Theo Tạ Chí đại Trường:
Lực lượng đó đủ làm rung động Bắc Hà. Ở Lạng Sơn, thấy quân lính dưới quyền trốn mất, Phan Khải Đức ra hàng còn Nguyễn Văn Diễm rút vội về Kinh Bắc hợp với Trấn thủ Nguyễn Văn Hoà chống giữ và đưa thư cáo cấp về Thăng Long. Một cuộc hội nghị cao cấp giữa những người giữ thành được tổ chức. Ngô Thì Nhậm trình bày lợi hại, tính chuyện vét quân lương khỏi thành Thăng Long để tránh mũi nhọn công kích của địch, bảo toàn thực lực mà còn nuôi lòng kiêu căng của đối phương nữa. Kế hoạch thực là sáng suốt nhưng tự ái nhà tướng còn khiến Tây Sơn thử một lần cho biết sức địch. Phan Văn Lân hăm hở tấn công bị hai toán quân của Thượng Duy Thanh, Trương Triều Long đánh tan ở 2 sông Nhật Đức, Nguyệt Đức phải bỏ lính chạy thoát thân.
Đường lối rút quân không còn ai phản kháng nữa. Thuỷ quân do Thống lĩnh Đặng Văn Chân mang đi trước đóng ở đảo Biện Sơn. Bộ binh do Ngô Văn Sở lui về giữ chặt núi Ba Dội chờ tiếp ứng ở phương Nam. Ngày 21 tháng 11 Mậu Thân (18-12-1788)1, Tôn Sĩ Nghị chiếm thành Thăng Long một cách dễ dàng.
Tôn Sĩ Nghị đóng quân hai bên bờ sông, cất phù kiều để dễ qua lại. Hứa Thế Hanh chia quân đóng ở Hạ Hồi và Ngọc Hồi để làm thế che chở phía nam. Phụ giúp vào đám quân này có các đạo nghĩa quân của cựu thần nhà Lê. Nguyễn Đạo Lĩnh trấn Hải Dương, Hoàng Đạo Nghĩa giữ Sơn Nam hợp với toán du binh Thanh trông chừng phương Nam. Nhưng đó không phải là những lực lượng đáng kể. Quân Thanh vào xứ không trông cậy mấy vào bọn thân binh bản xứ nhưng tựa vào đám kiều dân để làm tai mắt. Trước khi vào xứ họ đã được những người Trung Hoa đào mỏ, đúc quặng ở Thái Nguyên xin phụ giúp làm tiên phong. Những người này ở đây đã lâu, tụ tập hơn vạn người, nhân có loạn trong nước phải võ trang để tự vệ, đã từng có lần xung đột chiến thắng toán du binh Tây Sơn. Đám Hoa kiều thứ hai gồm những thương nhân ngụ ở phường Hà Khẩu trong Kinh thành (phố Hàng Buồm), phố Cơ Xá ở Kinh Bắc, phố Hiến ở Sơn Nam. Họ được thế Tôn Sĩ Nghị tụ tập hơn vạn người thành trại, tha hồ vu hãm người lành, ức chế nhà giàu có, cướp giật tiền bạc, bắt hiếp đàn bà con gái ngay giữa chợ, hoành hành không kiêng sợ gì cả.
Thực ra việc bức bách này, lúc đầu ra quân Nghị cũng có bố cáo quân lệnh ngăn cấm, nhưng một mặt thắng lợi quá dễ dàng làm quân sinh kiêu, một mặt binh lính quá phức tạp nên không ngăn cấm được. Cũng qua 8 điều quân lệnh ta thấy được Nghị tiên liệu lề lối hành quân chống giữ kể cũng chu đáo lắm. Mỗi tên lính của Nghị được cấp cho một tên phu đeo thẻ riêng để sai bảo. Quân đến xứ lạ, Nghị cũng lo đề phòng bị phục kích nên bảo phát đường cho quang đãng mà đi, đề phòng cạm bẫy trên đường, cho tuần hành nghiêm ngặt lúc đêm hôm. Để chống voi Tây Sơn, Nghị bảo quân dùng súng bắn lúc ở xa, dùng cung và đao lúc ở gần, đuổi chúng quay lại xéo quân địch. Về phần súng hoả hổ của Tây Sơn, Nghị sắp sẵn vài trăm tấm khiên bằng da trâu sống để chắn lửa mà tiến lên chém giết.
Nhưng dự tính trong kiêu căng khiến cho Nghị không nhìn thấy thực lực của địch, không nghe được lời nhận xét của Trần Công Xán. “Họ đi lại chỉ vù một cái... đánh không thể được, đuổi không thể kịp, xưa nay chưa từng có toán giặc nào như toán giặc ấy”. Đám quân Tây Sơn còn có kinh nghiệm chiến trận trên 15 năm qua ở khắp chiến trường, giao tranh với đủ kẻ địch các xứ từ Trịnh, Nguyễn trong nước tới Hoà Nghĩa quân, Xiêm binh, tàu Tây.
Cho nên, ngày 24 tháng 11 (21-12-1788) tin về đến Phú Xuân, ngày hôm sau Nguyễn Huệ tức tốc lên ngôi tôn2, kéo quân đến Nghệ An. Ở đây ngày 29, ông đòi Nguyễn Thiếp đến hành tại hỏi mưu rồi sai Hô Hổ hầu tuyển binh Nghệ An, cứ 3 người lấy 1. Chỉ trong chốc lát được hơn một vạn. “Sự tra xét gay gắt đến nỗi người ta không biết trốn vào đâu để tránh quân dịch. Các kẻ sai nha đem chó theo để tìm người trong khu rừng bên cạnh như người ta tìm thú: người ta lấy dao xỉa vào các đống rơm dùng để đun nấu”3. Đám người mới này được dùng làm Trung quân theo với cựu quân Thuận Quảng chia xẻ chiến trận.
Trước khi đi ba quân còn được nghe chính chủ tướng họ ban lời huấn dụ để kích thích tinh thần chiến đấu:
“Quân Thanh sang lấn nước ta, hiện chúng đã đóng ở thành Thăng Long các người có biết hay không? Trong khoảng trời đất phận sao đã được định rõ phương Nam phương Bắc, nước nào cai trị nước ấy. Người Trung Hoa không phải nòi giống nước ta, bụng họ ắt là khác hẳn. Từ đời nhà Hán đến nay họ đã mấy phen chiếm cướp đất cát, giết hại nhân dân, vơ vét của cải. Người nước ta không thể chịu nổi , ai cũng muốn đuổi chúng đi (...) . Ngày nay quân Thanh lại sang, định lấy nước ta đặt làm đất quận huyện của chúng, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đuổi. Các người đều đủ lương tri, lương năng nên phải dốc lòng hết sức với ta để dựng công lớn, chớ quen thói cũ mang lòng nhị tâm. Nếu như phát giác, ta sẽ tức khắc giết chết, không tha một người nào. Đừng trách ta không bảo trước”.
Giá trị lời dụ bảo đảm giá trị chủ tướng. Để xoá nhoà tâm lý vọng Lê, chống Tây Sơn của binh lính, Quang Trung chuyển đối tượng thù hận vào người Hán, khêu gợi lòng ái quốc, nhắc nhở dĩ vãng oai hùng của dân tộc để lấy chính nghĩa về mình. Thế rồi không lẩn tránh, ông vạch rõ để rửa sạch tâm lý hai lòng trong quân ngũ, đem uy chen vào ân để chấm dứt bằng một câu đanh thép: “Đừng trách ta không bảo trước”. Với tướng quen thuộc, ông làm ngược lại. Khi Phan Văn Lân và Ngô Văn Sở vác gươm ra chịu tội ở Ba Dội, ông đòi “chém chết một vạn lần” rồi nói rõ cớ tha tội, bàn phương lược tiến quân, tính đường lui tới khi thái bình trở lại. Chiến tranh nhiều lúc cũng là sự rủi may nhưng ở đây, quân có lý tưởng, tướng có quyền hành, phương lược, tất cả chăm chú vào viễn ảnh “năm mới vào thành Thăng Long ăn mừng”, sự thắng trận thật kề bên như ngày Tết vậy.
Công cuộc chuẩn bị kéo dài đến một tháng trời. Màng lưới an ninh của Tây Sơn kéo dài từ Ba Dội đến Biện Sơn đã ngăn cách với Bắc Hà những biến chuyển bên trong khiến cho một viên cung nữ lọt lưới trốn về Thăng Long bày tỏ mối lo lắng về hoạ Tây Sơn càng làm cho Tôn Sĩ Nghị dè dặt hơn không dám cất quân đi.
Ngày 30 tháng chạp (25-1-1789), hơn 10 vạn quân4 chia nhau tấn phát: Đại Tư mã Sở và Nội hầu Lân đem Tiền quân đi trước, Hô Hổ hầu xuất Hậu quân đốc chiến, Đại Đô đốc Lộc và Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết cầm Tả quân và Thuỷ sư vào cửa sông Lục Đầu, để Tuyết ở lại kinh lược vùng Hải Dương còn Lộc lên Lạng Sơn, Phượng Nhỡn, Yên Thế chặn đường về của quân Thanh, Đô đốc Long đem Hữu quân và Tượng mã quân theo huyện Chương Đức (Hà Đông) ra làng Nhân Mục (huyện Thanh Trì, Hà Đông) đánh vào quân Điền Châu, Thái sư Bảo5 lại lấy quân tượng mã theo đường Sơn Minh ra làng Đại Áng (Thanh Trì) tiếp ứng cánh hữu.
Nghe tin Tây Sơn, quân Thanh dán cáo thị thách chiến nhưng Tôn Sĩ Nghị không ngờ Quang Trung đã nhanh hơn ông tưởng. Chiến trận xảy ra dồn dập như người ta lo Tết. Chưa hết ngày cuối năm Mậu Thân, quân Lê ở Sơn Nam đã tan vỡ, du binh Thanh ở sông Thanh Quyết, sông Giản chạy tán loạn đến huyện Phú Xuyên thì bị bắt trọn không ai về báo. Nửa đêm mùng 3 Tết quân Thanh ở làng Hạ Hồi nghe tiếng loa gọi quân dạ như vỡ trời, hoảng hốt ra hàng. Mờ mờ sáng mùng 5 (30-1-1789) trận đánh quyết định xảy ra ở làng Ngọc Hồi. Cũng đồng thời Đô đốc Long đánh quân Điền Châu ở Khương Thượng bức viên Thái thú Sầm Nghi Đống chết ở gò Đống Đa mà oan hồn hẳn còn hận nghe lời mai mỉa của phụ nhân: “Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu!”
Nghe bại binh, Tôn Sĩ Nghị “ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp” cắm đầu chạy qua cầu phao về Bắc, bỏ lại quân sĩ bộ tướng chen chúc gãy phù kiều, “hàng vạn người lăn cả xuống nước, sông không chảy được”. Chiêu Thống ở Kinh Bắc từ trước lật đật chạy theo để không bao giờ thấy quê cha đất tổ nữa6.
Trận chiến thắng trọn vẹn một cách bất ngờ khủng khiếp này gieo một ảnh hưởng rất lớn, thuận lợi cho Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị ném cả ấn tín, mật chỉ, chạy cốt thoát lấy thân thôi. Toán quân chận đường đã làm cho cả một vùng biên giới, dân Trung Hoa dắt nhau chạy loạn đến vắng ngắt7. Tình trạng đó tạo một không khí thuận lợi cho việc giảng hoà giữa Thanh và Tây Sơn gây sự nể vì Quang Trung của Càn Long8.
Nhưng quan trọng hơn chính là sự đảo lộn tâm lý dân chúng trong nước. Đám di thần nhà Lê ươn ngạnh thấy tận mắt chiến bại thảm thương phải lo lẩn tránh, nín hơi lặng tiếng. Những kẻ chần chờ, lưỡng lự trước tín điều trung trinh (với Lê) và tuỳ thời, thấy thay đổi rõ rệt như mệnh Trời ném xuống, quả quyết bước vào con đường mới. Nguyễn Thiếp là một9. Trước đó, khi Nguyễn Huệ kéo quân ra bắt Vũ Văn Nhậm, Thiếp ra chầu ở hành tại đã nói rõ là vì trung với Lê nên không thể theo triều mới được. Thế mà năm sau (1789) ông đã sẵn sàng để làm đề điệu coi thi ở trường Nghệ, biên thư cho “Thượng Đức” bày tỏ tình hình dân chúng, lề lối cai trị, đề nghị sủa đổi chính trị, học vấn, tuyển chọn nhân tài... Theo với ông, ta thấy có đám danh sĩ Nghệ An cũng ra phò tá Tây Sơn: Nguyễn Huy Tự của làng Trường Lưu, Nguyễn Công (con trai Nguyễn Khản), Nguyễn Thiện (con Nguyễn Điều) của làng Tiên Điền, hai họ danh gia vọng tộc của Hà Tĩnh. Kế tới Hoàng giáp Bùi Dương Lịch, Tiến sĩ Phan Tố Định. Quan hệ hơn một bực nữa là sự đổi thay tâm lý của dân chúng vốn cũng chia xẻ những lý luận của nho sĩ, tuy là phán đoán giản dị, thêm tình cảm nhiều hơn: “Ách Tây Sơn còn được thích hơn ách quân Trung Hoa hay nói cho đúng thì sự thống trị của họ dễ chịu hơn dưới các triều vua trước... thành thử nếu họ bớt bắt tàn nhẫn trong vài trường hợp có lẽ chúng tôi không mong đổi họ với vị vua nào khác...”10. Nhưng chiến tranh còn tiếp diễn thì thuế mà khó ngừng thu, binh dịch khó ngừng bắt. Cho nên, “thuế má quá đáng đến nỗi nhiều làng xiêu đi” và “nhà nào có mấy người thì bắt đi lính cả, nhà có 5 người thì đi cả 5 (không kỳ già nua trẻ yếu)”11.
Oai danh Tây Sơn, trong cũng như ngoài, làm khiếp đảrn một vùng Bắc Hà. Duy trong cái không khí say sưa chiến thắng đó có lẽ có một người là thấy một sự kiện xảy ra ở vùng lầy lội xa tít tận Gia Định có thể đe doạ cơ nghiệp anh em mình đã tạo nên bằng mồ hôi nước mắt. Phạm Văn Sâm ở Ba Thắc đã tự đeo gông cùm ra hàng Nguyễn Ánh, chấm dứt quyền cai trị Tây Sơn nơi này, báo hiệu sự thịnh vượng ở đây sẽ từ từ nhưng chắc chắn tràn ngập phía Bắc không giải quyết được nghèo đói, mâu thuẫn.
_________________________________________
1. Về ngày tháng, chứng cớ của Lê Quýnh (Bắc hành tùng ký) chắc đáng tin hơn miễn là với một vài xác định nhỏ thêm. Các giáo sĩ cho ta biết ngày quân Thanh vào Thăng Long là 17-11 thật quá cách biệt với ngày do Lê Quýnh đưa ra (18-12-1788). Ta đoán chừng họ ghi lộ ngày âm lịch vì các giáo sĩ cũng có dùng ngày âm lịch (sau này, ta thấy L. Barizy cũng có một lần lầm như vậy). Ngoài ra, các ngày đánh nhau Tết Kỷ Dậu so ra đều sít sao, không có sai biệt nào giữa các tài liệu hết.
Lê Quýnh cho quân Thanh chiếm Kinh thành ngày 22 tháng 11 âl (19-12-1788). Nguỵ Nguyên (Sử Địa, số 9-10, t. 251) ghi tụt lại 2 ngày. Khác biệt có lẽ vì sự lựa chọn sự kiện khác nhau: Lê Quýnh đợi vua về vào đền Kính Thiên trong thành mới coi là đã chiếm được Thăng Long; Nguỵ Nguyên phía quân Thanh tính từ lúc quân Nghị thấy Thăng Long bỏ trống. Như sự khác biệt ngày tháng đó cũng chứng tỏ cuộc hành quân tiến triển rất chậm.
Ta thấy sách Hoàng Lê, t. 245, 246 thuật chuyện trước đó đến bờ bắc sông Nhị, chuyện sửa đền Kính Thiên rước Nghị, và ghi thêm: “Hôm ấy ngày 11 tháng 11 năm Mậu Thân”. Hôm sau có lễ thụ phong cho Chiêu Thống ở điện Kính Thiên. Nếu nghĩ rằng thời điểm quân Thanh vào thành Thăng Long là quan trọng không nhân chứng đương thời nào có thể quên được, thì ta đoán rằng ngày của Hoàng Lê ghi chắc là ngày “21 tháng 11” Mậu Thân mà vì sao qua chép lại đã lọt mất một chữ thôi.
2. Các giáo sĩ còn cho ta biết Quang Trung lên ngôi từ tháng 10 âl tức là ngày 8-11-1788 chớ không phải ngày 22-12-1788 như sử ta chép. Chắc ý định lên ngôi vốn có sẵn mà ngày làm lễ thì phải dời lại vì tin tức can thiệp của quân Thanh đưa về khiến Huệ phải dời tới ngày xuất quân mới làm cho long trọng một thể.
3. Thư giáo sĩ Longer gởi cho Julliard (A. Launay, III. t. 238.
4.Liệt truyện q30, 32b.
5. Bản Hoàng Lê của Ngô Tất Tố. Ông Hoa Bằng (Quang Trung, t. 189, chú số 4) cho là Đại Đô đốc Bảo, Đô đốc Long làm tướng Hữu quân, ghi của An Nam nhất thống chí (tên khác của Hoàng Lê), cho biết Long là tên khác của Liệt truyện (q30, 33b) gọi Đô đốc Mưu. Không biết bản An Nam của ông Hoa Bằng gọi Bảo với chức gì.
6. Tài liệu giáo sĩ cho ta biết quân địch chết 50.000 người, tù binh độ 3.000, 3.400 người. Hoàng Lê nói bắt đến hơn một vạn. Nguỵ Nguyên: hơn vạn người chết đuối, với Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, quân ngựa của Tôn Sĩ Nghị trở về không đầy một nửa. Thanh sử cho biết thêm người chết là Tổng binh Lý Hoá Long, Thượng Duy Thanh và 13 tướng khác. Tù binh theo lời Nguyễn Huệ nói với Thanh là hơn 700 người.
Về phía thiệt hại Tây Sơn, sử ta im lặng. Các giáo sĩ cho biết nội trong trận Ngọc Hồi có đến 8.000 người bị giết trong đó có một sĩ quan cao cấp. Trong khi đuổi theo quân địch ở sông Thương, Ngô Văn Sở cũng bị thiệt.
7.Liệt truyện q30, 35a. Cả chuyện đánh Thanh là từ 32b-35b.
8. Ngay đến Hoàng đế Trung Hoa cũng có vẻ nể vì tân Attila này vì ngài mới phong ông làm vua Bắc kỳ qua trung gian một vị Đại sứ, quên cả việc 50 000 binh lính Trung Hoa đã chết vì tay Tiếm vương năm ngoái chỉ trong một cuộc giao chiến... Tiếm vương không thèm rời Nam kỳ để nhận sắc phong tại thủ đô chúng tôi và chỉ chịu phái một vị quan thường nhân danh ông. Ông này mặc áo Chúa ông làm vị đại sứ Trung Hoa phải kính nể”. (Thư ông La Mothe gởi ông Blandin, 20-1-1790, Sử Địa, số 9-10, t. 227.
9. Hoàng Xuân Hãn, La Sơn phu tử, sđd. t. 109-147.
10. Thư ông La Mothe gởi ông Blandin đã dẫn.
11. Thư ông Eyot gởi ông Blandin, 5-7-1789 (Sử Địa, số 13, t. 146, 148). In nghiêng là nguyên văn chữ quốc ngữ.