[Funland] Tĩnh Hải Quân!

Trạng thái
Thớt đang đóng

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
20,421
Động cơ
128,052 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Cac bac cho chau hoi ty Ha Noi dc menh danh la dat cái gì hổ ngồi y ạ sao cháu chẳng thấy có nhân tài nổi bất thế ạ hay bi trấn yểm nên ko có hả các bác
Bác là âm binh của ai đó;))

Đừng trả lời : Âm binh là gì nhá;))

Còn về mệnh đề bác hỏi, tí bia xong em xin biên hầu bác:D
 

XPQ

Xe cút kít
Biển số
OF-25733
Ngày cấp bằng
13/12/08
Số km
15,112
Động cơ
557,318 Mã lực
Nơi ở
Trỏng
Cac bac cho chau hoi ty Ha Noi dc menh danh la dat cái gì hổ ngồi y ạ sao cháu chẳng thấy có nhân tài nổi bất thế ạ hay bi trấn yểm nên ko có hả các bác
Đậy dồng quận đây:





Đây hổ ngồi.
 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
20,421
Động cơ
128,052 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Cac bac cho chau hoi ty Ha Noi dc menh danh la dat cái gì hổ ngồi y ạ sao cháu chẳng thấy có nhân tài nổi bất thế ạ hay bi trấn yểm nên ko có hả các bác
Nào em hầu bác:D

Về món trấn yểm thì em nghĩ là...có và rất có là khác. Em biên kỹ để bác đọc ở dưới nhá;))

Đậy dồng quận đây:





Đây hổ ngồi.
Tuyệt! Cám ơn cụ đã phọt cái hình minh họa cho vài dòng em sắp biên:D

Nhân tiện em kính nhờ cụ [@trauxanh;321342] vào đứng vai chỉnh lý hộ em khi em biên về Địa lý và feng shui nếu sai sót.
 

trauxanh

Xe lăn
Biển số
OF-321342
Ngày cấp bằng
28/5/14
Số km
14,265
Động cơ
427,746 Mã lực
Nào em hầu bác:D

Về món trấn yểm thì em nghĩ là...có và rất có là khác. Em biên kỹ để bác đọc ở dưới nhá;))



Tuyệt! Cám ơn cụ đã phọt cái hình minh họa cho vài dòng em sắp biên:D

Nhân tiện em kính nhờ cụ [@trauxanh;321342] vào đứng vai chỉnh lý hộ em khi em biên về Địa lý và feng shui nếu sai sót.
Để em đi gọi cho ông giáo viên Địa lý dạy em hồi phổ thông về đã nhá. :))
 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
20,421
Động cơ
128,052 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Bác [[[[[[[@lamklhn2;369170] ;369170] hn2;369170] n2;369170] ;369170] ;369170] ;369170] đưa ra mệnh đề khá thú vị:D.

Không hiểu do vô tình hay cố ý mà bác ấy gõ không dấu và dùng địa danh Hà nội ?;))

Thôi, cũng chả quan trọng vì đây cũng là câu hỏi băn khoăn của khá nhiều người khi luôn nghe về độ huỳnh tráng của thủ đô:D

Nào, em bắt đầu biên:D

Cái tên Hà nội chỉ mới có cách đây gần 200 năm do vua Minh Mạng đem gộp vài Phủ, huyện xung quanh với thành Thăng long cũ rồi đặt tên là Hà nội.

Riêng về cái địa danh thì câu hỏi của bác [@lamklhn2;369170] đã tối nghĩa và không chính xác nếu thực sự quan tâm về học thuật và lịch sử:))

Nhưng hôm nai, bia làm em hứng nên biên vài chữ gọi là ...cho xôm thớt.

Ta bắt đầu từ Thăng long (TL) thành nhưng nhắc tới TL thì phải nhắc tới Chiếu dời đô của cụ Lý Công Uẩn.

Em xin trích một đoạn :"...
..đô cũ của Cao Vương ở thành Đại La, ở giữa khu vực trời đất, có thế rồng cuộn hổ ngồi, ở giữa Nam - Bắc – Đông - Tây, tiện hình thế núi sông sau trước, đất rộng mà bằng phẳng, chỗ cao mà sáng sủa, dân cư không khổ về ngập lụt, muôn vật rất thịnh mà phồn vinh, xem khắp nước Việt, chỗ ấy là nơi hơn cả. Thực là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi thượng đô của kinh sư muôn đời...”
Những đặc trưng về vị trí địa lý của Thăng Long:

1.1. Vị trí địa lý

Thành Thăng Long như mô tả của cụTrần Quốc Vượng và Nguyễn Vinh Phúc nằm giữa “tứ giác nước” của 4 con sông: Hồng, Thiên Phù, Tô Lịch và Kim Ngưu, và như vậy có tọa độ :

- 105047’47’’ – 105052’20’’ KĐ ( rộng 04’33’’ theo chiều Tây – Đông )

- 21000’26’’ – 21003’14’’ VB ( rộng 02’48’’ theo chiều Bắc – Nam )

Nếu coi điện Kính Thiên – Núi Nùng là trung tâm của Thăng Long thì tọa độ của thành có thể được rút gọn là :

- 105050’26’’ Kinh Đông (KĐ)

- 21002’30’’ Vĩ Bắc ( VB)

Lãnh thổ Đại Việt hồi đầu triều đại nhà Lý có biên giới phía nam đến hết tỉnh Hà Tĩnh, tại Hoành Sơn, còn biên giới phía bắc cũng tương đương như vùng Hà Giang ngày nay và do đó được giới hạn bởi các vĩ tuyến bắc:

- 17058’ (phía Nam) - 23024’ (phía Bắc);

Và các kinh tuyến đông :

- 102009’ (phía Tây) – 108004’ (phía Đông).

Như vậy, Thăng Long phân bố thiên về phía Bắc của đất nước hồi đó khoảng 21’ VB, và thiên về phía Đông khoảng 43’ kinh Đông.

Em cho f1 ngủ phát, tí em biên:D
 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
20,421
Động cơ
128,052 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Em biên tiếp:D

1.2. Vị trí tương quan với các hệ núi

Núi non trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam thuộc về 3 hệ chính. Đó là hệ núi Việt- Trung, hệ núi Bắc Đông Dương và hệ núi Đông Đông Dương.

- Thuộc về hệ núi Việt- Trung là các khối và dãy núi phân bố ở phía đông bắc của sông Chảy, bao gồm các khối núi cao của vòm Sông Chảy (với các đỉnh Tây Côn Lĩnh- 2419 m, Kiều Liêu Ti – 2402 m), các cao nguyên Đồng Văn- Mèo Vạc, Quản Bạ; cùng bốn dãy núi - cánh cung nổi tiếng: cánh cung Sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc Sơn, và cánh cung Đông Triều.

Trong bình đồ sơn văn chung đó, nổi lên vấn đề về vị trí của dãy Tam Đảo. Đó là một dãy núi đột khởi nổi lên giữa vùng đồng bằng đồi núi thấp, kéo dài thẳng tắp theo phương tây bắc - đông nam, tức là cùng phương với các dãy núi Con Voi và Hoàng Liên Sơn, mà có vẻ như xa lạ với các dãy núi cánh cung ở phía đông.

Vậy Tam Đảo có thuộc về hệ núi Việt - Trung? Dãy Tam Đảo cấu tạo chủ yếu bởi các trầm tích - nguồn núi lửa, gồm cát bột kết, phiến sét chuyển lên ryolit porphyr, đacit và các thấu kính tuf (hệ tầng Khôn Làng, T2a). Các đá tương tự còn gặp ở Tiên Yên và Bình Liêu, tức là ở cánh cung Đông Triều, mà không hề gặp ở phía Tây Bắc Bộ.

Ngoài ra, nếu phân tích kỹ hình thái của cánh cung Đông Triều thì thấy rằng nó đã đổi hường từ ĐB (đầu phía đông), sang á vĩ tuyến (vùng núi Yên Tử) và chếch về TB ở đầu phía tây của dãy (vùng Chí Linh, Quế Võ, Yên Dũng), và như vậy là phù hợp với phương TB- ĐN của dãy Tam Đảo. Do đó, có thể khá tin cậy xếp dãy núi này vào cánh cung Đông Triều, nơi có dải núi thiêng và là di sản địa chất - núi Yên Tử.

Có điều, Tam Đảo dường như bị hệ thống sông Cầu - Thương - Lục Nam xuyên cắt qua và bị tách ra khỏi dãy núi mẹ. Như vậy, Thăng Long nằm về phía ĐN của đỉnh Tam Đảo 1591 m (có bản đồ ghi 1592 m) và ở bên ngoài phần cong lồi của cánh cung Tam Đảo- Đông Triều .


Như vậy, đường thẳng chạy dọc sông Chảy rồi viền quanh bên ngoài của vòng cung Tam Đảo - Đông Triều chính là ranh giới phân chia khu tự nhiên Bắc và Đông Bắc Bộ, với khu Tây Bắc Bộ và cực Bắc Trung Bộ

- Thuộc về hệ núi Bắc Đông Dương là toàn bộ các khối và dãy núi phân bố từ phía tây sông Chảy đến sông Cả (còn bao gồm cả Bắc Lào và Mianma), có thể kể lần lượt: dãy Con Voi (1425 m), dãy Hoàng Liên Sơn (3143 m, tài liệu mới: 3147,3 m), dải núi Pu Si lung (3076 m) và các cao nguyên Tà Phìn - Sin Chải - Sơn La - Mộc Châu đến dãy Tam Điệp, dải núi Pu Đen Đinh (1886 m) - Pu Sam Sao (1898 m) - cao nguyên Hủa Phan (Lào) - khối Phu Hoạt ( 2452 m).

Ở đây cũng lại xuất hiện vấn đề về vị trí của núi Ba Vì, còn gọi là núi Tản Viên (1296 m, có bản đồ ghi 1287 m) trong bình đồ sơn văn chung.

Khu vực này có hệ thống sơn văn phức tạp. Sông Đà chảy đến nam huyện Đà Bắc đã tạo thành một vòng cung nổi tiếng, khi đang có hướng chảy về ĐN đã uốn lệch sang Đ rồi ĐB, và thẳng về B, thậm chí có đoạn chảy về TB, để cuối cùng đổ vào sông Hồng từ hướng N.

Vòng cung sông Đà như ôm lấy toàn bộ phần ĐN của dãy núi Hoàng Liên Sơn tiếp nối liên tục với dãy Ai Lao San bên Trung Quốc và được tạo bởi các đá cổ (PR và PZ1), vốn thuộc về địa khu lục địa tiền Cambri. Còn vùng núi Ba Vì cho đến tận Hà Trung (Thanh Hóa) được các nhà địa chất xếp vào một kiến trúc khác - hệ rift nội lục Sông Đà, cấu tạo chủ yếu bởi các đá phun trào basalt và tuf của chúng, với các đỉnh Ba Vì và Viên Nam (1031 m). Các đỉnh này tạo thành một dải núi có đường chia nước uốn lượn phức tạp và độ cao thay đổi do sự tranh chấp giữa các suối của hệ thống sông Đáy với các suối ở hữu ngạn sông Đà phía bắc thị xã Hòa Bình. Nhưng nhìn chung, dải núi này có phương TB - ĐN, là phương chủ đạo của khu Tây Bắc Bộ. Và, thành Thăng Long nằm ở chính Đông của đỉnh Ba Vì.

* Ở đây có thể phân tích thêm sự khác nhau của hai dãy núi Ba Vì và Tam Đảo, có vị trí gần với Thăng Long nhất. Về mặt địa chất, Ba Vì - Viên Nam tạo bởi đá mang tính bazơ (basalt) còn Tam Đảo - tính acit (ryolit), nên đá Ba Vì nặng hơn, có nguồn gốc nằm sâu hơn trong lòng đất và có màu sẫm hơn. Về hình thái và quy mô, Tam Đảo lại thể hiện rõ nét hơn, cao hơn và lớn hơn Ba Vì, còn về tuổi địa hình thì như nhau. Cả hai dãy núi này đều có cấu tạo sườn không đối xứng và phía sườn thoải đều hướng về sông Hồng: Ba Vì là sườn ĐB, còn Tam Đảo là sườn TN. Mạng lưới suối của Tam Đảo có dạng lông chim - các suối từ sườn núi song song đổ thẳng vào các con sông chảy ngang qua: sông Phó Đáy ở phía TN, và sông Công ở phía ĐB.

Trong khi đó suối của Ba Vì có dạng cành cây, đã tập trung nước lại tạo thành một bồn thu nước, một lưu vực khá lớn, để hình thành một dòng sông thực thụ- sông Con, một trong các chi lưu chính của sông Đáy.

Như vậy, Ba Vì có thể coi là núi - đầu - nguồn. Như trên đã nêu, về mặt phân vùng địa lý tự nhiên, Ba Vì nằm trong cùng một khu địa lý với Thăng Long, trong khi Tam Đảo ở bên ngoài (khác hệ núi).

Có một nhận xét khá thú vị: Việt Trì (vùng Đất Tổ) nằm trên đường thẳng nối đỉnh Ba Vì với đỉnh Tam Đảo; trong khi Cổ Loa nằm trên đường nối Ba Vì với Yên Tử; còn đường thẳng nối Ba Vì với Thăng Long kéo dài về Đông cắt qua thành phố Hạ Long và đỉnh núi Bài Thơ, nơi có di tích bài thơ khắc trên đá của vua Lê Thánh Tông (1468) và bài thơ của chúa Trịnh Cương (1686 - 1730).

Như vậy tam giác Ba Vì - Tam Đảo - Yên Tử có nhiều liên hệ về mặt hình học với Việt Trì - Cổ Loa - Thăng Long .

Chỗ này, về phương diện phong thủy thì em xin nhờ cụ [@trauxanh;321342] vào luận giảu hộ:)

Còn đây là tọa độ các đỉnh:

* Tọa độ của đỉnh Ba Vì ( Tản Viên) : 105022’17’’ KĐ

(1287m - 1296m) 21003’17’’ VB

Đỉnh Tam Đảo : 105033’08’’ KĐ

(1591-1592m) 21034’10’’ VB

Đỉnh Yên Tử : 106042’40’’ KĐ

(1068- 1064m) 21009’28’’ VB

* Cũng có thể xem xét mối tương quan giữa Thăng Long với các dãy núi Con Voi và Hoàng Liên Sơn, đều trải dài theo phương TB-ĐN. Việt Trì và đền Hùng nằm ở phần hạ thấp phía ĐN của dãy Con Voi và được coi như thuộc về dãy núi này. Đất đá của dãy Con Voi theo đường phương tiếp tục chạy về phía ĐN và chìm sâu xuống dưới đồng bằng Hà Nội, nằm sát phía TN của Thăng Long, do đứt gãy sông Hồng và sông Chảy khống chế hai bên sườn của dãy núi này đã đi hơi chếch về NĐN, mà không cắt qua Thăng Long.

Cũng cần nói thêm là dãy Con Voi tạo bởi đá thuộc loại cổ nhất ở Việt Nam (tiền Cambri), đỉnh cao nhất có tên núi Cái, với tọa độ: 104033’41’’ KĐ và 22005’42’’ VB (cao 1425 m, có nơi ghi 1424,6 m).

Dãy Hoàng Liên Sơn, như trên đã nêu, bị sông Đà với khúc uốn tại Hòa Bình chặn lại và bị chìm sâu xuống dưới một cấu trúc trẻ hơn - trũng rift nội lục, mà một thành phần quan trọng của nó là núi Ba Vì. Như vậy Thăng Long không có mối tương quan trực tiếp với Hoàng Liên Sơn.

- Thuộc về hệ núi Đông Đông Dương gồm dãy Trường Sơn, khởi nguồn ở cao nguyên Xiêng Khoảng (Lào), từ TN sông Cả đến bắc sông Đà Rằng, để rồi tíếp đến các cao nguyên và khối núi Nam Trung Bộ. Thăng Long phân bố về phía ĐB của hệ núi này, tuy nhiên không thể hiện mối tương quan trực tiếp.

( em lấy nguồn về thông số, cấu tạo tại tài liệu của Tổng cục Địa chất)
 
Chỉnh sửa cuối:

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
20,421
Động cơ
128,052 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
1.3.Vị trí tương quan với các hệ thống sông

Chúng ta đều biết trong phạm vi Bắc Bộ có hai hệ thống sông chính là sông Hồng và sông Thái Bình, và chúng được nối với nhau bằng hai phân lưu chính của sông Hồng là sông Đuống và sông Luộc.

Ở thời điểm hiện nay chảy qua phía đông của khu vực Thăng Long cổ có nước của sông Thao (tên sông Hồng từ Việt Trì trở lên), sông Đà và sông Lô. Hệ thống sông này có các đặc trưng cơ bản như sau:

- Diện tích lưu vực : 143.700 km2

- Chiều dài dòng chính : 1126 km

- Tổng lượng nước : 127,0 tỷ m3/năm (qua Sơn Tây)

97,1 tỷ m3/năm (qua Chương Dương)

Theo các giá trị về diện tích lưu vực, về tổng lưu lượng nước và tổng lượng bùn cát, sông Đà lớn hơn sông Thao và sông Lô và vì vậy, có thể coi là dòng chính của hệ thống sông Hồng.

Hệ thống sông Thái Bình hợp bởi ba sông Cầu, Thương và Lục Nam, trong đó sông Cầu là dòng chính. Các số liệu tính đến Phả Lại như sau :

- Diện tích lưu vực : 12.680 km2

- Chiều dài dòng chính : 288 km

- Tổng lượng nước : 10,0 tỷ m3/năm

Hệ thống sông Hồng – Thái Bình không phải là bất biến, mà đã thay đổi rất nhiều trong các thời kỳ địa chất cũng như trong lịch sử vài ngàn năm trở lại đây, mà phân tích quá trình đó sẽ làm rõ hơn mối tương quan với thành Thăng Long cổ.


Về vấn đề này, cụ Đào Duy Anh đã có một nghiên cứu địa lý học lịch sử rất chi tiết và đi đến kết luận rằng chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 xảy ra trong điều kiện sông Đuống còn là dòng chính của hệ thống sông Hồng, đã mang lượng nước chủ yếu của hệ thống này về phía đông, đưa vào sông Thái Bình, sông Kinh Thầy, sông Giá và sông Chanh (cửa sông Chanh chính là cửa Bạch Đằng hồi đó).

Đây chính là con đường thủy thuận lợi nhất và cũng là quan trọng nhất từ thương cảng Vân Đồn, vịnh Hạ Long đến kinh đô Thăng Long.

Tiếp sang các thế kỷ sau, cùng với sự tách ra tạo hồ Tây và bồi lấp cửa đầu sông Đuống, dòng chính của hệ thống sông Hồng đã chảy về ĐN như hiện nay và vai trò của cửa Ba Lạt, cửa Đáy ngày càng trở nên quan trọng thay thế cửa Bạch Đằng trong giao thông đường thủy từ ngoài biển nối với Thăng Long - Kẻ Chợ và Phố Hiến.
 

trauxanh

Xe lăn
Biển số
OF-321342
Ngày cấp bằng
28/5/14
Số km
14,265
Động cơ
427,746 Mã lực
Tài liệu của lão pain rất hay, và chính xác.
Khi lão xòe rộng các ngón tay, sẽ thấy các vòng cung địa chất như các ngón tay, và đồng bằng Bắc bộ nằm giữa lòng bàn tay.
Hiện đang thiếu bia, khi có bia đầu óc linh hoạt, sẽ chém tiếp. :))
 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
20,421
Động cơ
128,052 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
...
Hiện đang thiếu bia, khi có bia đầu óc linh hoạt, sẽ chém tiếp. :))
Ơ, em cũng thế . Thảo nào nghĩ nát óc, gõ toét đầu ngón tay mà Ý và Tứ cứ chả đâu vào đâu.

Đa tạ cụ đã chỉ giáo!

Đấy, cao nhân phải thế chứ. Điểm phát lào ra phát ý:D

Em tạm dừng biên, đợi chiều tối nạp vài quại, đêm chém tiếp:))
 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
20,421
Động cơ
128,052 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Em biên tiếp nào:D

2.Vị thế địa tự nhiên

*) Mặc dù được cấu tạo bởi các trầm tích rất trẻ nguồn gốc sông, hồ, đầm lầy, vũng vịnh và có nơi chứa tầng đất yếu (than bùn), Đại La – Thăng Long vốn là một vùng đất cao ráo nhờ có vị trí phân bố ở gần đỉnh của tam giác châu, và đúng như Chiếu dời đô đã viết, dân cư không khổ về ngập lụt. :D

Thật vậy, từ khi định đô đến gần 100 năm sau nhà lý mới phải tiến hành đắp đê Cơ Xá (1108) và hơn 100 năm sau (1121) mới có thông tin về nước to tràn vào bên ngoài cửa thành phía nam .

Tài liệu địa chất cũng đã nói lên điều đó: phía tây Hồ Tây, từ Thụy Phương, Cổ Nhuế cho đến Nghĩa Tân (vốn thuộc ngoại thành) hoàn toàn không tìm thấy bồi tích tuổi trẻ hơn 11 ngàn năm, có nghĩa là nước của hệ thống sông Hồng chưa bao giờ tràn đến nơi đây, kể cả khi còn chưa có đê.

Cắt nghĩa cho hiện tượng lụt lội sau này của vùng Thủ đô có thể dẫn nguyên nhân do con người (xây dựng, đào đắp) và cả nguyên nhân do tự nhiên (nước biển dâng chân tĩnh).

*) Cũng do phân bố ở gần đỉnh của tam giác châu, nơi tập trung dòng chảy của các sông ngòi từ mọi hướng trong lưu vực đổ về, đã mang đến vùng Thủ đô tài nguyên nước vô cùng phong phú và quý giá, cả nước mặt và nước ngầm, đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu phát triển nông nghiệp, đô thị và cho phát triển dân sinh, kinh tế nói chung.

*) Nhờ phân bố ở nơi địa hình bằng phẳng, không quá gần với miền núi và cũng không quá xa với miền biển, nằm trên vĩ tuyến 210 VB, nên Thăng Long cũng như vùng Thủ đô có điều kiện khí hậu tương đối thuận lợi cho đời sống và sản xuất, ít chịu các thiên tai (lũ bùn đá, trượt lở, bão kèm nước dâng…) và các điều kiện cực đoan của khí hậu (như sương muối, rét hại, mưa lớn, gió mạnh) như nhiều vùng khác . Ngoài ra ở đây còn có mùa mưa hợp lý và sự phối hợp thuận lợi giữa mùa nhiệt và mùa khô so với vùng Thanh Hóa - Hà Tĩnh và các vùng khác ở phía Nam.

*) Như một hệ quả tất yếu từ vị trí phân bố, Thăng Long và vùng Thủ đô có một tài nguyên đất màu mỡ của tam giác châu và cùng với điều kiện thuận lợi của khí hậu, địa hình và nguồn nước, với sự phong phú của thế giới sinh vật nhiệt đới, lãnh thổ này đã có được một cảnh quan sinh thái tươi đẹp, là nơi “muôn vật rất thịnh mà phồn vinh” đúng như Chiếu dời đô đã viết.

*) Vị trí địa lý của vùng Thủ đô tất nhiên cũng còn tạo ra một số khó khăn, đòi hỏi con người phải biết cách vượt qua.Với vị trí ranh giới giữa hai vi mảng thạch quyển, Thăng Long và vùng Hà Nội có chế độ động đất vào loại mạnh so với các vùng khác, thuộc cấp 8 (MSK-64), mà có người đã tỏ ý lo ngại cho sự trường tồn của Thăng Long- Hà Nội.

Thật ra, vấn đề thực tế và xác quyết ở đây là nhận thức của con người và cách tiếp cận trong các quy chuẩn xây dựng đô thị;))

Ví du vấn đề lụt lội ngày nay của Hà Nội mà nguyên nhân chính là do con người đương đại tạo ra, sẽ phải được chính con người giải quyết một cách cơ bản , tức chính người HN đã tự phá và trấn phong thủy chính mình:))
 
Chỉnh sửa cuối:

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
20,421
Động cơ
128,052 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Ta cùng xét tiếp về mặt an ninh cuốc phòng với vị thế của TL nào:D

Có thể nói việc dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, thành quả lớn nhất mà đất nước được hưởng là những lợi ích to lớn về chính trị và về quân sự.

*) Thăng Long – trung tâm hành chính thuận lợi nhất cho quản lý lãnh thổ

Thật vậy, Cổ Loa trước đây chỉ thuận lợi cho quản lý các vùng đất chủ yếu nằm về phía bắc tuyến sông Hồng - sông Đuống (Thục An Dương Vương và nước Âu Lạc). Ngô Quyền lên ngôi (năm 939) và đóng đô ở Cổ Loa là muốn hướng về cội nguồn, nhưng các con của ông (Ngô Xương Văn và Ngô Xương Ngập) đã không thể quản lý được phần lãnh thổ phía nam tuyến sông Hồng - sông Đuống, nơi có nhiều thế lực quân sự nổi lên cát cứ, để rồi đã tạo nên thời kỳ loạn 12 sứ quân.

Còn Hoa Lư chỉ là một vùng đất hiểm yếu, chật hẹp, chỉ thuận lợi cho phòng thủ, không thể là một trung tâm hành chính quốc gia. Đóng đô ở Hoa Lư, vua Lê Đại Hành đã phải cho 11 người con đi cai quản trực tiếp khắp các địa phương và đó cũng là mầm mống của họa chém giết nhau để tranh ngôi sau khi ông mất.

Như vậy, chỉ có Thăng Long với vị trí trung tâm đất nước, đất đai bằng phẳng và rộng rãi, là đầu mối các tuyến giao thông thủy bộ mới là nơi thuận lợi nhất cho quản lý đất nước.

*) Thăng Long – nơi có nhiều điều kiện thuận lợi trong bảo vệ đất nước

Trước hết, có thể xem xét mối quan hệ không gian của Đại Việt với hai nước láng giềng kình địch là Chiêm Thành (phía nam) và Bắc Tống (phía bắc). Thủ đô ở Hoa Lư là ở gần biên giới với Chiêm Thành, ngoài ra Hoa Lư còn rất gần với cửa biển Đại An (hồi đó gọi là Đại Ác, nguyên là cửa của sông Độc Bộ, nay là sông Đáy; Đại An ở bên trong cửa Đáy hiện nay 16 km), rất dễ bị tấn công bằng đường biển (khi nghe tin vua Đinh Tiên Hoàng mất, Chiêm Thành với sự xúi dục của Ngô Nhật Khánh đã đem hơn nghìn chiến thuyền đến cửa Đại Ác và Tiểu Khang, nay là cửa Càn, để đánh Hoa Lư, nhưng gặp bão, thuyền đắm, người Chiêm phải rút về) .

Thủ đô ở Cổ Loa là gần với biên giới Bắc Tống, nhưng cái chính là Cổ Loa không có sông lớn bảo vệ ở phía Bắc, như kiểu Thăng Long có sông Hồng. Có thể Cổ Loa của An Dương Vương bị Triệu Đà chiếm được cũng có một phần do ở vị trí bất lợi đó. Như vậy Thăng Long nằm ở vị trí xa nhất có thể để tránh các áp lực quân sự (khi có chiến tranh) từ các đường biên giới với các nước thù địch hồi đó.

Vậy Thăng Long còn có những lợi thế gì trong vị thế địa quân sự ?

- Trước hết, Thăng Long nằm ở trung tâm đầu mối giao thông của đất nước, mà hồi đó quan trọng nhất là giao thông thủy, bởi lẽ các dòng sông chính đều đã hội tụ về Kinh đô này để rồi từ đây chảy lan tỏa ra khắp đồng bằng, trước khi đổ vào Biển Đông.

Từ Thăng Long có thể ngược lên các cửa ải vùng Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lai Châu theo thung lũng các sông phương TB-ĐN hay cánh cung: Thao, Lô, Cầu, Thương và Đà; và cũng có thể bằng đường thủy đi đến khắp các tỉnh của đồng bằng và ven biển, có thể vận chuyển quân đội và lương thực đến tận Nghệ An, Hà Tĩnh và sau này đến tận Thuận Hóa chủ yếu theo đường kênh đào kết hợp với các dòng sông ven biển.

- Thăng Long thông với biển một cách thuận lợi qua nhiều cửa : Bạch Đằng, Thái Bình, Ba Lạt, Đáy, phân bố đều ở ven rìa đồng bằng, với hình kiểu nan quạt và vì vậy Thăng Long không ở gần biển. Là một đảm bảo an toàn cho Kinh đô trước hiểm họa tấn công từ biển. Các kinh đô của Chiêm Thành ở Quảng Nam, Bình Định đều ở vào thế bất lợi do ở gần biển trước các chiến dịch tấn công của Đại Việt.

Ngay như Kinh đô Huế khi Pháp chiếm cửa Thuận An (20/8/1883) là đã bị đe dọa nghiêm trọng và Triều đình đã buộc phải ký ngay Hòa ước Harmand (25/8/1883), công nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn cõi Việt Nam.

- Thăng Long, như trên đã nêu, được sông Hồng - một con sông lớn bao quanh từ Bắc sang Đông, như một chiếc hào thiên nhiên vĩ đại, mà sông Hoàng Giang của Cổ Loa không thể so sánh được.

Chính lợi thế đó làm giảm tốc độ tiến quân của các cuộc xâm lăng từ phương Bắc (thời Lý, Trần) và là cơ sở để lập các tuyến phòng thủ ở phía bắc sông Hồng, hoặc có đủ thời gian chủ động lui quân chiến lược.

- Thăng Long, do ở vị trí trung tâm đất nước, trong chiến tranh vệ quốc đều có thể dựa vào các hậu phương vững chắc, các căn cứ địa an toàn ở nhiều hướng khác nhau, như Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, nhất là Thanh Hóa (nhà Trần, Hồ, Lê).

- Thăng Long ở trung tâm của một đồng bằng màu mỡ, nông nghiệp và thủ công nghiệp phát triển, dân cư đông đúc, là cơ sở hậu cần vững chắc phục vụ chiến tranh.

Tuy nhiên, Thăng Long cũng có hạn chế, có nhiều bất lợi khi bị đánh từ phía nam, nơi không có chướng ngại về địa hình che chở. Điều này thể hiện khá rõ qua các trận chiến thu hồi Thăng Long của các vua nhà Trần, chiếm Thăng Long của Chế Bồng Nga, qua giai đoạn đánh và vây Đông Quan của Lê Lợi, đặc biệt qua ba lần ra đánh Thăng Long của Nguyễn Huệ.

Chính Nguyễn Huệ đã từng nói với các tướng ở Tam Điệp, trước khi tiến đánh quân Thanh: “...Thăng Long lại là nơi bị đánh cả bốn mặt, không có sông núi để nương tựa. Năm trước ta ra đánh đất ấy, chúa Trịnh quả nhiên không thể chống nổi, đó là chứng cớ rõ ràng.."
 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
20,421
Động cơ
128,052 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Rồi, em xin quay sang vấn đề vị trí của Thăng long trong kinh tế:D.

Ngoài việc phát triển nông nghiệp, nét đặc trưng của Thăng Long là nơi quy tụ tất cả các nghề tinh xảo trong cả nước, để lập nên “36 phố phường” ở đất Kẻ Chợ . Theo cụ Trần Quốc Vượng, các cửa ô của Thăng Long cơ bản đều là các cửa nước: Bưởi, Cầu Giấy, Đồng Lầm, Đông Mác; chợ ven đô cũng đều nằm ở các cửa ô đó, là nơi giao lưu kinh tế văn hóa giữa nội thành với ngoại thành và cả châu thổ rộng lớn, đấy đều là các chợ bến - chợ búa .

Từ đó có thể thấy rằng thương nghiệp Thăng Long phát triển chính nhờ nơi đây là đầu mối giao thông thủy bộ của cả Bắc Bộ thời đó. Thăng Long là nơi trung chuyển hàn hóa của miền biển lên miền núi và ngược lại, với hải sản muối mắm đưa lên và gỗ lạt, đồng kẽm chuyển về.

Thăng Long ngay từ thời Lý đã có xu thế hướng biển rõ ràng và từ đó mở đầu cho ngoại thương, bằng tuyến đường thủy thuận tiện: Thăng Long - cửa Bạch Đằng – thương cảng Vân Đồn .

Vân Đồn chính là cảng biển đầu tiên của Việt Nam, nơi giao thương hàng hóa với khu vực Đông Á, Trung Cận Đông và Châu Âu, tồn tại từ triều đại Lý, Trần tới Lê sơ. Đến các thế kỷ sau, Vân Đồn đã được thay thế bởi Phố Hiến (TK 17-18), rồi Hải Phòng (TK19-20), nhưng Thăng Long – Hà nội vẫn là trung tâm.

Vai trò trung tâm kinh tế của Thăng Long - Hà Nội cho đến ngày hôm nay vẫn còn tiếp tục phát triển và ngày càng mở rộng nhưng cũng chính vì cái mở rộng ấy lại quay lại trấn yểm HÀ NỘI;))

Chính vị trí “ trung tâm” về mặt tự nhiên và theo đó là cả trung tâm về mặt xã hội, nơi hội tụ nhân tài và tinh hoa văn hóa của cả nước, đã giúp cho Thăng Long tồn tại và phát triển rực rỡ về: kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục - đào tạo, võ bị, nội ngoại thương, ngoại giao…

Nhưng ....kể từ khi vua Minh mạng ghép vài phủ, huyện xung quanh với Thăng long để cho ra đời tỉnh Hà nội thì cũng là lúc coi như việc phá vỡ long mạch và tự trấn yểm bắt đầu:D

Địa thế Thăng Long đã có những điểm thay đổi mang tính hệ thống.

Trong đó phải kể: Hà Nội ngày nay không còn là trung tâm của cả nước về mặt tọa độ địa lý (nhà Nguyễn đã chọn Huế, ở nơi trung đoạn Bắc-Nam, làm kinh đô từ năm 1802), điều này biến Hà nội trở thành thuần túy là nơi Kẻ Chợ:D

Hệ thống giao thông thủy xuất phát từ Thăng Long đi các địa phương đã suy tàn; hình thái kinh tế thủ công mỹ nghệ, buôn bán cũng đã có nhiều thay đổi; quy mô Thủ đô ngày càng mở rộng, vượt ra khỏi phạm vi Thăng Long xưa;)) kéo theo cực nhiều hệ lụy về đạo đức xã hội, phong cách sống, thái độ về cuộc sống....

Nhiều lợi thế trong bảo vệ Thủ đô nay ít còn tác dụng; Hà Nội ngày nay không còn là một trung tâm kinh tế - văn hóa duy nhất của cả nước như Thăng Long xưa, không còn là nơi “tụ nhân” duy nhất v.v...

Như vậy, em đã gắng biên trả lời cụ @lamklhn2 về câu hỏi và em cho rằng có lẽ fun mà chém thì giờ đất này trở thành nơi " Ngọa tru, tàng chóa" mà tạm dịch là " Trâu đầm, chóa trực" thì đúng hơn=))

Vài lời biên mua vui, mong các cụ chỉ giáo thêm:D
 
Chỉnh sửa cuối:

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,694
Động cơ
356,880 Mã lực
Thớt hay. Nhiều tham khảo tốt.
Mà đ/c Pain cũng biết nhiều chuyện xưa đấy nhỉ :D
 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
20,421
Động cơ
128,052 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Thớt hay. Nhiều tham khảo tốt.
Mà đ/c Pain cũng biết nhiều chuyện xưa đấy nhỉ :D
Cám ơn thủ trưởng đã ngự lãm và ban lời nhận xét!

Em học và noi gương các thủ trưởng thôi ạ:)
 

trauxanh

Xe lăn
Biển số
OF-321342
Ngày cấp bằng
28/5/14
Số km
14,265
Động cơ
427,746 Mã lực
Em biên tiếp nào:D



Cắt nghĩa cho hiện tượng lụt lội sau này của vùng Thủ đô có thể dẫn nguyên nhân do con người (xây dựng, đào đắp)...

Thật ra, vấn đề thực tế và xác quyết ở đây là nhận thức của con người và cách tiếp cận trong các quy chuẩn xây dựng đô thị;))

Ví du vấn đề lụt lội ngày nay của Hà Nội mà nguyên nhân chính là do con người đương đại tạo ra, sẽ phải được chính con người giải quyết một cách cơ bản , tức chính người HN đã tự phá và trấn phong thủy chính mình:))
Phần các vòng cung núi rất hay. Thế nhưng sự liên quan của các vòng cung này đến đồng bằng châu thổ, đến Hà Nội...thì nếu hiểu biết về những khái niệm "Băng hồng" và "Bác hoán" thì lại càng thấy hay và rõ hơn nữa. :D

Còn về vấn đề lụt lội, lão pain đưa ra mấy chữ em quote ở trên, quả thực là có. Cái sự úng thủy hiện nay trong nội đô ngoài việc cốt chuẩn có vấn đề, thi công cải tạo bình địa, tốc độ đô thị hóa...thì cách đây vài chục năm, có một công trình lớn (có thể coi là lớn nhất thời đó) đã phá vỡ hoàn toàn thế phòng thủ nội vùng đối với thủy. Cái này sau này em có xem kỹ trên bản đồ, đo đạc, đi thực tế tận nơi để nhận xét...và ra kết quả là nó đúng với lý luận xưa, rằng như vậy không ngập nước mới là lạ. :D
 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
20,421
Động cơ
128,052 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Phần các vòng cung núi rất hay. Thế nhưng sự liên quan của các vòng cung này đến đồng bằng châu thổ, đến Hà Nội...thì nếu hiểu biết về những khái niệm "Băng hồng" và "Bác hoán" thì lại càng thấy hay và rõ hơn nữa. :D

...
Đấy đấy, cao thủ lên tiếng rồi. Cụ làm rõ đi nào:-)
 

trauxanh

Xe lăn
Biển số
OF-321342
Ngày cấp bằng
28/5/14
Số km
14,265
Động cơ
427,746 Mã lực
Đấy đấy, cao thủ lên tiếng rồi. Cụ làm rõ đi nào:-)
Như cái phần đó lão đã trình bày thì thấy rồi mà.
Băng hồng tức là mạch đi không hề đứt đoạn phía bên dưới, chứ bên trên ta có thể thấy như là hết rồi. Đọc mấy câu thơ này sẽ thấy rõ hơn:

Có mạch qua ao qua sông
Qua đầm qua núi qua đồng qua non.

Còn Bác hoán là nói về hình thế mạch, hình thế núi biến đổi theo ngũ hành. Thực tế trên Tổ sơn khí thế mạnh mẽ (thường có hình Hỏa- nhọn, cao, lởm chởm), nơi đó sát khí quá mạnh, con người rất khó ở, ngay cả du lịch lên những nơi đó cũng chết nhiều. Cái khí đó phải biến đổi đi nhiều lần, cho đến khi nhu nhuyễn, hòa hoãn, khoan thai thì mới dùng được. Lão cứ chiếu xem về đến sát châu thổ này của ta thì hình thế núi non thế nào, sẽ thấy ngay.
 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
20,421
Động cơ
128,052 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Như cái phần đó lão đã trình bày thì thấy rồi mà.
Băng hồng tức là mạch đi không hề đứt đoạn phía bên dưới, chứ bên trên ta có thể thấy như là hết rồi. Đọc mấy câu thơ này sẽ thấy rõ hơn:

Có mạch qua ao qua sông
Qua đầm qua núi qua đồng qua non.

Còn Bác hoán là nói về hình thế mạch, hình thế núi biến đổi theo ngũ hành. Thực tế trên Tổ sơn khí thế mạnh mẽ (thường có hình Hỏa- nhọn, cao, lởm chởm), nơi đó sát khí quá mạnh, con người rất khó ở, ngay cả du lịch lên những nơi đó cũng chết nhiều. Cái khí đó phải biến đổi đi nhiều lần, cho đến khi nhu nhuyễn, hòa hoãn, khoan thai thì mới dùng được. Lão cứ chiếu xem về đến sát châu thổ này của ta thì hình thế núi non thế nào, sẽ thấy ngay.
Anh từ từ làm rõ thêm đi, về bản chất Băng hồng có thể bị tác động bởi ngoại lực không? Ví dụ con người cố tình lấp bồi thay đổi dòng chảy hoặc phá đá nổ mìn núi chẳng hạn? Trên bề mặt thì rõ ràng đã...cạn Khí vậy ở dưới thì sao?

Phần Bác hoán thì rõ ràng như anh comment và em mang máng là phàm những đỉnh lởm chởm và sát khí mạnh thì cây cối cực kỳ cằn cỗi và thấp bé. Rõ ràng yếu tố Thủy ở đây là cực kỳ hiếm.
 
Trạng thái
Thớt đang đóng
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top