuyến là “ông Yun koun” (Giám quân) mà Cadière chỉ là Phạm Văn Nhân, người giữ chức Giám quân của 5 đội quân Thần Sách (Thực lục, q10, 8a). Thực ra, Nguyễn Ánh đã cắt Nhân nằm ở Cù Mông. Người ở tiền đạo, như ta đã biết, là Nguyễn Văn Trương và Tống Phúc Lương. Nguyễn Văn Trương có hồi cũng làm Giám quân dinh Trung thuỷ, rồi coi dinh Trung thuỷ, kiêm cả Tiền, Hậu thuỷ (Thực lục, q7,26b), coi cả thuỷ quân suất các chiến dịch về sau. Cho nên, ông Giám quân Barizy nói ở đây là Nguyễn Văn Trương vậy.
2. L.Barizy còn viết thư ngày 11-4-1801 nhận Nguyễn Ánh mất 4.000 người, Tây Sơn mất 50.000 người, toàn bộ thuỷ quân và thuyền bè chuyên chở trên 1.800 chiếc, 6.000 khẩu đại bác. Tưởng chỉ nên lưu ý đến tính cách tiêu diệt hoàn toàn thuỷ quân Tây Sơn mà thôi.
3. Barizy ghi tên trên bản đồ đầm Thi Nại là “port de Qui nhon autrement Choya” (Chợ Giã). Thị xã Qui Nhơn hiện vẫn thường được dân quê gọi nôm na là “Giã”, tên một thứ thuyền, lưới bắt cá dân chài thường dùng.
4. Tiết này, ngoài những chứng dẫn khác có ghi rõ, đều lấy từ Thực lục q10, q12, q13, 1a-6b.
 

taico

Xe buýt
Biển số
OF-394816
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
935
Động cơ
240,810 Mã lực
Tuổi
28
__________________________________________________________Tiết 19


CHIẾN TRANH Ở PHÚ XUÂN VÀ BẮC HÀ


Cuộc tử thủ của Tây Sơn ở Quy Nhơn và ý kiến giải vây cho nơi này * Trận chiếm Phú Xuân * Cố gắng tuyệt vọng của Tây sơn ở Quy Nhơn và luỹ Thầy * Kết thúc chiến tranh ở Bắc Hà.



Chiến thắng Thi Nại làm nhẹ bớt nỗi “uất uất không vui” của Nguyễn Ánh. Nhưng lực lượng bộ binh của Tây Sơn vẫn còn nhiều hùng khí. Khi Ánh sai Lê Văn Bản đem quân đi hai vũng Nồm, Bấc đóng giữ tuần phòng thì Vũ Văn Dũng đã hợp với Trần Quang Diệu chia người trấn giữ: Tư khấu Định đóng ở Bến Đá, Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ giữ đầm Nước Ngọt, Đô đốc Vũ Văn Sự trấn Tân Quan ở giữa. Hàng phòng vệ ấy dùng để cản sao cho họ rảnh tay công thành sau khi họ đã tụ tập quân lính thề chiếm lấy cho kỳ được.

Quân Nguyễn nhân đà thắng cũng muốn tiến lên phá vỡ vòng vây cho Võ Tánh. Nguyễn Văn Thành sai Tống Viết Phúc đóng ở Càn Dương. Binh Tây Sơn đánh giết Vệ uý Trần Văn Xung ở chợ Chánh Lộc. Quân Phúc kéo đến thì Tây Sơn lui. Rượt đuổi đến Thạch Cốc1, Phúc rủi gặp kẻ thù. Đô đốc Từ Văn Chiêu vẫn hậm hực về tiếng gọi “hàng tướng” của Phúc, có dịp để trả thù bằng một trận phục binh chiến thắng lớn lao. Phó Đô thống chế Phạm Văn Cơ, Vệ uý Nguyễn Văn Tri bị bắt, hai Vệ uý Hoàng Phúc Bảo, Hoàng Văn Tứ bị giết khiến Phúc phải bỏ quân chạy về Thi Nại. Như vậy rõ ràng chiến thắng thuỷ trận mới đó chưa đủ làm điên đảo Tây Sơn trên bộ.

Mọi người hoang mang. Lúc bấy giờ chính ai đã đề nghị ra đánh Phú Xuân để không những cứu gỡ cho tình thế mà còn làm cho chiến thắng trở nên quyết định như lời De la Bissachère? Theo ông này, Nguyễn Ánh bị thúc đẩy bởi các tướng Bắc Hà đang chán nản vì phải đánh lâu quá bắt đầu muốn bỏ rơi ông và cũng được vài người Pháp khuyến khích, nói rằng đánh ra Phú Xuân vẫn là ý kiến của Giám mục d’Adran. Với sử quan thì người bày mưu đó với người đề nghị đốt Thi Nại cũng là một: Đặng Đức Siêu, người Bồng Sơn, phủ Quy Nhơn, đồng hương với chúa Tây Sơn2. Họ cũng có ghi thêm ý kiến của Võ Tánh, nhưng ta có thể coi lời Võ Tánh như một sự chấp nhận hy sinh hơn là một sáng kiến. Vinh dự đó có lẽ để dành cho mưu thần Việt thì phải hơn vì cái thế “vây Nguỵ, cứu Triệu” đầy dẫy trong binh pháp Đông phương.

Cho nên, sau khi lên Vân Sơn coi đồn trại địch một ngày rồi về3, bắt đầu tháng 2 âm lịch, Nguyễn Ánh sai Cai cơ Tống Phúc Chu về Gia Định hợp với Lưu trấn ở đó là Nguyễn Văn Nhân tuyển thêm một vạn binh, nếu cần bắt cả lính đồn điền. Rồi cũng có việc xét dân bắt lính ở Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận. Ánh có nói rõ mưu mô dự tính cho Nguyễn Văn Trương để đem binh thuyền đánh Quảng Nam, Quảng Ngãi trước.

Nhưng cuộc vét dân đã gây phản ứng về phía dân chúng. Phạm Văn Điềm chạy lên rừng từ hồi quân trong mới kéo ra, nay tụ tập được 500 bộ đảng đánh đốt Hội An, đuổi Lưu thủ Phan Tấn Tuấn chạy ra Xuân Đài nhờ cậy thuỷ binh của Tống Viết Phúc, Nguyễn Đức Xuyên được phái tiếp viện.

Mối loạn Phạm Văn Điềm là khó khăn mới cho Nguyễn Ánh, dằng dai, làm nhọc mệt quân Nguyễn không ít. Trong tháng ba, đánh rồi chạy, chạy rồi lên đánh Điềm đã quấy rối Phú Yên trước mặt danh tướng Lê Chất. Lưu Tấn Hoà giữ Hội An bị Điềm lén đốt phong hoả đài tuyệt đường thông tin, đánh úp giết chết. Nguyễn Long đóng ở La Hai định chiếm lại Hội An lại bị đánh lén phải bỏ cả lương phạn, khí giới chạy về sông Đà Rằng. Tội nghiệp cho viên Thượng đạo tướng quân 20 năm trên rừng, mới làm chỉ huy lần đầu đã phải bại vong. Lê Chất ra tay, hợp binh với Hoàng Văn Khinh người thay Long, tiến đánh bắt Đô tư Nguyễn Nhiễu ở bến Gạo (Mễ Tân). Điềm bỏ chạy lần nữa nhưng vẫn còn sẽ gây khó khăn trong tỉnh, sau lưng quân Nguyễn Văn Thành.

Trong lúc đó thì tiến triển thuỷ quân Nguyễn vẫn khả quan. Nguyễn Văn Trương đổ bộ Cổ Luỹ, đốt kho Trà Khúc đuổi Đô đốc Tuấn chạy, rồi ra cửa Đại Chiêm đánh Hội An, Phú Triêm bắt 24 voi. Ở La Qua, ông đuổi Đô đốc Nguyễn Văn Xuân, Lưu thủ Thiếu uý Lưu Tấn Thể lấy hơn 80 đại bác, binh thuyền, khí giới4. Nghe tin, Nguyễn Ánh phái thêm Tống Viết Phúc đem 1.000 binh và 30 ghe chiến đến giúp. Ông còn cho cả Phạm Văn Nhân lãnh 3 chiếc Long, Phượng, Bằng trong đội cận vệ của ông ra Đà Nẵng.

Để việc rút quân khỏi tiết lộ, Nguyễn Ánh sai Nguyễn Công Nga đem 15 thuyền ngày đêm tuần tiễu từ cầu Tân Hội tới Nước Mặn, từ sông Tam Kỳ (?) tới sông Dinh, Gò Bồ (Phù Sa), cấm dân chúng lai vãng, xầm xì tin tức.
_______________________________________
1. Có Thạch cốc tự, gọi nôm là “chùa Hang” nổi danh, thuộc xã Mỹ Hoà, quận Phù Mỹ, Bình Định.
2.Liệt truyện, q10, từ tờ 6b, truyện Đặng Đức Siêu.
3. L.Barizy trong thư 11-4-1801 dẫn việc Nguyễn Ánh có mặt ở trận “Dung thi” (Đồng Thi, đồng Cây Cầy) tháng 11, 12 âl năm ngoái, “tay mang ống viễn kính”. Barizy lúc bấy giờ còn ở Gia Định, mới vừa ra tù nhờ lệnh hoàng tử Cảnh trước khi chết (20-3-1801), không biết có được tin đích xác không. Vì sau trận đồng Cây Cầy, Vân Sơn thuộc về quân Nguyễn, nhưng Thi Nại chưa bị phá, Nguyễn Ánh có bỏ hòn Nần lên bộ thám sát không? Cho nên chuyện lần này có vẻ đáng tin hơn chuyện lần trước.
Còn địa điểm Vân Sơn theo lời tả của ĐNNTC, tỉnh Bình Định, mục “Vân Sơn giang” thì chắc là vùng Vân Hội, quận Tuy Phước (đã nói) chớ không phải gò Vân Sơn (có nhà ga cùng tên), gần Chà Bàn, nơi nổi tiếng nhờ Chế Lan Viên ngồi khóc dân Chàm.
4. Thư Barizy cho các ông Marquini, Letondal, 16-7-1801 (BAVH, Oct - Déc 1926, t. 401) kể trận đánh lấy Huế, có nhắc trận Đà Nẵng hôm 8-3 lấy 30 voi, 84 đại bác, kho gạo, áo quần. So với số súng và voi thu được với Thực lục ở đây, ta chắc 2 trận của 2 tài liệu chỉ là một.
 

taico

Xe buýt
Biển số
OF-394816
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
935
Động cơ
240,810 Mã lực
Tuổi
28
Ngày 27-5-1801, binh thuyền Gia Định tới Quy Nhơn với 10.900 bộ binh, trên 27 ghe chiến và nhiều ghe trí súng1. Quân ở vài ngày, Ánh đưa mật thư bảo Võ Tánh lén bỏ thành chạy ra và đồng thời tuyên lệnh ban thưởng cho những người nào bắt được vua tôi Quang Toản. Ngày 3-6, quân Ánh rút đi sau khi đốt lửa ở núi Một báo tin cho Nguyễn Văn Thành ở Vân Sơn biết và để giã từ viên Phò mã Hậu quân, người anh hùng cuối cùng của Gia Định Tam kiệt. Ngày 7-6 quân đến Đà Nẵng, Ánh sai Nguyễn Văn Trương, Phạm Văn Nhân đem thuyền đi trước đến cửa Eo (Noãn khẩu, cửa Thuận An). Trận đánh Phú Xuân bắt đầu2.

Tám giờ sáng ngày 11-6, thuỷ quân Nguyễn đến dàn trước mặt cửa sông Hương chia làm 2 đạo: các tàu và thuyền trí súng dưới quyền Phạm Văn Nhân hướng vào cửa Thuận An, 42 ghe chiến và 300 ghe nhỏ chở 15.000 bộ binh theo Nguyễn Ánh, Lê Văn Duyệt, Lê Chất nhằm vào cửa Tư Hiền (Tư Dung, hay nôm na, cửa Ông theo bản đồ của Barizy). Người giữ cửa là Phò mã Nguyễn Văn Trị đóng trên núi Quy Sơn (núi Linh Thái) với 10.000 người dựa thế hàng cọc gỗ đóng chặn bên bờ sông ngăn ghe thuyền địch.

Năm giờ sáng ngày 12, cuộc tấn công bắt đầu. Binh Tây Sơn trên núi cao bắn xuống rất dữ, các ghe thuyền lại mắc phải cọc chìm khá nhiều. Trận chiến kéo dài đến suốt ngày (từ Thìn tới Dậu): 7 giờ sáng tới 5 giờ chiều. Lê Văn Duyệt bàn với Lê Chất rằng không đánh tập hậu không được. Đêm đến, ông đem 20 thuyền lén vượt bờ cát, trước sau ập lại, bắt được Nguyễn Văn Trị cách đồn độ 500 thước. Đô đốc Phan Văn Sách cùng 500 người phải hàng.

Trong lúc trận chiến tiếp diễn ở cửa sông thì trên Kinh thành một âm mưu nội tuyến của giáo đồ bị tiết lộ3. Một người thợ mộc ở Phú Xuân đã lén thuyết phục Nguyễn Ánh rằng các giáo sĩ và giáo đồ có thể giúp ông được. Ông bèn gửi thư cho Giám mục (có lẽ Labartette) và các giáo sĩ báo tin quân ông đến và xin các ông này cầu nguyện cho. Lúc trở về người thợ mộc bị bắt và khai tất cả. Dưới sự thúc đẩy của Nội hầu Lê Văn Lợi (Barizy viết “Hoe Hanh Loi”: Lê Văn Lợi, hay “Noé haw Loée”: Nội hầu Lợi), một lệnh truyền tru diệt những người Thiên Chúa giáo trong vùng được tung ra ngày mồng 5 - 5 (tết Đoan Ngọ), nếu quân Nguyễn Ánh không vừa tới kịp4.

Trong sông, quân Nguyễn gặp một số tàu trong 64 chiếc từ Bắc vào tiếp viện dưới quyền một viên Tư mã mà Barizy gọi là “Noe”. Hai mươi bảy thuyền có trí súng của Tây Sơn có mang cờ lụa đỏ tiến đến ngăn chặn đội thuyền Phấn Dực, chỉ trong phút chốc đã bị đánh thua chạy. Ba giờ chiều mồng ba tháng 5, ghe thuyền quân Nguyễn vào bến Phú Xuân5. Quang Toản vội vã mang vàng bạc, bỏ cả sắc ấn nhà Thanh lại để chạy cốt thoát lấy thân với em là Thái tể Quang Thiệu, Thái sư Quang Khánh cùng Đại tư mã Tứ, Đô đốc Trù. Ở lại hàng có Nội hầu Lê Văn Lợi, Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ cùng các Phụng nghi, Thị lang bên văn, Đô đốc, Đô tư bên võ. Barizy đi thăm người bị bắt thấy có mặt mẹ Trần Quang Diệu, em vợ ông, vợ Vũ Văn Dũng với các con Ngọc Hân mà ông không tiếc lời khen ngợi vẻ mặt ưa nhìn cùng thái độ cứng cỏi của họ (đây là Quang Cương, Quang Tự, Quang Diệu của Thực lục).

Nghe tin quân Nguyễn đánh Phú Xuân, Trần Quang Diệu sai Tư khấu Định đem 5.000 quân vòng đường núi về cứu. Quân đi 12 ngày đường bị người Thượng ngăn trở, Định tới thì Phú Xuân đã mất liền đóng quân cách đấy nửa ngày đường, người ngựa mệt nhọc lăn ra ngủ. Lũ chăn trâu về báo, Nguyễn Ánh sai Lê Văn Duyệt, Lê Chất đem quân bản bộ tiến đánh thì bị vây ở vùng núi gần đó. May sao 4.000 quân hậu tập đến vừa kịp phá tan vòng vây. Định bỏ chạy chết trong rừng. Ba Đô đốc bị bắt, trong đó có Đại Đô đốc Lê Văn An mà tuổi trẻ và khí vũ hiên ngang khiến Nguyễn Ánh phải mến phục6.

Ở Quy Nhơn, Trần Quang Diệu cũng lo công kích thành gắt gao. Võ Tánh đánh ra một lần cuối rồi tự đốt chết sau khi bảo Lưu thủ Nguyễn Văn Thanh đưa súng cho Trần Quang Diệu gởi gắm tướng sĩ. Như vậy Tây Sơn đã thanh toán xong đạo quân trong vòng vây để rồi phải lo phá vòng vây.

Trong nửa năm sau 1801, phía bắc không có gì đáng lo lắng cho Nguyễn Ánh. Ông đã sai Nguyễn Văn Trương đuổi theo vua tôi Quang Toản đến sông Gianh chận bắt 2.000 quân chạy trốn. Thế mà Tây Sơn còn ráng thắng một trận để chặn đường cho vua họ chạy thoát. Nguyên khi Tây Sơn đến Hoành Sơn, Trương sai Nguyễn Kế Nhuận đem 7.000 binh thuỷ bộ chận đánh. Đến núi Thần Đầu bị phục binh, Nhuận phải chạy bỏ quân chết quá nửa7. Viên hàng tướng Tây Sơn từ đất Gia Định nay bị Nguyễn Ánh kể tội đem ra giết chết.
__________________________________________
1. Thư Barizy đã kể, danh xưng về các thuyền lộn xộn quá: galère, chaloupe canonnière, demi-canonnière rồi “ghequienne”! Chuyển tiếp viện này không thể lẫn với chuyến đầu năm do Trần Công Thái dẫn Hậu quân Gia Định ra (Thực lực, q10, 3b). Số lượng 10.900 quân ghi ở đây, 10.000 ghi ở thư khác, ngày đến Qui Nhơn cho ta quyết chắc là chuyến chuyển quân vào tháng 4 âm lịch của Thực lục (q13,22a)
2. Trận Huế, ngoài Thực lục, thư Barizy kể trên, còn có tài liệu ở Liệt truyện q7, 17b, về Phạm Văn Nhân, q8, 8a về Nguyễn Văn Trương, q21, 20b, Nguyễn Văn Thành, q22, 6b Lê Văn Duyệt, q24, Lê chất, q30, 51ab Nguyễn Quang Toản.
3. Thư Girard gởi cho Letondal, 25-6-1801, thư Barizy cho Marquini, 15-7-1801 (A. Launay, III, t. 422, 423).
4. Thời điểm lấy của Barizy vì chi tiết vẽ rõ hơn, Thực lục có nói đến lúc rời Qui Nhơn ngày Canh Ngọ (5-6-1801), đến Đà Nẵng ngày Quý Dậu tháng 4 âl (8-6-1801).
5. Theo Barizy tả biến chuyển thì 3 giờ chiều 13-6 trùng với 3-5 của Thực lục (q14, 1b). Nhưng Nguyễn Ánh ở dưới thuyền ngự đến 8 giờ sáng 15-6 mới vào Kinh thành có lẽ vì muốn chờ tết Đoan Ngọ (tốt ngày? long trọng?). Vì lẽ đó nên Girard mới nói đến chuyện giải phóng Huế ngày 15-6.
6.Thực lục q14, 10ab, Liệt truyện q22, 7ab. Thư Barizy do Cadière đã kể có nhắc tên 3 Đô đốc hàng là Do Doue Cane (giải thích là Lương Văn Canh như Cadière là sai), Boune và Banaa. Lê Quốc Cầu và Lê Văn Từ bị bắt trong trận không có âm tên giống như vậy, Duy Boune có lẽ là Tống Phúc Phượng (Liệt truyện, q25) hơn là Nguyễn Bá Phong như Cadière đã theo lời chỉ dẫn của Ch. Maitre. Phượng cầm cánh quân riêng 1.000 người và tự đi đầu hàng trước.
7.Liệt truyện q8, 9a.
 

taico

Xe buýt
Biển số
OF-394816
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
935
Động cơ
240,810 Mã lực
Tuổi
28
Tài liệu quá rõ ràng về thực lực thủy quân 2 bên. Các tướng đánh thuê từ phương Tây và khả năng của họ.
 

taico

Xe buýt
Biển số
OF-394816
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
935
Động cơ
240,810 Mã lực
Tuổi
28
Tuy nhiên mặt nam mới là đáng chú ý tới1. Nguyễn Ánh bảo Nguyễn Văn Trương sai Hoàng Văn Điểm giữ Thanh Hà rồi về Đồng Hới sửa luỹ phòng thủ. Thu thêm 52.000 binh Tây Sơn nhập binh mình, Ánh sai Lê Văn Duyệt, Lê Chất, Tống Viết Phúc đánh vào. Đến Trà Khúc, Phúc lập được công lớn: đánh bắt Đô đốc Nguyễn Văn Khôn, Tham đốc Hồ Văn Tự cùng 3.000 quân. Nhưng ông rủi ro lại gặp kẻ thù: viên tướng do Trần Quang Diệu phái ra với Đại Đô đốc Lê Danh Phong (sau ra hàng) lại là Từ Văn Chiêu, nên đã phục binh giết chết Phúc, ngăn hẳn con đường tiến quân của Duyệt, Chất đang đóng từ cửa Mỹ Á giăng lên núi2.

Phía nam chiến luỹ đó, 30.000 quân (ước lượng của Barizy và tính toán của Nguyễn Ánh) của Nguyễn Văn Thành cũng đang mệt nhọc với quân Dũng, Diệu và bọn hàng tướng trong thành Bình Định3. Ở phú Yên, thỉnh thoảng Phạm Văn Điềm cũng làm rối 6-7.000 quân của Tiên phong Hoàng Viết Tuyển.

Tháng 8 Tân Dậu (1801), Tây Sơn muốn đánh Hoa An, Hoa Lộc để thông với Phú Yên bèn đàn áp thật mạnh ở Sơn Chà4, tiến đến sông Dinh, sát núi Một, nhưng không kết quả. Trần Quang Diệu lại chuyển 18.000 quân ra phía Bắc, mưu sai Từ Văn Chiêu đem 2.000 quân đánh úp sau lưng Lê Văn Duyệt để phá thế bao vây mà tìm đường ra Bắc Hà nhưng cũng không toại nguyện. Mặt nam Bình Định, Nguyễn Văn Thành lại tung quân đánh mạnh từ luỹ Lò Giấy (Lô Chỉ) đến Tân An khiến Diệu phải trở vào tiếp tay với Vũ Văn Dũng tận vét dân binh chống cự5. Trận chiến cứ dằng co như vậy trong tháng 10.

Trong khi đó ở Bắc Hà, Tây Sơn cố gượng dậy. Quang Toản cải hiệu Cảnh Thịnh làm Bảo Hưng, hạ chiếu tự cải lỗi để uy phủ các trấn, sai đắp gò tròn nơi cửa ô Chợ Dừa và đầm vuông nơi hồ Tây để hạ chí, đông chí ra đó tế trời đất. Công việc thật có vẻ của thời thái bình thịnh trị khiến cho Nguyễn Huy Lương phải làm bài phú Tụng Tây Hồ, ca ngợi công đức Tây Sơn một cách quá muộn màng. Nhưng Nguyễn Văn Trương ở sông Gianh cũng nghe điệp báo nói Bắc Hà “xứ xứ lũ động” nên hi vọng của Tây Sơn tranh đoạt lại đất đai thật là mỏng manh.

Tuy vậy, tháng 8 âm lịch, Quang Thùy cũng dẫn quân bản bộ đi Nghệ An trước. Ở Bắc trong 3 tháng, Quang Toản đốc 3 vạn binh tứ trấn cùng Thanh Nghệ, lưu Quang Thiệu, Quang Khánh lại Thăng Long rồi kéo quân vào Nam. Từ tháng 11 Tân Dậu ra đi mà tới 1-1 Nhâm Tuất (1802) mới xảy ra trận đánh luỹ Trấn Ninh, thật quá xa thời Quang Trung tung quân.

Những danh tướng Tây Sơn mắc kẹt ở Quy Nhơn để ở đây nổi bật lên hình bóng một anh thư mà giáo sĩ De la Bissachère đã hết lời ca tụng đến nỗi đem tăng quân số bản bộ từ khoảng 5.000 lên đến 300.000! Thuỷ quân Tây Sơn do Thiếu uý Đặng Văn Đằng và Đô đốc Lực dàn trên 100 thuyền bày trận ngoài cửa Nhật Lệ. Trên bộ, Quang Thuỳ, Tổng quản Siêu thẳng lên luỹ Trấn Ninh. Và ở mút phía Tây luỹ, nơi núi Đâu Mâu có Tư lệ Đinh Công Tuyết và Đô đốc Nguyễn Văn Kiên cáng đáng. Chiến tranh xảy ra như 150 năm về trước cũng nơi đất này, tuy các vai trò đã đổi thay.

Nguyễn Ánh sai Nguyễn Văn Trương đánh ngoài biển, Phạm Văn Nhân, Đặng Trần Thường phản binh cự. Quân Tây Sơn bị chết cả ngàn vẫn leo lên núi Đâu Mâu như kiến. Nguyễn Ánh sai thả đá xuống vẫn không ngăn được. Bùi Thị Xuân đốc thúc voi, binh tử chiến từ sáng tới trưa, đã phá đổ một vài mảng thành. Ngôi vị Nguyễn Ánh tưởng bị đe doạ lần nữa. Nhưng ngoài biển, Nguyễn Văn Trương phá tan được thuỷ quân Tây Sơn. Trên đất, Nguyễn Văn Kiên tiến quá sâu với 8-900 bộ binh bỗng nhiên chịu hàng. Thế mà Bùi Thị Xuân còn đánh mãi tới xế. Thuỷ quân Nguyễn theo đà thắng đổ bộ đánh tập hậu. Quang Toản vội vàng rút lui, bỏ quân Bùi Thị Xuân rối loạn theo. Thế trận đánh tan rã đánh dấu lần quật cường cuối cùng của Tây Sơn6.

Trận Trấn Ninh cũng làm tiêu tan hi vọng của quân Tây Sơn ở Quy Nhơn. Trong hai tháng đầu năm Nhâm Tuất (1802), họ đã phục binh giết được Phó tướng Nguyễn Văn Huệ và cố gắng cầm cự với quân Nguyễn Văn Thành hợp với Lê Văn Duyệt vào đánh luôn trong 7 ngày. Vùng dưới biển gần Thi Nại, từ sông Dinh lên núi Kỳ Sơn đều bị quét sạch đến mãi Vườn Cau. Vũ Văn Dũng đem nhiều binh đến đánh, không chiếm được mà còn hao các Đô đốc nữa. Cảnh quân Lê Văn Duyệt, Lê Chất đánh ép vào Bến Đá, thuỷ binh đổ bộ Tam Quan, Đề Di.

Nhưng cái nguy nữa cho Tây Sơn chính là thiếu lương. Hồi tháng 2 họ định vượt núi Nha Tham lén cướp Phú Yên nhưng đã bị Nguyễn Văn Thành chặn lại được. Bây giờ cho dù Trần. Quang Diệu và Vũ Văn Dũng có muốn đi cướp Gia Định như giáo sĩ De la Bissachère nghe đồn cũng không được nữa7. Tháng ba năm đó, hai người đều hết lực bỏ thành đem quân đi vòng trên núi ra Bắc với 80 tướng, 3.000 binh mạnh và 86 voi.

Tháng 5, Nguyễn Ánh lên ngôi tôn, niên hiệu Gia Long. Đối với chúng ta, ý nghĩa chính là ở chỗ cuộc chiến kéo dài 30 năm đã sắp chấm dứt.
______________________________________
1. La relation sur le Tonkin...., sđd: t.108, 109. Thư Langlois cho Boiret. 3-9-1802 (BEFEO, 1912, t.55)
2. Con số 52.000 là của Barizy. Thực lục q14, 16b - 18b, Liệt truyện q13, 9b, 10ab.
3. Trường hợp Nguyễn Văn Tồn (Liệt truyện q28, 3ab) khi thành Bình Định mất theo Tây Sơn đánh rất hăng, quân Nguyễn kêu không ngó lại, đến khi trở về, người ta hỏi, ông trả lời: “Đánh hăng cho giặc khỏi nghi”. Ấy vậy mà không biết sử quan nghe ở đâu lại nói có người khen là “có trí”.
4. Theo sự kiện kể ở đây thì chắc là hòn Chà vùng nam sông Vân Sơn (Vân Hội) chớ không phải núi Trà (Trà Sơn), Chà Rang (Trà Lang Sơn) ở Phù Cát, tây bắc Chà Bàn của ĐNNTC.
5. Thực lục q15, 1b, 17a, 20ab.
6. Trận Trấn Ninh: Thực lục, q15, 28ab, q16; Liệt truyện q8, 11b-13a, q30, 53ab, 54a; La relation sur le Tonkin... sđd t.108-111. Tuy De la Bissachère quá tán tụng Bùi Thị Xuân nên mới lo sợ giùm cho Nguyễn Ánh, nhưng đã có những chi tiết đúng như: voi phá vài nơi của luỹ Thầy (Liệt truyện: “Bùi Thị Xuân suất tượng khu chúng”), đánh tới 2 giờ chiều (“quá trưa” của Liệt truyện). Duy ông không biết đến tên viên tướng phản bội mà ta gán cho Nguyễn Văn Kiên vì ông này có mặt trong trận và có tên trong danh sách hàng tướng.
7. La relation sur le Tonkin, sđd, t. 113. Có thể vì toan tính đánh ở Phú Yên trong dịp này mà người ta đồn tới tai De la Bissachère rằng Trần Quang Diệu muốn vào lấy Đồng Nai chăng?
 

taico

Xe buýt
Biển số
OF-394816
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
935
Động cơ
240,810 Mã lực
Tuổi
28
Nói chung Nguyễn Ánh áp đảo thủy quân hoàn toàn. Kĩ thuật phương Tây đã thay đổi cục diện quá nhanh
 

taico

Xe buýt
Biển số
OF-394816
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
935
Động cơ
240,810 Mã lực
Tuổi
28
Từ lâu trong quân đội Nguyễn Ánh có những người Bắc Hà đầu quân mưu khôi phục nhà Lê. Nguyễn Ánh vẫn mập mờ dùng niên hiệu Cảnh Hưng trong các văn thư. Các cựu thần nhà Lê lại thường tổ chức những cuộc xâm nhập Bắc Hà để quấy rối hậu cứ Tây Sơn. Nhưng khuynh hướng phò Lê theo với thời gian đã trở thành lỗi thời, quần thần nhà Nguyễn xuất thân ở Nam Hà tranh quyền bằng xương máu của mình hẳn không phải để đặt lên ngai vàng một ông vua lưu vong chưa từng chia xẻ gian khổ với họ. Ý nghĩa việc đúc tiền năm 1796 với danh hiệu Gia Hưng riêng biệt cũng là một dấu vết phủ nhận từ Nguyễn Ánh1. Việc Tây Sơn cầm quyền xứ Bắc trên 13 năm đã xua tan thành kiến ranh giới sông Gianh. Tây Sơn chịu tiếng cướp nước, nhưng sẽ mở đường cho kẻ sau vượt tiếp mà không thấy trở ngại nhiều. Bởi vậy, khi Nguyễn Ánh đánh Bắc mà phân vân “Bắc Hà vốn là đất của nhà Lê” thì Đặng Đức Siêu, Trần Văn Trạc mới có thể lý luận: “Đất Bắc là của Tây Sơn rồi... Lấy đất Bắc là lấy của Tây Sơn chứ lấy gì của Lê!”2.

Lên ngôi xong là Nguyễn Ánh đã dứt khoát sau khi chuẩn bị đầy đủ cuộc vận động tâm lý quần thần. Những người Bắc Hà đã được dự bị từ lâu để theo quân ra: văn thần có Đốc học Nguyễn Gia Cát, Hàn lâm viện Mai Huy Đường đã chờ sẵn từ tháng 6 âm lịch (1801), Đặng Trần Thường cũng được rút từ quân thứ Bình Định đến với Tham quân Hậu dinh là Nguyễn Trí Hoà3. Quân Bắc phạt gồm cả một lực lượng hùng hậu. Tiền quân mang 60.000 binh, Tả quân Lê Văn Duyệt dẫn 86.000 người, Hậu quân Lê Chất 50.000 người; Nguyễn Văn Trương mang 50 tàu, hơn 100 ghe chiến. 800 thuyền có trí súng, 500 thuyền nhỏ hơn chở 50.000 người, tất cả rầm rộ tấn phát4.

Quân đi dũng mãnh nhưng đã có bài “Hịch dụ các người trung nghĩa ngoài Bắc thành”5 để chứng tỏ là Vương sứ đến. Lời kêu gọi nhắm vào việc động viên người Bắc hưởng ứng quân Nam, phục thù cho nhà Lê:

“Trước để sanh hồi miếu xã - sau là chửng cứu sinh linh.
“Khuyến người trung nghĩa ngoài này - rõ ý không phù trong ấy”.

Nhưng chúng ta hãy nghe tiếp:
“Nghe võ hịch một lòng ứng Hán, giúp cơn đông lạc thuở trùng hưng;
“Dựng can kỳ bốn mặt công thành, từ thuở sơn man thất thế”.

Nhắc chuyện bạo Tần tức là nhắc chuyện dời đổi triều đại, tuyên xưng cho một phía là nhà Hán, tức là bắt mọi người phải công nhận quyền uy của triều đại mới, người viết hịch trong ước mơ của một di thần Lê Trịnh cũng đành phải vô tình nhận rằng phân tranh sắp chỉ vào là dĩ vãng và nhà Lê chỉ còn là bóng mờ mà thôi.

Cho nên cuộc Bắc phạt thành công thực dễ dàng. Nguyễn Văn Trương đi trước đuổi Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ, rồi cùng với bộ binh của Lê Văn Duyệt, Lê Chất hợp nhau quét sạch xứ Nghệ. Trấn thủ Nguyễn Văn Thận, Hiệp trấn Nguyễn Triêm, Thuỷ quân Thống lãnh tên Đại, Thiếu uý Đằng đều bỏ chạy. Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng, Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Mân, Nguyễn Văn Giáp, Nguyễn Văn Điểm, Lê Công Hưng (phần lớn đều là hàng tướng cũ lại trở về), theo đường thượng vừa đến. Diệu qua đèo Quy Hợp vào Nghệ An thì nơi này đã mất, bèn qua Thanh Chương, vượt sông Thanh Long. Lính theo hao mòn vì thiếu ăn, bệnh tật, nên bỏ rơi tướng họ sa vào tay bọn nông dân ham tiền. Cuộc đời dõng mãnh, thanh cao rồi sẽ cùng chấm dứt với người vợ hiếm có. Phần Vũ Văn Dũng cũng không thoát tay dân Nông Cống6.

Quân Nguyễn qua Thanh Ba bắt Quang Bàn và Văn Thận. Đằng và Hổ đem nhau ra hàng. Đến Sơn Nam hạ, Nguyễn Văn Trương lùa được bọn Thống binh Tề Ngôi lên bộ, bắt Dương Thất Nguyên, Ngô Tam Đồng. Ngày 15-7-1802, Thiếu uý Nguyễn Văn Thọ mở cửa thành Thăng Long ra hàng. Quang Toản, Quang Duy, Quang Thiệu, các Đô đốc Nguyễn Văn Dụng, Nguyễn Văn Tứ, Tú (Từ Văn Tú?) vượt qua sông Nhĩ Hà chạy trốn. Họ không may mắn hơn những người trước. Đêm ở Xương Giang, dân chúng đón bắt, Quang Thuỳ, Đô Đốc Tú và vợ cùng tự vẫn. Còn Quang Toản bị dân Phượng Nhỡn bắt, chấm dứt đời Tây Sơn.

Ngày 20-7, Nguyễn Ánh ra tới Thăng Long, đặt chân lên nơi mà hơn 200 năm trước, tổ tiên ông phải giả tiếng mới về Nam được. Thăng Long, Thanh Hoá, Phú Xuân, Gia Định rồi nối vòng Gia Định, Phú Xuân, Thăng Long, con đường thật dài, thật đầy gian nan, cực nhọc mà cũng đầy vinh quang. Đất nước mệt mỏi vì chiến tranh nay đã tìm được đường thoát trong thống nhất, yên nghỉ. Một giai đoạn mới bắt đầu với Nguyễn Ánh - Gia Long.
_____________________________________
1. Thực lục, q9, 6a.
2. Thực lục q16, 17b.
3. Thực lục q14, 20b, 22b.
4. Số lượng quân trong thư Barizy gởi cho Marquini và Foulon, 15-6-1802 (BAVH, Oct-Déc 1926). Chuyện Bắc phạt: Liệt truyện q8, 13ab, q30, 54ab, Thực lục q17, 11b-18a.
5. Tác giả Vũ Huy Dao, trích trong Morceaux choisis... t.254, 255.
6. La relation sur le Tonkin, sđd, t.114, 117; Liệt truyện q.30, 54b, 55a. Trong tập Bình Định (1964), Ty Thông tin Bình Định, trang 13, 24 có đoạn xác nhận rằng Vũ Văn Dũng là người địa phương (thôn Phú Mỹ, xã Bình Phú, quận Bình Khê), sau khi bị bắt bèn trốn thoát, cải danh là Vũ Văn Độ, mất ở An Khê năm 1853. Nếu ông Độ có thật thì chắc là một người bà con lưu lạc chớ chuyện Vũ Văn Dũng trốn thoát là điều khó tin (Dũng không quá trẻ để đến mãi năm 1853 mới chết!). Trần Quang Diệu nhờ tha chết cho binh tướng Võ Tánh mới được đặc ân uống thuốc độc, khỏi bị voi xé như vợ con. Còn Vũ Văn Dũng mà đầu cũng treo giá đồng thời với của quan Thái phó thì làm cách nào thoát khỏi nanh vuốt của Nguyễn đang thắng được? Dũng là người Hải Dương đã có bằng cớ hẳn hoi nơi tước Chiêu Viễn hầu như ta đã nói trước.
 

taico

Xe buýt
Biển số
OF-394816
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
935
Động cơ
240,810 Mã lực
Tuổi
28
Từ lâu trong quân đội Nguyễn Ánh có những người Bắc Hà đầu quân mưu khôi phục nhà Lê. Nguyễn Ánh vẫn mập mờ dùng niên hiệu Cảnh Hưng trong các văn thư. Các cựu thần nhà Lê lại thường tổ chức những cuộc xâm nhập Bắc Hà để quấy rối hậu cứ Tây Sơn. Nhưng khuynh hướng phò Lê theo với thời gian đã trở thành lỗi thời, quần thần nhà Nguyễn xuất thân ở Nam Hà tranh quyền bằng xương máu của mình hẳn không phải để đặt lên ngai vàng một ông vua lưu vong chưa từng chia xẻ gian khổ với họ. Ý nghĩa việc đúc tiền năm 1796 với danh hiệu Gia Hưng riêng biệt cũng là một dấu vết phủ nhận từ Nguyễn Ánh1. Việc Tây Sơn cầm quyền xứ Bắc trên 13 năm đã xua tan thành kiến ranh giới sông Gianh. Tây Sơn chịu tiếng cướp nước, nhưng sẽ mở đường cho kẻ sau vượt tiếp mà không thấy trở ngại nhiều. Bởi vậy, khi Nguyễn Ánh đánh Bắc mà phân vân “Bắc Hà vốn là đất của nhà Lê” thì Đặng Đức Siêu, Trần Văn Trạc mới có thể lý luận: “Đất Bắc là của Tây Sơn rồi... Lấy đất Bắc là lấy của Tây Sơn chứ lấy gì của Lê!”2.

Lên ngôi xong là Nguyễn Ánh đã dứt khoát sau khi chuẩn bị đầy đủ cuộc vận động tâm lý quần thần. Những người Bắc Hà đã được dự bị từ lâu để theo quân ra: văn thần có Đốc học Nguyễn Gia Cát, Hàn lâm viện Mai Huy Đường đã chờ sẵn từ tháng 6 âm lịch (1801), Đặng Trần Thường cũng được rút từ quân thứ Bình Định đến với Tham quân Hậu dinh là Nguyễn Trí Hoà3. Quân Bắc phạt gồm cả một lực lượng hùng hậu. Tiền quân mang 60.000 binh, Tả quân Lê Văn Duyệt dẫn 86.000 người, Hậu quân Lê Chất 50.000 người; Nguyễn Văn Trương mang 50 tàu, hơn 100 ghe chiến. 800 thuyền có trí súng, 500 thuyền nhỏ hơn chở 50.000 người, tất cả rầm rộ tấn phát4.

Quân đi dũng mãnh nhưng đã có bài “Hịch dụ các người trung nghĩa ngoài Bắc thành”5 để chứng tỏ là Vương sứ đến. Lời kêu gọi nhắm vào việc động viên người Bắc hưởng ứng quân Nam, phục thù cho nhà Lê:

“Trước để sanh hồi miếu xã - sau là chửng cứu sinh linh.
“Khuyến người trung nghĩa ngoài này - rõ ý không phù trong ấy”.

Nhưng chúng ta hãy nghe tiếp:
“Nghe võ hịch một lòng ứng Hán, giúp cơn đông lạc thuở trùng hưng;
“Dựng can kỳ bốn mặt công thành, từ thuở sơn man thất thế”.

Nhắc chuyện bạo Tần tức là nhắc chuyện dời đổi triều đại, tuyên xưng cho một phía là nhà Hán, tức là bắt mọi người phải công nhận quyền uy của triều đại mới, người viết hịch trong ước mơ của một di thần Lê Trịnh cũng đành phải vô tình nhận rằng phân tranh sắp chỉ vào là dĩ vãng và nhà Lê chỉ còn là bóng mờ mà thôi.

Cho nên cuộc Bắc phạt thành công thực dễ dàng. Nguyễn Văn Trương đi trước đuổi Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ, rồi cùng với bộ binh của Lê Văn Duyệt, Lê Chất hợp nhau quét sạch xứ Nghệ. Trấn thủ Nguyễn Văn Thận, Hiệp trấn Nguyễn Triêm, Thuỷ quân Thống lãnh tên Đại, Thiếu uý Đằng đều bỏ chạy. Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng, Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Mân, Nguyễn Văn Giáp, Nguyễn Văn Điểm, Lê Công Hưng (phần lớn đều là hàng tướng cũ lại trở về), theo đường thượng vừa đến. Diệu qua đèo Quy Hợp vào Nghệ An thì nơi này đã mất, bèn qua Thanh Chương, vượt sông Thanh Long. Lính theo hao mòn vì thiếu ăn, bệnh tật, nên bỏ rơi tướng họ sa vào tay bọn nông dân ham tiền. Cuộc đời dõng mãnh, thanh cao rồi sẽ cùng chấm dứt với người vợ hiếm có. Phần Vũ Văn Dũng cũng không thoát tay dân Nông Cống6.

Quân Nguyễn qua Thanh Ba bắt Quang Bàn và Văn Thận. Đằng và Hổ đem nhau ra hàng. Đến Sơn Nam hạ, Nguyễn Văn Trương lùa được bọn Thống binh Tề Ngôi lên bộ, bắt Dương Thất Nguyên, Ngô Tam Đồng. Ngày 15-7-1802, Thiếu uý Nguyễn Văn Thọ mở cửa thành Thăng Long ra hàng. Quang Toản, Quang Duy, Quang Thiệu, các Đô đốc Nguyễn Văn Dụng, Nguyễn Văn Tứ, Tú (Từ Văn Tú?) vượt qua sông Nhĩ Hà chạy trốn. Họ không may mắn hơn những người trước. Đêm ở Xương Giang, dân chúng đón bắt, Quang Thuỳ, Đô Đốc Tú và vợ cùng tự vẫn. Còn Quang Toản bị dân Phượng Nhỡn bắt, chấm dứt đời Tây Sơn.

Ngày 20-7, Nguyễn Ánh ra tới Thăng Long, đặt chân lên nơi mà hơn 200 năm trước, tổ tiên ông phải giả tiếng mới về Nam được. Thăng Long, Thanh Hoá, Phú Xuân, Gia Định rồi nối vòng Gia Định, Phú Xuân, Thăng Long, con đường thật dài, thật đầy gian nan, cực nhọc mà cũng đầy vinh quang. Đất nước mệt mỏi vì chiến tranh nay đã tìm được đường thoát trong thống nhất, yên nghỉ. Một giai đoạn mới bắt đầu với Nguyễn Ánh - Gia Long.
_____________________________________
1. Thực lục, q9, 6a.
2. Thực lục q16, 17b.
3. Thực lục q14, 20b, 22b.
4. Số lượng quân trong thư Barizy gởi cho Marquini và Foulon, 15-6-1802 (BAVH, Oct-Déc 1926). Chuyện Bắc phạt: Liệt truyện q8, 13ab, q30, 54ab, Thực lục q17, 11b-18a.
5. Tác giả Vũ Huy Dao, trích trong Morceaux choisis... t.254, 255.
6. La relation sur le Tonkin, sđd, t.114, 117; Liệt truyện q.30, 54b, 55a. Trong tập Bình Định (1964), Ty Thông tin Bình Định, trang 13, 24 có đoạn xác nhận rằng Vũ Văn Dũng là người địa phương (thôn Phú Mỹ, xã Bình Phú, quận Bình Khê), sau khi bị bắt bèn trốn thoát, cải danh là Vũ Văn Độ, mất ở An Khê năm 1853. Nếu ông Độ có thật thì chắc là một người bà con lưu lạc chớ chuyện Vũ Văn Dũng trốn thoát là điều khó tin (Dũng không quá trẻ để đến mãi năm 1853 mới chết!). Trần Quang Diệu nhờ tha chết cho binh tướng Võ Tánh mới được đặc ân uống thuốc độc, khỏi bị voi xé như vợ con. Còn Vũ Văn Dũng mà đầu cũng treo giá đồng thời với của quan Thái phó thì làm cách nào thoát khỏi nanh vuốt của Nguyễn đang thắng được? Dũng là người Hải Dương đã có bằng cớ hẳn hoi nơi tước Chiêu Viễn hầu như ta đã nói trước.
 

taico

Xe buýt
Biển số
OF-394816
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
935
Động cơ
240,810 Mã lực
Tuổi
28
_______________________________________________________Tiết 20

TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ CHẤM DỨT PHÂN TRANH

Vai trò từng cá nhân trong diễn biến lịch sử chấm dứt phân tranh * Ý nghĩa của thời gian 32 năm rối loạn * Những dữ kiện hướng dẫn tái lập hoà bình mở đầu cho thời kỳ cận đại ở Việt Nam.



Lịch sử vừa đóng hết một giai đoạn rối rắm, tàn bạo. Chiến tranh liên miên trên một vùng đất đầy những đặc tính phức tạp, riêng rẽ khiến ta thấy những bộ mặt đặc biệt hiện ra, biến đi tuỳ theo tình thế thay đổi. Về phía Tây Sơn, những Nhưng Huy, Tứ Linh, Huyền Khê, Nguyễn Thung, Giáo Hiến có danh vọng không vượt qua được giai đoạn đầu của một đám cướp nổi loạn. Phạm Văn Sâm, Phạm Văn Hưng và cả Trần Quang Diệu nữa cũng được nuôi dưỡng trong sự trưởng thành của triều đại dòng họ những người ấy. Cứ giả định rằng không có cuộc loạn phát xuất từ làng Kiên Thành thì chắc rằng họ cũng chỉ là những người dân nai lưng ra đóng thuế. Đòi hỏi của tình thế chiến tranh hợp với sư may mắn có liên lạc thân tộc với dòng họ nổi dậy khiến những người này được nâng cao lên, thoát cảnh sống một đời tầm thường, hay có khi tệ hơn, lam lũ. Hình bóng yếu ớt của những nhân vật Bắc Hà: Hoàng Phùng Cơ, Đinh Tích Nhưỡng... là một minh chứng thêm bên lằn mức đối địch. Nằm trong sự tan rã của Trịnh Lê, lúc quyền uy Tây Sơn chưa đủ mạnh để lan ảnh hưởng đến vùng ngoài, họ có vẻ là “con người của thời đại”. Nhưng lâm sự, tài năng hèn kém của họ lộ ra: Nhượng tránh mặt Tây Sơn, Cơ bất nhất lúc Lê, lúc Trịnh để rồi bị trói bởi Tiên phong của Nguyễn Hữu Chỉnh.

Lý Tài tưởng đã tránh được số phận dành cho Tập Đình, Nguyễn Thung những người gián tiếp hay trực tiếp chết dưới tay Nhạc, nhưng khi ông phò trì một triều đình đang tan rã thì chức Bảo giá Đại tướng quân oai vệ không đưa quân ông tổ chức vượt được lên trên tình trạng đao búa của một đám cướp ngày để rồi phải chấm dứt cuộc đời trong lúc luân lạc. Châu Văn Tiếp cùng một xuất xứ như Nguyễn Nhạc mà oán “Trời không cho ta bình Tây” chỉ vì đã đem mình ngăn chặn một trào lưu đang lên, tuy lòng can đảm, ý chí quyết thắng của ông có thừa như bất cứ một tướng lãnh Tây Sơn nào khác. Nguyễn Văn Trương may mắn hơn. Từ đứa chăn trâu leo lên chức Trấn thủ Long Xuyên là công của triều đại dân chúng Tây Sơn, nhưng làm Bình bắc Đại tướng thay mặt Nguyễn Ánh trông coi thuỷ quân chính là nhờ ông đã ghép mình với Gia Định, tiến bộ theo với lực lượng chủ chốt này của miền Nam.

Vượt trên hết những kẻ này là những khuôn mặt đã làm nên lịch sử: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ và chót hết, vinh dự thay trong lịch sử tàn nhẫn, Nguyễn Phúc Ánh. Nhưng ta cũng đã thấy biến chuyển từ từ trong con người tạo thành Gia Long khi chung cuộc. Đỗ Thanh Nhân ở Sài Gòn chống Tây Sơn thì ông đã lánh ra Bến Lức, Lê Văn Quân thống giữ Ba Vác, Ba Lai thì ông lênh đênh ngoài vịnh Xiêm. Thực là khác hẳn khi ông đề xướng kế hoạch đánh giặc mùa, điều khiển dưới tay một bọn bề tôi hỗn tạp gồm những tôn thất kiêu hãnh với dòng dõi, tướng tá dũng cảm nhưng thô lỗ, hàng tướng đầy mặc cảm và nhớ tiếc quá khứ oanh liệt, bọn Phiêu lưu Tây phương bừa bãi ngạo nghễ... Ngôi sao Nguyễn Huệ có chói sáng rực rỡ vì chiến công cũng không che lấp được tính cách mâu thuẫn bấp bênh của chế độ Tây Sơn. Cho nên, Nguyễn Hữu Chỉnh cô độc giữa xứ Bắc Hà cũ kỹ trong thành kiến đến phải mắc tội “bội phản” mà chết, Nguyễn Nhạc ôm lấy thành Chà Bàn chờ Nguyễn Ánh mạnh lên.

Nhưng những người đang hành động, tiêu cực hay tích cực cũng đều là biểu hiện cho những khuynh hướng, trào lưu hiện hành. Cho nên họ phải chịu sự huỷ diệt - cụ thể là sự huỷ diệt thân xác - để cho trào lưu kia tan biến hình thức đề kháng mạnh mẽ nhất. Bởi vậy Tây Sơn đã cố tình truy nã đến tận cùng ông Hoàng còn sót lại của dòng họ Nguyễn. Nguyễn Ánh dùng voi xé xác Quang Toản, Bùi Thị Xuân... Lịch sử 32 năm chấm dứt phân tranh, lịch sử thống nhất trong chiến tranh khôngphải chỉ gồm những chém giết, hằn thù cá nhân. Tôi trung nhà Nguyễn có thể hậm hực vì “nguỵ tặc”, cũng như người có tinh thần chống đối phải than khóc giùm cho cơ nghiệp Nguyễn Huệ1. Nhưng vượt bỏ tính cách phù du giai đoạn của cuộc sống từng thế hệ, người ta phải thấy có một sự nối tiếp xảy ra trong lịch sử giữa những người trước, sau, cho dù là thù địch cũng vậy.

Chiến tranh hối thúc lịch sử. Thế mà lịch sử phân tranh trong xã hội Đại Việt đã có dấu hiệu báo trước từ đầu thế kỷ XVI. Triều đại Lê Thánh Tông (1460-1497) qua đi là xuôi hẳn thời thịnh vượng. Có người đã muốn tìm nguyên nhân trong sự kiệt lực của đất đai đồng bằng Nhĩ Hà2. Nhưng lịch sử Việt Nam không chỉ xoay quanh đồng bằng miền Bắc cho nên vấn đề có lẽ phức tạp hơn nhiều. Để giải quyết sinh sống, người nông dân Việt khai triển đất đai với tính cách chiếm đoạt. Những đồn điền đặt ra dưới triều Thánh Tông là lợi khí mở đường về Nam. Song kỹ thuật không đổi mới tiến bộ thì địa phương càng dễ độc lập với trung ương, nhất là khi trung ương lại có những yếu tố phân ly sẵn. Cho nên, Trịnh dẹp được Mạc rồi, chấm dứt cuộc phân tranh Lê - Mạc mà không ngăn được Nguyễn Hoàng hùng cứ phương Nam.

Nhưng đất mới cũng đem lại yếu tố văn hoá, kỹ thuật làm nên sức mạnh cho triều đại ly khai. Sau này chúng ta thấy Tây Sơn, Nguyễn Ánh có quân Chàm, Thượng, Miên giúp sức, nhưng J. Koffler đã chỉ rõ từ trước rằng đội quân Chàm của dân bản thổ là một cột trụ của Nam Hà giữ quân Bắc không vượt qua được sông Gianh. Nếu chỉ có bấy nhiêu thay đổi thì phân tranh vẫn chỉ hoàn phân tranh. Quan trọng hơn là việc đám người bản thổ Việt hoá và đám người Việt thu nhận ảnh hưởng bản thổ tạo thành một lớp người mới uyển chuyển hơn. Đất đai màu mỡ vì vừa quen với kỹ thuật khai thác tỉ mỉ ở miền Bắc đưa vào, tạo nên sự trù phú, thịnh vượng. Ấy vậy mà càng đi về xa xuống Nam mối liên lạc địa phương với chánh quyền trung ương càng lỏng lẻo, ngay cả đối với chánh quyền Nam Hà. Những con sông ăn sâu vào trong núi, những khoảng núi chạy dài ra biển ấp ủ, che giấu những âm mưu khuynh đảo.
____________________________________
1. Đại diện cho thái độ đầu là Hoàng Quang (Hoài nam khúc), các bề tôi nhà Nguyễn, đại diện cho thái độ sau là một số người chịu ảnh hưởng trào lưu dân chủ, cách mạng ngày nay. Không đâu vẽ rõ sự xung đột của những ý kiến chủ quan của sử gia bằng ở quyển Hoàng Lê nhất thống chí: Ngô Thì Chí hiểu chữ “nhất thống” theo với nghĩa gồm một về vua Lê nên cùng với Ngô Du hết sức ca tụng Nguyễn Huệ, Du càng tăng độ ca tụng khi Tây Sơn thịnh. Thế mà tác giả viết các hồi sau chót lại cố lái chữ nhất thống về phía Nguyễn nên gọi “nguỵ Tây” đối chọi với “quan quân”
2. Đào Duy Anh - Việt Nam lịch sử giáo trình, Thời kỳ tự chủ, quyển hạ, Liên khu IV xuất bản, 1950. trang 25, 26, chú số 1.
 

taico

Xe buýt
Biển số
OF-394816
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
935
Động cơ
240,810 Mã lực
Tuổi
28
Thế rồi ảnh hưởng Tây phương đến. Chúng ta biết thương nghiệp mang lại giá trị mới cho những sản phẩm địa phương. Nam Hà có đất cho nông dân cày cấy thì cũng có rừng rú cho người ta lấy ngà voi, sừng tê, trầm hương, kỳ nam chuyển ra ngoài. Từ đó Nam Hà có truyền thống đón nhận ảnh hưởng từ ngoài vào. Joan da Cruz có tên gắn liền với địa danh Phường Đúc ở Huế trong khi những con bù nhìn giả lính Bồ đứng trên luỹ Trấn Ninh đe doạ quân Trịnh.

Tất cả tạo nên một hoàn cảnh sôi sục trong phát triển ở Nam Hà. Địa phương và trung ương trông chừng nhau ở cả hai bên sông Gianh, nhưng sức mạnh địa phương miền Bắc đã yếu thế nhiều vì quá khứ 10 thế kỷ kết tập chung sống. Cho nên, biến cố có tên là Tây Sơn lại nổ bùng ra ở Nam Hà và đủ sức mạnh để đảo lộn tất cả: chiến tranh 32 năm chỉ là cái gút để tóm thâu kết quả của mấy trăm năm gầm gừ phân tranh, mấy trăm năm biến đổi dần dà trong xã hội Đại Việt.

Cuối đường của mối loạn tiền kẽm gặp gỡ rối loạn trong triều Nguyễn chúa dưới quyền phụ chính Trương Phúc Loan là điều kiện tức khắc cho anh em Tây Sơn lộ diện. Họ tụ tập dưới cờ quân Thượng, quân phản Thanh phục Minh, đám nông dân nghèo đói, bất mãn sưu thuế, quan lại triều đình, sĩ phu, tướng lãnh không đất dụng võ. Nói rằng Nam Hà dưới quyền chúa Nguyễn vừa yếu vừa mạnh thực là mâu thuẫn. Nhưng đúng vậy bởi vì đã có những tiềm lực chưa dùng đến, còn đang kết thành. Tây Sơn đã nung chín những sức mạnh đó để làm lợi cho mình. Cho nên, cứ lúc tiến lúc thoái, họ đánh tan được nhà Nguyễn rồi ào ạt ra Bắc.

Ở đây phải nhắc lại tính cách đồng nhất trên những đường nét phát triển chính trị của xã hội Đại Việt trong phân tranh. Trên tột đỉnh cơ cấu quyền bính, Tây Sơn và bầy tôi Lê Trịnh xưng hô với nhau như người của hai nước riêng biệt, một điều “quý quốc” hai điều “quý quốc”, nhưng Trịnh - Nguyễn vẫn nhớ mình là người Thanh Hoá, Nguyễn Nhạc còn biết xưng họ ngoại chúa Nam Hà, và Nguyễn Huệ vẫn đòi lập Phượng Hoàng Trung đô ở quê cha đất tổ Nghệ An. Ảnh hưởng giao thương với nước ngoài không tạo nên một giai cấp bourgeois có tiền của, xây dựng ý thức hệ, đả đảo Cựu chế như ở Tây phương nhưng cũng phát sinh ở 2 miền Nam, Bắc một lớp người làm giàu mau chóng bằng cách buôn bán, khác hẳn bọn nông dân cặm cụi lam lũ. Phố Hiến, Kẻ Chợ, đám các lái ở Thanh Hoá còn đó để chứng minh. Chỉ duy, trong tương quan ảnh hưởng đối với xã hội Bắc Hà, họ phải chịu núp dưới bóng quan lại đồng hương hay không, để tìm quyền hành. Vùng này, dân chúng bị chi phối bởi mối quan tâm phù Lê diệt Trịnh trong khi Lê chỉ là bóng mờ bên cạnh uy quyền thực của Phủ Liêu. Cái hại sĩ phu miên man trong kinh sách rồi truyền cho đám nông dân tuy làm yếu Bắc Hà, nhưng cũng ru ngủ được dân chúng trong một giấc mơ bình an về ý thức hệ. Cho nên những kẻ bất mãn mà ít hay nhiều đã được khuôn nắn trong một không khí có khác với kinh văn, dễ mở rộng trí suy xét để đón lấy cơn giông tố tự phương Nam. Nguyễn Hữu Chỉnh ở vào trường hợp đó. “Cõng rắn cắn gà nhà, nghĩ thật có tội, song cũng là một việc hơn người1 những đầu óc dù hẹp hòi cũng vẫn phải chấp nhận sự thật là có những biến đổi đang làm đảo lộn xã hội đang sống.

Nhưng khi Nguyễn Hữu Chỉnh muốn tách rời Tây Sơn thì ông thất bại ngay. Ông định đem những biện pháp khắt khe mà Tây Sơn đã dùng để áp dụng cho Bắc Hà thì gặp ngay những phản đối, hãi sợ về phía dân chúng, sĩ phu. Hợp tác với bọn khanh tướng bàn chuyện đòi đất Nghệ An thì được, nhưng như vậy là ông đi vào vết xe cũ của Trịnh nên không đủ sức chống đối Vũ Văn Nhậm. Phải đợi Tây Sơn đem cả một khối người ào ra dứt Lê, Bắc Hà mới thấy thay đổi thực sự.

Đứng trong quan điểm quốc gia, chiến thắng Đống Đa là một vinh dự của người dân Việt chống xâm lăng phương Bắc. Nhưng hai mươi vạn quân Tôn Sĩ Nghị quả có cái thế khác với quân Tống của Quách Quỳ, với đội lính thiện chiến của Thoát Hoan. Nó là một đội Vương sư như của Trương Phụ lúc ban đầu. Thế mà trước kia Hồ Quý Ly bị đóng cũi phải về Yên Kinh không đầy một năm và Tôn Sĩ Nghị bây giờ mất binh đội không đầy 5 ngày. Chiến thắng do khích động lòng yêu nước đã đành mà chính yếu còn do sự cách biệt và khác biệt kỹ thuật chiến đấu, điều hành chiến tranh nữa. Quân Thanh có đông thực nhưng chỉ là phóng đại của quân Trịnh Lê thôi, với từng ấy vũ khí, từng ấy ý thức hướng dẫn hành động. Trong khi đó, Tây Sơn lấy sức mạnh căn bản nơi sự hoà hợp chủng tộc văn hoá ở Quy Nhơn rồi đem thử sức, thu thập kinh nghiệm ở khắp các chiến trường, với cả người ngoại quốc phía Nam nữa.

Cho nên trong sự tiếp rước Giả Vương, trong lối trao đổi ngoại giao, chúng ta thoáng thấy ở vua tôi nhà Thanh một ý kính nể, muốn thu phục. Vì vậy bọn Tề Ngôi hải phỉ mới chịu về đầu, khiến đường biển Đông mở rộng mà Tây Sơn còn thêm sức mạnh nữa. “Xưa nay chưa nghe toán giặc nào như toán giặc này”. Ở miệng viên sứ Trần Công Xán biết ra đi là chết, lời nói ấy là một xác nhận chứ không phải là một biểu lộ khiếp nhược.

Tuy nhiên không phải là Tây Sơn không chịu những điều kiện thực tế ràng buộc, giới hạn khả năng. Những điều kiện này có khi là do những yếu tố trường cửu điều khiển, có khi là do những biến cố nhất thời làm tăng thêm hiệu quả của loại trên. Trong những phe chống đối Tây Sơn tất có kẻ sẽ thừa hưởng những thuận lợi mà Tây Sơn không thu nhận được đó để kế tục sự nghiệp của họ. Tây Sơn nổi lên có hai ông chúa phải lưu vong đi cầu viện, một người phải ngậm ngùi bỏ thân nơi đất khách. Chỉ có một Nguyễn Ánh trở về. Không phải là sự tình cờ.

Ta đã nói đến việc Nguyễn Huệ diệt tộc Nguyễn, đã thanh toán giùm họ này mối lục đục, hục hặc nội bộ. Nhưng một người còn thoát đã đưa chuyển dòng họ đến một giai đoạn mới mà vẫn giữ được tính cách truyền thống liên tục để lưu giữ lòng trung thành của mọi người. Trong lúc đó thì Tây Sơn không vượt khỏi những khó khăn cũ mà còn gây ra những cản trở mới nữa. Từ Quy Nhơn, họ tung quân vào Gia Định qua những vùng đất dằng dặc sỏi đá. Với vài ba trăm chiếc ghe bầu đi vòng biển để nối liền nơi xuất phát và chiến trường, hành động định kỳ theo quy luật gió mùa mỗi năm một lần vào ra thế tất không phải là một đe doạ chiếm đóng thực sự. Từ ngữ “nhập khấu” mà sử quan dùng chỉ các cuộc hành binh này tuy có dụng ý thiên lệch nhưng vẫn đúng sự thực một phần nào.

Chính sự giải đãi đó nuôi dưỡng cho nhà Cựu Nguyễn hồi sinh chờ thấy những sai lầm của Tây Sơn xuất hiện để đón lợi về phía mình. Buổi đầu nổi dậy, Tây Sơn mất sự hợp tác của bọn sĩ phu có truyền thống gần gũi tổ chức nông nghiệp đã đành, mà còn mất luôn cả bọn Hoa kiều trung gian buôn bán nữa. Họ để lại các tướng lãnh cai trị Gia Định với một số quân nhỏ bé mà không tỏ rõ một chính sách lâu dài nào hết. Họ đưa ra một chính sách thương nghiệp mà thiếu người thi hành chỉ vì vụ tàn phá Hội An (1774) và sau đó, Sài Gòn (1782) chưa đủ thời gian để lập lại tình trạng bình thường. Nhưng cố gắng phi thường của họ cũng đánh tan được 2 vạn quân Xiêm và đuổi Nguyễn Ánh sống cuộc đời lưu vong. Thế rồi họ quay ra phía Bắc chiếm một phần đất Nam Hà còn sót lại dưới quyền của họ Trịnh. Không bằng lòng Phú Xuân, Tây Sơn đứng trên luỹ Thầy mới đắp mà nhìn ra Thăng Long. Ta đã nói đến sự khác biệt tuổi tác giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đã gây ra xung đột đầu tiên giữa hai anh em như thế nào khi người anh cả tuổi lớn bằng lòng với sự nghiệp có được và chú em thứ 8 ba mươi bốn tuổi tràn đầy hăng say còn muốn cướp đoạt hơn. Nhưng chúng ta cũng thấy trong mối lo không kiểm soát được em của Nguyễn Nhạc một ý nghĩa lo lắng về đường đất cách trở mà các phương tiện không đủ hiệu quả để bức thư ngăn Huệ đừng đi Bắc kịp đến Huế khi quân khởi hành. Thì ra khi xô đổ cái thế phân tranh cũ, anh em Tây Sơn cũng phải chịu luỵ vào những điều kiện chia xé từng có trước. Cho nên Bắc Bình vương phương Bắc, Trung ương Hoàng đế ở giữa, Đông Định vương phía Nam có chia nhau mà cai trị đất nước cũng không phải chỉ vì tham vọng riêng ai mà chính là theo đúng quy định của thực tế xã hội, quốc gia.
_________________________________________
1.Hoàng Lê, t. 64. Chính chúng tôi nhấn mạnh.
 

tienngoc

Xe hơi
Biển số
OF-553653
Ngày cấp bằng
6/2/18
Số km
114
Động cơ
155,690 Mã lực
Tuổi
53
em thấy vua Quang Trung có vẻ đói ăn quá , làm sao mà đi tác chiến bộ hành ?
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,469
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Dưới đây là 1 đoạn sử Thực lục dưới triều Nguyễn Ánh ghi. 1 số bác dùng nó là bằng chứng Huệ quật mộ 9 đời chúa Nguyễn. Nói chung là mang tính truyền thuyết dùng 2 con cọp để viết sử để ngụy biện cho vấn đề trả thù Tây Sơn quá đà. Người đời chỉ nhắc đến chuyện Ánh trả thù Tây Sơn chứ chả thấy ai nói đến Huệ phá mộ chúa Nguyễn . Ngoài ra chẳng có tài liệu nào khác

Trước kia giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ tham bạo vô lễ, nghe nói chỗ đất phía sau lăng Kim Ngọc (tức lăng Trường Mậu) [lăng của chúa Ninh Nguyễn Phúc Thái] rất tốt, định đem hài cốt vợ táng ở đó. Hôm đào huyệt, bỗng có hai con cọp ở bụi rậm nhảy ra, gầm thét vồ cắn, quân giặc sợ chạy. Huệ ghét, không muốn chôn nữa. Sau Huệ đánh trận hay thua, người ta đều nói các lăng liệt thánh [các chúa Nguyễn] khí tốt nghi ngút, nghiệp đế tất dấy.

Huệ bực tức, sai đồ đảng đào các lăng, mở lấy hài cốt quăng xuống vực. Lăng Hoàng Khảo ở Cư Hóa [lăng Cơ Thánh của Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long] Huệ cũng sai Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ đào vứt hài cốt xuống vực ở trước lăng. Nhà Ngũ ở xã Kim Long bỗng phát hỏa. Ngũ trông thấy ngọn lửa chạy về. Người xã Cư Hóa là Nguyễn Ngọc Huyên cùng với con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài ban đêm lặn xuống nước lấy vụng hài cốt ấy đem giấu một nơi. Đến nay, Huyên đem việc tâu lên
như vậy túm lại Nguyễn Huệ có đào phá mộ các chúa NGuyễn và cha NGuyễn Ánh. đại nam thực lục có ghi lại việc này rõ ràng, có kèm nhân chứng vật chứng là bà cô ông NGuyễn Ánh và ông dân chài, vật chứng là cái sọ cha ông Ánh.
còn cụ nếu muốn chứng minh NGuyễn Huệ không đào thì phiền cụ đưa dẫn chứng tài liệu thuyết phục để phản bác. Còn không thì tội trạng xác lập
 

thaihana

Xe điện
Biển số
OF-375739
Ngày cấp bằng
30/7/15
Số km
4,130
Động cơ
502,551 Mã lực
như vậy túm lại Nguyễn Huệ có đào phá mộ các chúa NGuyễn và cha NGuyễn Ánh. đại nam thực lục có ghi lại việc này rõ ràng, có kèm nhân chứng vật chứng là bà cô ông NGuyễn Ánh và ông dân chài, vật chứng là cái sọ cha ông Ánh.
còn cụ nếu muốn chứng minh NGuyễn Huệ không đào thì phiền cụ đưa dẫn chứng tài liệu thuyết phục để phản bác. Còn không thì tội trạng xác lập
Em hỏi khí không phải! nick của cụ trước đây có phải là nick Yeuthanhhoa không, vì em thấy kiến thức lịch sử của cụ thật thâm sâu như cụ Yeuthanhhoa, có những việc chả ai biết, có mỗi cụ biết ạ.
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top