[Funland] Việt Nam thời Tây Sơn-Lịch sử nội chiến 1771-1802

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
BẮC BÌNH VƯƠNG ÐỐI PHÓ MẶT BẮC

Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An tụ dũng sĩ, mưu đồ chiếm cứ Nghệ An. Ðồng thời ở Hà Bắc, Trịnh Bồng được tôn lên làm chúa. Vua Lê Chiêu Thống bị nhà chúa ức hiếp bèn gọi Nguyễn Hữu Chỉnh về. Nguyễn Hữu Chỉnh về đuổi được Trịnh Bồng. Vua Chiêu Thống phong Chỉnh làm Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, Ðại Tư Ðồ, lại gia tăng tước Bằng Quận Công. Nắm trọn quyền bính trong tay, Chỉnh tự ý hoành hành. Muốn mở rộng ảnh hưởng vào Nam, Chỉnh lại thông đồng với Nguyễn Duệ chiếm đất nghệ An, sửa lũy Hoành Sơn,
lấy Linh Giang làm giới hạn với Thuận Hóa, y như tiên triều.

Nguyễn Duệ bằng lòng. Chẳng ngờ bị lậu sự. Võ Văn Nhậm hay được, gởi thư cáo biến với Bắc Bình Vương. Vương sai Nhậm ra bắt Duệ. Duệ biết trước cùng Nguyễn Huỳnh Ðức bỏ trốn. Duệ về Quy Nhơn, Ðức vào Gia Ðịnh. Vương không cho đuổi theo, chỉ sai Nhậm trấn thủ Nghệ An để coi chừng mặt Bắc.

Sẩy kế này bày kế khác, Nguyễn Hữu Chỉnh bày Vua Chiêu Thống đòi lại đất Nghệ An.

Tháng tư năm Ðinh Mùi (1787), Lê Chiêu Thống khiến hoàng thân Lê Duy Anh cùng Trần Công Sán và Ngô Nho mang phẩm vật và quốc thư vào Phú Xuân, Bắc Bình Vương biết là mưu mô Nguyễn Hữu Chỉnh, bảo cho Trần Công Sán biết rằng sẽ cho tướng đem binh ra Thăng Long lấy đầu kẻ sinh sự.

Biết Trần Công Sán là người hiền tài, muốn trọng dụng, nhưg không thuyết phục được, Vương bèn sai đưa phái đoàn theo đường biển về Thăng Long. Giữa vời, ngầm đục thuyền. Sán cùng phái đoàn đều bị chết đuối. Có người hỏi bà Trần Mỹ Tuyết:

- Sao không dùng tài năng để thuyết phục Trần Công Sán như đã thuyết phục Nguyễn Huỳnh Ðức? Bà đáp:

- Huỳnh Ðức là một võ tướng chỉ có lòng trung nghĩa. Còn Công Sán là kẻ sĩ học rộng hiểu sâu. Một lưỡi dao con là ta, làm sao đốn nổi cây tùng trăm tuổi thọ? Lại hỏi:

- Cũng thì nhân tài mà sao đối với Nguyễn Huỳnh Ðức nhà vua lại khoan hồng hơn đối với Trần Công Sán.
Ðáp:

- Tài của Huỳnh Ðức chỉ có thể lấy được thành. Tài của Trần Công Sán có thể chiếm trọn cả nước, nếu biết thiện dụng, tận dụng. Chữ Nhân phải đi song song với chữ Trí mới tránh khỏi chữ Ngu. Kẻ đại trượng phu không thích mang tiếng ngu với đời.

Không thể để yên Nguyễn Hữu Chỉnh lộng hành ở Bắc Hà, tháng 12 năm Ðinh Mùi, Bắc Bình Vương sai Võ
Văn Nhậm, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân kéo binh ra Thăng Long đánh Chỉnh.

Binh Võ Văn Nhậm kéo ra Bắc Hà, đánh đâu thắng đó. Nguyễn Hữu Chỉnh nghe cáo cấp, sai con là Hữu Du đem quân đi trước. Ðến sông Thanh Quyết, Du đắp lũy cố thủ. Lúc bấy giờ khí trời quá lạnh, quân sĩ không chịu nổi phải nhúm lửa, nhóm nhau ngồi sưởi. Nhậm sai lính xoi lũy, kê súng nhằm những chỗ có lửa bắn vào. Quân của Du kinh hãi vỡ chạy. Chỉnh ở Bình Vọng được tin quân của Du bị tan vỡ, đương đêm dẫn quân trở về thành Thăng Long, đem vợ con chạy về Kinh Bắc.

Lê Chiêu Thống sảng sốt, không biết làm thế nào, cùng dắt cung quyến chạy theo. Ðến Kinh Bắc Vua sai Lê Quýnh cùng hơn 30 người tôn thất đưa Hoàng Thái Hậu, Hoàng Phi và Hoàng Tử lên Cao Bằng. Còn mình
cùng Nguyễn Hữu Chỉnh về đóng ở núi Mục Sơn, đất Yên Thế.

Binh Tây Sơn đuổi đánh, Hữu Du bị tử trận. Hữu Chỉnh bị bắt giải về Thăng Long, còn Lê Chiêu Thống trốn thoát, chạy vào núi Bảo Lộc ẩn núp.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Võ Văn Nhậm kéo quân vào Thăng Long, kể tội Chỉnh rồi đem giết. Nhậm cho tìm Vua Chiêu Thống không được. Các triều thần chỉ còn lưa thưa mấy người. Còn ở Kinh Bắc thì có Trần Quang Châu, Sơn Nam thì có Nguyễn ********, Hải Dương thì có Ðinh Tích Nhưỡng... đều ứng binh hùng cứ. Nhậm có ý sợ, nhưng chưa biết tính sao thì có người ở Gia Lâm, tên là Trần Ðình Khôi, tự xưng là quan thiệm sự của nhà Lê, tới nói rằng:

Bắc Hà oán Chỉnh tuy thâm mà lòng nhớ Lê chưa nhạt. Tự quân chạy trốn, không biết lúc nào về. Nay có Sùng Nhượng công là Lê Duy Cẩn, trong lúc Tiên Ðế hãy còn đã phong làm Ðông Cung, từ gặp biến năm Nhâm Dần, bị kiêu binh phế truất. Nếu tướng công rước Duy Cẩn về lập lại, chỉ dán một tờ giấy tại cửa Ðại Hưng, thì nội trong một ngày, văn võ bá quan nhóm lại, đại sự của tướng công thành tựu dễ như trở bàn tay.

Nhậm theo lời, tôn Duy Cẩn làm Giám Quốc để ở phía tả điện Cần Chánh.

Cựu thần nhà Lê không người nào theo. Duy Cẩn ở trong điện với vài người hoàng thân và vài viên võ tướng, suốt ngày không thấy ai tâu hỏi việc gì.

Ngô Văn Sở bảo cùng Nhậm:

- Tôi xem tướng Sùng Nhượng công không sao khu sách được người. Vả chăng từ xưa đến nay, thiên hạ không phải tư vật của ai. Như nên lấy thì lấy hẳn đi, sao lại để người như thế làm Giám Quốc? Chúng ta đã lâu ngày chịu khổ với thành này, bây giờ trở lại làm người khách ngụ của pho tượng gỗ này hay sao?

Nhậm khinh khỉnh nói:

- Lòng người Bắc Hà còn nhớ Lê lắm, không thể không theo chúng vọng được. Bọn ngươi chỉ biết mạnh đánh mà thôi. Việc an dân đã có ta làm chủ.

Ngô Văn Sở làm thinh, trở ra nói cùng Phan Văn Lân:

- Tiết Chế khinh người thái thậm! Tài đức gì mà dám đãi chúng ta như đám sĩ tốt, việc lớn đều tự chuyên?
Bèn làm sớ mật tấu cùng Bắc Bình Vương.

Ðược tin, Bắc Bình Vương cười:

- Bạn tâm đã có từ lâu, bạn trạng mãi nay mới hình hiện.

Lập tức truyền lệnh xuất sư. Ði suốt ngày đêm. Hơn 10 hôm đến Thăng Long. Nhậm không kịp trở tay, bị bắt. Hỏi:

- Tội gì?

Ðáp:

- Ông tự biết lấy.

Ðoạn truyền đem ra giết.

Rồi hiệu triệu các cựu thần nhà Lê về chung lo việc nước. Vương vẫn để Sùng Nhượng công Lê Duy Cẩn
làm Giám Quốc lo việc tế tự. Còn thực quyền thì giao cho Ðại Tư Mã Ngô Văn Sở, có Nội Hầu Phan Văn Lân, Ðô Ðốc Nguyễn Văn Tuyết, Chương Phủ Nguyễn Văn Dụng. Hộ bộ Thị Lang Trần Thuật Ngôn và Lại bộ Tả Thị Lang Ngô Thời Nhậm... phụ tá. Vương lại cắt Ðô Ðốc Hòa Nghĩa hầu trấn thủ Kinh Bắc, Hô Hổ hầu trấn thủ Hải Dương, Giác Hầu hòa giữ bộ lại. Ước Lê hầu giữ bộ Lễ, Lộc Tài hầu giữ bộ Hình.

Sắp đặt xong xuôi, vào khoảng cuối tháng 5 năm Mậu Thân (1788), Vương trở về Phú Xuân, đem theo Phan Huy Ích.

Trừ Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết[57] là người cũ của Tây Sơn, tất cả những người tham gia quốc sự đều là cựu thần nhà Lê.

Trong số văn thần, Ngô Thời Nhậm và Phan Huy Ích là hai danh sĩ Bắc Hà.

+ Ngô Thời Nhậm, tự là Hy Doãn, hiệu là Ðạt Hiên, con trai của Ngô Thời Sĩ, sinh năm Bính Dần (1746) tại làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, cách Thăng Long hơn mười cây số. Ðậu Tấn Sĩ năm Ất Mùi (1775). Làm quan nhà Lê đến chức Công bộ Hữu Thị Lang. Năm 1782, kiêu binh nổi loạn, chạy trốn về quê vợ ở Sơn Nam.

Năm 1788, theo lời hiệu triệu của Bắc Bình Vương, Ngô Thời Nhậm là người đầu tiên hưởng ứng. Ngô đến chờ ở bộ Lễ. Viên lễ quan Võ Văn Ước tưởng lầm Ngô là Sùng Nhượng công, nên mời cùng ngồi với mình. Kế đó các quan lại cũ nhà Lê lục tục đến làm lễ dưới sân. Ngô áy náy vội đứng dậy đi ra. Lúc ấy Ước mới biết mình lầm, cho Ngô là vô lễ, cả giận, sai người đi bắt. Tối hôm đó, Ngô đến dinh Trần Văn Kỷ, một danh sĩ đất Thuận Hóa đang được Nguyễn Huệ trọng dụng, và có quen với Ngô khi Kỷ ra Thăng Long thi Hội năm Mậu Tuất (1778). Ngô nói rõ việc ban sáng. Trần rất mừng nói[58]:

- Cố nhân đến đúng lúc. Bắc Bình Vương mến mộ tài cố nhân, sai tôi đi tìm. Bỗng không hẹn mà gặp.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Sáng hôm sau liền đưa Ngô vào yết kiến Bắc Bình Vương. Vương nói:

- Ngày trước, vì chúa Trịnh không dùng, người phải bỏ nước ra đi. Nếu ta không đến đây, người làm sao được thấy bóng mặt trời? Có lẽ đó là ý trời muốn để dành người tài cho dùng. Vậy ngươi hãy cố gắng mà lo việc báo đáp.

Ðoạn truyền Trần Văn Kỷ thảo ngay tờ chế phong Ngô làm Tả Thị Lang bộ Lại, tước Tình Phái hầu, cùng với Võ Văn Ước coi tất cả các quan văn võ nhà[57] Nguyễn Văn Tuyết ở Phú Xuân ra Thăng Long với Bắc Bình Vương.

[58] Trần Văn Kỷ quy thuận nhà Tây Sơn lúc Bắc Bình Vương ra Phú Xuân và theo Vương ra Thăng Long để trừ Võ Văn Nhậm.

[59] Có nhiều tác phẩm bằng chữ Hán truyền thế.

[60] Có nhiều tác phẩm bằng chữ Hán truyền thế.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
CHIÊU THỐNG RƯỚC TÀU
VỀ ÐÁNH TÂY SƠN


Quân Nguyễn Hữu Chỉnh bị quân Tây Sơn đánh thua. Vua Chiêu Thống hoảng hốt sai Lê Quýnh cùng hơn 30 người tôn thất đem Hoàng Thái Hậu và Hoàng Hậu chạy sang Kinh Bắc, còn mình thì bỏ Thăng Long chạy theo Nguyễn Hữu Chỉnh đến đóng ở Mục Sơn thuộc Yên Thế, Nguyễn Hữu Chỉnh bị bắt, nhà vua chạy đến Chí Linh định nhờ Trần Quang Châu và Lê Ban dấy binh lấy Hải Dương làm cơ sở, nhưng bị quân Tây Sơn đuổi đánh, nhà vua chạy vào Sơn Nam, định nhờ tỳ tướng của Nguyễn Hữu Chỉnh là Nguyễn Việt Tuyển, nhưng Tuyển đã bị quân Tây Sơn đánh bại ở Hoàng Giang, nên nhà vua cùng Lê Ban chạy vào Thanh hóa. Sau nghe lời Lê Duy Ðoan trở về Kinh Bắc cho người qua cầu viện Thanh triều.

Về Kinh Bắc, Chiêu Thống sai hai người bề tôi tin cẩn là Tham tri Chánh sự Lê Duy Ðán và Phó Ðô Ngự Sử Trần Danh Án sang Trung Hoa.

Duy Ðán và Danh Án theo đường núi trốn qua biên thùy, đến ra mắt tri phủ Thái Bình. Tri phủ Thái Bình làm tờ đạt lời cầu viện lên Tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh và Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị.

Trong khi chờ đợi kết quả, Trần Danh Án có thơ cảm hoài:

Giá cô tại Giang Nam

Ðỗ quyên tại Kinh Bắc

Giá cô minh gia gia

Ðỗ Quyên minh quốc quốc

Vi cầm do hữu quốc gia thanh

Cô thần đối thử tình vô cực.

Nghĩa là:

Giang Nam thì chim đa

Kinh Bắc thì chim quốc

Chim đa kêu gia gia

Chim cuốc kêu quốc quốc

Nghe chim kêu tiếng quốc gia

Lòng cô thần những xót xa trăm chiều.


Trong lúc đó, Lê Quýnh, Nguyễn Huy Túc đã đưa Thái Hậu qua Tàu, nhờ viên Ðô Ty Long Bằng Trần Hồng
Thuận trình Quảng Tây Giang tả Dương Hùng Nghiệp bẩm lên Tôn Sĩ Nghị.

Nhận được hai lời thỉnh cầu cùng lúc. Nghị bèn làm sớ dâng về triều.

Vua Càn Long chuẩn y lời Tôn Sĩ Nghị và sai Nghị cầm 20 vạn binh sang Việt Nam, mượn cớ giúp Vua Lê đánh Tây Sơn để đặt nền đô hộ lên đất Việt.

Tôn Sĩ Nghị chia quân ra làm ba đạo: Một đạo do Tổng binh tỉnh Vân Nam và Quý Châu kéo sang mạn
Tuyên Quang.

Một đạo do Sầm Nghi Ðống kéo sang mạn Cao Bằng.

Một đạo do Nghị cùng Ðề Ðốc Hứa Thế Hanh kéo sang mạn Lạng Sơn.

Khí thế rất mạnh.

Ba đạo quân Thanh tiến vào nước ta vào khoảng giữa tháng 10 năm Mậu Thân (1788). Sĩ Nghị truyền hịch kể tội nhà Tây Sơn và kêu gọi thần dân nhà Lê ra hợp tác.

Viên trấn thủ Lạng Sơn Phạm Khải Ðức khiếp sợ, kéo cờ hàng. Phó tướng Nguyễn Văn Diễm chạy về Kinh Bắc cùng Nguyễn Văn Hòa cố thủ, rồi sai người về Thăng Long cáo cấp.

Ðược tin, Ngô Văn Sở dùng kế hoãn binh, khiến Nguyễn Quý Nha và Trần Bá Lãm mang ba tờ bẩm văn ký tên Sùng Nhượng công và bá quan văn võ, đến quân thự Tôn Sĩ Nghị cầu hòa. Sĩ Nghị bác khước Ngô Văn Sở bèn nhóm văn võ lại thương nghị. Nguyễn Văn Dụng đề nghị dùng phục binh đánh địch. Ngô Thời Nhậm nói:

- Quân địch mới tới, sức còn mạnh khí đương hăng, lại khoa trương thanh thế làm kinh động nhân dân. Nếu ta đem quân ra khỏi thành sẽ bị chúng sát hại. Cựu binh sĩ của Bắc Hà nhuệ khí vốn đã nhụt, thừa cơ trốn hết. Chừng ấy ta muốn đánh thì không hơn, mà muốn giữ cũng không đặng. Chẳng phải là thiện sách. Chi bằng rút hết quân thủy bộ vào đóng giữ từ Tam Ðiệp ra đến biển, để bảo toàn lực lượng rồi cho cáo cấp về Phú Xuân. Lúc đó ta sẽ quyết chiến cũng không muộn.

Ngô Văn Sở nói:

- Giặc đến chưa đánh đã chạy, tôi e đắc tội với Bắc Bình Vương
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Ngô Thời Nhậm đáp:

- Lương tướng thời xưa, lường sức giặc trước rồi mới định việc công hay thủ. Nay ta đem toàn quân lui về, chẳng qua là cho chúng ngủ nhờ một đêm, sáng ngày đuổi đi, có gì quan trọng. Nếu Bắc Bình Vương hỏi tội tôi sẽ bẩm biện. Ông cứ yên tâm.

Ngô Văn Sở liền cho gọi binh các trấn Kinh Bắc, Thái Nguyên, Hải Dương, Sơn Tây đến tập hợp tại Bắc Thành trấn Sơn Nam, rồi đồng tiến vào Tam Ðiệp.

Chợt có tin quân Thanh đã qua khỏi ải Nam Quan, Phan Văn Lân nổi nóng:

- Nước không cần phải lớn, binh không cần phải nhiều, hễ quyết chiến thì thắng. Nay làm tướng nắm binh quyền ở cõi ngoài mà giặc đến không đánh thì làm tướng để làm gì ?

Rồi thừa đêm tối đem quân ra đi. Ðến bờ phía nam sông Nguyệt Ðức thì nghe quân Thanh đã tới núi Tam Tằng, Lân đốc binh sĩ liều lạnh lội càn qua sông. Quân chết đuối quá nửa. Còn một nửa vừa đến bờ bên kia thì quân địch đánh giết hết. Lân một người một ngựa sống sót chạy trở về. Ngô Văn Sở cả kinh, giấu kín việc Lân, khiến chư tướng chỉnh tế đội ngũ, trực tiến đến Tam Ðiệp.

Ðến Tam Ðiệp vào ngày 20 tháng 11 năm Mậu Thân (17-12-1788). Một mặt chia đồn cố thủ, một mặt cho Nguyễn Văn Tuyết về cáo cấp Phú Xuân.

Không gặp sức cản trở đáng kể, Tôn Sĩ Nghị tiến quân dễ dàng. Ðến Kinh Bắc được Vua Chiêu Thống đón tiếp trọng thể. Nghị cùng nhà vua trực chỉ đến Thăng Long cho đại quân hạ trại ở Yên Phụ còn tướng doanh thì đặt tại Tây Long Cung. Ðể tiện việc qua lại, một dãy cầu phao bắc ngang qua sông Nhị. Ngày hôm sau (21 tháng 11 năm Mậu Thân), Nghị phong Vua Chiêu Thống làm An Nam Quốc Vương tại điện Kính Thiên và quyết định sau tết Nguyên Ðán mới xuất quân đánh Nguyễn Huệ.

Vào thành Thăng Long như vào chỗ không người, Nghị nghĩ rằng đánh dẹp Tây Sơn sẽ dễ dàng như lấy đồ trong túi, nên lơ đãng việc binh, ngày ngày lo hưởng lạc thú.

Vua Chiêu Thống tuy đã thụ phong, nhưng phải theo niên hiệu Càn Long, và việc gì cũng phải bẩm lên Tôn Sĩ Nghị. Mỗi ngày sau buổi chầu, Chiêu Thống phải đến dinh Sĩ Nghị để chầu chực việc cơ mật. Nhiều khi Nghị không cho vào, chỉ sai một người ra bảo: Không có việc gì quan trọng, Vua hãy về cung nghĩ. Thế mà không biết nhục, ngày ngày chỉ lo việc báo ân báo oán giết hại những người đã theo Tây Sơn. Một người tôn nữ kết duyên cùng một tướng Tây Sơn, đã có mang. Chiêu Thống sai mổ bụng, lấy thai nhi giết chết! Ba người hoàng phái hàng vai chú nhà vua, bị chặt chân quăng ra giữa chợ. Việc chém giết vì tư thù không ngày nào không có. Lương dân khủng khiếp!

Một số nhân sĩ, trước hành vi tàn bạo của Chiêu Thống vẫn ôm mối cô trung như Bùi Huy Bích, Phạm Quý Thích, Phạm Ðan Phụng... Có người nói Trung là trung với nhà Lê chớ đâu phải trung với Vua Chiêu Thống. Lại có người nói Quân bất kính thần bất khả bất trung[61].

Những quan lại cũ đã bỏ trốn trong lúc Nguyễn Hữu Chỉnh bị giết, nghe tin Vua Chiêu Thống trở về, lục tục kéo nhau tới thành đô bái yết và đến xin Tôn Sĩ Nghị ra quân đánh Tây Sơn. Nghị đáp:

Năm đã gần hết. Ði đâu mà vội vàng? Giặc còn gầy, mình dung túng cho nó ít lâu là nuôi cho nó béo, để rồi nó đem thịt đến nạp cho mình xơi, chẳng hay lắm sao?

Rồi truyền ba quân đóng trại nghỉ ngơi để ra giêng chiến đấu.

Quân lính của Sĩ Nghị thấy chủ tướng tham tàn dâm dật, tướng lệnh lại không nghiêm minh, nên tha hồ ngang dọc. Những vụ cướp bóc, hãm hiếp, tàn sát... xảy ra hàng ngày. Nhân dân không mấy lúc được ăn ngon, ngủ yên. Nơi nơi đồ thán!

Cảnh nước loạn dân khổ đến thế là cùng cực.

Người người đều trông mong cuộc đời đổi thay.


-----------------

[61] Người xưa dạy: Phụ từ tử hiếu, quân kính thần trung nghĩa là cha có hiền lành con mới có hiếu Vua có kính vì tôi mới trung tức là người trên có lo tròn bổn phận mình thì mới có quyền buộc kẻ dưới lo tròn bổn phận. Nhưng người sau lại nói: Phụ bất từ, tử bất khả bất hiếu, quân bất kính, thần bất khả bất trung. Nghĩa là Cha không lành, con không thể không hiếu. Vua không kính, tôi không thể không trung. Tức là buộc kẻ dưới phải giữ hết phận mình đối với người trên, dù người trên không giữ tròn bổn phận. Phần đông các nhà Nho theo lời sau.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
  • Xem ra Tây Sơn đã thống nhất đất nước năm Đinh Mùi 1787
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
VUA QUANG TRUNG ÐẠI PHÁ QUÂN THANH

Ðược tin quân Thanh sang chiếm đóng Thăng Long, Bắc Bình Vương lập tức hội các tướng đến bàn việc dẹp giặc. Các tướng xin Vương trước nên chính vị hiệu để ràng buộc lòng người Nam Bắc rồi sau sẽ khởi binh.

Theo lời, Vương sai đắp đàn ở Bàn Sơn (gần núi Ngự Bình).

Ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), làm lễ cáo Trời Ðất, lên ngôi Hoàng Ðế, đặt niên hiệu là Quang Trung. Ngay hôm đăng quang, Vua Quang Trung tự thống lĩnh thủy bộ đại binh, đốc suất tướng sĩ ở tế đàn, kéo rốc ra Bắc. Ði đầu là một lá cờ vuông to lớn, nền đỏ thắm giữa thêu mặt trời vàng rực rỡ, tượng trưng cho hiệu Quang Trung. Ðể quân sĩ đi cho chóng và khỏi mệt, nhà vua cấp cho ba người một cáng tre, hai người khiêng một, luân phiên nhau đi gấp ngày đêm ra Nghệ An. Ðến nơi là ngày 29 tháng 11.

Nhà vua mời La Sơn Phu Tử đến vấn kế.

La Sơn Phu Tử tên là Nguyễn Thiếp, người làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, huyện La Sơn, trấn Nghệ An. Sinh năm Quý Mão (1723). Ðậu Giải Nguyên năm Quý Hợi (1743). Vâng lời mẹ và thầy là Nguyễn Nghiêm, Phu Tử ra làm huấn đạo ở Anh Ðô. Ðược ít lâu từ chức, về ở ẩn tại núi Thiên Nhậm, tự hiệu là Lạp Phong xử sĩ.
Phu Tử là người học rộng, đạo cao, lừng danh khắp Nam Bắc.

Kỳ ra Bắc lần đầu tiên để diệt Trịnh, đến Nghệ An, Nguyễn Huệ viết thư mời ba lần, lời lẽ khiêm tốn xin cụ làm quân sư. Cụ một mực từ chối.

Kỳ thứ hai khi ra dẹp Võ Văn Nhậm. Nguyễn Huệ lại cho mời cụ đến hội kiến. Bị sứ giả thôi thúc, bất đắc dĩ cụ ra gặp Nguyễn Huệ ở núi Nghĩa Liệt. Huệ có ý bất bình nói:

- Nghe tiếng Tiên Sinh, mong được gặp mặt. Sao Tiên Sinh lại có ý thoái thác? Hay là tiên sinh coi Huệ này không phải là anh hùng?

Cụ đáp:

- Trịnh thị tiếm lộng đã 200 năm, Tướng quân nhất cử mà bài diệt được, thổ địa đều giao lại cho Vua Lê.
Công đức như thế, ai lại không cho Tướng quân là anh hùng. Nhưng nếu Tướng quân nhân tai nạn của người mà làm lợi cho mình, ấy là dối lấy nghĩa trước, thâu lấy lợi sau, thì đó là gian hùng.

Huệ cung kính nói:

- Người đời gọi Tiên Sinh là Thiên Hạ Sĩ thật không sai.

Huệ nài nỉ xin cụ ra giúp. Cụ lấy cớ tuổi già sức yếu xin được ở yên nơi sơn lâm. Kỳ này được giấy mời, cụ đến ngay và nói:

- Quân Thanh ở xa mới tới không biết tình hình quân ta mạnh yếu thế nào, địa thế nước ta hiểm trở ra sao, không biết nên đánh hay nên giữ. Chúa công ra đây nên đánh gấp thì không quá mười ngày nhất định tiêu diệt được địch.

Vua Quang Trung mừng rỡ:

- Thật hợp ý ta!

Nhà vua đóng quân ở Nghệ An để tuyển mộ thêm binh, trữ thêm lương thực. Sau mươi hôm quân mới cũ tính hơn 10 vạn, trên 200 thớt voi và 5.000 con ngựa. Quân sĩ đều mặc áo cặp nẹp đỏ, đội mũ ngù kết tua đ�
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Nơi quê hương không có đối thủ. Ðặng đi khắp đó đây để tiêu dao ngày tháng. Nghe tin Vua Quang Trung đi đánh quân Thanh, Ðặng bèn đến nhập ngũ. Và để được dễ dàng, Ðặng bèn bày ra trò mặc áo trắng diễn võ trong khi tất cả quân sĩ đều mặc áo đỏ.

Gặp được bạn cũ, Vua Quang Trung hết sức mừng, liền phong cho Ðặng chức Ðại Ðô Ðốc cùng mình đi định Bắc.

Sau khi chuẩn bị đầy đủ, nhà vua hạ lệnh trẩy quân.

Ngày 20 tháng chạp (15-1-1789), đại binh tới Tam Ðiệp[64]. Ngô Văn Sở, Ngô Thời Nhiệm, Phan Văn Lân ra chịu tội. Nhà vua cười:

- Ta biết đây là kế của Ngô Thị Lang. Lui quân để tránh thế giặc, trong khuyến khích sĩ khí, ngoài phấn khích lòng kiêu ngạo của giặc. Kế dụ địch vào chỗ hiểm yếu của ta, như thế là phải. Các khanh không có tội chi cả.

Lại nói:

- Chúng nó sang chuyến này là mua lấy cái chết đó thôi. Ta đã định mẹo cả rồi. Dẹp yên giặc chỉ trong
mươi ngày là xong. Nhưng giữ yên bờ cõi sau này ta phải nhờ Ngô Thị Lang.

Ðoạn lo chỉnh đốn quân ngũ, cắt xếp tướng tá, hoạch định đường hướng.

Hai bận ra Thăng Long, Vua Quang Trung đã nhìn thấy rõ địa hình địa thế của Bắc Hà và khi dừng binh ở Nghệ An, nhà vua đã mật sai quân đi do thám để nắm vững tình hình của địch. Nhà vua chia thân binh Thuận Quảng làm bốn dinh Tiền, Hậu, Tả, Hữu, còn Tân binh Nghệ An thì làm Trung quân.

Trung quân do nhà vua trực tiếp điều khiển.

Tiền quân do Ðại Tư Mã Ngô Văn Sở và Nội Hầu Phan Văn Lân cai quản.

Hậu quân do Hô Hổ Hầu đốc chiến.

Tả quân do Ðại Ðô Ðốc Nguyễn Văn Lộc và Ðại Ðô Ðốc Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy, kiêm cả bộ binh và thủy binh. Tuyết giữ nhiệm vụ Kinh Lược Hải Dương, ứng tiếp mặt đông. Lộc tiến đến Lạng Sơn, Phượng Nhã, giữ vùng Yên Thế chận đường rút lui của địch.

Hữu quân gồm mã quân và tượng quân, do Ðại Ðô Ðốc Nguyễn Văn Bảo và Ðại Ðô Ðốc Ðặng Văn Long[65] thống lãnh. Long đem mã quân qua huyện Chương Ðức (Hà Ðông) để tiến đến làng Nhân Mục huyện Thanh Trì (Hà Ðông). Bảo đem tượng binh qua vùng Sơn Minh (Ứng Hòa, Hà Ðông) để làm quân tiếp ứng.

Ðể trưởng dưỡng thêm lòng kiêu căng của địch, nhà vua sai Trần Danh Bình cầm đầu sứ bộ tám người mang lễ vật và văn thư ra tha thiết xin quan Ðại Nguyên Soái của Thiên Triều dừng quân để tra xét cho rõ vì sao Tây Sơn phải thay quyền nhà Lê. Sứ bộ còn trả lại cho Tôn Sĩ Nghị 40 người Trung Hoa do tướng cướp Ðắc Thiện Tống cầm đầu đã bị quân Tây Sơn bắt được. Tôn Sĩ Nghị chém Trần Danh Bình, chém luôn cả Ðắc Thiện Tống và cầm tù phái đoàn sứ giả.

Mọi việc cụ bị, nhà vua cho mở tiệc linh đình vào ngày 29 tháng Chạp để thiết đãi tướng sĩ. trong bữa tiệc nhà vua nói:

- Bữa nay ta hãy ăn tết Nguyên Ðán trước. Sang xuân ngày mồng 7, vào Thăng Long, sẽ mở tiệc ăn tết Khai Hạ.

Lại nói:

- Xuân sang, một là ăn tết, hai là chịu chết. Tướng sĩ phải hết lòng cùng ta.

Ai nấy đều hớn hở vui mừng.

Vui mừng hơn là Phan Văn Lân, vui mừng vì được gặp lại bạn học ngày xưa: Ðặng Văn Long. Sau chuyện hàn huyên, Long hỏi thăm tin tức thầy học Trương Văn Hiến. Lân nói: Thầy ra giúp Vua Thái Ðức một thời gian, rồi lui về An Thái dưỡng lão. Từ ấy việc binh bận rộn, tôi không đi thăm được mà cũng không được tin tức của thầy. Không biết có còn khỏe mạnh. Ơn xưa nghĩ lại lắm lúc thật buồn.

Long nói:

- Hơn mười năm nay tôi mải miết giang hồ, cũng không lo tròn nghĩa sư đệ. Nhưng chuyến này nếu đánh
đuổi được giặc xâm lăng, thì chắc thầy cũng mừng rằng công dạy dỗ không đến nỗi uổng.

Sáng hôm sau, 30 tháng chạp, nhà vua truyền lệnh xuất quân. Vua nói:

- Ta đến mà địch không biết, là địch ngủ ta thức. Ta đánh mà địch không đề phòng, là ta chém kẻ tay không. Ta nhất định thắng.

Tiếng hoan hô vang trời, khí thế mạnh chuyển núi.

Quân Tây Sơn đến đâu cũng được dân địa phương hoan nghênh đến đó. Nơi mổ heo bò thết đãi, nơi đem
bánh chưng bánh tét ra dâng. Hết bị kiêu binh của chúa Trịnh lộng hành gieo tai họa lên đầu, đến bị Lê Chiêu Thống rước ngoại bang về dày xéo đất nước, nhân dân Bắc Hà coi quân Phú Xuân như những đoàn hiệp sĩ cứu khốn phò nguy [66] nên nhiệt tình ủng hộ.

Chưa hết ngày 30, nghĩa quân đã qua khỏi sông Giản Thủy ở Ninh Bình. Hoàng Phùng Nghĩa, cựu thần nhà Lê do Tôn Sĩ Nghị sai đóng quân giữ Sơn Nam, nghe đại binh kéo tới, chưa giáp trận đã bỏ chạy về Hà Nam. Vua Quang Trung cho quân đuổi theo đến Phú Xuyên (Hà Ðông) thì bắt trọn cả tướng lẫn quân. Bọn quân xích hầu của giặc cũng bị giết không còn một mống. Nhờ vậy mà mối liên lạc giữa quân địch bị cắt đứt hẳn. Các đồn đóng ở phía ngoài không hay biết chi cả. Nghĩa quân lặng lẽ kéo ra.

Mồng 3 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789) lúc nửa đêm nghĩa quân vây đồn Hà Hồi. Quân Thanh đang ngủ, nghe tiếng reo hò, tiếng trống trận vang rền như sấm ngoài chiến lũy, khiếp sợ, không còn gan chống cự, vội vã kéo cờ hàng.

Nghĩa binh lấy trọn quân lương và khí giới.

Qua đêm mồng 5, vừa cuối canh tư, nhà vua sai dồn tất cả lương thực vào một chỗ rồi cho đốt sạch, và bảo tướng sĩ:

- Hễ thắng giặc thì được no, thua giặc thì chết đói. Lại lấy mấy thước khăn vàng quấn vào cổ và thề:

- Nếu không thắng được giặc thì chết với khăn này chớ nhất định không lui.

Ðoạn xắn tay áo, xách Ô Long đao nhảy lên mình voi, thúc quân tiến đánh đồn Ngọc Hồi. Voi trận đi trước, quân lính theo sau đi như gió cuốn.
 

nambui000111

Xe hơi
Biển số
OF-377891
Ngày cấp bằng
15/8/15
Số km
130
Động cơ
246,450 Mã lực
Tuổi
36
Chuyến xe này em oánh dấu đây cụ nhé.
 

custardapple

Xe buýt
Biển số
OF-205653
Ngày cấp bằng
11/8/13
Số km
767
Động cơ
125,369 Mã lực
Mấy thằng bạn làm em tổng thống các nước như Slovenia, Lechtenstein, Bỉ, Áo, Thụy Sỹ, vv...
Uống trà đá tán phét, chúng nó bẩu: "Ơ cái đệt, Việt Nam mày giỏi nhỉ thắng được cả bọn ngoại xâm. Chúng tao cứ giặc đến là đầu hàng, oánh nhau thì phải gọi người ngoài".
Em tự thấy mình cũng vênh váo lắm :D
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
  • Huệ bắt quân ở Nghệ An làm trung quân. Chiến thuật Tây Sơn là tinh binh đứng vòng ngoài, tân binh ở bên trong để tân binh ko sợ và khó bỏ chạy. Nếu rời hàng ngũ thì sẽ bị kỵ binh chạy vòng ngoài chém rơi đầu. Vì thế tân binh bị kẹp bên trong cứ theo đội hình mà tiến lên. Ở thường là tướng trên mình voi sẽ chỉ huy tiến, lùi, trái phải, đốc thúc phía trước luôn có đám du binh mở đường.
  • Lối đánh tân công mạnh mẽ dùng trung quân vỗ thẳng vào mặt khiến đám quân Nghệ an chết rất nhiều trong trận Ngọc hồi. Trận Ngọc Hồi quân Tây Sơn mất 8000 lính chết nhiều nhất trong lịch sử tây Sơn
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
  • Quân nhà Lê tổng cộng khoảng 3 vạn. Tây Sơn rút đi nhưng để lại ngoài rìa Thăng Long vài nghìn, tuy nhiên quân nhà Lê đông hơn 20 lần vẫn ko hạ nổi các trại này, thậm chí khi nghe tin Huệ lên ngôi đám quân Tây Sơn còn tấn công lại quân nhà Lê phải thối lui.
  • Thực ra quân Thanh còn 1 đảo thủy quân sang Việt nữa.
  • 30 tết đám du binh quân Tây Sơn vượt sông Gián Thủy, Ninh Bình. Quân Lê thấy du binh vượt sông đã bỏ chạy về Hà Hồi. Quân Thanh ko cho quân Lê vào chửi là chết nhát.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Tướng Mãn Thanh hay tin, kéo kỵ binh ra chận đánh. Nhưng vừa trông thấy voi, ngựa sợ cuống, hí lên những tiếng kinh hoàng, rồi chạy tán loạn. Quân Thanh bị rối hàng ngũ, không dám giao chiến, phải rút lui vào giữ đồn.

Ðồn quá kiên cố. Mặt ngoài lũy đều cắm chông sắt và đặt phục lôi. Trong đồn lại bắn súng ra như mưa xối.
Vua Quang Trung truyền lấy 60 tấm ván dày, cứ ba tấm ghép vào thành một phên ván, ngoài phủ rơm trộn với đất ướt. Rồi cứ mười người, lưng đeo đoản đao, khiêng một tấm phên ván đi trước, tiếp theo hai mươi người cầm vũ khí, tiến theo thế trận chữ nhất. Nhà vua cỡi voi theo sau đốc suất.

Ðạn bắn rào rào. Quân ta không hề lui một bước, vượt chông sắt, phá tan cửa lũy, tràn vào đồn. Quân địch không còn dùng súng được nữa. Quân ta quăng ván, đánh xáp lá cà, nhanh như chớp, mạnh như bão, giết quân địch như thái rau. Quân địch không cự nổi, bỏ chạy, lớp dày đạp lên nhau, lớp chạm phải địa lôi, lớp chết lớp bị thương, còn bao nhiêu bị bắt sống. Tướng Thanh là Ðề Ðốc Hứa Thế Hanh, Tiên phong Trương Triều Long và Tả Dực Thượng Duy Thăng đều tử trận.

Ðồn Ngọc Hồi giữ vị trí quan trọng nhất trong hệ thống phòng ngự của địch. Lực lượng có trên 3 vạn quân tinh nhuệ. Ðồn bị tiêu diệt, quân tử trận và bị bắt hơn hai phần. Còn chừng một phần sống sót kéo nhau chạy ra ngã Thăng Long, chẳng ngờ đến gần Văn Ðiển thì bị quân Tây Sơn bố trí sẵn, chận đánh. Quân địch phải thối lui, chạy qua cầu Vinh sang vùng Ðầm Mực. Ðầm Mực là một vùng đầm lầy rộng lớn thuộc huyện Thanh Trì.

Ðại Ðô Ðốc Nguyễn Văn Bảo từ Sơn Minh đem tượng binh đến Ðại Áng. Khi có tin quân địch từ Ngọc Hồi chạy lên thì đem voi ra bao vây. Quân địch lớp chôn thây trong bùn lầy, lớp bị voi chà, không còn một tên sống sót.

Lực lượng Ngọc Hồi bị tiêu diệt toàn bộ.

Trong khi Ngọc Hồi bị tiêu diệt thì đồn Khương Thượng cũng bị tiêu diệt luôn.

Khương Thượng nằm phía tây nam thành Thăng Long. Ðồn bị quân Ðại Ðô Ðốc Long tiêu diệt. Ðại Ðô Ðốc
Ðặng Văn Ðông có viên phó tướng là Ðặng Tiến Ðông, trí dũng hơn người, trước kia làm quan cùng chúa Trịnh, sau quy thuận nhà Tây Sơn, Ðặng Tiến Long quê ở Lương Xá gần Thăng Long, am hiểu địa hình và đường lối trong khắp vùng Thăng Long và lân cận, hướng dẫn quân đi đường tắt.

Ðại Ðô Ðốc Ðặng Văn Long từ huyện Chương Ðức đến Thanh Trì, trước hết chiếm đồn Yên Quyết và Nhân Mục, nằm phía tây bắc đồn Khương Thượng. Hai đồn này là hai đồn nhỏ làm tiền đồn cho Khương Thượng. Hai đồn bị hạ một cách nhanh chóng và im lặng. Quân Ðô Ðốc Long kéo vây đồn Khương Thượng từ lúc chưa tinh sương. Trong đồn không hay biết. Quân Ðô Ðốc Long được nhân dân ủng hộ, dùng rơm khô bện thành con cúi, tẩm dầu, chực lửa. Rồi một tiếng hô, muôn nghìn tiếng ứng, đồng thời lửa bật cháy. Bốn mặt đều có ánh lửa hừng hực và tiếng hô hét vang trời. Quân trong đồn khủng khiếp, không còn sức chống cự. Tướng chỉ huy là Ðề Ðốc Sầm Nghi Ðống chưa kịp đối phó thì quân của Ðô Ðốc Long đã phá đồn tràn vào như nước vỡ đê.

Ðống khiếp sợ, trốn ra Hoa Sơn tức gò Ðống Ða thắt cổ tự tử. Binh sĩ trong đồn bị giết quá nửa.

Một nửa còn sống sót lớp chạy ra hướng Bắc, lớp theo sông Tô Lịch chạy vào Nam. Chạy đến Ðầm Mực bị quân Ðô Ðốc Bảo tiêu diệt hết.

Tại bản doanh, Tôn Sĩ Nghị đương theo dõi mặt trận phía Nam, bỗng được tin đồn Ngọc Hồi rồi đồn Khương
Thượng bị tiêu diệt, và binh Vua Quang Trung đương kéo đến kinh thành. Còn đương lúng túng chưa biết liệu thế nào, thì binh Ðô Ðốc Long từ Khương Thượng đã kéo vào Thăng Long, sát khí ngùn ngụt.

Nghị sợ quá không kịp mặc áo giáp, không kịp thắng yên ngựa, hớt hải cùng toán kỵ binh hầu cận bỏ cung Tây Long, vượt cầu phao chạy qua sông Nhị. Tướng sĩ thấy chủ tướng bỏ chạy, rùng rùng chạy theo, lấn nhau qua cầu phao. Cầu không chịu nổi sức nặng bị đứt, ném tung hàng vạn quân địch xuống sông.
Tôn Sĩ Nghị cùng đám tàn quân nhắm ải Nam Quan mà chạy. Nhưng chạy đến đâu thì cũng bị quân của Ðô Ðốc Lộc đánh giết. Tôn Sĩ Nghị phải vứt bỏ tất cả sắc thư, ấn tín để lo chạy thoát thân. Chạy bảy ngày đêm mới đến trấn Nam Quan, đói cơm khát nước.

Vua Chiêu Thống cũng chạy theo Tôn Sĩ Nghị.

Ðạo quân Thanh đóng ở Hải Dương cũng bị Ðô Ðốc Tuyết đánh bại.

Riêng đạo quân Thanh đóng ở Sơn Tây, tuy không bị tấn công, nhưng cũng hoảng sợ, rút chạy về nước.
Quân Mãn Thanh bị quét sạch.

Bắc Hà hoàn toàn được giải phóng.

Chiều mồng 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu (30-1-1789), Vua Quang Trung kéo quân vào thành Thăng Long trong không khí tưng bừng. Chiếc chiến bào của nhà vua đỏ thắm đã bị thuốc súng nhuộm thành màu đen.
Nhà vua vào thành Thăng Long trước kỳ hẹn hai ngày.

Trăm họ chật đường nghênh tiếp.

Tiếng reo hò của nhân dân và của binh sĩ vang dội một góc trời.

Theo đúng lời hẹn, Vua Quang Trung cho tướng sĩ ăn tết một lần nữa.

Nhân dân trong thành và ngoài thành cũng đua nhau mở tiệc vui, tưng bừng nhộn nhịp.

Và trên kỳ đài thành Thăng Long, ngọn cờ đỏ mặt trời vàng bay phấp phới.

------------------

[62] Ðại Nam Quốc Sử diễn ca có câu nói về binh Tây Sơn: Quân dung đâu mới lạ thường Mũ mao áo đỏ chật đường kéo ra.

[63] Ngạnh công: Cương quyền. Nhuyễn công: Nhu quyền.

[64] Tam Ðiệp tục gọi là núi Ba Dội ở giữa Thanh Hóa và Ninh Bình.

[65] Các sách chép là Ðô Ðốc Mưu.

[66] Theo lời của giáo sĩ Jumilla de Diego, trong Bulletin de la Socíeté des Etudes Indo Chinoises
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Tiếp theo là : Nội chiến-Tạ Chí Đại Trường. Có vẻ chi tiết hơn.

_____________________________________________________________Tiết 9

ĐỐNG ĐA: TỘT ĐỈNH CỦA TÂY SƠN


Bắc Hà hay chế độ cũ dưới mắt Tây Sơn * Trận Đống Đa và tác động tâm lý của nó.


“Sáng ngày khi biết Tây Sơn kéo quân về Nam đêm trước, Lê Chiêu Thống đòi các quan vào triều và hỏi:
- Anh em hắn cướp hết nước ta mà đi, để cái “nước không” lại đây cho ta, nếu như có việc nguy cấp thì lấy gì mà chống chế?

Các quan ngơ ngác nhìn nhau, không biết nên nói thế nào. Tả hữu chợt có người tâu:
- Hôm qua vâng có chỉ truyền sớm nay đặt triều. Bây giờ ngự giá đã tới, dám xin nhắc lại.

Hoàng thượng lại hỏi các quan:
- Triều hãy thôi chăng?

Các quan đều nói:
- Hoàng thượng ra triều để giáng chỉ đổi niên hiệu, đó là việc lớn sao lại thôi?”


Một đoạn thuật chuyện trong sách Hoàng Lê vắn tắt cho ta thấy sự tan rã của cái thế thống-nhất-về-Lê. Cái “nước không” mà Lê Chiêu Thống đã nói đây không phải chỉ là không bảo vật, không kho tàng. Nỗi kinh hoàng của Chiêu Thống chính do ở cái không khí trống trơn quyền bính mà Tây Sơn để lại ở Bắc Hà.

Đoan Nam vương chết, Tây Sơn đi người ta cứ tưởng quyền bính từ đây tập trung về tay Lê, nhưng tình thế trái ngược lại vì thói quen lâu đời đã không dễ gì một sớm một chiều xoá nhoà được.
Trước hết là về phía nhà vua. Vị thiên tử 21 tuổi đó có mối thù Trịnh giết cha, có kinh nghiệm tù ngục nhưng chỉ để nuôi dưỡng oán hờn chứ không được chuẩn bị cầm quyền nối ngôi ông nội. Ông chỉ mới muốn tự chủ trong việc chôn cất Tiên đế thì đã bị ông dượng rể giành lấy làm đến phải tạ tội mới được yên thân.

Triều thần nhà vua thì qua 200 năm ở nể cũng không biết việc gì làm hết. Hãy nhìn bộ mặt ngơ ngác của họ khi Chiêu Thống hỏi mưu lược giũ nước. Có kẻ lanh trí nghĩ ra thì chỉ được có mỗi một việc là đặt triều đã nói hôm qua. Thế rồi các quan mừng rỡ nhờ tìm được lối thoát, đốc xúi vua ra triều để được tung hô mừng thời mới. Ừ, việc lớn quá sao lại thôi?

Trong khi đó thì phải thấy rằng thói quen làm việc quanh Trịnh phủ dưới quyền họ Trịnh đã tập thành, để một khi xảy ra biến cố “đám cố gia di thần nhà Chúa” vẫn còn luyến nhớ họ. Hãy nghe Đỗ Thế Long biện hộ cho nhà Chúa mà đàn hặc Nguyễn Hữu Chỉnh:

- “Khi ông mới xuất thân, nào cầm quân, nào phong hầu, cái gì không phải là ơn nhà Chúa. Nay ông lấy tiếng phù Lê diệt Trịnh để kéo quân ra, thật là quá tệ. Nếu bảo nhà Chúa hiếp chế nhà Vua là việc có lỗi thì sao khôngnghĩ cái công tôn phù hai trăm năm trời? Theo người mới mà phản người cũ tức là bất nghĩa, bới cái lỗi để lấp cái công tức là bất nhân...”

Cho nên khi văn thần của Lê bất lực thì võ tướng làm việc ở các trấn một khi kéo quân về chỉ là để phù Trịnh. Khuôn mặt Trịnh nổi bật nhất là một người đã từng âm mưu giành ngôi anh, tính dựa vào Kiêu binh đoạt ngôi cháu: đó là Trịnh Lệ, em ruột Trịnh Sâm. Được Thì Trung hầu tìm đón về Thăng Long, Lệ nhận cho Dương Trọng Tế phản Chiêu Thống thần phục mình để lập nên triều chúa mới. Một khuôn mặt khác của Trịnh nhu hoà hơn, nhưng nhờ kích thích của thời thế cũng chứa nhiều tham vọng: đó là Trịnh Bồng, “ông quận Quế”. Tấn tuồng xoay chiều, đổi chủ lại diễn ra chớp nhoáng. Nguyễn Mậu Nễ, bộ tướng của Dương Trọng Tế, noi gương chủ đi đón Trịnh Bồng về đuổi Trịnh Lệ chạy khỏi phủ Chúa (4-11-1786).

Trong họ Trịnh không còn ai giành quyền nữa để Chiêu Thống làm áp lực có hiệu quả với Trịnh Bồng nên đành chịu Đinh Tích Nhưỡng mang quân về ép ông phong chức cho Chúa. Ông cũng còn hy vọng ở Hoàng Phùng Cơ, nhưng viên tướng này cũng liệu gió phất cờ mà sắp hàng bên phủ Liêu.

Nhưng tình trạng đó không có nghĩa là quyền binh đã được tập trung quanh chiếc ngai “đố an” - Án Đô vương. Những người lăng xăng chạy từ cung Vua tới phủ Chúa tranh các danh vị Tham tụng, Bình chương:.. “khư khư những thứ cũ rích” không phải là một lực lượng đáng kể. Bên văn hãy xem một Ninh Tốn, tướng bại trận Đồng Hới ngày trước, đem cái khôn quyệt “nhanh trí” của mình ra để dò ý Hoàng Phùng Cơ xem thế mà đổi chiều phò tá. Đám người “sợ hãi xám mặt” trước Bắc Bình vương, đã bị Nguyễn Hữu Chỉnh mỉa mai tài thuyết khách từng đem một tên trấn nước để khỏi làm “mê hoặc thiên hạ”, đám người ấy quả không đủ sức nghĩ xa hơn cách tiến thân bằng mồm mép. Còn võ tướng Đinh Tích Nhưỡng chẳng hạn, một ông trấn thủ biến thành cướp, không dằn mặt nổi ông nghè Nguyễn Hãn, còn nói gì đến việc đánh ai? Tình trạng phân ly từ trên đem đến một sự kết tập binh lính, dân chúng lỏng lẻo, nay là của phe này, mai bị vào phe khác không có dáng gì hơn bọn trước.

Nguyễn Hữu Chỉnh thừa hưởng được lề lối kết tập của Tây Sơn có thắng được Trịnh Bồng vào cuối tháng giêng 17871 cũng là lẽ tự nhiên.

Từ khi bị Nguyễn Huệ bỏ rơi ở Nghệ An, Chỉnh phải lo kiến tạo lực lượng riêng để bảo vệ bản thân và chờ cơ hội phát triển. Không có Tây Sơn thì ông làm Tây Sơn vậy. Ông truyền hịch chiêu binh. Ai ngần ngừ, ngỏ ý chống báng, ông đem tay chân đến giết ngay. Chỉ 10 ngày ông đã có hơn 1.000 quân. Tất nhiên không phải chỉ có sự đe doạ làm nên tinh thần binh sĩ. Khả năng tổ chức quân binh của ông từ những kinh nghiệm qua được đem ra thử thách lần nữa. Quân có thiếu chính nghĩa thì phải tạo nó ra. Một chuyến liên lạc ngầm với Chiêu Thống được tuyên bố khoa trương khiến dân chúng Nghệ An bỏ phe chống đối mà theo ông.

Về phần Chiêu Thống từ khi thất vọng với Hoàng Phùng Cơ, quả vua thấy không còn ai có thể để kêu gọi về giúp ngoài Nguyễn Hữu Chỉnh. Quân Nghệ An rầm rộ tiến ra. Một trận nhỏ phá tan quân Trịnh Bồng gởi vào hỏi tội, bắt sống Phan Huy Ích, giết Lê Trung Nghĩa khiến uy thanh Chỉnh nổi dậy. Một lần nữa, quân tướng quanh phủ Chúa lại lảng xa. Trịnh Bồng có mếu máo chạy trốn cũng chỉ là thêm chút kinh nghiệm đắng cay cho con người thời loạn. Chỉ có họ Trịnh là không hy vọng trỗi dậy nữa: Chiêu Thống tức giận sai đốt tan phủ Chúa để tuyệt diệt dấu vết của một uy quyền đã áp bức dòng họ mình trên hai trăm năm dài.

Phát huy chiến thắng, Nguyễn Hữu Chỉnh cho quân đánh bắt Dương Trọng Tế ở Gia Lâm, bắt Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Tây đem về giết, đuổi tan quân Đinh Tích Nhưỡng ở Hải Dương. Uy quyền của Chỉnh lớn dần ngang với thực lực. Chỗ ở của Chỉnh tấp nập quan chức ra vào.

Tuy nhiên muốn lập riêng một triều Chúa mà hành động của Chỉnh vẫn có dấu vết của viên Hữu quân Tây Sơn. Thực vậy, muốn có lực lượng bình Bắc Hà, muốn tìm cách tập trung một quyền hành từ lâu vẫn phân tán nên bị khinh khi, Chỉnh đã áp dụng những phương pháp như của Tây Sơn đã làm. Sách Hoàng Lê với những nhận xét chủ quan, thiển cận vẫn cho ta thấy rõ điều đó:

“Bây giờ tiền bạc trong nước phần nhiều bị nhà giàu giấu cất, nhân dân đói khổ vì nạn khan tiền, vật giá đắt lên vùn vụt. Chỉnh bèn xin với Triều đình ra lệnh thu hết tượng đồng các chùa đem về Kinh sư mở lò đúc tiền. Rồi Chỉnh thả cho thủ hạ đi khắp tứ phía cướp bóc chuông, tượng của các làng xóm. Người nào mà dám giấu diềm, tức thì bị chúng bắt đem về khảo đả nghiêm trị. Duy có pho tượng đồng đen ở Quán Trấn Vũ phía bắc Kinh thành chúng không dám lấy mà thôi. Thấy Chỉnh làm việc như vậy dân chúng ai cũng ta thán. Một hôm có người dán ở cửa Đại Hưng hai câu (...), dịch ra quốc văn thời là:

Thiên hạ mất chuông chùa, chuông mất, vạc ở đâu được?
Hoàng thượng đốt phủ Chúa, phủ đốt, điện cũng trơ thôi.


Tất nhiên phương pháp đưa ra không ngăn được kẻ thừa hành nhũng nhiễu. Chỉnh lại không có đủ tay chân có tài để khống chế người và kìm chế mình. Chỉnh “mới” quá đối với Trịnh - Lê thần. Cho nên, đến như việc đánh dẹp Trịnh Bồng, Quận Thạc, Quận Liễn, những kẻ mà bọn thần tử cựu trào có hồi cũng mỉa mai, thế mà vẫn bị Ngô Thì Chí gọi là “mượn Hoàng thượng để sai cả nước (.:.), dùng quân trừ bỏ kẻ hại mình”; Đinh Nhạ Hành cũng tố cáo Chỉnh “lúc cầm quyền ra tay tàn sát; những huân thần, túc tướng, lệnh tộc và thế gia bị giết hại rất nhiều”2.
________________________________________
1. Tài liệu của Nhật ký Hội Truyền giáo Bắc Kỳ (Sử Địa số 9-10, t. 195). Hoàng Lê, t. 132 ghi ngày đốt phủ Chúa là 8-10 năm Bính Ngọ (28-11-1786) so với ngày Trịnh Bồng vào Thăng Long (4-11-1786) thật quá gần, không kịp cho quá nhiều sự việc xẩy ra trong thời kỳ Bồng cầm quyền. Chúng ta vẫn không có tài liệu nào khác để đối chiếu nên tạm dùng các kết quả trên vậy
2. Trích lại của Hoa Bằng, Quang Trung Nguyễn Huệ, sđd, t. 135
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Sự tồn tại của vua Lê cũng là một chứng cớ thất bại của Nguyễn Hữu Chỉnh. Lê đế vẫn còn đó là nền nếp cũ vẫn còn, dù dở đến đâu cũng còn có cớ tồn tại. Chỉnh sẽ bị luỵ vào cái không khí ươn hèn đó để đổi mình đi, như lời nhận xét của Ngô Nho nói với Trần Công Xán:

“Ông Bằng từ khi đắc thế đến giờ, vàng ngọc chật đai, không giống hồi nhai rễ rau làm việc được như ngày xưa. Tôi e ông ấy run rẩy ra chốn trận mạc ắt bị Văn Nhậm bắt được”.

Đó không phải là lời tiên tri. Việc ra Bắc đã được Bắc Bình vương định từ trước, nhưng phải đình lại vì chiến trận Quy Nhơn1. Nguyễn Hữu Chỉnh ở yên lại tưởng nhân Nhạc - Huệ xung đột mà có thể thu được mối lợi ngư ông. Ông xúi Nguyễn Văn Duệ chống Huệ không thành. Ông sai Trần Công Xán vào Phú Xuân đòi đất Nghệ để giải toả áp lực của Lê thần. Nhưng không phải chỉ số phận sứ bộ mà cả số phận Nguyễn Hữu Chỉnh cũng đã được định rồi, ở Phú Xuân. Nơi dinh trấn Nghệ, Vũ Văn Nhậm nói thẳng vào mặt Trần Công Xán:

“Tôi nay đã lãnh binh phù, sớm tối sẽ kéo thẳng ra Thăng Long, trước hãy chém đầu thằng giặc Chỉnh, rồi sau mới hỏi vua Lê tại sao bội ơn dong đứa làm phản?... Vua Lê đã không giữ được nước thì các trấn từ Thanh Hoá trở ra, tôi không lấy người khác cũng lấy...”

“Vua Lê đã không giữ được nước”, ý kiến này không phải chỉ của Nhậm. Đó là nhận xét gây nên ước vọng của Nguyễn Huệ, đó là đầu mối gây nên chiến tranh nồi da xáo thịt.

Việc chuẩn bị đánh Thăng Long được Vũ Văn Nhậm sửa soạn ở Nghệ An vào hạ tuần tháng 10-17872. Quân đội của Nhậm vét ở Bố Chính, Thanh Nghệ được “hơn 30.000 người”, bắt đầu tiến ra Bắc khoảng trung tuần tháng chạp. Đụng độ với Lê Duật, trấn thủ Thanh Hoá của Nguyễn Hữu Chỉnh, từ 26-12, Nhậm đánh trận tập kích thắng lớn, giết Duật rồi tiến ra Sơn Nam. Hoàng Viết Tuyển ở đấy lại xung đột với Chỉnh và có ý hàng Tây Sơn nên quân Nhậm tránh được một mũi nhọn. Quân Nguyễn Như Thái bị thua trên đường đi chiếm Tam Điệp. Quân tan, Thái bị bắt3, Nguyễn Hữu Chỉnh phải tự cầm quân. Con Chỉnh, Hữu Du, cũng không may mắn hơn các tướng khác. Đêm 6 rạng 7 tháng 1 (1788), Chỉnh lẻn về Kinh thành khóc với Chiêu Thống “Bloi oi la bloi, nhà Lê đã mất rồi!” rồi cùng vượt sông trốn sang Kinh Bắc.

Vũ Văn Nhậm vào thành Thăng Long (9-1-1788), cho quân đuổi theo Chỉnh, giết Hữu Du, bắt Chỉnh (12-1) đem về xử tử (15-1), bêu đầu cho công chúng xem.

Việc thanh toán quyền bính Bắc Hà, cũng như trước kia đối với Nam Hà, rõ ràng là không khó với thực lực của Tây Sơn. Nhưng theo với sự mở rộng quyền hành, họ còn phải tìm cách biện chính hành động, thuyết phục Lê thần, Nguyễn thần công nhận sự đổi thay rồi thu dụng những người này làm tay chân. Nguyễn Nhạc lúc ra Bắc đã định “xin” mấy ông nghè đem về nước. Nguyễn Huệ bắt Nguyễn Đăng Trường, thả đi rồi bắt lại ở Gia Định mới giết đi. Lúc đánh Phú Xuân, ông thu nhận được Trần Văn Kỷ rồi nhờ người này làm trung gian mời Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn, hỏi dò Nguyễn Nghiễm (cha Nguyễn Du) để tìm đến ông già ở ẩn Nguyễn Thiếp trấn Nghệ An4.

Tất cả những việc đó chứng tỏ Tây Sơn phải mất thì giờ và hao tốn công phu để khuôn nắn trong dòng ý thức hệ thời đại. Ta không lấy làm lạ, Nguyễn Huệ vẫn phải giải quyết vấn đề theo những dữ kiện có sẵn. Chính ông vẫn coi việc thu dụng Nho thần như một tiến bộ cho chính quyền ông. Tây Sơn thiếu Nho thần, không có một chính sách ở Gia Định, chỉ mang quân tới chiếm rồi đi, không thay đổi nổi lòng người. Ở Phú Xuân, Nguyễn Huệ phải ai cầu Nguyễn Thiếp chính là để quân bình lại cái không khí sùng chuộng võ uy trong triều ông do ở nơi “những kẻ giúp việc trong nhất thời đều là những kẻ mạnh bạo”5.

Nhưng hiện tại sức mạnh Tây Sơn vẫn là ở quân lực của họ, cụ thể ở Bắc Bình vương Nguyễn Huệ. Tình thế chưa đến để họ gạt triều Lê ra ngoài triều chính để thuyết phục ông già Nguyễn Thiếp, tuy rằng trong chuyến trôi dạt theo nguyễn Hữu Chỉnh, Lê Chiêu Thống đã qua kinh Bắc rồi lênh đênh ở Hải Dương với thổ hào Trần Quang Châu, ở Sơn Nam với trang Hoàng Viết Tuyển, ở Thanh Hoá, về lại Kinh Bắc, trải qua đủ mùi lưu lạc của ông vua một triều đại tàn kiếp. Ấy thế mà Lê còn làm cho Tây Sơn mất một dũng tướng nữa.

Nguyên cớ sâu xa như đã nói là mối bất hoà nội bộ tận xứ Quy Nhơn. Nhưng nguyên nhân gần cận là thái độ khác nhau của những kẻ chiến thắng đối với cái “nước không” của Chiêu Thống bỏ lại. Vũ Văn Nhậm cầm đầu quân tướng Bắc phạt nên hơn ai hết, ông thấy rõ tình hình nghiêm trọng do các tướng và thổ hào của Lê được dịp mượn tiếng Cần vương để thoả mãn khát vọng quyền uy trong một xã hội phân rã. Về phía đồng bọn, nói theo các giáo sĩ đương thời, “Ông còn lo sợ sự phẫn nộ của Bắc vương vì ông khăng khăng từ chối nhiều lần không chịu tuân theo lệnh gọi ông về Phú Xuân sau khi đã giết được Hữu Chỉnh. Ông lại còn bị tình nghi là đã có tham vọng chiếm ngai vàng Bắc kỳ đáng lẽ là của chủ ông nhân lúc người này đang đánh nhau với Tiếm vương Nhạc...”6. Cho nên theo thói quen làm việc có sẵn cộng thêm ý tưởng đề phòng trước biến loạn, thụ hưởng chiến thắng, ông đã tận lực khai thác đất Bắc. “Người ta chỉ nghe đến mộ lính, quyên gạo, quyên tiền”. Quân Nhậm bắt các chức sắc trong làng kê khai đinh điền để tính thuế, bắt xâu, bắt cung nữ. Họ triệt hạ các mô đất trong làng sợ có thể biến thành chiến luỹ chống họ. Loạn khắp nơi nên Nhậm phải sai đắp lại thành Đại La. Ngô Thì Chí kể: “Dân phu đói khát mệt nhọc, có kẻ đương đội thúng đất mà ngã sấp xuống. Bởi vậy ai cũng ta oán”.

Tình hình nghiêm trọng như vậy nên Nhậm mới nghe lời một Lê thần mà đem Sùng Nhượng công Lê Duy Cẩn lên làm Giám quốc để giải toả bớt áp lực tôn Lê. Ngô Văn Sở người được Bắc Bình vương sai kìm cặp dò xét Nhậm, lại thấy trong hành động đó thêm một ý nghĩa muốn làm Nguyễn Hữu Chỉnh của viên Tiết chế, nên mật báo về Phú Xuân.

Cuối tháng 3 (1788), vừa dẹp xong Nguyễn Văn Duệ, Bắc Bình vương nghĩ tới chuyện ra Bắc. Quân ở đàng xa mà uy danh vương đã khiến Hoàng Viết Tuyển phải bỏ dinh sở trốn đi. Đại binh với một đoàn hộ giá gồm 150 con voi, 100 người nằm võng, nhiều kiệu thếp vàng, Ngọc Hân, Bắc Bình vương tiến vào thành Thăng Long với uy thế khiến Vũ Văn Nhậm không dám chống cự. Ông bị bắt tức khắc. Hôm sau (5-5-1788), ông bị trói phơi nắng ngoài pháp trường một ngày cho công chúng coi rồi bị xử trảm7.

Tuy Ngô Văn Sở nghĩ rất đúng rằng:

“Từ khi có nước Nam tới giờ triều đại thay đổi không biết mấy lần, thiên hạ không phải của riêng ai, liệu có thể lấy thì lấy đi, rồi thì đặt quan chia chức để dựng phên tường cho sự trông nghe của mọi người đều đổi mới một lượt”.

Nhưng tình thế chưa tới đó, Nguyễn Huệ cũng không thể làm hơn Vũ Văn Nhậm được. Để hạ bệ Chiêu Thống, Bắc Bình vương ra một bá cáo công kích ông này vô ơn bạc nghĩa, mất tư cách và vô tài bất tướng. Đồng thời với bá cáo này có một bản văn khác khôn khéo nhắc công phù Lê diệt Trịnh của “Đức lệnh”, biện hộ cho việc xử trảm Vũ Văn Nhậm để đưa ra một cuộc trưng cầu dân ý cho dân chúng “không phân biệt giai cấp, phẩm tước và địa vị” bày tỏ ý kiến theo Lê hay theo Tây Sơn (15-5-1788). Chắc là dân chúng muốn theo Lê cũng không thể bày tỏ ở Thăng Long được. Chiến thắng của Nguyễn Phúc Ánh ở phương Nam và áp lực vọng Lê ở đây khiến ngôi vị Giám quốc “lại mục” của Sùng Nhượng Công chưa đổ. Quyền xứ Bắc về tay Đại tư mã Ngô Văn Sở, phụ tá là các tướng: Nội hầu Phan Văn Lân, Chưởng phủ Nguyễn Văn Dụng, Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết và các hàng thần Lê: Ngô Thì Nhậm với chức mới Lễ bộ Tả thị lang, tước Tình Phái hầu, Hình bộ Tả thị lang Phan Huy Ích, tước Thuỵ Nham hầu, cùng Ninh Tốn, Nguyễn Bá Lân. Các trấn do tướng Tây Sơn chia nhau nắm giữ.

Nhưng việc chống đói chứng tỏ tiềm lực đất Bắc còn nhiều. Bắc Bình vương một khi không đếm xỉa gì đến nhà Lê nữa tất phải biết khai thác tiềm lực ấy, không thể để cho các lực lượng ********* lợi dụng được. Các văn võ thần đều bị kêu ra trình diện và bị giữ lại ở kinh thành. Có lệnh bắt nộp ngay lập tức và cùng một lúc các thứ thuế trước kia vốn phải trả trong 2 kỳ tháng ba và tháng mười (hai vụ mùa), luôn cả việc truy thu các thứ thuế trước kia chưa được thanh toán. Một đạo quân 240.000 người, nghĩa là đông gấp đôi số quân thường nhật của nhà Lê trước kia, được tuyển mộ với hạn định 5 ngày cho xong. Không đóng đô được ở Thăng Long, Bắc Bình vương cho phá tất cả cung điện của nhà Trịnh để chuyên chở vật liệu cùng lúa gạo về thành Rum xây Phượng hoàng Trung đô. Mỗi phường ít nhất phải cung cấp 15 người thợ chuyên môn cho công cuộc kiến tạo.

Vội vã sắp xếp xong công việc, ngày 24-6-1788, Bắc Bình vương rời Thăng Long, ngóng tin Phạm Văn Hưng ở miền Nam, trong lúc Lê Quýnh, Nguyễn Huy Túc, Nguyễn Quốc Đống phò gia quyến Chiêu Thống vào đất Thanh (12-6-1788), rồi được dẫn tới Long Châu, Nam Ninh để vận động với Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị ra quân. Tháng 9 âm lịch (29/9-28/10/1788), sứ bộ “nón rách, áo tơi tàn” Lê Duy Đản, Trần Danh Án, được Lê Quýnh về đưa đường, mang chiếu thư cầu viện qua cửa ải để chính thức hoá việc tiến quân của Tôn đã chuẩn bị sẵn từ tháng 6 Mậu Thân (4/7/1788-1/8/1788).

Ngày 28-11 (1788), quân Tôn Sĩ Nghị và Đề đốc Hứa Thế Hanh tràn qua Lạng Sơn. Cánh Quảng Tây do Tổng binh Thượng Duy Thanh, Phó tướng Khánh Thành điều động, cánh Quảng Đông do Trương Triều Long và Lý Hoá Long nắm giữ. Viên Đề đốc Vân Nam là Ô Đại Kinh thì vượt đường Cao Bằng nhắm Tuyên Quang tiến quân. Quân số chính quy khoảng độ 2 vạn người nhưng đám phụ lực nghĩa dũng được dịp đi theo rất đông, gây nên thanh thế lớn, trong đó có 2.000 quân Nùng thiện chiến của Sầm Nghi Đống. Cho nên, sử gia Nguỵ Nguyên mới nói “tiếng đại binh có vài chục vạn” và các giáo sĩ đương thời cho rằng không dưới 30 vạn. Quân số ước tính hơn số 20 vạn của sử Việt8.
___________________________________
1. Thư ông Daussain ngày 6-6-1787 kể trước.
2. Chi tiết về ngày tháng, sự việc có chỗ nào không giống với Hoàng Lê, Liệt truyện, Cương mục là lấy ở tài liệu giáo sĩ (Sử Địa số 9-10, t. 195 trở đi). Tướng tiên phong của Nhậm mà tài liệu này gọi “Vach Quinh” là Quýnh Ngọc hầu, người thắng Nguyễn Như Thái ở Điềm Xá. Tài liệu cũng không nói tới “ong Doc chiên” xung đột với Nguyễn Hữu Chỉnh là ai, nhưng so với các nơi khác ta biết đó là Hoàng Viết Tuyển. Chính Tuyển coi thuỷ quân, ở Sơn Nam, nguyên cùng với Chỉnh là bộ tướng Tây Sơn, và kết cục cũng như Doc chiến bị tan quân vì một trận cuồng phong làm chìm hạm đội. Nhắc lời Chỉnh ở Hoàng Lê “Tuyển ở Sơn Nam không về (cứu Thăng Long) kịp” là vô lý vì Sơn Nam sau khi Duật bại đã trở thành tuyến đầu mà sao quân Tuyển lại bất động không giao chiến? Phải nói như tài liệu giáo sĩ là Chỉnh còn hi vọng xoa dịu sự thù ghét của Tuyển, hi vọng thành hình khi Tuyển được bạn bè ở Tây Sơn bảo đừng có về mà nguy hiểm. Tuyển viết thư cho Chỉnh xin tha tội, bị Tây Sơn bắt được nên phải chống Tây Sơn tới cùng và Chiêu Thống trong lúc cần người cũng không kẻ vạch chuyện bỏ rơi Chỉnh nữa.
3. Theo các tài liệu ta thì Nguyễn Như Thái bị giết tại trận. Các giáo sĩ cho ta biết Thái (mà họ gọi Lê Thai) bị bắt giữ và mãi tới khi Nguyễn Huệ ra Bắc giết Nhậm mới đem xử tử (10-5-1788), Hoàng Viết Tuyển bị giết ngày 1-6-1788.
4. Hoàng Xuân Hãn, La Sơn phu tử, sđd, t. 98, 102, 103, 109.
5.La Sơn phu tử, sđd, thư của Nguyễn Huệ gởi Nguyễn Thiếp, t. 105, 106.
6. Tài liệu “Nhật ký Giáo hội Bắc kỳ”... đã dẫn có nhiều chi tiết giống với sử ta như chuyện Chỉnh xuất quân dùng dằng vì thấy điềm xấu, Chỉnh lẻn trốn về Thăng Long lúc nửa đêm, Nhậm xây thành phòng thủ... Duy ở đây lại nói Ngô Văn Sở đến tháng 12-1788 mới ra Bắc với 2.000 quân. Tôi theo tài liệu ta vì có nhiều sự kiện về lúc đánh Chỉnh, Ngô Văn Sở được sử ta nói đến nhiều quá chắc không lầm lẫn được.
Còn về việc thụ hình của Chỉnh thì hẳn tài liệu giáo sĩ cải chính lời truyền Chỉnh bị “tứ mã phân thây” như người ta vẫn tin Chỉnh đã tiên cảm trong bài thơ “Cái pháo”.
7.Cương mục q47, 28ab, 29ab; Thực lục q3, 10b. Sử ta nói Nhậm bị bắt giết trong lúc đang ngủ. Có lẽ vì khiếp tài hành quân thần tốc của Huệ mà người ta đã hạ giá Nhậm quá đáng. Quân trẩy ra rầm rộ sao Nhậm không hay biết, nhất là khi Nhậm vẫn có tâm lo đối phó phương Nam? Tài liệu giáo sĩ có nhiều sự kiện có công chúng dự khán (Nhậm bị trói dẫn ra pháp trường phơi nắng một ngày) và lại có chi tiết ngày tháng đích xác nên được chúng tôi theo ở đây.
8. Ta cố lựa lấy chứng cứ đích xác nhất từ các nguồn tài liệu khác nhau. Về danh tính quan binh Trung Hoa, ta theo sử Thanh vì chắc họ biết rõ về người của họ hơn (tuy nhiên có lúc họ viết Hứa Thế Hanh rồi Hứa Việt Hanh chẳng hạn). Về quân số chắc sử Thanh đã rút bớt số quân chính qui đi hoặc vì Tôn Sĩ Nghị sợ tội đã báo cáo ít, hoặc mặc cảm thua trận khiến người ta phải giấu bớt quân. Còn về số ước tính của giáo sĩ, ta nghĩ rằng họ thấy thanh thế quân Thanh to quá so với cá nhân con người thời loạn trốn chui trốn nhủi như họ và người đương thời, nên đã phóng đại ra. Tạm thời ta dùng con số 20 vạn của sử Việt kể luôn quân chính qui và phụ lực của Thanh, quân nghĩa dũng của nhà Lê, chắc không sai bao nhiêu.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
  • Ngô Văn Sở nói : thiên hạ này ko của riêng ai, ai giành được thì giành. Đây là tư tưởng của Tây Sơn : khát vọng vượt lên của kẻ đi chinh phục......tư tưởng này giống tư tưởng khát vọng làm giàu hiện nay của chúng ta.
  • Tuy nhiên 1 số người có tư tưởng ; họ muốn gán cho Tây Sơn là kẻ đi ăn cướp nhất là tài sản Trinh-Lê. Thực chất thì tài sản Trinh Lê đã rỗng ruột rồi chỉ còn cái thánh quách bên ngoài thôi. Số tài sản đem về ko đủ để nuôi quân, may đồng phục, đúc thuyền, mua vũ khí......đến cả cái nơi Huệ ở cũng chả sửa sang gì.
  • Rõ ràng tư tưởng của tướng Tây Sơn đã vượt lên nhìn xa hơn, trông rộng hơn trên cái tài sàn tầm thường có đượctừ Trinh Lê. Cái kiểu đỉnh đỉnh lập danh.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Theo Tạ Chí đại Trường:

Lực lượng đó đủ làm rung động Bắc Hà. Ở Lạng Sơn, thấy quân lính dưới quyền trốn mất, Phan Khải Đức ra hàng còn Nguyễn Văn Diễm rút vội về Kinh Bắc hợp với Trấn thủ Nguyễn Văn Hoà chống giữ và đưa thư cáo cấp về Thăng Long. Một cuộc hội nghị cao cấp giữa những người giữ thành được tổ chức. Ngô Thì Nhậm trình bày lợi hại, tính chuyện vét quân lương khỏi thành Thăng Long để tránh mũi nhọn công kích của địch, bảo toàn thực lực mà còn nuôi lòng kiêu căng của đối phương nữa. Kế hoạch thực là sáng suốt nhưng tự ái nhà tướng còn khiến Tây Sơn thử một lần cho biết sức địch. Phan Văn Lân hăm hở tấn công bị hai toán quân của Thượng Duy Thanh, Trương Triều Long đánh tan ở 2 sông Nhật Đức, Nguyệt Đức phải bỏ lính chạy thoát thân.

Đường lối rút quân không còn ai phản kháng nữa. Thuỷ quân do Thống lĩnh Đặng Văn Chân mang đi trước đóng ở đảo Biện Sơn. Bộ binh do Ngô Văn Sở lui về giữ chặt núi Ba Dội chờ tiếp ứng ở phương Nam. Ngày 21 tháng 11 Mậu Thân (18-12-1788)1, Tôn Sĩ Nghị chiếm thành Thăng Long một cách dễ dàng.

Tôn Sĩ Nghị đóng quân hai bên bờ sông, cất phù kiều để dễ qua lại. Hứa Thế Hanh chia quân đóng ở Hạ Hồi và Ngọc Hồi để làm thế che chở phía nam. Phụ giúp vào đám quân này có các đạo nghĩa quân của cựu thần nhà Lê. Nguyễn Đạo Lĩnh trấn Hải Dương, Hoàng Đạo Nghĩa giữ Sơn Nam hợp với toán du binh Thanh trông chừng phương Nam. Nhưng đó không phải là những lực lượng đáng kể. Quân Thanh vào xứ không trông cậy mấy vào bọn thân binh bản xứ nhưng tựa vào đám kiều dân để làm tai mắt. Trước khi vào xứ họ đã được những người Trung Hoa đào mỏ, đúc quặng ở Thái Nguyên xin phụ giúp làm tiên phong. Những người này ở đây đã lâu, tụ tập hơn vạn người, nhân có loạn trong nước phải võ trang để tự vệ, đã từng có lần xung đột chiến thắng toán du binh Tây Sơn. Đám Hoa kiều thứ hai gồm những thương nhân ngụ ở phường Hà Khẩu trong Kinh thành (phố Hàng Buồm), phố Cơ Xá ở Kinh Bắc, phố Hiến ở Sơn Nam. Họ được thế Tôn Sĩ Nghị tụ tập hơn vạn người thành trại, tha hồ vu hãm người lành, ức chế nhà giàu có, cướp giật tiền bạc, bắt hiếp đàn bà con gái ngay giữa chợ, hoành hành không kiêng sợ gì cả.

Thực ra việc bức bách này, lúc đầu ra quân Nghị cũng có bố cáo quân lệnh ngăn cấm, nhưng một mặt thắng lợi quá dễ dàng làm quân sinh kiêu, một mặt binh lính quá phức tạp nên không ngăn cấm được. Cũng qua 8 điều quân lệnh ta thấy được Nghị tiên liệu lề lối hành quân chống giữ kể cũng chu đáo lắm. Mỗi tên lính của Nghị được cấp cho một tên phu đeo thẻ riêng để sai bảo. Quân đến xứ lạ, Nghị cũng lo đề phòng bị phục kích nên bảo phát đường cho quang đãng mà đi, đề phòng cạm bẫy trên đường, cho tuần hành nghiêm ngặt lúc đêm hôm. Để chống voi Tây Sơn, Nghị bảo quân dùng súng bắn lúc ở xa, dùng cung và đao lúc ở gần, đuổi chúng quay lại xéo quân địch. Về phần súng hoả hổ của Tây Sơn, Nghị sắp sẵn vài trăm tấm khiên bằng da trâu sống để chắn lửa mà tiến lên chém giết.

Nhưng dự tính trong kiêu căng khiến cho Nghị không nhìn thấy thực lực của địch, không nghe được lời nhận xét của Trần Công Xán. “Họ đi lại chỉ vù một cái... đánh không thể được, đuổi không thể kịp, xưa nay chưa từng có toán giặc nào như toán giặc ấy”. Đám quân Tây Sơn còn có kinh nghiệm chiến trận trên 15 năm qua ở khắp chiến trường, giao tranh với đủ kẻ địch các xứ từ Trịnh, Nguyễn trong nước tới Hoà Nghĩa quân, Xiêm binh, tàu Tây.

Cho nên, ngày 24 tháng 11 (21-12-1788) tin về đến Phú Xuân, ngày hôm sau Nguyễn Huệ tức tốc lên ngôi tôn2, kéo quân đến Nghệ An. Ở đây ngày 29, ông đòi Nguyễn Thiếp đến hành tại hỏi mưu rồi sai Hô Hổ hầu tuyển binh Nghệ An, cứ 3 người lấy 1. Chỉ trong chốc lát được hơn một vạn. “Sự tra xét gay gắt đến nỗi người ta không biết trốn vào đâu để tránh quân dịch. Các kẻ sai nha đem chó theo để tìm người trong khu rừng bên cạnh như người ta tìm thú: người ta lấy dao xỉa vào các đống rơm dùng để đun nấu”3. Đám người mới này được dùng làm Trung quân theo với cựu quân Thuận Quảng chia xẻ chiến trận.

Trước khi đi ba quân còn được nghe chính chủ tướng họ ban lời huấn dụ để kích thích tinh thần chiến đấu:

“Quân Thanh sang lấn nước ta, hiện chúng đã đóng ở thành Thăng Long các người có biết hay không? Trong khoảng trời đất phận sao đã được định rõ phương Nam phương Bắc, nước nào cai trị nước ấy. Người Trung Hoa không phải nòi giống nước ta, bụng họ ắt là khác hẳn. Từ đời nhà Hán đến nay họ đã mấy phen chiếm cướp đất cát, giết hại nhân dân, vơ vét của cải. Người nước ta không thể chịu nổi , ai cũng muốn đuổi chúng đi (...) . Ngày nay quân Thanh lại sang, định lấy nước ta đặt làm đất quận huyện của chúng, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đuổi. Các người đều đủ lương tri, lương năng nên phải dốc lòng hết sức với ta để dựng công lớn, chớ quen thói cũ mang lòng nhị tâm. Nếu như phát giác, ta sẽ tức khắc giết chết, không tha một người nào. Đừng trách ta không bảo trước”.

Giá trị lời dụ bảo đảm giá trị chủ tướng. Để xoá nhoà tâm lý vọng Lê, chống Tây Sơn của binh lính, Quang Trung chuyển đối tượng thù hận vào người Hán, khêu gợi lòng ái quốc, nhắc nhở dĩ vãng oai hùng của dân tộc để lấy chính nghĩa về mình. Thế rồi không lẩn tránh, ông vạch rõ để rửa sạch tâm lý hai lòng trong quân ngũ, đem uy chen vào ân để chấm dứt bằng một câu đanh thép: “Đừng trách ta không bảo trước”. Với tướng quen thuộc, ông làm ngược lại. Khi Phan Văn Lân và Ngô Văn Sở vác gươm ra chịu tội ở Ba Dội, ông đòi “chém chết một vạn lần” rồi nói rõ cớ tha tội, bàn phương lược tiến quân, tính đường lui tới khi thái bình trở lại. Chiến tranh nhiều lúc cũng là sự rủi may nhưng ở đây, quân có lý tưởng, tướng có quyền hành, phương lược, tất cả chăm chú vào viễn ảnh “năm mới vào thành Thăng Long ăn mừng”, sự thắng trận thật kề bên như ngày Tết vậy.

Công cuộc chuẩn bị kéo dài đến một tháng trời. Màng lưới an ninh của Tây Sơn kéo dài từ Ba Dội đến Biện Sơn đã ngăn cách với Bắc Hà những biến chuyển bên trong khiến cho một viên cung nữ lọt lưới trốn về Thăng Long bày tỏ mối lo lắng về hoạ Tây Sơn càng làm cho Tôn Sĩ Nghị dè dặt hơn không dám cất quân đi.

Ngày 30 tháng chạp (25-1-1789), hơn 10 vạn quân4 chia nhau tấn phát: Đại Tư mã Sở và Nội hầu Lân đem Tiền quân đi trước, Hô Hổ hầu xuất Hậu quân đốc chiến, Đại Đô đốc Lộc và Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết cầm Tả quân và Thuỷ sư vào cửa sông Lục Đầu, để Tuyết ở lại kinh lược vùng Hải Dương còn Lộc lên Lạng Sơn, Phượng Nhỡn, Yên Thế chặn đường về của quân Thanh, Đô đốc Long đem Hữu quân và Tượng mã quân theo huyện Chương Đức (Hà Đông) ra làng Nhân Mục (huyện Thanh Trì, Hà Đông) đánh vào quân Điền Châu, Thái sư Bảo5 lại lấy quân tượng mã theo đường Sơn Minh ra làng Đại Áng (Thanh Trì) tiếp ứng cánh hữu.

Nghe tin Tây Sơn, quân Thanh dán cáo thị thách chiến nhưng Tôn Sĩ Nghị không ngờ Quang Trung đã nhanh hơn ông tưởng. Chiến trận xảy ra dồn dập như người ta lo Tết. Chưa hết ngày cuối năm Mậu Thân, quân Lê ở Sơn Nam đã tan vỡ, du binh Thanh ở sông Thanh Quyết, sông Giản chạy tán loạn đến huyện Phú Xuyên thì bị bắt trọn không ai về báo. Nửa đêm mùng 3 Tết quân Thanh ở làng Hạ Hồi nghe tiếng loa gọi quân dạ như vỡ trời, hoảng hốt ra hàng. Mờ mờ sáng mùng 5 (30-1-1789) trận đánh quyết định xảy ra ở làng Ngọc Hồi. Cũng đồng thời Đô đốc Long đánh quân Điền Châu ở Khương Thượng bức viên Thái thú Sầm Nghi Đống chết ở gò Đống Đa mà oan hồn hẳn còn hận nghe lời mai mỉa của phụ nhân: “Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu!”

Nghe bại binh, Tôn Sĩ Nghị “ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp” cắm đầu chạy qua cầu phao về Bắc, bỏ lại quân sĩ bộ tướng chen chúc gãy phù kiều, “hàng vạn người lăn cả xuống nước, sông không chảy được”. Chiêu Thống ở Kinh Bắc từ trước lật đật chạy theo để không bao giờ thấy quê cha đất tổ nữa6.

Trận chiến thắng trọn vẹn một cách bất ngờ khủng khiếp này gieo một ảnh hưởng rất lớn, thuận lợi cho Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị ném cả ấn tín, mật chỉ, chạy cốt thoát lấy thân thôi. Toán quân chận đường đã làm cho cả một vùng biên giới, dân Trung Hoa dắt nhau chạy loạn đến vắng ngắt7. Tình trạng đó tạo một không khí thuận lợi cho việc giảng hoà giữa Thanh và Tây Sơn gây sự nể vì Quang Trung của Càn Long8.

Nhưng quan trọng hơn chính là sự đảo lộn tâm lý dân chúng trong nước. Đám di thần nhà Lê ươn ngạnh thấy tận mắt chiến bại thảm thương phải lo lẩn tránh, nín hơi lặng tiếng. Những kẻ chần chờ, lưỡng lự trước tín điều trung trinh (với Lê) và tuỳ thời, thấy thay đổi rõ rệt như mệnh Trời ném xuống, quả quyết bước vào con đường mới. Nguyễn Thiếp là một9. Trước đó, khi Nguyễn Huệ kéo quân ra bắt Vũ Văn Nhậm, Thiếp ra chầu ở hành tại đã nói rõ là vì trung với Lê nên không thể theo triều mới được. Thế mà năm sau (1789) ông đã sẵn sàng để làm đề điệu coi thi ở trường Nghệ, biên thư cho “Thượng Đức” bày tỏ tình hình dân chúng, lề lối cai trị, đề nghị sủa đổi chính trị, học vấn, tuyển chọn nhân tài... Theo với ông, ta thấy có đám danh sĩ Nghệ An cũng ra phò tá Tây Sơn: Nguyễn Huy Tự của làng Trường Lưu, Nguyễn Công (con trai Nguyễn Khản), Nguyễn Thiện (con Nguyễn Điều) của làng Tiên Điền, hai họ danh gia vọng tộc của Hà Tĩnh. Kế tới Hoàng giáp Bùi Dương Lịch, Tiến sĩ Phan Tố Định. Quan hệ hơn một bực nữa là sự đổi thay tâm lý của dân chúng vốn cũng chia xẻ những lý luận của nho sĩ, tuy là phán đoán giản dị, thêm tình cảm nhiều hơn: “Ách Tây Sơn còn được thích hơn ách quân Trung Hoa hay nói cho đúng thì sự thống trị của họ dễ chịu hơn dưới các triều vua trước... thành thử nếu họ bớt bắt tàn nhẫn trong vài trường hợp có lẽ chúng tôi không mong đổi họ với vị vua nào khác...”10. Nhưng chiến tranh còn tiếp diễn thì thuế mà khó ngừng thu, binh dịch khó ngừng bắt. Cho nên, “thuế má quá đáng đến nỗi nhiều làng xiêu đi” và “nhà nào có mấy người thì bắt đi lính cả, nhà có 5 người thì đi cả 5 (không kỳ già nua trẻ yếu)”11.

Oai danh Tây Sơn, trong cũng như ngoài, làm khiếp đảrn một vùng Bắc Hà. Duy trong cái không khí say sưa chiến thắng đó có lẽ có một người là thấy một sự kiện xảy ra ở vùng lầy lội xa tít tận Gia Định có thể đe doạ cơ nghiệp anh em mình đã tạo nên bằng mồ hôi nước mắt. Phạm Văn Sâm ở Ba Thắc đã tự đeo gông cùm ra hàng Nguyễn Ánh, chấm dứt quyền cai trị Tây Sơn nơi này, báo hiệu sự thịnh vượng ở đây sẽ từ từ nhưng chắc chắn tràn ngập phía Bắc không giải quyết được nghèo đói, mâu thuẫn.
_________________________________________
1. Về ngày tháng, chứng cớ của Lê Quýnh (Bắc hành tùng ký) chắc đáng tin hơn miễn là với một vài xác định nhỏ thêm. Các giáo sĩ cho ta biết ngày quân Thanh vào Thăng Long là 17-11 thật quá cách biệt với ngày do Lê Quýnh đưa ra (18-12-1788). Ta đoán chừng họ ghi lộ ngày âm lịch vì các giáo sĩ cũng có dùng ngày âm lịch (sau này, ta thấy L. Barizy cũng có một lần lầm như vậy). Ngoài ra, các ngày đánh nhau Tết Kỷ Dậu so ra đều sít sao, không có sai biệt nào giữa các tài liệu hết.
Lê Quýnh cho quân Thanh chiếm Kinh thành ngày 22 tháng 11 âl (19-12-1788). Nguỵ Nguyên (Sử Địa, số 9-10, t. 251) ghi tụt lại 2 ngày. Khác biệt có lẽ vì sự lựa chọn sự kiện khác nhau: Lê Quýnh đợi vua về vào đền Kính Thiên trong thành mới coi là đã chiếm được Thăng Long; Nguỵ Nguyên phía quân Thanh tính từ lúc quân Nghị thấy Thăng Long bỏ trống. Như sự khác biệt ngày tháng đó cũng chứng tỏ cuộc hành quân tiến triển rất chậm.

Ta thấy sách Hoàng Lê, t. 245, 246 thuật chuyện trước đó đến bờ bắc sông Nhị, chuyện sửa đền Kính Thiên rước Nghị, và ghi thêm: “Hôm ấy ngày 11 tháng 11 năm Mậu Thân”. Hôm sau có lễ thụ phong cho Chiêu Thống ở điện Kính Thiên. Nếu nghĩ rằng thời điểm quân Thanh vào thành Thăng Long là quan trọng không nhân chứng đương thời nào có thể quên được, thì ta đoán rằng ngày của Hoàng Lê ghi chắc là ngày “21 tháng 11” Mậu Thân mà vì sao qua chép lại đã lọt mất một chữ thôi.

2. Các giáo sĩ còn cho ta biết Quang Trung lên ngôi từ tháng 10 âl tức là ngày 8-11-1788 chớ không phải ngày 22-12-1788 như sử ta chép. Chắc ý định lên ngôi vốn có sẵn mà ngày làm lễ thì phải dời lại vì tin tức can thiệp của quân Thanh đưa về khiến Huệ phải dời tới ngày xuất quân mới làm cho long trọng một thể.
3. Thư giáo sĩ Longer gởi cho Julliard (A. Launay, III. t. 238.
4.Liệt truyện q30, 32b.
5. Bản Hoàng Lê của Ngô Tất Tố. Ông Hoa Bằng (Quang Trung, t. 189, chú số 4) cho là Đại Đô đốc Bảo, Đô đốc Long làm tướng Hữu quân, ghi của An Nam nhất thống chí (tên khác của Hoàng Lê), cho biết Long là tên khác của Liệt truyện (q30, 33b) gọi Đô đốc Mưu. Không biết bản An Nam của ông Hoa Bằng gọi Bảo với chức gì.
6. Tài liệu giáo sĩ cho ta biết quân địch chết 50.000 người, tù binh độ 3.000, 3.400 người. Hoàng Lê nói bắt đến hơn một vạn. Nguỵ Nguyên: hơn vạn người chết đuối, với Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, quân ngựa của Tôn Sĩ Nghị trở về không đầy một nửa. Thanh sử cho biết thêm người chết là Tổng binh Lý Hoá Long, Thượng Duy Thanh và 13 tướng khác. Tù binh theo lời Nguyễn Huệ nói với Thanh là hơn 700 người.

Về phía thiệt hại Tây Sơn, sử ta im lặng. Các giáo sĩ cho biết nội trong trận Ngọc Hồi có đến 8.000 người bị giết trong đó có một sĩ quan cao cấp. Trong khi đuổi theo quân địch ở sông Thương, Ngô Văn Sở cũng bị thiệt.
7.Liệt truyện q30, 35a. Cả chuyện đánh Thanh là từ 32b-35b.
8. Ngay đến Hoàng đế Trung Hoa cũng có vẻ nể vì tân Attila này vì ngài mới phong ông làm vua Bắc kỳ qua trung gian một vị Đại sứ, quên cả việc 50 000 binh lính Trung Hoa đã chết vì tay Tiếm vương năm ngoái chỉ trong một cuộc giao chiến... Tiếm vương không thèm rời Nam kỳ để nhận sắc phong tại thủ đô chúng tôi và chỉ chịu phái một vị quan thường nhân danh ông. Ông này mặc áo Chúa ông làm vị đại sứ Trung Hoa phải kính nể”. (Thư ông La Mothe gởi ông Blandin, 20-1-1790, Sử Địa, số 9-10, t. 227.
9. Hoàng Xuân Hãn, La Sơn phu tử, sđd. t. 109-147.
10. Thư ông La Mothe gởi ông Blandin đã dẫn.
11. Thư ông Eyot gởi ông Blandin, 5-7-1789 (Sử Địa, số 13, t. 146, 148). In nghiêng là nguyên văn chữ quốc ngữ.
 

Gcar

Xe lăn
Biển số
OF-38790
Ngày cấp bằng
21/6/09
Số km
11,534
Động cơ
572,214 Mã lực
Ðình Thể, sức cùng lực kiệt, tự vận trên mình voi. Nguyễn Huệ ra lệnh phá thành. Nguyễn Văn Lộc xông vào bắt sống được Phạm Ngô Cầu đương cùng gia đình khuân của cải chạy trốn.
Cái đoạn này có vẻ hợp lý hơn là chổ khác mô tả Phạm Ngô Cầu mở cửa thành đâu hàng sau khi Thể chết! Tiếc rằng không mô tả kỹ hơn phá thành là bằng đại bác hay bắc thang leo!

Sau đó, cũng như mọi trận khác của Nguyễn Huệ, gần như toàn bộ quân Trịnh ở Thuận Hóa không ai chạy thoát!!

Quân Tây Sơn đánh Thuận Hóa là 1 vạn. Số lượng quân Trịnh bị thiệt hại ở Thuận Hóa 3 vạn và có khá nhiều quân tinh nhuệ, tổng số quân thường trực của Bắc Hà-Thuận Hóa là 7-8 vạn!
 
Chỉnh sửa cuối:
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top