[Funland] Tư liệu: Tư duy kinh tế 1975-1989

dtrung

Xe điện
Biển số
OF-8577
Ngày cấp bằng
20/8/07
Số km
2,834
Động cơ
582,403 Mã lực
Phải để ý rằng tư tưởng quân sự của Việt nam cũng là du kích, quy mô nhỏ, vận động... Tất cả những điều này, cộng thêm nhân tố quản lý là con người thiếu trình độ ko chỉ về KHKT mà còn cả về quản lý, lại bất hợp tác và không tin tưởng trí thức, nên xã hội càng khó có động lực phát triển.
Các quốc gia đều phát triển nhờ chuyển giao tính kỷ luật quân đội sang kỷ luật công nghiệp, quản lý sản xuất dựa trên tiêu chuẩn và phương thức quản lý của quân đội chuyển giao. ISO9000 là gì nếu không phải là của quân đội tư bản?
Vậy bản chất của quân sự Việt nam là gì? có đáng để thần thánh hóa đến mức vậy không? Một quân đội mà không có nền tảng nghiên cứu, hoặc đơn giản là chuyển giao KHKT để tự sản xuất vũ khí, chỉ cải tiến và tìm hiểu cách thức sử dụng dẫn tới 1 xã hội dân sự cũng không biết nghiên cứu và sản xuất, chỉ giỏi mua bán thành phẩm về lắp ghép, sử dụng. Nhìn OF này thì đủ biết tỷ lệ biết chế ra cái vỏ nhựa Samsung được mấy người, nhưng lướt of, fb, chém gió thì siêu thuần thục.

Vẫn chưa nhận thấy có điểm gì hay trong các đánh giá của ông ĐP. Mới chỉ thấy tổng hợp và tóm tắt các sự kiện. Phải chăng cuốn sách này chỉ tóm tắt sự kiện và phân tích khái quát, không chỉ ra hướng đi tiếp theo?
Em nhặt được cái này trên mạng về GS Đặng Phong

-------

Một điều có thể quả quyết là từ trước tới nay chưa ai đầu tư nhiều thời giờ và cố gắng cho lịch sử kinh tế Việt Nam bằng anh. Người ta nể sức viết của Đặng Phong nhưng ít ai biết rằng để viết ra những công trình đồ sộ đó anh đã phải bỏ ra một thời giờ nhiều lần lớn hơn để sưu tập tài liệu. Một lần anh nói “Thời giờ bỏ ra tìm và đọc tài liệu gấp mười lần thời giờ ngồi viết”.

Nhưng tại sao Đặng Phong lại bỏ thì giờ và công sức sưu tập tài liệu kinh tế như vậy, kể cả những tài liệu không còn một giá trị thời sự nào, và thực ra cũng không hề có một giá trị kinh tế nào ngay khi chúng xuất hiện? Lý do hiển nhiên là nghề nghiệp, Đặng Phong là giáo sư kinh tế, hơn thế nữa còn là trưởng khoa kinh tế, anh cũng làm việc cho Viện Kinh Tế Việt Nam. Nhưng đó không phải là lý do chính. Lý do chính là danh nghĩa “nghiên cứu lịch sử kinh tế” cho phép anh tìm kiếm một cách dễ dàng những tài liệu được giấu giếm một cách cẩn mật và cũng cho phép anh viết và công bố những điều cấm kỵ đối với người khác.

Anh hầu như được tự do, sách của anh chứa đựng những điều không thể tìm thấy nơi khác. Điều mà Đặng Phong thực sự tìm để công bố là lịch sử cận đại. Lịch sử kinh tế chỉ là một lý cớ. Thí dụ, chính anh đã đưa ra một thống kê đầy đủ và chi tiết về đợt Cải Cách Ruộng Đất, trong đó có con số 172.008 nạn nhân. Khi đưa tặng tôi bộ Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam, Đặng Phong nói: “Trước hết phải đọc chương 3, những chương khác bao giờ có thì giờ thì đọc, mà không đọc cũng không sao vì chỉ có tác dụng tăng cường những nhận định mà anh em mình đã có rồi”. Chương 3 chính là chương nói về cuộc Cải Cách Ruộng Đất.

Trong cuốn 5 Đường Mòn Hồ Chí Minh xuất bản gần đây Đặng Phong đã đưa ra một thống kê chi tiết về các nguồn viện trợ khổng lồ của khối XHCN cho Bắc Việt Nam, trong đó có số lượng hơn bốn triệu khẩu súng cá nhân được chuyển từ Bắc vào Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh. Những tài liệu khác trong cuốn sách này cũng cho thấy những phương tiện áp đảo, quân sự cũng như tài chính, của Hà Nội so với Sài Gòn trong những năm cuối cùng. Đặng Phong chỉ viết lịch sử kinh tế như là một phần của lịch sử, để trả lại sự thật cho lịch sử, để chuẩn bị viết lịch sử thực sự.

Những năm gần đây anh còn tìm được một cách đóng góp khác. Không hiểu bằng cách nào anh trở thành rất thân với thủ tướng Võ Văn Kiệt. Anh giải thích: “TT có tiếng nói và muốn nói, mình có những điều cần nói nhưng khó nói và nếu nói được cũng không có tác dụng bằng nếu TT nói. Đó là một hợp đồng”. Ít ai biết rằng những bài viết và nói trong những năm cuối đời của TT Kiệt đều là của Đặng Phong.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Sau giải phóng, nhiều chuyên gia miền Nam đã ở lại. Nhiều người muốn đóng góp vào xây dựng đất nước trong hòa bình.

HỌ là những chuyên gia giỏi, được đào tạo bài bản, có kinh nghiẹm thực tế. Nhiều người trực tiếp điều hành kinh tế miền Nam trước năm 1975.

Sau những hợp tác ban đầu của chính quyền mới, nhiều người trong số họ rất muốn tìm ra gạch nối giữa CNXH và kinh tế thị trường.

Dù nhận ra những thiếu sót của mô hình kinh tế XHCN nhưng họ ko dám nói.

Họ muốn đóng góp vào tìm kiếm hiệu quả tối ưu trong điều kiện vẫn duy trì sự lãnh đạo của Đảng, vẫn là mô hình kinh tế XHCN nhưng có kết hợp với tư nhân, với kinh tế thị trường, kinh tế thế giới.

Đảng và NHà nước rất trân trọng đội ngũ này. Nhiều văn bản yêu cầu các cấp chính quyền tạo điều kiện, ko phân biệt đối xử, để những chuyên gia ấy đóng góp cho đất nước.

Nhưng Văn kiện Đảng cũng đã nhận xét về tình hình thực tế:

"Điều làm cho nhiều trí thức cũ khổ tâm và nghi ngờ là thái độ chèn ép và phân biệt đối xử của một số cán bộ, chẳng những đối với họ, mà còn với gia đình và con cái họ....Nhìn chung, sự đóng góp của trí thức là chưa tương xứng với số lượng và chất lượng chuyên môn của họ....Rõ ràng là chúng ta chưa huy động được hết tài năng trí tuệ và trí thức cũ vào việc xây dựng lại đất nước...."
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Thời đó, những chuyên gia kinh tế chế độ cũ từng đưa ra nhiều ý tưởng:

-Đa phương hóa thị trường quốc tế (Nguyễn Văn Hảo)

-Thừa kế các mối liên hệ quốc tế cũ của miền Nam (Trương Đình DU)

-Cử người đi du học ở các nước ngoài khối XHCN (Nguyễn Anh Tuấn)

Họ đã từng chấp nhận hoàn cảnh thiếu thốn để đưa ra các giải pháp kinh tế. Họ thiếu cả dữ liệu nghiên cứu bởi nhiều con số bị giấu kín...Họ rất khó khăn khi nghiên cứu và đề xuất đường lối.

Một số xin đi làm chuyên gia tư vấn cho các cơ quan, xí nghiệp.

Một số xin xuất cảnh, định cư với gia đình ở nước ngoài.

Một số vượt biên...

Nhưng phần lớn mong một ngày có thể đóng góp....
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
THáng 9/1975, Hội nghị Trung ương 24 ra Nghị quyết, khẳng định áp dụng cải tạo nền kinh tế cả nước theo mô hình miền Bắc: THiên về cải tạo, xóa bỏ những thành phần kinh tế phi XHCN, quản lý kinh tế theo kiểu miền Bắc:

-Phải xóa bỏ tư sản mại bản bằng cách quốc hữu hóa cơ sở kinh tế của hok, biến thành sở hữu toàn dân do NHà nước quản lý.

-Với Tư sản dân tộc, thực hiện cải tạo XHCN bằng hình thức công tư hợp doanh, bắt đầu từ những cơ sở kinh doanh quan trọng.

-Trước mắt cần xây dựng một số HTX thí điểm để rút kinh nghiệm. Ở những nơi chưa có đủ điều kiện để xây dựng HTX thì ra sức phát triển các tổ đổi công, vần công.

-Công cuộc cải tạo XHCN đối với thủ công nghiệp phải ffi theo con đường hợp tác hóa thủ công ghiệp, tiến hành từng bước, tích cực và vững chắc.

-Đối với thương nghiệp nhỏ, cần tích cực cải tạo XHCN bằng cách tổ chức đăng ký kinh doanh, có chính sách thuế và chế độ kiểm kê, kiểm soát, chuyển phần lớn tiếu thương sang sản xuất, lựa chọn để sử dụng một số người làm kinh tiêu (làm mẫu)"...
 
Chỉnh sửa bởi quản trị viên:
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Đến Đại hội 4 (1976), đường lối kinh tế cả nước là:

"Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng văn hóa tư tưởng, trong đó cách mạng KHKT là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ...."
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Quan điểm cơ bản của Đại hội 4 gồm 9 ý sau:

1.Sản xuất lớn XHCN và ba cuộc cách mạng.

2.Làm chủ tập thể.

3.Chế độ kế hoạch hóa tập trung.

4.Kinh tế hiện vật và vai trò của giá trị sử dụng.

5.Hợp tác hóa nông nghiệp.

6.Cải tạo công thương nghiệp.

7.Đưa dân đi xây dựng kinh tế mới.

8.Nhà nước độc quyền quản lý các quan hệ kinh tế đối ngoại.

9.Tỷ giá-Một "Vạn lý trường thành" kinh tế.

Chúng ta sẽ điểm qua từng phần một.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
1.SẢN XUẤT LỚN:

-Cơ sở lý thuyết: Quy mô lớn có thể tạo ra hiệu quả cao.

-Nếu VN xây dựng được nền sản xuất lớn XHCN, sẽ đi lên giầu mạnh, phú cường, có năng suất cao hơn hẳn nề sản xuất tư bản, tư nhân hay cá thể.

-Để có sản xuất lớn, phải cải tạo những thành phần phi XHCN, quy tụ vào 2 thành phần kinh tế cơ bản là Quốc doanh và Tập thể.

-Vậy là phải tiến hành cải tạo tư sản công thương nghiệp, cải tạo nền nông nghiệp cá thể của nông dân.

-Trong công nghiệp và thương nghiệp, quốc doanh sẽ là chủ đạo.

-Trong nông nghiệp thì nông trường quốc doanh và HTX cấp cao là cốt lõi.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
SẢN XUẤT LỚN:

-Ko chỉ sắp xếp các thành phần kinh tế mà phải sắp xếp lại giang sơn. Huyện là cấp cơ bản như những đơn vị kinh tế cơ sở, tức những pháo đài kinh tế. Huyện đã là cơ sở thì tỉnh cũ là quá bé, do đó phải sáp nhập. Hơn 60 tỉnh thành trong cả nước sẽ sấp nhập thành 29 tỉnh, thành phố

Huyện Quỳnh Lưu (Nghệ Tĩnh) xóa bỏ mọi làng xóm cũ cổ truyền, vườn cây ăn trái hàng trăm năm bị đón bỏ, mọi hộ nông dân đwwocj di lên đồi cao để dành đất thổ cư nhập vào ruộng lúa thành những cánh đồng rộng cả ngàn héc-ta cho máy cày hoạt động.

Hà Nội mở rộng phía Tây đến tận Ba Vì để có nơi nuôi bò sữa, cung cấp cho người già và trẻ em. PHía Bắc, các cơ quan hành chính sự nghiệp di dời lên Xuân HÒa (Vĩnh Phúc) theo mô hình thành phố vệ tinh kiểu Moscow.

-Phải tiến hành 3 cuộc cách mạng lớn: CM quan hệ sản xuất, CM Khoa học-Kỹ thuật, CM văn hóa tư tưởng.

CM quan hệ sản xuất là cải tạo các thành phần phi XHCN trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.

CM khoa học kỹ thuật trang bị lại cho các cơ sở sản xuất lớn bằng kỹ thuật hiện đại, cơ giới hóa, hóa học hóa, điện khí hóa đảm bảo cho ác đơn vị sản xuất lớn XHCN đó đạt được năng siaats cao hơn, hiệu quả cao hơn, nhanh chóng đưa nền kinh tế VN đuổi kịp các nước tiên tiến, đưa đời sống nhân dân thoát nghèo nàn, lạc hậu, đạt tới cuộc sống dồi dào, văn minh, văn hóa....
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
2.LÀM CHỦ TẬP THỂ

-Biến mọi người lao động thành người lao động XHCN

Mỗi người dân đều có tinh thần làm chủ tập thể, có tinh thần giác ngộ CNXH, mỗi người lao động vì toàn xã hội, toàn xã hội vì mỗi người.

Vậy là phải cải tạo tư tưởng, đấu tranh chống những thói hư tật xấu trong nếp sinh hoạt của con người.

Làm chủ tập thể sẽ là bước nhảy vọt trên con đường tiến hóa của loài người.

Con người sẽ được "bừng nở toàn thân" để từ đó làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân...
 
Chỉnh sửa bởi quản trị viên:
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Em tiếp ạ

3.CHẾ ĐỘ KẾ HOẠCH HÓA TẬP TRUNG

Để sản xuất lớn XHCN có thể hoạt động tối ưu, tránh tình trạng vô chính phủ, tránh khủng hoảng, tránh lúc thiếu lúc thừa, nơi nhiều nơi ít, đảm bảo công bằng....phải thực hiện chế độ kế hoach hoá tập trung.

Trong chế độ đó, làm gì, bao nhiêu, ai làm, cho ai, giá, lương, định mức, thời hạn...đều phải đc định trước, tránh lãng phí, mà lãng phí là bản chất của TBCN, là bản chất nền kinh tế tư nhân....

Các nước XHCN đều có chế độ này. VN sáng tạo ra mô hình riêng, đó là: **** lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
 
Chỉnh sửa bởi quản trị viên:
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Trên cơ sở tư tưởng đó, Đại hội 4 hoạch định kế hoạch 5 năm 1976-1980 với nhiều kỳ vọng:

-Hàng năm, sản phẩm xã hội tăng từ 14-15%.

-Thu nhập quốc dân tăng 13-14%.

-Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 8-10%.

-Năng suất lao động xã hội tăng 7,5-8%.

-Năm 1980 đạt ít nhất 21 triệu tấn lương thực quy thóc, 1 triệu tấn thịt hơi các loại.

Những chỉ tiêu này được tính toán trên cơ sở những thông tin về kinh tế miền Nam sau ngày giải phóng cũng như khả năng giúp đỡc của các nước anh em; thông tin về khả năng giúp đỡ của các nước phương Tây.

Sau này, Đại hội 6 gọi đây là "chủ quan, duy ý chí".
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
4.KINH TẾ HIỆN VẬT VÀ VAI TRÒ CỦA GIÁ TRỊ SỬ DỤNG

Vào năm 1875, Mác đã đưa ra luận điểm về tính chất lao động trong CNXH, theo đó, ở đây, lao động không còn là hàng hóa để có thể bán mua mà đã là lao động trực tiếp cho xã hội, gọi là lao động trực tiếp.

"Trong một xã hội được tổ chức theo nguyên tắc chủ nghĩa tập trung dân chủ dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất thì những người sản xuất không trao đổi sản phẩm của mình, ở đây, lao động chi phí vào việc sản xuất ra các sản phẩm cũng không biểu hiện thành giá trị của các sản phẩm ấy....Lao động của cá nhân tồn tại không phải bằng một con đường vòng như trước nữa mà là trực tiếp"

"Anh ta nhận của xã hội một cái phiếu chứng nhận rằng anh ta đã cung cấp cho xã hội một số lao động là bao nhiêu đó, và với cái phiếu ấy, anh ta lấy ở kho xã hội ra một lượng vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với lượng lao động như thế".
 

metalins

Xe tăng
Biển số
OF-69519
Ngày cấp bằng
30/7/10
Số km
1,720
Động cơ
445,299 Mã lực
Đến LX còn phạm sai lầm cơ bản về điều hành kinh tế thì trách sao đc VN với mong muốn rập khuôn mô hình đó. Điều may mắn có lẽ là quy mô VN quá bé để sụp đổ so với LX quá đồ sộ để duy trì. Bé mà cứ đòi một bước tới giời, chê mô hình phát triển bền vững của TBCN mà cố lê theo mô hình "bay bay" kiểu LX là suy nghĩ vừa ko thực tế vừa ko thực dụng lại còn bị thụ động trg mọi hoàn cảnh.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
KINH TẾ HIỆN VẬT VÀ VAI TRÒ CỦA GIÁ TRỊ SỬ DỤNG

Dựa trên luận điểm này, Liên Xô đưa ra khái niệm hàng hóa:

"Sản xuất hàng hóa dưới chế độ XHCN bị hạn chế dưới những khuôn khổ nhất định....Sức lao động ko phải là hàng hóa. Ruộng đất, khoáng sản là sở hữu của Nhà nước, không thể thành đối tượng mua bán.

Xí nghiệp quốc doanh ko thể mua bán, mà chỉ có thể chuyển từ một cơ quan Nhà nước này đến một cơ quan Nhà nước kia và như thế, nó ko thể là hàng hóa để có thể mua hay bán được. Tư liệu sản xuất được phân phối cho các xía nghiệp quốc doanh thực tế ko phải là hàng hóa..."

Từ khái niệm hàng hóa như vậy, giới kinh tế học Liên Xô cho rằng:

"Trong nền kinh tế XHCN, lao động ko phải là lao động tư nhân, mà là lao động xã hội trực tiếp...Việc sáng tạo ra giá trị sử dụng có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì mục đích của sản xuất là thỏa mãn đầy đủ nhất nhu cầu ngày càng tăng của xã hội".
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
KINH TẾ HIỆN VẬT VÀ VAI TRÒ CỦA GIÁ TRỊ SỬ DỤNG

Ở VN, vấn đề giá trị và giá trị sử dụng cũng được nhìn nhân theo góc độ đó. Giá trị là một cái gì đó không thể đo lường chính xác, do đó có thể quy ước và sau đó là quy định bởi Nhà nước.

Trong này có 2 thứ quan trọng, đó là giá bán tư liệu sản xuất và giá mua nông sản.

Tất cả những loại giá này ko liên quan đến giá thị trường tự do. Thị trường đứng ngoài hệ thống giá cả của Nhà nước.

Theo phương pháp đó, gần như toàn bộ kế hoạch kinh tế quốc dân là kế hoạch về những cân đối hiện vật: bao nhiêu tấn thóc, bao nhiêu tấn xi măng, bao nhiêu tấn sắt thép, bao nhiêu tấn xăng dầu, bao nhiêu triệu mét vải...

Cũng theo quan niệm đó, đồng tiền trong chế độ XHCN ko hoàn toàn là tiền tệ. Mỗi đồng tiền phải kèm theo bao nhiêu điều kiện mới mua được một hàng hóa tương ứng với nó (chỉ tiêu kế hoạch, lệnh xuất kho, tem phiếu, giấy giới thiệu...).
 
Chỉnh sửa bởi quản trị viên:
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
KINH TẾ HIỆN VẬT VÀ VAI TRÒ CỦA GIÁ TRỊ SỬ DỤNG

Trong tính toán của Nhà nước về sản xuất cũng như tiêu dùng, điều quan trọng nhất là cần cấp bao nhiêu tấn, bao nhiêu mét, laọi sản phẩm gì cho xí nghiệp....rồi xí nghiệp đó lại sản xuất ra bao nhiêu nghìn, triệu sản phẩm.

Đối với tiêu dùng, vấn đề ko phải là lương bao nhiêu mà là bao nhiêu cân gạo, bao nhiêu mét vải, bao nhiêu gam đường, bao nhiêu gam thịt.....
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
KINH TẾ HIỆN VẬT VÀ VAI TRÒ CỦA GIÁ TRỊ SỬ DỤNG

Chính vì quan niệm này nên trong rất nhiều lĩnh vực, những khái niệm như lỗ, lãi, giá, tiền...là một cái gì đấy ko phù hợp với đaoh lý của CNXH.

CNXH là một hệ thống mà trong đó xã hội trực tiếp lo toan cho mọi thành viên của mình bằng những hiện vật cụ thể, theo nhu cầu của họ và tương ứng với trình độ sản xuất.

Thực ra, đây là một ý tưởng cao đẹp: Trẻ con đi học phải có sách giáo khoa, mà sách giáo khoa thì ko đặt vấn đề mua bán. Người bệnh phải có thuốc, mà thuốc thì ko đặt vấn đề đắt hay rẻ.

Mọi người trong xã hội đều có quyền được xã hội lo toan những nhu cầu tối thiểu như cơm ăn, áo mặc, sách vở, thuốc thang...

Tư tưởng kinh tế hiện vật là xuất phát từ tình cảm, lập trường nhân đạo. Nhưng chính từ lập trường đó mà có sự kỳ thị với kinh tế thị trường, với giá trị, với tiền tệ, với lỗ lãi, vì nó đặt ra những thứ quyền ko hợp lý trong xã hội:

KẺ CÓ TIỀN THÌ ĐƯỢC MUA, KO CÓ TIỀN THÌ NHỊN.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
KINH TẾ HIỆN VẬT VÀ VAI TRÒ CỦA GIÁ TRỊ SỬ DỤNG

Tuy nhiên, tình cảm nhân đạo đó sớm muộn cũng vấp phải một thực tế: LỢI ÍCH.

Những người bán sản phẩm ko đc xã hội bù đắp thỏa đáng những chi phí và công lao động của mình. Ngược lại, nó tạo ra thói quen ỷ lại, sống nhờ vào bao cấp.

Hậu quả của tình trạng đó là năng suất lao động giảm sút, hiệu quả kinh tế giảm sút, những lợi ích kinh tế dần xung đột với nhau mà không thể giải quyết bằng cách nào khác là xử lý vấn đề qua giá trị, thị trường
 
Chỉnh sửa bởi quản trị viên:

tromtrau

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-13219
Ngày cấp bằng
16/2/08
Số km
3,626
Động cơ
555,297 Mã lực
Đọc cái tư tưởng Kinh tế hiện vật em lại ước ao ... :))
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top