[Funland] Về Thể Loại Âm Nhạc Không Lời - Những nốt trầm bổng.

Asura

Xe tăng
Biển số
OF-356606
Ngày cấp bằng
5/3/15
Số km
1,287
Động cơ
301,246 Mã lực
Cuộc nổi loạn của Âm nhạc chương trình đã làm lung lay pháo đài âm nhạc tuyệt đối (chính thống) từ thế kỷ 18 đến nay với sự hỗ trợ lớn từ âm nhạc đại chúng (Pop-Easy Listening) và nguồn nguyên liệu "không thể tốt hơn" từ văn học - môn nghệ thuật cổ xưa nhất. Brahms, Schumann được vinh danh là những người đấu tranh không mệt mỏi để bảo vệ pháo đài âm nhạc tuyết đối nhưng với cá nhân em, Leoš Janáček mới xứng đáng được trao huân chương vì "trăm nghe không bằng một thấy", ông ấy đã sử dụng một tác phẩm văn học "đình đám" nhất lịch sử cận đại được lấy cảm hứng từ một tác phẩm âm nhạc tuyệt đối để làm nguyên liệu cho kiệt tác của mình - Bộ tứ đàn dây số 1 , "Kreutzer Sonata". Một số người còn đặt cho nó cái nick name là "vở opera không lời".

Theo một số cách, Leoš Janáček là đối cực của Mozart và Mendelssohn. Không phải là một thần đồng, ông ấy chỉ vụt sáng ở tuổi 60. Trong khi Mozart và Mendelssohn đã có được những tác phẩm vĩ đại nhất của mình trước 40 tuổi, Janáček đã tạo ra những tác phẩm nổi tiếng và được đánh giá cao nhất của mình vào cuối những năm 60-70 tuổi. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng do ông ấy đã tìm ra nguồn năng lượng và niềm đam mê đích thực cho cuộc sống khi bắt đầu yêu đơn phương cô em họ xa chỉ mới 20 tuổi, người đã trở thành nàng thơ của ông - nàng Kamila Stösslová.


Bản sonata số 9 hào hùng của Beethoven dành cho violin và piano dành tặng nghệ sĩ vĩ cầm người Pháp, Rudolph Kreutzer trở thành cảm hứng cho tiểu thuyết đen tối và đáng lo ngại của Tolstoy "Kẻ giết vợ" - sau được đổi tên thành "Bản sonata Kreuzter " mới được Sa hoàng cho phép xuất bản (!!?? em ko chắc lắm).

Trong tiểu thuyết năm 1889 của Tolstoy, một người phụ nữ bị mắc kẹt trong cuộc hôn nhân không tình yêu chơi bản sonata của Beethoven với một nghệ sĩ vĩ cầm bảnh bao và dường như bị cuốn theo niềm đam mê âm nhạc. Một khoảnh khắc quan trọng trong câu chuyện xảy ra khi họ chơi bản sonata của Beethoven cho một buổi họp mặt xã hội. Chồng cô, bị ám ảnh bởi những tưởng tượng ghen tuông, đã cắt ngắn chuyến công tác và bất ngờ về nhà sau nửa đêm. Hắn thấy cô cùng với nghệ sĩ vĩ cầm trong phòng ăn, mặc đầy đủ quần áo nhưng đang trò chuyện thân mật. Tin rằng cô đã phản bội mình, anh ta giết cô trong cơn thịnh nộ ghen tuông. Vì Tolstoy thuật lại câu chuyện này qua điểm nhìn đầy ám ảnh và cay đắng của người chồng, nên chúng ta không bao giờ biết chắc chắn điều gì đã xảy ra giữa người vợ giấu tên và người bạn cùng chơi bản sonata của cô ấy. Tóm gọn lai, đó một người đàn ông không thể nguôi ngoai, trong cơn ghen tuông điên cuồng, đã giết người vợ bị tình nghi ngoại tình của mình chỉ để rồi chìm đắm trong sự hối hận và vỡ mộng về hôn nhân cũng như những mặt đen tối (ma) của con người. Tolstoy dành hai trang để nói về phản ứng đáng kinh ngạc của người chồng đối với chương 1 của bản Sonata và niềm phấn khích hoang dã, nguy hiểm mà âm nhạc gợi lên. Tình huống đồng thời là hiện thân của ba thôi thúc nguyên thủy và áp đảo, rối rắm thành thảm họa: sự xuất thần của âm nhạc, ham muốn tình dục và cơn thịnh nộ ghen tuông. Bên cạnh việc thể hiện sinh động niềm đam mê của con người với khuynh hướng bi kịch, câu chuyện còn là cuộc tranh luận về hôn nhân, nữ quyền, đạo đức và công lý.


Janáček bị ảnh hưởng bởi câu chuyện của Tolstoy đến nỗi trước đó ông đã cố gắng nắm bắt nó bằng một Piano Trio (tam tấu piano) và bộ tứ dây nổi tiếng trên chỉ trong 20 ngày vào năm 1923, khi Janáček 69 tuổi. Tam tấu Piano được cho là chưa hoàn thành nhưng cũng có người cho biết nó đã bị thất lạc hoặc tác giả giấu đi, ko chịu công bố. "Tôi đang tưởng tượng về một người phụ nữ tội nghiệp, bị dày vò và suy sụp, giống như người mà nhà văn Nga Tolstoy mô tả trong Kreutzer Sonata của ông ấy ", Janáček tâm sự trong một bức thư gửi cho nàng thơ Kamila Stösslová của mình. Trong âm nhạc của bộ tứ được miêu tả là một vở kịch tâm lý chứa đựng những khoảnh khắc xung đột cũng như những cảm xúc bộc phát, say mê dồn dập hướng đến sự thanh tẩy và đi đến cao trào cuối cùng. Janacek đã tạo cho câu chuyện của Tolstoy một tiêu điểm khác. Ông không chỉ quan tâm đến văn học Nga mà còn quan tâm đến quyền của phụ nữ, cảm thấy rằng hầu hết phụ nữ đều bị đàn ông khuất phục một cách bất công, trong và ngoài hôn nhân.

Janacek bị thu hút bởi tính cấp bách đầy kịch tính và những cảm xúc tột độ của cuốn tiểu thuyết, và ông ấy đã thành công trong việc thể hiện cốt truyện của nó trong một chuỗi chủ đề âm nhạc hấp dẫn. Janacek là một người theo chủ nghĩa Pan-Slavis, người nhìn về phương đông hơn là các hình mẫu Áo-Đức để lấy cảm hứng. Trong tứ tấu đàn dây của ông, không dễ để tìm thấy các cấu trúc truyền thống như hình thức sonata, các biến thể hoặc rondo... mà là sự phát triển liên tục. Âm nhạc dường như đang ở trong trạng thái hỗn loạn. Việc lặp lại thường xuyên các giai điệu ngắn liên tục được "đẩy ra" với cường độ cực lớn. Bộ tứ của Janáček kết hợp ít nhất hai ý tưởng từ nhịp presto (cực nhanh) không được kìm chế. Đầu tiên, ông giới thiệu một biến thể của chủ đề chính nhanh như chớp của Beethoven dựa trên motif bốn nốt với hai nốt trung tâm lặp lại. Nó xuất hiện sớm nhất ở ô nhịp thứ ba của tứ tấu và có thể được nghe thấy trong suốt chương 1 và chương 3. Thứ hai và đáng chú ý hơn là một trích dẫn gần như trực tiếp về chủ đề trữ tình thứ hai của Beethoven trong chương 3 của Janáček với một sửa đổi quan trọng: chuyển từ âm trưởng dịu dàng sang âm thứ rắc rối. Chương 3 bắt đầu với một quy luật về chủ đề này được hát bởi vĩ cầm số 1 và cello, chỉ bị gián đoạn vài lần bởi sự lặp đi lặp lại từ viola và vĩ cầm số 2. Chắc chắn đây là màn trình diễn của đôi tình nhân và sự điên rồ mới bắt đầu của người chồng. Cao độ cuồng nhiệt sau đó của chương 3 dường như thể hiện những đam mê không thể kìm nén của ham muốn và ghen tuông, có lẽ là những hành vi mê sảng của tình dục và giết người. Chương kết bắt đầu với chủ đề mở đầu, nhưng bây giờ buồn bã và bi tráng tiếp theo là một cao trào chuyển động và năng lượng điên cuồng khác mô tả ký ức, cú sốc, sự hối hận và sự tuyệt vọng liều lĩnh với đặc điểm cuối cùng là "hung dữ" : dữ dội, hoang dã và khắc nghiệt của " sul ponticello" – kỹ thuật kéo vỹ sát cạnh ngựa đàn.

Trong Album The Kreutzer Project xuất bản ngày 26/8/2022, bản phối khí với dàn nhạc tác phẩm Kreutzer Sonata của Beethoven của Colin Jacobsen khá mới mẻ và rất thuyết phục – có một vài chỗ mà piano không được chuyển tải tốt, và đôi khi kết cấu bị nghẽn ở những đoạn cao trào đã được dàn nhạc bổ sung đầy đủ. Thêm một bản Kreutzings do chính Colin Jacobsen như là một cadenza cho nó và Tốc ký của Anna Clyne lấy tiêu đề từ nhận xét của Leo Tolstoy rằng “Âm nhạc là tốc ký của cảm xúc. Những cảm xúc khó có thể diễn tả bằng ngôn từ được truyền tải trực tiếp đến con người trong âm nhạc, và đó chính là sức mạnh và ý nghĩa của nó.”

https://www.theknightsnyc.com/albums-all/2021/10/kreutzer-project-9wyjz


 
Chỉnh sửa cuối:

Asura

Xe tăng
Biển số
OF-356606
Ngày cấp bằng
5/3/15
Số km
1,287
Động cơ
301,246 Mã lực
- Họ chơi bản Sonata Kreutzer của Beethoven. Ngài có biết khúc presto mở đầu bản nhạc đó không? Ngài biết à?! - Anh ra reo lên. - Ôi! Bản nhạc đó thật là ghê gớm. Nhất là phần đầu. Mà nói chung âm nhạc là cái thật ghê gớm. Nó là cái gì? Tôi không hiểu. Âm nhạc là cái gì? Nó tạo nên cái gì? Tại sao nó lại tạo nên cái đó? Người ta bảo âm nhạc nâng cao tâm hồn - đó là điều nhảm nhí, không đúng. Âm nhạc có gây tác động, đó là tôi nói tác động đến tôi, nhưng không phải là làm tâm hồn thanh cao hơn. Âm nhạc không nâng cao, cũng chẳng hạ thấp tâm hồn, mà nó kích thích người ta. Nói thế nào cho ngài hiểu nhỉ? Âm nhạc buộc tôi quên bản thân, quên đi tình cảnh thực sự của mình, nó mang tôi đến một tình trạng khác không phải của mình: dưới tác động của âm nhạc, dường như tôi cảm thấy được cái mà bình thường tôi không cảm thấy, tôi hiểu đươc cái mà bình thường tôi không hiểu, tôi có thể làm được cái mà bình thường tôi không thể. Tác động của âm nhạc cũng giống như người ta ngáp hay cười vậy: tôi không buồn ngủ, nhưng khi nhìn người khác ngáp tôi cũng ngáp theo; không có gì để cười, nhưng nghe người khác cười tôi cũng phải cười theo. Âm nhạc cũng vậy, ngay lập tức, nó đưa tôi vào trạng thái tinh thần của người nhạc sĩ khi viết bản nhạc. Tâm hồn tôi hòa vào tâm hồn ông ta, cùng ông ta đi từ trạng thái tình cảm này sang trạng thái tình cảm khác, nhưng vì sao lại như vậy thì tôi cũng không biết nữa.

Cái ông nhạc sĩ Beethoven đã viết nên bản Sonata ấy, ông ta thì biết vì sao ông ta ở trong trạng thái tình cảm đó, trạng thái đó đưa ông ta đến hành động viết nên những nốt nhạc, có nghĩa là đối với ông ta trạng thái đó mang ý nghĩa nào đó, còn đối với tôi thì nó chẳng có ý nghĩa nào cả. Bởi vậy âm nhạc chỉ kích thích và không ngừng lại. Khi người ta dạo khúc quân hành, những người lính bước đều chân trong hàng ngũ, rồi sau đó kết thúc; khi nghe điệu nhạc nhảy, người ta cũng nhảy theo, và điệu nhạc đó đưa đến kết quả; khi nghe hát trong lễ mi-sa, người ta chịu lễ ban thánh thể, âm nhạc lúc đó cũng đạt đến đích. Nhưng ở đây thì khác, ở đây chỉ có sự kích thích và không biết phải làm gì với trạng thái kích thích đó. Vì điều đó mà âm nhạc đôi khi có tác động hết sức khủng khiếp. Ở Trung Hoa âm nhạc là công việc của nhà nước. Mà cần như thế mới được. Chẳng lẽ có thể để cho bất cứ ai hễ thích là được thôi miên kẻ khác và sau đó tha hồ làm gì người ta thì làm hay sao. Nhất là nếu như kẻ hành nghề thôi miên đó lại là một kẻ vô đạo đức thì sẽ ra sao?

Âm nhạc là vũ khí khủng khiếp trong tay kẻ biết nắm giữ nó. Như bản Sonata Kreutzer này chẳng hạn, nhất là đoạn presto đó. Có thể nào chơi đoạn nhạc đó trong phòng khách trước các bà mặc áo hở vai được chăng? Nghe xong, các bà vỗ tay, rồi sau đó ăn kem và nói những lời đàm tiếu. Loại nhạc như vậy chỉ có thể biểu diễn trong những khung cảnh trang nghiêm, long trọng, đồng thời đòi hỏi những người nghe phải có những hành vi cũng trang nghiêm xứng với nó. Phải trình diễn và làm theo những điều mà khúc nhạc đó thôi thúc. Còn nếu như diễn không đúng chỗ đúng lúc và có những ý muốn và tình cảm không phù hợp thì khúc nhạc đó không thể làm nên được gì ngoài sự hủy hoại. Ít nhất là đối với tôi, khúc nhạc đó có tác động thật khủng khiếp; dường như trong tôi mở ra những cảm xúc mới mẻ, những khả năng mới mẻ mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Cụ thể đó là những tình cảm gì, khả năng gì, tôi còn chưa rõ, nhưng ý thức về trạng thái mới mẻ đó làm tôi vui sướng. Vẫn những khuôn mặt đó, trong đó có vợ tôi và hắn, nhưng tất cả đối với tôi hiện ra dưới ánh sáng hoàn toàn khác hẳn.
 

Asura

Xe tăng
Biển số
OF-356606
Ngày cấp bằng
5/3/15
Số km
1,287
Động cơ
301,246 Mã lực
Bản giao hưởng số 5 của Beethoven được cả thế giới classical thống nhất với tựa đề Định mệnh - Destiny. Có nhiều tác phầm của các nhà soạn nhạc cũng cố gắng khai thác chủ đề này nhưng ko đạt được tới ánh hào quang của Beethoven. Chỉ có một tác phẩm đạt được gần tới ranh giới đó nhất - Bản giao hưởng số 5 cung Mi thứ (Opus 64) của Tchaikovsky (cũng lại là số 5 :)) )


Trong phần lớn cuộc đời mình, Tchaikovsky đã được truyền cảm hứng cả về tình cảm lẫn tài chính bởi người bảo trợ của ông, Nadezhda von Meck - người mà ông chưa bao giờ gặp mặt (theo yêu cầu rất lập dị của bà). Vào mùa hè năm 1888, Tchaikovsky đã viết một trong số rất nhiều bức thư của mình cho bà, trong đó ông nhận xét: "Tôi không biết liệu mình đã sẵn sàng chưa nhưng tôi đã quyết định viết một bản giao hưởng. Lúc đầu rất gian khổ, nhưng bây giờ ánh sáng thiên đường dường như đã chiếu xuống tôi. Chúng ta sẽ thấy!" Tác phẩm được đề cập chính là Bản giao hưởng số 5 của ông.

Tchaikovsky trưởng thành vào thời điểm bước ngoặt của âm nhạc Nga, thời điểm mà các nhà soạn nhạc tranh luận sôi nổi về hướng nghệ thuật của họ nên đi: họ có nên theo đuổi cách tiếp cận Slav độc đáo, nhấn mạnh các câu chuyện dân gian và giai điệu truyền thống, hay họ nên theo đuổi truyền thống cổ điển Tây Âu? Tchaikovsky bị chỉ trích khá nhiều vì đã dựa vào cả Nga và phương Tây. Các nhà phê bình đã chỉ trích bản giao hưởng trong buổi ra mắt, một phần do kỹ năng chỉ huy hạn chế của Tchaikovsky nhưng khán giả vẫn nhiệt tình ủng hộ. Tchaikovsky cay đắng nhận xét :" Sau khi chơi Bản giao hưởng của tôi hai lần ở Petersburg và một lần ở Praha, tôi đi đến kết luận rằng đó là một thất bại. Có một cái gì đó ghê tởm trong đó, một màu sắc phóng đại nào đó, một sự ngụy tạo không trung thực nào đó mà công chúng nhận ra theo bản năng. Đối với tôi, rõ ràng là những tràng vỗ tay và hoan hô không phải dành cho tác phẩm này mà dành cho các tác phẩm khác của tôi, và bản thân Bản giao hưởng sẽ không bao giờ làm hài lòng công chúng..."

Tchaikovsky cảm thấy vô cùng chán nản, thậm chí còn đi xa đến mức phải từ bỏ nó trong một thời gian khá dài. Tuy nhiên, sau khi ông qua đời, tác phẩm ngày càng trở nên nổi tiếng. Các bản giao hưởng khác của Tchaikovsky đều theo hướng "âm nhạc chương trình" - chúng được chính tác giả đặt tên, ngoại trừ duy nhất có bản số 5 này. Nó là âm nhạc tuyệt đối của Tchaikovsky. Công chúng mộ điệu classical đã nhận ra ý tưởng về cuộc đấu tranh của cá nhân với số phận, bị giằng xé giữa hy vọng và sự khuất phục tuyệt vọng — chỉ để chiến thắng cuối cùng. Cuộc hành trình từ đau khổ đến hạnh phúc này đặc biệt gây tiếng vang trong thời điểm đen tối nhất của nhân loại trong thế kỷ 20. Tác phẩm được dàn nhạc Đài phát thanh Leningrad biểu diễn khi thành phố của họ bị quân Đức Quốc xã bao vây.....Vâng, dàn nhạc không chọn 1892 Overture vốn đc công chúng ưa thích mà là bản giao hưởng Định mệnh này cho lần trình diễn cuối cùng của họ.

Bản giao hưởng mở đầu bằng tiếng kèn clarinet chơi thứ thường được gọi là “chủ đề Định mệnh”, được hỗ trợ bởi những hợp âm ảm đạm trong dàn nhạc. Nó mang màu sắc ám ảnh như Berlioz đã định nghĩa trong Bản giao hưởng Ảo tưởng của ông trước đó (Berliozian idée fixe). Nhịp độ tăng lên theo nhịp điệu gần như phi nước đại khi âm nhạc rũ bỏ tâm trạng u sầu. Nó được xây dựng một cách hoa mỹ, phát triển các chủ đề mới sâu rộng và biểu cảm.

Chương hai mở đầu bằng những hợp âm elegiac, tiếp theo là một đoạn solo kèn horn u sầu đến nhức nhối. Dàn nhạc dao động giữa nỗi buồn và hy vọng.

Chương ba là một điệu valse nhẹ nhàng, thanh lịch như bất kỳ điệu valse nào của Tchaikovsky. Sau một đoạn scherzo vui vẻ, thú vị, chủ đề Định mệnh một lần nữa đưa ra lời cảnh báo, trầm thấp, đáng ngại, được ngụy trang trong cùng một nhịp điệu nhã nhặn. Dùng giai điệu trang nhã, lịch sự đến kiêu kỳ của điệu Valse để diễn tả một chủ đề đen tối, khốc liệt thực sự là "quái thủ". Việt Nam ta cũng có một nhạc sỹ như vậy - Văn Cao. Ông đã dùng điệu Valse trong bài Làng tôi cho một chủ đề tương tự.

Chương cuối cùng bắt đầu với chủ đề Định mệnh được chuyển thành một cuộc diễu hành hân hoan. Tuy nhiên, chiến thắng này là quá sớm. Chỉ sau một cuộc đụng độ điên cuồng của nhiều chủ đề khác nhau, tâm trạng chiến thắng này mới trở lại tốt đẹp, với một đoạn coda vui tươi ngắn gọn nhưng rõ ràng.

“Nếu bản thứ năm của Beethoven là Số phận gõ cửa thì bản thứ năm của Tchaikovsky là Số phận đang cố thoát ra." James M. Keller

Em không ưa thích nhạc Tchaikovsky lắm, kể cả do nhạc trưởng và các dàn nhạc Nga trình tấu, chỉ nghe Violin Concerto và Piano Concerto số 1 của ông. Tuy nhiên, khi nghe Reference Recordings giới thiệu Bản giao hưởng số 5 của Tchaikovsky theo cách diễn giải mới đầy ý nghĩa từ nhạc trưởng Manfred Honeck và Dàn nhạc Giao hưởng Pittsburgh vào giữa năm 2023 thì em thay đổi quan điểm. Ngày mai (4/8/2023), album chính thức được phát hành nhưng nó đã có trên nền tảng streaming từ giữa tháng 7.

Các cụ các mợ quan tâm có thể tìm hoặc nghe tạm phiên bản 2018 của Manfred Honeck với dàn nhạc Frankfurt Radio Symphony.

https://www.prestomusic.com/classical/products/9500074--tchaikovsky-symphony-no-5-schulhoff-five-pieces-for-string-quartet

 
Chỉnh sửa cuối:

Asura

Xe tăng
Biển số
OF-356606
Ngày cấp bằng
5/3/15
Số km
1,287
Động cơ
301,246 Mã lực
Khi lắng nghe Bản giao hưởng số 2 của Sibelius, ra đời hơn 100 năm trước và từ lâu đã trở thành một tác phẩm kinh điển, chúng ta có thể không thấy bản nhạc này quá sốc. Nhưng đối với những thính giả thời đó hay những đôi tai chưa quen với đường nét của nó, nó thực sự rất táo bạo, dễ gây sốc !!

Đầu thế kỷ 20, Phần Lan trải qua giai đoạn hỗn loạn, bắt đầu nổi lên tinh thần dân tộc chủ nghĩa chống lại ách thống trị của Nga. Vào những năm cuối của thế kỷ 19, người Phần Lan vô cùng hào hứng với nền văn hóa "cây nhà lá vườn" —sưu tầm âm nhạc và vũ điệu truyền thống, đào sâu vào các truyền thuyết Phần Lan cổ đại và quay trở lại sử dụng ngôn ngữ Phần Lan. Sibelius bị cuốn hút bởi các nghệ sĩ, nhà văn và nhạc sĩ, những người đang miệt mài ủng hộ một Phần Lan độc lập, và ông đã bước từng bậc thang lên vai trò anh hùng dân tộc với các sáng tác yêu nước và tuyên truyền như các bài thơ giao hưởng The Swan of Tuonela , Lemminkäinen's ReturnFinlandia....

Sibelius chắp bút cho giao hưởng số 2 do người bạn Nam tước Axel Carpelan động viên, huy động nguồn tài trợ và tìm cách cho ông đến Ý để nghiên cứu, phát triển sáng tác. Nam tước Axel Carpelan, chính là người đặt tên cho tác phẩm Finlandia - được coi là Quốc ca thứ 2 của Phần Lan, đã viết cho nhà soạn nhạc ngay sau buổi ra mắt thành công của nó: "Ông đã ngồi ở nhà khá lâu rồi, ông Sibelius, đã đến lúc để bạn đi du lịch. Bạn sẽ trải qua cuối mùa thu và mùa đông ở Ý, một đất nước mà người ta học được khả năng ca hát, sự cân bằng và hài hòa, sự mềm dẻo và đối xứng của các đường nét, một đất nước mà mọi thứ đều đẹp đẽ – kể cả những thứ xấu xí. Bạn nhớ Ý là nơi đặt nền móng cho sự phát triển của Tchaikovsky và cho Richard Strauss." . Sibelius và gia đình đã ở trong một biệt thự trên núi gần Rapallo. Ông đã ghi lại vào ngày 11 tháng 2 năm 1901, ông tưởng tượng rằng ngôi biệt thự này là cung điện huyền ảo của Don Juan và bản thân mình chính là Don Juan. Ông ghi vào nhật ký những ý nghĩ chợt đến lúc nửa đêm: “Don Juan ! Tôi đang ngồi trong bóng tối trong lâu đài của mình thì một người lạ bước vào. Tôi đã hỏi đi hỏi lại xem anh ta có thể là ai—nhưng anh ta không trả lời. Tôi cố làm cho anh ấy cười nhưng anh ấy vẫn im lặng. Cuối cùng, người lạ bắt đầu hát - lúc đó Don Juan mới biết đó là ai. Đó là Tử thần.”

Sau đó, ông lại bỏ qua ý tưởng về Don Juan để phát triển một loạt bài thơ trên các nhân vật trong Thần khúc của Dante. Khi trở về Phần Lan vào tháng 6, Sibelius bắt đầu nhận ra rằng những gì hình thành từ các bản phác thảo của ông không phải là một tập hợp các bài thơ giao hưởng mà là một bản giao hưởng hoàn chỉnh—một bản giao hưởng sẽ thể hiện một mức độ thống nhất phi thường giữa các phần của nó. . Với mục tiêu giờ đã được làm rõ, Sibelius đã làm việc cần mẫn suốt mùa hè và mùa thu và hoàn thành bản giao hưởng của mình vào tháng 11 năm 1901.

Buổi ra mắt bản giao hưởng thành công rực rỡ nhưng cũng khơi mào một cuộc tranh luận gay gắt trong giới phê bình kéo dài đến tận ngày nay. Nhạc trưởng Robert Kajanus, người thông dịch viên nổi tiếng của Sibelius, nhấn mạnh rằng khán giả Helsinki đã hiểu bản giao hưởng mới là sự thể hiện công khai cuộc xung đột chính trị, đấu tranh đòi độc lập của Phần Lan khi đó. “ Andante (chương) ,” ông ấy viết, “được coi là một cuộc biểu tình đau lòng nhất chống lại tất cả những bất công đang đe dọa vào thời điểm hiện tại để tước đi ánh sáng của mặt trời và hương thơm của những bông hoa của chúng ta. . . . chương kết phát triển hướng tới một thắng lợi nhằm khơi dậy trong người nghe một bức tranh về những triển vọng tươi sáng và tự tin hơn cho tương lai”. Sibelius kịch liệt phản đối cách giải thích này... "Bản giao hưởng thứ hai của tôi là lời bộc bạch của tâm hồn". Ông nhấn mạnh rằng các bản giao hưởng của ông là âm nhạc tuyệt đối thuần túy, những gì ông viết là cả một khối cấu trúc thanh âm được đan xếp và có sức biểu đạt cho chính nó, tự thân đã có sự lý tưởng hóa. Tuy nhiên, có những học giả tin chắc vào ý nghĩa hình tượng tổ quốc, lịch sử của Bản giao hưởng, có lẽ bởi trong đó chứa đựng những âm điệu hào hùng, tính anh hùng ca đầy tự hào cũng như những khoảnh khắc khoáng đạt, xa xôi gợi nhắc đến thiên nhiên xứ lạnh Bắc Âu… của một con người vốn đã có lòng yêu đất nước từ thẳm sâu nội tâm. Nhà soạn nhạc Sulho Ranta (1901-60) đã thay mặt những người Phần Lan đồng nghiệp của mình tuyên bố: “Có điều gì đó về bản giao hưởng này—ít nhất là đối với chúng tôi—khiến chúng tôi xuất thần; gần giống như một pháp sư với chiếc trống ma thuật của mình.”

Cuối cùng, Sibelius cũng đầu hàng .... và mặc kệ người ta gọi nó là Bản giao hưởng Độc lập !! :))

 
Chỉnh sửa cuối:

Bang lang

Xe container
Biển số
OF-22341
Ngày cấp bằng
12/10/08
Số km
5,010
Động cơ
120,091 Mã lực
Hôm vừa rồi em có được cụ một cụ trên này gửi cho xem bộ phim về nhạc trưởng TAR. Nội dung nói về con người của nữ nhạc trưởng này em ko hứng thú lắm bởi đầu óc em vốn đơn giản và sống ko có lý tưởng lắm nên thấy khó hiểu những hành động của bà ấy. Tuy nhiên, em lại rất hứng thú khi bà ấy nói về vai trò của nhạc trưởng, những giá trị của nhạc trưởng mang lại cho tác phẩm mà em đã thắc mắc bấy lâu. Ngoài ra, em cũng rất thích phần đối thoại của bà ấy với cậu sinh viên Max. Trong đó có câu mà em nhớ đại loại là “Mỗi linh hồn sẽ tự tạo một xã hội cho riêng mình”, Khi bà nói về Bach, thuyết phục cậu kia tìm hiểu về Bach bằng ví dụ bản nhạc Ave Maria mà ba ấy chơi Piano. Vừa chơi bà ấy vừa nói “ … Rồi, phải đến khi nó thay đổi, khi em vào bên trong nó, em mới nghe thấy nó thực sự là gì. Đó là một câu hỏi và một câu trả lời, Thứ van xin một câu hỏi khác. Có một sự khiêm nhường nơi Bach. Ông ko giả vờ mình chắc chắn một cái gì cả vì ông biết nó luôn là câu hỏi có dính dáng đến người nghe. Nó ko bao giờ là câu trả lời, có phải ko?. Rồi, câu hỏi lớn với em là gì?. Em nghĩ sao Max?” Qua đoạn này, em càng hiểu rõ hơn về vai trò của nhạc trưởng,


Trong phim cũng có đoạn một cô chơi Cello mà bà nhạc trưởng này rất thích. Có đoạn hỏi tại sao cô ấy chọn Cello thì cô gái ấy có bảo khi lần đầu tiên cô ấy nghe Elgar, cô ấy quyết định chơi Cello. Điều này làm em tò mò và tìm một số tác phẩm của Elgar, trong đó có 2 tác phẩm mà em thấy hay , một tác phẩm rất quen thuộc mà em nghĩ mọi người đều đã nghe qua, Salut d’amour, tác phẩm này được Elgar viết tặng dành cho người yêu nên quả thật giai điệu rất đẹp, nhẹ nhàng.


Tác phẩm thứ hai là tác phẩm Concetor cho Cello cung Mi thứ. Nghe rất buồn, em bị hấp dẫn ngay từ chương 1, tiếng cello nỉ non kể lể cho đến khi dàn nhạc hòa vào lặp lại giai điệu đó thì ko còn thấy đó là nỗi buồn nữa, nó ở mức cao hơn nó là từ gì em chưa tìm ra được. Và liên tưởng đến đoạn đầu trong bộ phim,, khi vẫn giai điệu đó nhưng có rất nhiều sắc thái khác nhau bởi người nhạc trưởng giữ nhịp, điều khiển thời gian , Không hiểu sao nghe đoạn đầu làm em nhớ đến Devil’s trill
Em nghe bản của Felix Schmidt
Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
 

Asura

Xe tăng
Biển số
OF-356606
Ngày cấp bằng
5/3/15
Số km
1,287
Động cơ
301,246 Mã lực
TAR là bộ phim đáng xem. Đạo diễn, biên kịch của phim có lẽ là người ủng hộ các giá trị văn hoá, âm nhạc truyền thống nên bộ phim đả kích khá mạnh những thứ phi truyền thống mà gần đây đc tung hô là "cách mạng" giải phóng con người (dĩ nhiên là cảm nhận của cá nhân em).

Ngoài đả kích nạn đồng tính, cái đoạn Max mợ nói đó ko chỉ đụng đến Bach, trước đó, cậu Max chỉ huy một tác phẩm "cổ điển mới", rất vô hồn bởi thực tế nó ko có "hồn" nào cả và chê bai classical, trong đó có phê phán Bach. Tar chơi Bach theo cách của bà ấy rồi chuyển qua lại cách chơi Bach của Glenn Gould, pianist đc đánh giá vỹ đại nhất lịch sử hiện đại và cũng là người diễn giải Bach hay nhất.
 
Chỉnh sửa cuối:

Bang lang

Xe container
Biển số
OF-22341
Ngày cấp bằng
12/10/08
Số km
5,010
Động cơ
120,091 Mã lực
Thời tiết giao mùa nên mấy hôm nay em chỉ nghe 4 seasons của cậu Luka. Công nhận nghe sướng thật các cụ ạ. Người lúc nào cũng phơi phới. Năm nay Việt Nam có rất nhiều chương trình hay. Mấy tuần trước em có đi xem ballet, Vở Giselle, tưởng ko hay nhưng ko ngờ rất hay, diễn viên Việt Nam bây giờ múa cũng rất đẹp, người cũng thanh thoát. Ấn tượng nhất với em có lẽ là lúc cô Giselle nhân vật chính chết đi rồi thành ma, đoạn đấy múa rất giống ma, đi kiểu ngang ngang :), sau đó là anh chàng người yêu của cô ấy bị mấy con ma làm cho nhảy kiệt sức đến chết, đoạn này diễn viên nam xuất thần phết chứ lúc đầu thì cũng lờ vờ lắm. Cũng chính đoạn này mà làm cho vở diễn thành công và ấn tượng với người xem. Cụ nào ko thích xem ballet thì có thể tìm riêng đoạn này xem, rất hay đấy.

z4647588072331_2705c3f58337fa23e0f941184049f5b9.jpg


Ngoài ra, em cũng rất thích bản Concetor cho Violin cung Mi thứ của Mendelssohn. Cụ Asura viết về bản concetor này đi, em tình hiểu thì cũng ko thấy giống tiểu thuyết lắm nên trông chờ cụ viết sao cho lâm li. Giai điệu hay thế cơ mà!
 

Asura

Xe tăng
Biển số
OF-356606
Ngày cấp bằng
5/3/15
Số km
1,287
Động cơ
301,246 Mã lực
Ngày nay, sự vĩ đại của Mendelssohn đã được thừa nhận rộng rãi, và bản Concerto cho violin cung Mi thứ của ông là một tượng đài những người yêu âm nhạc. Tuy nhiên, hơn một thế kỷ trước, George Bernard Shaw không hề e ngại khi chế nhạo âm nhạc của Mendelssohn, nói rằng nó không chứa đựng gì hơn ngoài "tình cảm thông thường". Những ý kiến như của Shaw – thật không may, đã để lại dấu ấn, và trong một thời gian dài, giới phê bình dành cho Mendelsshon những lời "ba phải" như ".. đứa trẻ thần đồng đã thừa hưởng những nét “thiên thần” của Mozart; đệ tử của Goethe vào những năm 1830s vẫn gắn bó với chủ nghĩa classical; nhà khảo cổ học sùng đạo của thời Baroque; con trai của sự giàu có và văn hóa cao nhưng bi kịch duy nhất trong cuộc đời là sự mất đi người chị gái yêu quý của mình....

Jacob Ludwig Felix Mendelssohn là một thần đồng âm nhạc, một nghệ sĩ piano xuất sắc, một nhạc sĩ vĩ đại, một nhạc trưởng tài ba, một nhà phê bình bậc thầy.

Là cháu nội của nhà triết học nổi tiếng thế kỷ 18 Moses Mendelssohn, Felix được sống trong một gia đình khá giả và có nền giáo dục rất tốt. Do rất sung túc về kinh tế nên gia đình Mendelssohn thường xuyên tổ chức các hoạt động âm nhạc tại nhà riêng. Điều này đã giúp cho tài năng thiên bẩm của Felix được bộc lộ từ rất sớm. Cũng giống như Mozart, Mendelssohn nổi tiếng là một thần đồng từ khi còn rất nhỏ. Cùng lứa tuổi với các nhạc sĩ khác như Schumann, Chopin và Liszt nhưng tài năng của Mendelssohn được thừa nhận đầu tiên ở châu Âu. Từ năm 11 đến 15 tuổi Mendelssohn sáng tác 13 bản giao hưởng cho dàn dây và bản Giao hưởng số 1 giọng Đô thứ, Op. 11. 16 tuổi, chàng trai trẻ hoàn thành một tác phẩm thính phòng xuất sắc: bản octet (bát tấu) cho dàn dây giọng Mi giáng trưởng, Op. 20 (cho 4 violin, 2 viola, 2 cello) và đã bắt đầu gây được sự chú ý. Lục lọi trong thư viện của Goethe, tình cờ Mendelssohn bắt gặp vở kịch Giấc mộng đêm hè của Shakespeare và thế là năm 1826, khi mới 17 tuổi, tác phẩm lớn đầu tiên của Mendelssohn: bản Overture “A Midsummer Night’s Dream” Op. 21 (Giấc mộng đêm hè) ra đời và đạt được những thành công vang dội. Từ Vienna đến Paris, tên tuổi Mendelssohn luôn được nhắc đến với một sự kính nể. Kể từ đó con đường hoạt động nghệ thuật của Mendelssohn luôn được trải đầy hoa hồng.

Không chỉ là một nhà soạn nhạc vĩ đại, Mendelssohn còn được biết đến với tư cách một nhạc trưởng tài ba. Ông có công rất lớn trong việc dàn dựng lại các tác phẩm nổi tiếng tưởng như đã chìm vào quên lãng của các nhạc sĩ thời kỳ trước. Điển hình là năm 1829, tuy chỉ mới 20 tuổi nhưng Mendelssohn đã được Berlin Choral Academy tin tưởng giao cho việc làm sống lại kiệt tác vĩ đại của Johann Sebastian Bach St.Matthew Passion sau 79 năm kể từ ngày Bach qua đời. Năm 1833, ông chỉ huy dàn nhạc Dusseldorf công diễn tác phẩm Messiah của George Frideric Handel. Và vào năm 1839, hơn mười năm sau khi Franz Schubert qua đời Mendelssohn đã chỉ huy bản Giao hưởng số 9 “The Great” của Schubert để tưởng nhớ người nhạc sĩ vĩ đại.

Năm 1835 được giao trọng trách chỉ huy dàn nhạc Leipzig Gewandhaus, năm 1841 được vua Frederick William IV mời làm giám đốc âm nhạc và năm 1842 là người sáng lập ra Nhạc viện Leipzig, Mendelssohn được cả nước Đức kính trọng. Vào năm 1843, 17 năm sau kể từ ngày sáng tác overture, thực hiện nốt ước mơ dang dở thời trai trẻ, Mendelssohn hoàn thành phần âm nhạc cho vở kịch A Midsummer Night’s Dream Op.61 của Shakespeare với trích đoạn tuyệt vời nhất: Wedding March (hành khúc đám cưới) mà ngày nay luôn được vang lên ở bất kỳ đám cưới nào trên khắp thế giới như là một nghi lễ bắt buộc.

Ông mất năm 38 tuổi. Nguyên nhân vẫn còn là điều bí ẩn. Có người nói Mendelssohn sống sung sướng, chưa từng gặp cú shock nào nên khi liên tiếp mất người thân (bố, chị gái..), ông đã sụp đổ. Có nguồn tin lại cho rằng ông quá tham việc, đảm nhận nhiều vai trò cùng lúc ... nên đã bị đột quỵ vì khi ra đi, ông đang viết dở bản oratorio Christus.
 

Asura

Xe tăng
Biển số
OF-356606
Ngày cấp bằng
5/3/15
Số km
1,287
Động cơ
301,246 Mã lực
Vào năm 1836, Mendelssohn được chỉ định làm nhạc trưởng của dàn nhạc Leipzig Gewandhaus, và ông đã chọn Ferdinand David – người bạn thân, đồng thời cũng là một nghệ sĩ vĩ cầm đầy tài năng làm bè trưởng (concert master) của dàn nhạc. Trong một bức thư gửi cho David đề ngày 30 tháng 7 năm 1838 , ông viết: “Tôi đang rất muốn viết một tác phẩm concerto trong mùa đông này. Khúc dạo đầu của bản nhạc giọng Mi thứ này cứ lởn vởn mãi trong đầu tôi, làm cho tôi không lúc nào được yên”. Tuy nhiên, tác phẩm phải mất đến hơn 6 năm để hoàn thành. Có khá nhiều lý do cho sự chậm trễ này, một trong số đó là bản giao hưởng số 3, vốn được sáng tác xen giữa thời gian này, sau đó là khoảng thời gian không mấy vui vẻ tại Berlin khi Mendelssohn phải phục vụ cho hoàng đế nước Phổ – Frederick William đệ Tứ - trong vai trò nhạc trưởng cung đình. Nhưng có một nguyên nhân đặc biệt, đó là sự e dè, hoài nghi bản thân của chính tác giả. Vì kiểu tác phẩm đòi hỏi sự rực rỡ, phô diễn, nhiều biến hóa này khá xa lạ với phong cách của Mendelssohn – vốn thiên về truyền thống (classical và baroque)

Trong thời gian đó, Mendelssohn vẫn giữ liên lạc với David qua thư từ, trao đổi về nội dung cũng như các chi tiết, kỹ xảo, kỹ thuật cần có của bản concerto này. Có thể nói, đây là bản concerto đầu tiên cho phép người nghệ sĩ biểu diễn tham gia vào quá trình thai nghén, hình thành tác phẩm, tạo một tiền đề tốt cho các bản concerto của các tác giả khác được sáng tác sau này. Nhờ đó, tác phẩm không chỉ vượt qua khỏi cái bóng khổng lồ của Beethoven, mà còn kết hợp được cả tính trữ tình thơ ca của Schubert cùng sự cách tân trong kỹ thuật biểu diễn. Trong đó đáng chú ý nhất là tính liên tục không có đoạn nghỉ giữa 3 chương nhạc, không chỉ vậy, các chương còn tự gắn kết với nhau; sau đó là vai trò chủ động của violin ngay phần đầu tác phẩm, cùng sự biến hóa liên tục của các chủ đề. Có ý kiến cho rằng với sự cách tân này, Mendelssohn đã thay đổi hoàn toàn hình thức concerto cổ điển; đồng thời đưa tác phẩm này trở thành bản concerto đầu tiên theo đúng phong cách lãng mạn.

Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, là một nhạc trưởng, Mendelssohn rất ghét việc khán giả vỗ tay khi kết thúc một chương/ đoạn vào thời đó nên ông đã cố tình viết cho dàn nhạc chơi liền mạch để bà con khỏi vỗ tay !!! Cho nên, văn hoá nghe classical không vỗ tay giữa các đoạn/ chương ngày này có lẽ xuất phát từ Mendelssohn :)), chính xác hơn là từ bản Violin concerto huyền thoại này của ông.

Trong buổi công diễn đầu tiên, vì bị ốm nên Mendelssohn không thế chỉ huy dàn nhạc, vai trò nhạc trưởng được trao cho Niels Gade. Trái ngược với sự lo lắng trước đó của Mendelssohn, tác phẩm được đón nhận nồng nhiệt ngay trong lần công diễn đầu tiên, và yêu cầu biểu diễn lần thứ hai ngay sau đó. Khoảng 1 tháng sau buổi biểu diễn lần thứ hai này, theo kế hoạch thì Clara Schumann sẽ biểu diễn bản concerto viết cho piano và dàn nhạc của chồng mình – Robert Schumann tại Dresden. Nhưng thật đáng tiếc, vị bị ốm nên bà đã không thể biểu diễn. Nhạc trưởng của buổi hòa nhạc, Ferdinand Hiller đã thay thế bằng bản concerto cho violin của Mendelssohn. Solist chính là Joseph Joachim – một học trò của David, khi đó mới 15 tuổi. Những tràng pháo tay không ngớt dành cho màn trình diễn tuyệt vời của người nghệ sĩ trẻ chính là một trong những nấc thang đầu tiên đưa ông trở thành một tượng đài vĩ cầm lớn của thế kỷ 19.

Bản concerto của Mendelssohn có ảnh hưởng sâu đậm và truyền cảm hứng cho các thế hệ nhạc sĩ sau đó. Có thể nói, các kỹ thuật, giai điệu, phong cách của tác phẩm này đã trở thành mẫu mực, thường xuyên được các nhạc sĩ khác tiếp thu và phát triển trong các tác phẩm của họ. Thông thường, đỉnh cao của mỗi chương nhạc hầu hết được tạo ra bằng cường độ fortissimo (mạnh mẽ) thì trong bản concerto này, Mendelssohn lại làm cho những khoảnh khắc quan trọng nhất trong tác phẩm của mình trở nên yên tĩnh nhất. Phần solo mở rộng (cadenza) vốn phải xuất hiện ở cuối một chương, nhưng Mendelssohn đã đặt nó ở bước ngoặt cao trào ngay sau phần giữa. Cũng như sau này, nó được phát triển thành cách đặt đoạn cadenza khác thường trong concerto cho violin của Tchaikovsky (ngay trước hồi kết chương 1) hay đoạn cadenza trong concerto của Sibelius cũng được dùng để kéo dài thêm phần phát triển chủ đề chính....

Cũng từ bản concerto huyền thoại này, các nhà soạn nhạc bắt đầu tự sáng tác các đoạn cadenza, các solist không cần phải ứng tấu như các tác phẩm thời kỳ của Mozart - Beethoven nữa. Thêm vào đó, sự nối tiếp chặt chẽ của 3 chương nhạc cũng cho các nhạc sĩ một cách biểu đạt mới, điển hình là bản concerto số 2 cho piano của Franz Liszt....

Điều này dẫn tới việc violon concerto của Mendelssohn là concerto được mượn ý tưởng nhiều nhất xưa nay.

Năm 1906, trong bữa tiệc sinh nhật lần thứ 75 của mình, Joseph Joachim đã nói: “…Người Đức có 4 bản concerto cho violin. Bản concerto oai hùng, mãnh liệt nhất là của Beethoven. Mẫu mực nhất là tác phẩm của Brahms. Quyến rũ, du dương nhất là Bruch. Nhưng sâu sắc nhất, từ sâu thẳm trong tâm hồn, là viên ngọc sáng tỏa ra từ trái tim – là bản concerto của Mendelssohn. ..”

 
Chỉnh sửa cuối:

Bang lang

Xe container
Biển số
OF-22341
Ngày cấp bằng
12/10/08
Số km
5,010
Động cơ
120,091 Mã lực
Sao lại Bằng Kiều thế kia hả cụ? mà sao lại ăn cắp để lấy làm phần dạo nhạc chối thế, chả ăn nhập gì cả
 

Asura

Xe tăng
Biển số
OF-356606
Ngày cấp bằng
5/3/15
Số km
1,287
Động cơ
301,246 Mã lực
Sao lại Bằng Kiều thế kia hả cụ? mà sao lại ăn cắp để lấy làm phần dạo nhạc chối thế, chả ăn nhập gì cả
Mợ ko đọc à ??!! Bản concerto này bị/ được "ăn cắp" ý tưởng nhiều nhất trong lịch sử. Còn đưa Bằng Kiều vào để thấy nhạc công và nhạc sỹ phối khí VN ...tệ thế nào !! Nên đừng bắt em đi nghe nhạc công VN trình tấu các bản concerto kinh điển của thế giới
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top