[Funland] Tin tức kỹ thuật quân sự quốc tế

ZOV

Xì hơi lốp
Biển số
OF-833100
Ngày cấp bằng
29/4/23
Số km
1,647
Động cơ
5,802 Mã lực
Tuổi
34


 

ZOV

Xì hơi lốp
Biển số
OF-833100
Ngày cấp bằng
29/4/23
Số km
1,647
Động cơ
5,802 Mã lực
Tuổi
34



 

ZOV

Xì hơi lốp
Biển số
OF-833100
Ngày cấp bằng
29/4/23
Số km
1,647
Động cơ
5,802 Mã lực
Tuổi
34



 

ZOV

Xì hơi lốp
Biển số
OF-833100
Ngày cấp bằng
29/4/23
Số km
1,647
Động cơ
5,802 Mã lực
Tuổi
34
Chiến đấu cơ F-16 tham chiến tác động thế nào đến xung đột Nga-Ukraine?
Thu Thủy

Thu Thủy
6 giờ trước

0:00/0:00
0:00

VietTimes – Tổng thống Ukraine hôm 4/8 cho biết các máy bay chiến đấu F-16 do Mỹ sản xuất đã đến Ukraine và các phi công nước này đã bắt đầu lái F-16 thực hiện các nhiệm vụ trong nước.
Tổng thống Zalensky thông báo về sự có mặt của F-16 tại Ukraine (Ảnh: Reuters).
Tổng thống Zalensky thông báo về sự có mặt của F-16 tại Ukraine (Ảnh: Reuters).
F-16 đã thực hiện nhiệm vụ ở Ukraine
"Máy bay chiến đấu F-16 đã xuất hiện ở Ukraine, chúng tôi đã làm được. Tôi tự hào về phi công của chúng tôi, họ đã nắm vững các máy bay chiến đấu này và bắt đầu sử dụng chúng ở trong nước", Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky cho hay.
Ông cám ơn sự viện trợ của các đồng minh, nhưng nói thêm Ukraine cần nhiều hơn nữa. Zelensky thừa nhận Ukraine chưa có đủ phi công để lái tất cả các máy bay F-16 nhưng dự kiến sẽ có thêm phi công trong những tháng tới.
Tổng tư lệnh quân đội Ukraine Oleksandr Syrskyi hoan nghênh sự có mặt của các máy bay F-16 và cảm ơn tổng thống cùng các quan chức khác đã làm việc “24/7” để đảm bảo an toàn cho máy bay. Ông cho biết sự có mặt của chúng (F-16) sẽ cứu được mạng sống của binh lính Ukraine. Ông Syrskyi viết trên mạng xã hội: “Sự xuất hiện của những máy bay chiến đấu này là một cột mốc quan trọng đối với Ukraine”.
Theo Reuters, ông Zelensky đã gặp gỡ các phi công và có bài phát biểu tại một căn cứ không quân được giấu kín. AFP cho biết ít nhất hai chiếc F-16 đã xuất hiện tại hiện trường. Tuy nhiên, ông Zelensky không tiết lộ số lượng cụ thể máy bay F-16 Ukraine đã nhận được và từ chối bình luận về nhiệm vụ cụ thể của chúng.
Ong Zelensky theo doi F-16 bay.jpgTổng thống Zelensky theo dõi các máy bay F-16 bay trình diễn (Ảnh: CNS).
F-16 viện trợ cho Ukraine là máy bay loại cũ được nâng cấp
"Liên minh F-16" quốc tế do các nước NATO lập ra đã cung cấp các máy bay F-16AM/BMBlock 15 dư thừa được nâng cấp trung hạn (MLU) và các vũ khí liên quan cho Ukraine. Hiện tại, các máy bay chiến đấu F-16 của Ukraine đang được một tập đoàn tài chính đa quốc gia châu Âu do Đan Mạch và Hà Lan dẫn đầu mua.
Theo thống kê mới nhất, hiện có khoảng 85 chiếc F-16AM/BM được xác nhận sẽ viện trợ Ukraine. Trong số đó, 24 chiếc chuyển từ Hà Lan, 19 chiếc từ Đan Mạch và 12 chiếc từ Na Uy (Na Uy cũng cung cấp 10 chiếc làm phụ tùng thay thế); Bỉ tuyên bố sẽ cung cấp 30 chiếc. Cũng có ý kiến cho rằng Hy Lạp cũng có thể cung cấp thêm các mẫu F-16C/D Block30.
F-16 son co hieu Ukraine.jpegCác máy bay F-16 đã được sơn cờ hiệu của quân đội Ukraine (Ảnh: Reuters).
Loại nhận được lần này là F-16 của Hà Lan đã trải qua quá trình nâng cấp MLU để bổ sung bộ xử lý mới cho radar AN/APG-66, bộ nhận dạng bạn thù (IFF) cải tiến giúp nâng cao nhận thức tình huống ngoài tầm nhìn (BVR), máy tính nhiệm vụ mô-đun mới và màn hình buồng lái mới cho phép nâng cấp và cập nhật liên tục, bổ sung vũ khí và cảm biến mới, nâng cao khả năng thực hiện nhiệm vụ không đối không và không đối đất của máy bay, cung cấp cho phi công nhận thức tình huống và khả năng nắm bắt mục tiêu tốt hơn.
Máy bay được trang bị tên lửa không đối không tầm trung AIM-120. Vũ khí không đối đất bao gồm bom dẫn đường bằng laser GBU-10, GBU-12 và GBU-24, bom tấn công trực tiếp chung (JDAM) và bom đường kính nhỏ SDB. Lô F-16 này cũng được nâng cấp liên kết dữ liệu, GPS và kính nhìn ban đêm. Hiệu suất của nó gần tương đương với F-16 Block 50/52 của Không quân Mỹ.
Ukraine nhan duoc lo F-16 dau tien.pngTheo kế hoạch Ukraine sẽ nhận được khoảng 85 chiếc F-16 loại cũ đã nâng cấp.
Các phi công Ukraine được tới Đan Mạch để tham gia chương trình huấn luyện nâng cao vận hành máy bay chiến đấu F-16 do liên minh nói trên tổ chức. Chương trình đào tạo bắt đầu tháng 8/2023 và có sự tham gia của 16 phi công Ukraine, những người này đã được học tiếng Anh chuyên ngành hàng không ở Anh với sự hỗ trợ của Lực lượng Không quân Hoàng gia (RAF).
Sau khi hoàn thành khóa huấn luyện ngôn ngữ và bay cơ bản ở Anh, các phi công đã tới Đan Mạch để tham gia khóa huấn luyện dành riêng cho F-16, bao gồm các bài học toàn diện về hoạt động của máy bay chiến đấu F-16. Trong vài tháng qua, các phi công và nhân viên mặt đất Ukraine đã hoàn thành khóa huấn luyện.
Theo Washington Post, chỉ có 6 phi công Ukraine đủ tiêu chuẩn lái F-16, điều này đã làm giảm số lần xuất kích mà F-16 có thể bay mỗi ngày. 9 tháng huấn luyện mà các phi công Ukraine trải qua giống như một khóa học cấp tốc, trong khi các phi công phương Tây thường phải trải qua 3 năm đào tạo, nghĩa là khả năng của họ sẽ bị hạn chế.
F-16 cũng cần một số lượng lớn nhân sự hỗ trợ, như kỹ sư bảo trì, nhân viên nạp bom đạn, chuyên gia phân tích thông tin và người ứng cứu khẩn cấp…Ukraine cũng phải thiết lập mạng lưới radar, nhà chứa máy bay kiên cố, hệ thống cung cấp phụ tùng và tiếp nhiên liệu. Các sân bay tốt cũng rất cần thiết vì cửa hút gió của F-16 nằm gần mặt đường băng và có nguy cơ các mảnh vụn, bụi bị hút vào động cơ.
Một câu hỏi khác là loại vũ khí nào sẽ được tích hợp trên F-16 của Ukraine và mất bao lâu để chúng thực sự tham gia chiến đấu. Máy bay chiến đấu F-16C của Không quân Mỹ được trang bị tên lửa AIM-120, AIM-9L/M/X Sidewinder, tên lửa AGM-88HARM, JDAM và tên lửa dẫn đường JDAM-ER. Vì vậy, chúng đều có khả năng xuất hiện trên các máy bay F-16 của Ukraine. Ưu điểm là do chúng đều đã trải qua quá trình nâng cấp MLU nên dễ dàng tích hợp vũ khí của NATO và có tầm bắn xa hơn. Máy bay cảnh báo sớm của NATO có khả năng nhận biết tình huống tốt hơn hẳn so với máy bay Liên Xô cũ, và sẽ có nhiều lợi thế hơn khi đột kích.
Anh huong cua F-16 khong lon.pngGiới quan sát cho rằng F-16 sẽ ảnh hưởng không lớn đến cục diện chiến trường.
F-16 tác động ra sao đến cục diện chiến trường?
Người Ukraine hy vọng F-16 có thể giúp Không quân Ukraine chống lại ưu thế vượt trội về số lượng và công nghệ của quân đội Nga trong cuộc xung đột, cũng như chống lại các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái và tên lửa của Nga vào cơ sở hạ tầng quan trọng của Ukraine. Nhưng điều này sẽ mất thời gian.
Chỉ cần đảm bảo có đủ F-16 để duy trì các cuộc tuần tra chiến đấu trên không có ý nghĩa, thì cũng cần phải có thêm số lượng máy bay nhiều hơn. Dù sao, Không quân Nga vẫn có ưu thế đáng kể về khả năng không kích, còn có tên lửa không đối không tầm xa; các máy bay chiến đấu Ukraine rất khó đối kháng được với các máy bay Nga tiên tiến hơn ở độ cao lớn, và hệ thống phòng không tổng hợp của quân đội Nga cũng mạnh. Ngoài ra, vì F-16 không thể bay cao nên tầm bắn bị giảm đáng kể.
Một công ty Nga đã treo thưởng lớn cho việc bắn hạ chiến đấu cơ F-16 của Ukraine nên Nga sẽ đưa một số lượng lớn máy bay chiến đấu và các lực lượng khác truy lùng và tiêu diệt, không loại trừ họ tung Su-57 vào cuộc.
Để bảo vệ những máy bay này khỏi các cuộc tấn công tiềm tàng, Ukraine phải thiết lập căn cứ ở phía Tây đất nước, cách xa khu vực xung đột đang diễn ra ở phía Đông, nên F-16 yêu cầu phải bay 2.000 km khi thực hiện nhiệm vụ và quay về.
Do Ukraine thiếu khả năng tiếp nhiên liệu trên không nên việc thiết lập các căn cứ tiếp nhiên liệu ở hậu phương phía đông để hỗ trợ các hoạt động lâu dài trở nên quan trọng. Sau khi xác định mục tiêu tấn công, Không quân Ukraine trước tiên triển khai lực lượng hậu cần tại một sân bay tiền tuyến gần đó, sau đó các máy bay F-16 bay ở độ cao cực thấp rồi hạ cánh xuống sân bay tiền tuyến cách mặt trận khoảng 500 km để tiếp nhiên liệu và nạp bom, thường trong vòng chưa đầy 10 phút, nhằm duy trì hiệu quả tấn công.
F-16 cũng phải bay ở độ cao thấp để giảm thiểu sự phát hiện của radar phòng không, do đó làm gia tăng mức tiêu hao nhiên liệu, cuối cùng thực hiện cú leo cao bất ngờ để thả bom, hoặc đánh chặn tiêm kích Nga, rồi nhanh chóng lao đi và quay trở lại sân bay phía sau.
F-16 Ukraine co the phai su dung san bay lang gieng.pngF-16 của Ukraine có thể vẫn phải sử dụng sân bay các nước láng giềng.
Mặc dù số lượng phi công và nhân viên hỗ trợ được huấn luyện cho F-16 tiếp tục tăng, một số máy bay vẫn cần được sử dụng để huấn luyện bên ngoài Ukraine, và nhiều máy bay sẽ đóng vai trò dự bị chiến lược và ở chế độ chờ ở các đồng minh châu Âu. Vì vậy, các máy bay F-16 tham gia tác chiến cũng có thể được luân chuyển ra khỏi Ukraine và được bảo dưỡng nghiêm ngặt hơn ở nước ngoài.
Ngay cả khi Ukraine có được một phi đội lớn hơn, chính sách tương tự có thể vẫn được duy trì và một số máy bay F-16 có thể bay từ các căn cứ bên ngoài Ukraine, hạ cánh xuống sân bay tiền tuyến của Ukraine, nơi nó được nhanh chóng treo bom và tiếp nhiên liệu; sau đó bay ở độ cao thấp tới mặt trận để hoàn thành nhiệm vụ tấn công, sau đó quay về căn cứ ở bên ngoài Ukraine.
Tuy nhiên, điều này liên quan đến thái độ của Nga. Nga nhiều lần tuyên bố sẽ tấn công F-16 nếu chúng thực hiện nhiệm vụ chiến đấu từ các căn cứ bên ngoài Ukraine.
Nhìn vào hiện tại, cho dù toàn bộ máy bay F-16 đều được giao thì cũng khó có thể tạo ra thay đổi lớn về tình hình trên chiến trường Nga-Ukraine, nhưng chắc chắn sẽ gây ra một số vấn đề.
 

ZOV

Xì hơi lốp
Biển số
OF-833100
Ngày cấp bằng
29/4/23
Số km
1,647
Động cơ
5,802 Mã lực
Tuổi
34
Thủ lĩnh Hamas Ismail Haniyeh đã bị ám sát như thế nào?
Thu Thủy

Thu Thủy
02/08/2024 9:42

0:00/0:00
0:00

VietTimes – Vụ tấn công và cái chết của thủ lĩnh Hamas Ismail Haniyeh gây chấn động Trung Đông. Ai đã ra tay và thứ vũ khí gì đã sát hại ông Haniyeh cùng người vệ sĩ trong ngôi nhà được bảo vệ cẩn mật?
Thủ lĩnh Hamas Haniyeh và ngôi nhà nơi ông bị sát hại (Ảnh: Singtao).
Thủ lĩnh Hamas Haniyeh và ngôi nhà nơi ông bị sát hại (Ảnh: Singtao).
Ông Haniyeh đã bị sát hại bằng tên lửa chống tăng?
Một bài báo trên trang web i24NEWS của Israel ngày 31/7, giờ địa phương, tiết lộ rằng vụ tấn công xảy ra vào khoảng 2h00 sáng ngày hôm đó. Một tên lửa chống tăng "Spike" do Israel sản xuất đã được phóng từ gần nơi ở của ông Haniya và bắn trúng phòng ngủ của ông.
Truyền thông Iran cho rằng các vệ sĩ của ông Haniyeh đã làm rò rỉ thông tin quan trọng dẫn đến việc ông bị mưu sát. Cả Hamas và Iran đều cho rằng Mỹ đã hỗ trợ cho cuộc tập kích này, nhưng phía Mỹ cho biết họ "không hay biết gì".
Can phong noi ong Haiyeh o.jpgTên lửa bắn trúng căn phòng của ông Haniyeh ở tầng 4 ngôi nhà (Ảnh: Singtao).
Có thông tin tiết lộ rằng ông Haniya đã thiệt mạng do một quả tên lửa Spike "trực tiếp" bắn trúng, đồng thời cửa ra vào, cửa sổ và tường của căn phòng nơi Haniya ở đều bị phá hủy.
Hãng Sky News của Anh dẫn nguồn tin của Iran nói rằng đây là một cuộc tấn công chính xác. Theo báo cáo, ông Ziad al-Nakhala, Tổng thư ký của Tổ chức Thánh chiến Hồi giáo Palestine (Jihad), ở cùng tòa nhà với ông Haniyeh vào thời điểm xảy ra vụ việc, nhưng ông Nakhala không bị thương và cuộc tập kích dường như nhắm mục tiêu chính xác tới ông Haniyeh ở một tầng khác.
Spike.jpgMột hệ thống tên lửa Spike (Ảnh: Wiki).
Đài truyền hình Al Arabiya của Saudi dẫn lời truyền thông Iran cho biết ông Haniyeh ở trong một khu nhà được thiết lập đặc biệt dành cho các cựu chiến binh ở Tehran, Iran vào thời điểm xảy ra vụ việc và tên lửa đã bắn thẳng vào vị trí của ông Haniyeh.
Sau vụ việc ông Haniyeh bị sát hại, một bức ảnh chụp một tòa nhà bị hư hại đã được lan truyền trên mạng xã hội Telegram. Theo giới thiệu đây được cho là nơi ông Haniyeh tử nạn. Một quan chức giấu tên của Iran đã xác nhận với truyền thông rằng đây chính là địa điểm ông Haniya bị tập kích.
Trong ảnh chụp, một góc của tòa nhà dường như đã bị hư hại nghiêm trọng, được che phủ bởi nhiều tấm rèm chắn mưa màu xanh lá cây, và vẫn có thể nhìn thấy đống đổ nát trên sân thượng của tầng một. Tờ New York Times đã tiến hành khớp bức ảnh với hình ảnh vệ tinh và xác nhận rằng tòa nhà này nằm gần Cung điện Sadr Abad ở phía bắc Tehran. Nhiều sự kiện đối ngoại của Iran đều được tổ chức tại cung điện này.
Cau tao dan Spike.jpgCấu tạo của đạn tên lửa Spike (Ảnh: Wiki).
Mặc dù nhiều bên, trong đó có Hamas và Iran, cáo buộc Israel đứng sau vụ tập kích nhưng phía Israel không xác nhận cũng không phủ nhận điều này. Ông Amir Saeid Iravani, đại sứ Iran tại Liên Hợp Quốc, khi phát biểu tại Hội đồng Bảo an LHQ, ngoài việc cáo buộc Israel là hung thủ, ông còn cáo buộc Mỹ có liên đới, nói: “Đối với những tội ác khủng khiếp mà chế độ Israel đồng minh chiến lược và người ủng hộ chính của họ ở Trung Đông đã gây ra, Mỹ không thể chối bỏ trách nhiệm”.
Tuy nhiên, Ngoại trưởng Mỹ Blinken cho biết trong một cuộc phỏng vấn với Channel News Asia rằng Mỹ "không biết trước và không liên quan đến sự kiện này". Ông Blinken cho biết lệnh ngừng bắn và để con tin trở về nhà là rất quan trọng và Mỹ sẽ tiếp tục nỗ lực thực hiện mục tiêu đó. “Điều quan trọng nhất là hy vọng rằng sự việc có thể đi theo con đường tốt hơn để thực hiện hòa bình lâu dài hơn và an ninh lâu dài hơn”, ông nói.
Dan chung Iran dot co My va Israel.jpgDân chúng Iran biểu tình sau khi ông Haniyeh bị ám sát đốt cờ Mỹ và Israel (Ảnh: AP).
Uy lực của tên lửa chống tăng Spike
Tên lửa chống tăng Rafael Spike là một series tên lửa được Công ty Rafael của Israel hợp tác với Deere Defense (một phần của Rheinmetall Defense Electronics) và Bharat Dynamics Ltd. nghiên cứu phát triển. Đây là vũ khí chống tăng dẫn đường bằng tia hồng ngoại thế hệ thứ tư được trang bị đầu đạn chống tăng cỡ 170mm có sức sát thương mạnh.
Spike là tên lửa kiểu “bắn và quên”, có thể khóa mục tiêu trước khi phóng và tự động tự dẫn đường sau khi phóng. Tên lửa được trang bị đầu dò hồng ngoại hình ảnh.
Be phong va dan.jpgBệ phóng và đạn tên lửa Spike (Ảnh: Wiki).
Ngoài việc được sử dụng để tấn công và tiêu diệt các mục tiêu trong tầm ngắm của bệ phóng theo phương thức “bắn và quên”, một số biến thể tên lửa còn có thể đạt được hiệu quả tấn công đỉnh cao thông qua phương thức dẫn đường “phóng, quan sát và cập nhật”.
Tên lửa được phóng và leo lên độ cao, người điều khiển có thể theo dõi mục tiêu bằng quang học thông qua các dây cáp quang kéo dài (hoặc liên kết RF trong trường hợp các biến thể NLOS tầm xa. Cấu hình bay của tên lửa này khi thiết lập quỹ đạo tương tự như tên lửa FGM-148 Javelin do Mỹ sản xuất).
Tên lửa cũng có khả năng “phóng mềm” - tên lửa chỉ điểm hỏa động cơ sau khi đã rời khỏi bệ phóng - cho phép Spike được phóng từ không gian chật hẹp (chẳng hạn như các tòa nhà), điều này cần thiết trong chiến tranh đô thị: không tạo ra dấu hiệu phóng lớn khiến vị trí của người bắn tên lửa Spike có nguy cơ bị đối phương phản công. Có ý kiến cho rằng vụ tập kích ông Haniyeh đã được thực hiện theo cách này.
Mot loai dan Spike.jpgĐạn tên lửa loại Spike-ER (Ảnh: Wiki).
Tên lửa Spike có thể được xạ thủ thao tác điều khiển từ bệ phóng hoặc có thể được gắn trên giá súng của phương tiện như xe tấn công nhanh, xe bọc thép chở quân hoặc xe đa dụng. Bằng cách này, những phương tiện thường không được trang bị vũ khí chống tăng cũng có thể có khả năng chống tăng.
Tên lửa Spike cũng đã được thử nghiệm để sử dụng như một hệ thống vũ khí của máy bay không người lái SAGEM Sparrow. Nó cũng đã được lắp đặt trên trực thăng đa năng UH-60 "Black Hawk", UH-60M "War Hawk" và cả trên tàu mặt nước hạng nhẹ.
Tên lửa Spike có nhiều phiên bản: Spike-SR, Spike-MR, Spike –LR, Spike-LRII, Spike-ER, Spike-NLOS tầm xa, Spikemini APGW. Theo tính toán, mỗi quả tên lửa Spike có giá 100.000 USD, đã có hơn 27.000 quả đã được xuất xưởng. Tùy theo phiên bản, đạn nặng từ 8kg (Spike-ER) đến 70kg (Spike-NLOS).
Hiện nay, ngoài Israel, quân đội nhiều nước khác cũng đã mua và đưa Spike vào trang bị, bao gồm: Australia, Azerbaijan, Bỉ, Chile, Colombia, Croatia, Séc, Ecuador, Phần Lan, Đức, Italy, Latvia, Litva, Hà Lan, Peru, Philippines , Ba Lan, Bồ Đào Nha, Romania, Singapore, Slovakia, Tây Ban Nha, Hàn Quốc, Anh và Ukraine.
 

ZOV

Xì hơi lốp
Biển số
OF-833100
Ngày cấp bằng
29/4/23
Số km
1,647
Động cơ
5,802 Mã lực
Tuổi
34


 

ZOV

Xì hơi lốp
Biển số
OF-833100
Ngày cấp bằng
29/4/23
Số km
1,647
Động cơ
5,802 Mã lực
Tuổi
34


 

ZOV

Xì hơi lốp
Biển số
OF-833100
Ngày cấp bằng
29/4/23
Số km
1,647
Động cơ
5,802 Mã lực
Tuổi
34


 

ZOV

Xì hơi lốp
Biển số
OF-833100
Ngày cấp bằng
29/4/23
Số km
1,647
Động cơ
5,802 Mã lực
Tuổi
34

 

ZOV

Xì hơi lốp
Biển số
OF-833100
Ngày cấp bằng
29/4/23
Số km
1,647
Động cơ
5,802 Mã lực
Tuổi
34



 

ZOV

Xì hơi lốp
Biển số
OF-833100
Ngày cấp bằng
29/4/23
Số km
1,647
Động cơ
5,802 Mã lực
Tuổi
34

 

ZOV

Xì hơi lốp
Biển số
OF-833100
Ngày cấp bằng
29/4/23
Số km
1,647
Động cơ
5,802 Mã lực
Tuổi
34



 

ZOV

Xì hơi lốp
Biển số
OF-833100
Ngày cấp bằng
29/4/23
Số km
1,647
Động cơ
5,802 Mã lực
Tuổi
34


 

ZOV

Xì hơi lốp
Biển số
OF-833100
Ngày cấp bằng
29/4/23
Số km
1,647
Động cơ
5,802 Mã lực
Tuổi
34

ZOV

Xì hơi lốp
Biển số
OF-833100
Ngày cấp bằng
29/4/23
Số km
1,647
Động cơ
5,802 Mã lực
Tuổi
34



 

ZOV

Xì hơi lốp
Biển số
OF-833100
Ngày cấp bằng
29/4/23
Số km
1,647
Động cơ
5,802 Mã lực
Tuổi
34
Chi phí chương trình F-35 tăng lên 2 nghìn tỷ đô la: Lầu Năm Góc dự kiến 74 năm hoạt động
Bắc Mỹ, Tây Âu và Châu Đại Dương, Máy bay và Phòng không
Ban biên tập tạp chí Military Watch
Ngày 4 tháng 8 năm 2024

Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ F-35B

Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ F-35B

Một đánh giá mới do Văn phòng Trách nhiệm Giải trình của Chính phủ Hoa Kỳ công bố đã xác nhận rằng chi phí của chương trình máy bay chiến đấu F-35 đối với Bộ Tài chính Hoa Kỳ trong suốt vòng đời của nó sẽ vượt quá 2 nghìn tỷ đô la. Mặc dù chi phí mua tất cả các máy bay do Không quân, Hải quân và Thủy quân Lục chiến lên kế hoạch vẫn chỉ là 445 tỷ đô la, nhưng chi phí hoạt động của phi đội trong suốt vòng đời của nó đã tăng lên khoảng 1,6 nghìn tỷ đô la. Đây là kết quả của sự kết hợp của nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là nhu cầu bảo dưỡng cao của máy bay chiến đấu và chi phí cho mỗi giờ bay, ban đầu được dự định là tương đương với máy bay tiền nhiệm thời Chiến tranh Lạnh là F-16. Những chi phí duy trì này đã trở thành một vấn đề đủ lớn khiến các quan chức Lầu Năm Góc liên tục chỉ ra rằng nó đã khiến quy mô phi đội ban đầu được lên kế hoạch trở nên quá đắt đỏ. Trong số các biện pháp tốn kém khác, nó đã buộc Lầu Năm Góc phải đầu tư hàng tỷ đô la để phát triển phiên bản mới của động cơ F135 của máy bay vì nếu không, việc làm mát không đủ trên phiên bản hiện tại dự kiến sẽ làm tăng thêm hơn 38 tỷ đô la chi phí hoạt động .

Máy bay chiến đấu thế hệ thứ năm F-35A của Không quân Hoa Kỳ

Máy bay chiến đấu thế hệ thứ năm F-35A của Không quân Hoa Kỳ

Một yếu tố bổ sung trong việc tăng chi phí chương trình là Lầu Năm Góc đã hoãn ngày nghỉ hưu theo kế hoạch của F-35 đến năm 2088, nghĩa là họ sẽ vận hành F-35 trong 74 năm. Máy bay trình diễn công nghệ đầu tiên của máy bay chiến đấu này đã bay lần đầu tiên vào năm 2000. Một thời gian phục vụ dài như vậy sẽ không phải là chưa từng có, với F-15 Eagle, hiện là máy bay chiến đấu lâu đời nhất thế giới vẫn đang được sản xuất, đã bay lần đầu tiên vào năm 1972 và đi vào hoạt động cách đây 49 năm vào năm 1975. Với việc Không quân Hoa Kỳ vẫn đang mua những chiếc F-15 mới chế tạo , loại máy bay này dự kiến sẽ tiếp tục phục vụ trong gần 90 năm. Trong khi một yếu tố chính trong tuổi thọ của F-15 là sự thất bại của chương trình F-22 trong việc tạo ra một máy bay kế nhiệm khả thi, với nhu cầu bảo trì và chi phí vận hành quá mức và phạm vi hoạt động rất kém là một trong những yếu tố này, đối với F-35, không có bất kỳ máy bay kế nhiệm nào được lên kế hoạch. Máy bay chiến đấu này dự kiến cuối cùng sẽ được thay thế bằng máy bay phản lực tàng hình không người lái, khiến nó có khả năng trở thành chương trình máy bay chiến đấu có người lái cuối cùng của Mỹ tùy thuộc vào tương lai không chắc chắn của chương trình NGAD thế hệ thứ sáu hiện đang được theo đuổi. Tuy nhiên, với tuổi thọ chỉ 8000 giờ cho mỗi khung máy bay, so với 20.000 giờ của F-15 mới, tất cả các máy bay F-35 đã được sản xuất sẽ được cho nghỉ hưu trước những năm 2080 rất lâu, với ngày nghỉ hưu dự kiến là năm 2088 cho thấy Lầu Năm Góc sẽ tiếp tục mua sắm trong nhiều thập kỷ tới.
 

ZOV

Xì hơi lốp
Biển số
OF-833100
Ngày cấp bằng
29/4/23
Số km
1,647
Động cơ
5,802 Mã lực
Tuổi
34
ATACMS làm được điều mà tên lửa Storm Shadow không làm được — Đánh chìm tàu ngầm lớp Kilo của Nga: Bộ Quốc phòng Anh
Qua
Ashish Dangwal
-
Ngày 7 tháng 8 năm 2024


Chia sẻ

Facebook


Twitter


WhatsApp


ReddIt


Cuộc tấn công gần đây của Ukraine vào Crimea đã chứng minh tác động quyết định của tên lửa ATACMS do Hoa Kỳ cung cấp, hoàn thành được điều mà tên lửa Storm Shadow do Anh cung cấp không thể làm được: đánh chìm tàu ngầm lớp Kilo của Hạm đội Biển Đen của Nga.
Trong bản đánh giá mới nhất công bố ngày 7 tháng 7, Cơ quan Tình báo Quốc phòng Anh đã phân tích cuộc tấn công gần đây của Ukraine vào Crimea, có khả năng dẫn đến việc đánh chìm tàu Rostov-on-Don của Nga.
Cuộc tấn công đó đánh dấu cuộc tấn công thành công thứ hai vào tàu ngầm của lực lượng Ukraine. Rostov-on-Don lần đầu tiên bị nhắm mục tiêu vào tháng 9 năm 2023 khi lực lượng Ukraine được cho là đã sử dụng tên lửa tầm xa Storm Shadow phóng từ trên không.
Những tên lửa này đã gây ra thiệt hại đáng kể cho tàu ngầm, khiến nó "bị hư hỏng không thể sửa chữa được". Vào thời điểm đó, các nhà phân tích quân sự suy đoán rằng thiệt hại đủ lớn để đảm bảo tàu ngầm bị loại bỏ, với bất kỳ nỗ lực sửa chữa tiềm năng nào được dự đoán sẽ mất nhiều năm.


Trái ngược với những dự đoán này, chiếc tàu ngầm có giá khoảng 300 triệu đô la này được cho là đã được quân đội Nga sửa chữa và thậm chí thử nghiệm tại cảng Sevastopol.


Tuy nhiên, cuộc tấn công mới nhất sử dụng tên lửa ATACMS do Hoa Kỳ cung cấp, có thể tỏ ra hiệu quả hơn Storm Shadow. Theo Cơ quan Tình báo Quốc phòng Anh, cuộc tấn công gần đây này đã khiến tàu ngầm bị đánh chìm.
Quân đội Ukraine tuyên bố rằng tàu ngầm đã bị tấn công khi đang đồn trú tại cảng Sevastopol trên Bán đảo Crimea. Hoạt động này cũng dẫn đến việc phá hủy một số hệ thống tên lửa phòng không S-400.



Cơ quan Tình báo Quốc phòng Anh lưu ý rằng mặc dù tàu ngầm bị hư hại nghiêm trọng do cuộc tấn công trước đó, nhưng có khả năng nó chưa được sửa chữa hoàn toàn. Cuộc tấn công mới nhất được mô tả là "chương cuối cùng cho tàu ngầm", với việc tân trang được coi là quá tốn kém so với việc đóng một tàu mới.
Việc đánh chìm tàu Rostov-on-Don là một chiến thắng đáng chú ý cho lực lượng Ukraine và là động lực tinh thần đáng kể. Tuy nhiên, tình báo Anh cho rằng diễn biến này khó có thể ảnh hưởng đáng kể đến khả năng tấn công tầm xa của Nga từ Biển Đen.
tàu ngầm Nga
Hình ảnh tập tin: Tàu ngầm Nga bị phá hủy
Thay vào đó, cuộc tấn công nhấn mạnh những rủi ro ngày càng tăng đối với lực lượng Nga ở Crimea và có thể buộc Nga phải xem xét lại mọi kế hoạch tái triển khai lực lượng hải quân đáng kể đến khu vực này.
Tàu ngầm Rostov-on-Don, được đưa vào hoạt động năm 2014, là một trong bốn tàu ngầm lớp KILO thuộc Hạm đội Biển Đen và được trang bị tên lửa hành trình tấn công mặt đất Kalibr, loại tên lửa được sử dụng rộng rãi để chống lại các mục tiêu ở Ukraine.
ATACMS tốt hơn Storm Shadow?
ATACMS (Hệ thống tên lửa chiến thuật của quân đội) và Storm Shadow là hai hệ thống tên lửa tiên tiến có vai trò và khả năng hoạt động khác nhau. Được phát triển lần lượt bởi Lockheed Martin và MBDA, chúng đã trở nên quan trọng trong các chiến lược quân sự của Kyiv chống lại Nga.

ATACMS, một hệ thống tên lửa đất đối đất, được Lockheed Martin phát triển và triển khai lần đầu tiên vào đầu những năm 1990. Nó được phóng từ các bệ phóng trên mặt đất như Hệ thống tên lửa phóng loạt M270 (MLRS) và Hệ thống tên lửa pháo binh cơ động cao (HIMARS). Được thiết kế cho các cuộc tấn công chính xác tầm xa, ATACMS có thể nhắm mục tiêu vào nhiều tài sản trên mặt nước với độ chính xác đáng chú ý.

Ngược lại, Storm Shadow, do MBDA phát triển, là tên lửa hành trình phóng từ trên không. Đi vào hoạt động vào đầu những năm 2000, nó được thiết kế để triển khai từ máy bay và nhắm vào các tài sản có giá trị cao, được bảo vệ sâu trong lãnh thổ của đối phương. Nó tự hào có khả năng tầm xa và hệ thống dẫn đường tiên tiến và tập trung vào việc xâm nhập các vị trí kiên cố.
Không giống như ATACMS được phóng từ mặt đất và có thể cơ động trong khi bay, Storm Shadow là tên lửa không đối đất.
Fabian Hoffmann, nghiên cứu viên tiến sĩ tại Đại học Oslo, Na Uy, chỉ ra rằng ATACMS nhanh hơn đáng kể, có thể tiếp cận mục tiêu cách xa tới 250 km (155 dặm) trong khoảng năm phút.
ATACMS
Một ATACMS được phóng từ một chiếc M270 (Wikipedia)
Để so sánh, Storm Shadow và đối tác của nó, SCALP, cần khoảng 15 phút để vượt qua một khoảng cách tương tự. Tốc độ này rất quan trọng để tấn công các mục tiêu nhạy cảm về thời gian, khiến ATACMS đặc biệt có lợi thế trong các tình huống chiến đấu năng động.
Tác động chiến lược của ATACMS được nêu bật thêm trong bài viết của Zuzanna Gwadera và Timothy Wright trên Military Balance Blog, do Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (IISS) xuất bản .
Các tác giả lập luận rằng ATACMS cung cấp một lựa chọn tốt hơn cho Ukraine so với Storm Shadow. Phân tích của họ chỉ ra các cuộc tấn công thành công của Ukraine vào các tài sản quân sự của Nga ở Crimea, bao gồm việc phá hủy hai máy bay MiG-31, đánh chìm tàu hộ tống tên lửa Tsiklon và xóa sổ phà Kerch.
Những thành công này có được là nhờ ATACMS tầm bắn mở rộng, có thể tấn công mục tiêu cách xa tới 300 km và được trang bị đầu đạn chùm hoặc đầu đạn đơn.
 

ZOV

Xì hơi lốp
Biển số
OF-833100
Ngày cấp bằng
29/4/23
Số km
1,647
Động cơ
5,802 Mã lực
Tuổi
34
Mối đe dọa hạt nhân! Khi tàu ngầm hạt nhân Nga đe dọa đánh chìm tàu sân bay Mỹ ở sân sau của Ấn Độ
Qua
Ritu Sharma
-
Ngày 7 tháng 8 năm 2024


Chia sẻ

Facebook


Twitter


WhatsApp


ReddIt


Năm 1971, Ấn Độ và Pakistan đã tiến hành cuộc chiến tranh thứ ba. Nhưng Hoa Kỳ và Liên Xô cũ đã gần như trao đổi đòn hạt nhân ở Vịnh Bengal để ủng hộ các đồng minh của họ.
Hoa Kỳ đã huy động một phần hạm đội thứ bảy của mình với mục đích chính là hỗ trợ Pakistan.
Tuy nhiên, các ghi chép lịch sử sau đó chỉ ra rằng đó là một kế hoạch chiến tranh lạnh "rắc rối" do Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Cố vấn An ninh Quốc gia (NSA) Henry Kissinger dàn dựng, đe dọa gây chiến với quốc gia đông dân thứ hai trên Trái đất vào thời điểm đó - Ấn Độ, để ve vãn quốc gia đông dân nhất - Trung Quốc. Nước Nga Xô Viết đã đến giúp đồng minh của mình, Ấn Độ.
Để đánh chặn Lực lượng Đặc nhiệm 74 của Hoa Kỳ đang tiến về Vịnh Bengal, Liên Xô đã triển khai hạm đội gồm 20 tàu chiến cùng một tàu ngầm hạt nhân theo dõi tàu sân bay USS Enterprise của Hoa Kỳ.


Người ta đều biết rằng Nixon và Kissinger không hề mất đi tình cảm dành cho Thủ tướng Ấn Độ lúc bấy giờ là Indira Gandhi. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã giải mật các băng ghi âm cuộc trò chuyện của họ.
Trong một cuộc trò chuyện diễn ra ngay trước cuộc chiến tranh Ấn Độ-Pakistan, Nixon gọi bà là "mụ phù thủy già" trong khi Kissinger gọi bà là 'con đĩ'. Tuy nhiên, sau khi các băng ghi âm được công bố, Kissinger đã bày tỏ sự hối tiếc về những bình luận của mình.
Vào tháng 7 năm 1971, Kissinger đã thực hiện một chuyến đi bí mật đến Bắc Kinh khi ông giả vờ bị bệnh trong một cuộc họp ở Pakistan. Sau đó, ông đã bí mật bay đến Bắc Kinh để tham gia các cuộc đàm phán chưa từng có dẫn đến chuyến thăm mang tính đột phá của Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon vào năm sau.
Khi Tổng thống Pakistan Yahya Khan tiến gần đến thất bại chắc chắn, Hoa Kỳ cần phải làm một số động thái đe dọa thay mặt cho Islamabad để duy trì uy tín với người bạn mới của họ là Trung Quốc. Nixon thậm chí còn yêu cầu Trung Quốc chuyển quân đến biên giới Ấn Độ, điều này tạo ra viễn cảnh Nga sẽ tiến vào để chống lại Bắc Kinh. Hoa Kỳ thậm chí còn cân nhắc "ném vũ khí hạt nhân" vào Liên Xô nếu Liên Xô trả đũa bằng cách gây chiến với Trung Quốc.


Kissinger đảm bảo rằng nếu Trung Quốc “coi tình hình ở tiểu lục địa Ấn Độ là mối đe dọa đối với an ninh của mình và nếu họ thực hiện các biện pháp để bảo vệ an ninh của mình, thì Hoa Kỳ sẽ phản đối những nỗ lực can thiệp vào Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa của các nước khác”.

Bắc Kinh, vẫn đang chao đảo vì bất ổn do Cách mạng Văn hóa gây ra, không muốn tiến hành một cuộc chiến tranh khác với Ấn Độ. Hoa Kỳ, một đồng minh mạnh mẽ của Pakistan vào thời điểm đó, đã cố gắng lách lệnh cấm vận vũ khí bằng cách thuyết phục các nước Hồi giáo gửi vũ khí đến Islamabad.
Chiến tranh Ấn Độ Trung Quốc Pakistan
Hình ảnh đại diện
Để mắt đến Trò chơi lớn của Hoa Kỳ ở Nam Á, Thủ tướng Indira Gandhi đã ký Hiệp ước Hòa bình, Hữu nghị và Hợp tác với Liên Xô. Hiệp ước là một động thái chiến lược của Ấn Độ nhằm đảm bảo sự hỗ trợ của Liên Xô trong giai đoạn xung đột khu vực và các động thái chính trị căng thẳng.
Lực lượng đặc nhiệm 74 lên đường đến Vịnh Bengal
Ấn Độ buộc phải hành động sau làn sóng di cư ồ ạt từ Đông Pakistan (Bangladesh), và chiến tranh nổ ra ở tiểu lục địa Ấn Độ vào ngày 4 tháng 12 năm 1971.
Chính quyền Nixon đã thử mọi công cụ trong sách ngoại giao của họ để buộc Ấn Độ phải tuyên bố ngừng bắn. Kissinger đã cảnh báo phái viên Nga tại Washington vào đầu ngày 1 tháng 12: ''Ấn Độ phải bị buộc phải chấp nhận ngừng bắn vào ngày mai.'' Nếu không làm như vậy, Hoa Kỳ sẽ thực hiện các hành động quân sự cần thiết.

Vào ngày 8 tháng 12 năm 1971, Hạm đội 7 của Hoa Kỳ nhận được lệnh điều động Lực lượng Đặc nhiệm 74 đến Vịnh Bengal.

Hạm đội 7 của Hải quân Hoa Kỳ là lực lượng hải quân quan trọng nhất bên ngoài lục địa. Đây là một phần của Hạm đội Thái Bình Dương của Hải quân Hoa Kỳ. Hạm đội này đã chứng kiến nhiều cuộc chiến tranh trong lịch sử Hoa Kỳ và bao gồm 60 đến 70 tàu chiến và 200 đến 300 máy bay.
Nhóm tác chiến tiến về Vịnh Bengal do tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân USS Enterprise dẫn đầu, cùng với chín tàu khác, bao gồm cả một tàu ngầm tấn công hạt nhân.
USS Enterprise khởi hành từ Vịnh Bắc Bộ, nơi nó được triển khai trong Chiến tranh Việt Nam, vào ngày 10 tháng 12 và đến Vịnh Bengal vào ngày 15 tháng 12.
Hoa Kỳ tuyên bố rằng lực lượng này đã được lệnh thực hiện các nhiệm vụ chính trị và nhân đạo. Vào thời điểm đó, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết họ sẽ sơ tán 182 người Mỹ ở Dacca, nếu cần, bằng "đường biển hoặc đường hàng không", mặc dù họ từ chối công khai liên kết hoạt động sơ tán như vậy với hoạt động hải quân.
Đối với Ấn Độ, động thái này có nghĩa là 90 máy bay chiến đấu và máy bay ném bom thuộc Hạm đội 7 có thể hỗ trợ Quân đội Pakistan ở miền Đông Pakistan.

Tờ New York Times gọi đây là "biểu dương lực lượng" của Hoa Kỳ nhằm mang lại lợi ích cho cả Ấn Độ và Liên Xô. Các quan chức Hoa Kỳ đã bày tỏ mối lo ngại sau cánh cửa đóng kín rằng Ấn Độ có thể hành động chống lại Tây Pakistan, đây là một trong những lý do cho động thái hải quân này.
Có vẻ như Hoa Kỳ đã sẵn sàng sử dụng vũ lực trực tiếp để hỗ trợ đồng minh Pakistan của mình. Liên Xô đã hành động nhanh chóng và triển khai một tàu khu trục, một tàu tuần tra mìn bổ sung và một tàu ngầm đến Ấn Độ Dương. Hạm đội Liên Xô đã được chỉ thị giữ các tàu chiến của Hoa Kỳ tránh xa Vịnh Bengal.
Sau khi Lực lượng đặc nhiệm 74 tiến về Vịnh Bengal vào ngày 10 tháng 12, Liên Xô tuyên bố vào ngày 13 tháng 12 rằng họ sẽ điều động thêm một lực lượng đặc nhiệm chống tàu sân bay để đánh chặn hạm đội 7. Lực lượng đặc nhiệm chống tàu sân bay sẽ bao gồm một tàu khu trục, một tàu ngầm tên lửa dẫn đường hạt nhân và một tàu tuần dương chiến đấu được trang bị tên lửa mang bom hạt nhân.
Vào ngày 15 tháng 12, khi các tàu chiến Hoa Kỳ tiến đến Vịnh Bengal, 20 tàu chiến Liên Xô đã có mặt ở Ấn Độ Dương, buộc Hải quân Hoa Kỳ phải ở lại. Theo các báo cáo của phương tiện truyền thông Hoa Kỳ vào thời điểm đó, Liên Xô có 12 đến 15 tàu - một số trong số đó là tàu khảo sát thời tiết và thủy văn - và 10 tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân ở Ấn Độ Dương.
Theo thời gian, tình hình trở nên rõ ràng. Khi Chiến tranh Ấn Độ-Pakistan nổ ra vào ngày 3 tháng 12 năm 1971, cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều có lực lượng hải quân bình thường ở Ấn Độ Dương. Cuộc chiến đã dẫn đến mức lực lượng kỷ lục cho cả hai cường quốc—14 tàu chiến và tàu phụ trợ cho Hoa Kỳ và 26 tàu cho Liên Xô. Ngoài ra, Hạm đội Viễn Đông của Anh có ít nhất 17 tàu chiến và tàu phụ trợ trong khu vực.

Nỗi sợ lớn nhất của Moscow là sự quốc tế hóa cuộc khủng hoảng. Trong tuyên bố của TASS ngày 5 tháng 12, tất cả các chính phủ được kêu gọi “kiềm chế các bước đi biểu thị sự tham gia của họ vào cuộc xung đột theo cách này hay cách khác”.
Một báo cáo ngày 15 tháng 12 của tờ New York Times cho biết Trung tướng AAK Niazi, chỉ huy quân đội Pakistan ở miền Đông, đã yêu cầu lãnh sự quán Hoa Kỳ chuyển tiếp đề xuất ngừng bắn tới Ấn Độ.
Ấn Độ đã xoay xở để đảm bảo sự đầu hàng từ Quân đội Pakistan vào ngày 16 tháng 12, khiến các tàu chiến Hoa Kỳ không còn đồng minh nào để bảo vệ. Vào ngày 18 tháng 12, 'Lực lượng đặc nhiệm 74' đã được chuyển từ Vịnh Bengal đến Ấn Độ Dương. Ở đó, hạm đội đã tồn tại cho đến tháng 1 năm 1972. Lực lượng đặc nhiệm 74 đã được điều động lại để tham gia Chiến tranh Việt Nam vào ngày 7 tháng 1.
Chính quyền Nixon chưa bao giờ công khai giải thích về sự hiện diện của hạm đội ở Ấn Độ Dương. Tuy nhiên, các bức điện tín bí mật của Lầu Năm Góc do nhà báo chuyên mục Jack Anderson công bố cho thấy lực lượng tàu sân bay có ít nhất ba mục tiêu: khả năng sơ tán người Mỹ, trưng cờ do sự hiện diện của lực lượng hải quân Liên Xô trong khu vực và ngăn chặn Ấn Độ khỏi bất kỳ ý định mở rộng chiến tranh sang Tây Pakistan sau khi Đông Pakistan sụp đổ.
 

ZOV

Xì hơi lốp
Biển số
OF-833100
Ngày cấp bằng
29/4/23
Số km
1,647
Động cơ
5,802 Mã lực
Tuổi
34
Xung đột Iran-Israel: Liên minh quân sự Iran-Triều Tiên đang gây căng thẳng, đe dọa một cuộc chiến tranh toàn diện
Qua
Shubhangi Palve
-
Ngày 7 tháng 8 năm 2024


Chia sẻ

Facebook


Twitter


WhatsApp


ReddIt


Triều Tiên và Iran, cả hai đều bị Hoa Kỳ coi là 'Quốc gia tài trợ khủng bố', gần đây đã trở thành tiêu điểm chú ý do tham vọng hạt nhân và mối quan hệ song phương ngày càng chặt chẽ.
Bắc Triều Tiên và Iran, cả hai đều bị cựu Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush xếp vào “Trục ma quỷ”, tiếp tục là tâm điểm chú ý của quốc tế do quan hệ song phương và tham vọng hạt nhân ngày càng tăng cường.
Ngày nay, một từ duy nhất thống trị diễn ngôn trong giới quân sự và chính trị của cả Iran và Triều Tiên: 'Hạt nhân'. Việc theo đuổi năng lực hạt nhân của họ đã trở thành chủ đề chính trong các cuộc tranh luận về an ninh toàn cầu, gây ra báo động
Bệ phóng tên lửa có khả năng mang đầu đạn hạt nhân của Bắc Triều Tiên
Trong một động thái leo thang quân sự đáng kể, nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un đã tuyên bố triển khai 250 "bệ phóng tên lửa đạn đạo chiến thuật" mới dọc biên giới với Hàn Quốc. Thông tin này được đưa tin bởi Hãng thông tấn trung ương Triều Tiên (KCNA) của nhà nước Triều Tiên.


Những bệ phóng này được cho là xe phóng di động (TEL) cho tên lửa đạn đạo tầm ngắn Hwasong-11D (SRBM). Kim trước đây đã tuyên bố những tên lửa này có thể được trang bị đầu đạn hạt nhân. Mỗi TEL có thể mang bốn tên lửa, có khả năng đặt tới 1.000 tên lửa có khả năng hạt nhân trước cửa nhà Hàn Quốc.
Kim cảnh báo rằng "đây chỉ là giai đoạn đầu tiên trong kế hoạch xây dựng lực lượng tên lửa tiền tuyến" và hứa sẽ "cho toàn thế giới thấy góc nhìn chân thực về các bản cập nhật thế hệ cho thiết bị quân sự mới hàng năm". Ông khẳng định rằng những bản cập nhật như vậy có "tác dụng răn đe đặc biệt" đối với các quốc gia thù địch.
Động thái này làm gia tăng đáng kể căng thẳng trong khu vực và làm dấy lên lo ngại về khả năng xảy ra xung đột trên Bán đảo Triều Tiên.
Tham vọng hạt nhân của Iran
Những diễn biến gần đây cho thấy Iran có thể tiến gần đến khả năng sở hữu vũ khí hạt nhân hơn so với suy nghĩ trước đây.



Vào ngày 11 tháng 5, nhà lập pháp Iran Ahmad Bakhshayesh Ardestani tuyên bố rằng Iran đã đạt được năng lực vũ khí hạt nhân, mặc dù điều này chưa được xác nhận chính thức.
Ardestani tuyên bố, “Theo tôi, chúng tôi đã đạt được vũ khí hạt nhân, nhưng chúng tôi không công bố điều đó”, đồng thời nói thêm rằng chính sách của Iran là sở hữu bom hạt nhân trong khi vẫn duy trì lập trường công khai phù hợp với JCPOA, hãng tin Rouydad 24 có trụ sở tại Iran đưa tin.
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken đã lên tiếng báo động vào ngày 19 tháng 7, tuyên bố rằng thời gian đột phá về hạt nhân của Iran — khoảng thời gian cần thiết để sản xuất đủ vật liệu cấp vũ khí cho một vũ khí hạt nhân — hiện có thể chỉ còn "một đến hai tuần".
Giám đốc Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) Rafael Grossi báo cáo rằng Iran có đủ uranium để sản xuất "một số" quả bom hạt nhân.
Chính quyền Biden đã cảnh báo riêng với Iran về các hoạt động nghiên cứu và phát triển có khả năng dẫn đến sản xuất vũ khí hạt nhân, theo báo cáo của Axios. Tình báo Hoa Kỳ và Israel tiết lộ sự tham gia của các nhà khoa học Iran vào mô hình máy tính và nghiên cứu luyện kim có liên quan đến phát triển vũ khí hạt nhân.

Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Lindsey Graham, trích dẫn một báo cáo của Giám đốc Tình báo Quốc gia, gần đây tuyên bố rằng Iran dường như "đang trên bờ vực trở thành một quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân". Những diễn biến này đã làm gia tăng mối lo ngại của quốc tế về chương trình hạt nhân của Iran và tác động tiềm tàng của nó đối với an ninh khu vực và toàn cầu.
Quan hệ đối tác chiến lược giữa Iran và Bắc Triều Tiên
Iran và Bắc Triều Tiên, cả hai đều là đối thủ của các cường quốc phương Tây và các đồng minh khu vực của họ, đã phát triển quan hệ đối tác chiến lược trong nhiều thập kỷ. Liên minh này nhằm mục đích chống lại các lệnh trừng phạt và nỗ lực kiềm chế do Hoa Kỳ dẫn đầu.
Sự hợp tác này bắt nguồn từ Chiến tranh Iran-Iraq (1980-88) khi Triều Tiên cung cấp vũ khí thông thường cho Iran, bất chấp các chính sách của phương Tây. Sự hỗ trợ ban đầu này đã phát triển thành quan hệ đối tác mạnh mẽ vào những năm 1990, tập trung vào phát triển tên lửa đạn đạo tiên tiến.
Cả hai quốc gia đều bị Hoa Kỳ chỉ định là quốc gia tài trợ cho khủng bố trong thời gian dài. Trong khi Bắc Triều Tiên tạm thời được xóa khỏi danh sách này (2008-2017), Iran vẫn nằm trong danh sách này kể từ năm 1984.
Quan hệ đối tác đã mang lại những chuyển giao công nghệ quân sự đáng kể. Năm 2006, Lực lượng Vệ binh Cách mạng Hồi giáo Iran đã xác nhận việc mua tên lửa Scud-B và Scud-C từ Triều Tiên trong Chiến tranh Iran-Iraq. Một báo cáo năm 2019 của Cơ quan Tình báo Quốc phòng Hoa Kỳ tiết lộ rằng tên lửa đạn đạo Shahab-3 của Iran dựa trên thiết kế Rodong của Triều Tiên.
Các báo cáo gần đây cũng cho thấy tên lửa đạn đạo tầm trung Emad của Iran, được sử dụng trong cuộc tấn công vào Israel vào tháng 4 năm 2024, được cho là bắt nguồn từ tên lửa Shahab-3, loại tên lửa mà Iran bắt đầu sử dụng vào năm 2003.
Sự hợp tác đang diễn ra trong công nghệ tên lửa này nhấn mạnh bản chất lâu dài của quan hệ đối tác giữa hai nước và tác động của nó đến động lực an ninh khu vực.
Liên minh CRINK
Trung Quốc, Nga, Iran và Bắc Triều Tiên (CRINK) đã tăng cường liên kết của họ trong những năm gần đây, một phần là để đáp lại áp lực của Hoa Kỳ và các sự kiện toàn cầu như cuộc xâm lược Ukraine của Nga. Liên minh này tìm cách thách thức sự thống trị của Hoa Kỳ và phương Tây trong an ninh, chính trị và kinh tế toàn cầu.
Iran được cho là đã hỗ trợ các hoạt động quân sự của Nga tại Ukraine bằng máy bay không người lái vũ trang, có khả năng là một loạt tên lửa đạn đạo và các loại vũ khí khác. Triều Tiên bị cáo buộc cung cấp đạn dược cho cuộc xung đột.
Năm 2022, Nga đã tìm kiếm máy bay không người lái tinh vi do Iran thiết kế, bao gồm dòng Shahed và Mohajer – được sử dụng để nhắm vào cơ sở hạ tầng dân sự và quân sự của Ukraine. Trung Quốc và Nga cũng đã tạo điều kiện cho Iran tham gia vào các quan hệ đối tác đa phương nhằm thách thức sự thống trị của phương Tây trong các hệ thống chính trị và tài chính toàn cầu.
Bắc Triều Tiên gần đây đã nối lại quan hệ ngoại giao với Iran sau năm năm gián đoạn. Từ ngày 24-25 tháng 4, Yun Jong Ho, Bộ trưởng Bộ Kinh tế Đối ngoại của Bắc Triều Tiên, đã dẫn đầu phái đoàn đến Iran sau chuyến thăm gần đây của ông tới Nga. Mặc dù chính thức tập trung vào hợp tác kinh tế, động thái này đã làm dấy lên lo ngại về các cuộc thảo luận quân sự tiềm tàng.
Cả hai nước đều bày tỏ sự ủng hộ đối với Hamas trong cuộc xung đột với Israel. Bắc Triều Tiên ủng hộ sự nghiệp của người Palestine và phản đối hành động của Israel chống lại Hamas ở Gaza. Truyền thông nhà nước Bắc Triều Tiên đã cáo buộc Israel "khủng bố" chống lại Iran sau cuộc tấn công của Hamas vào ngày 7 tháng 10 năm 2023.
Vào tháng 12, Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF) báo cáo tìm thấy vũ khí của Triều Tiên ở Gaza, củng cố đánh giá của Cơ quan Tình báo Quốc gia Hàn Quốc (NIS) rằng vũ khí của Triều Tiên đã được Hamas sử dụng.
Các quan chức Israel và các quan chức khác cho rằng những vũ khí này có thể đã được chuyển giao từ nhiều năm trước chứ không phải để phản ứng trực tiếp với các cuộc xung đột gần đây. NIS cũng đang điều tra xem liệu công nghệ vũ khí của Triều Tiên có được sử dụng trong tên lửa đạn đạo của Iran phóng vào Israel vào ngày 14 tháng 4 năm 2024 hay không.
Tình báo Hoa Kỳ từ lâu đã cho rằng Iran có thể đang phát triển khả năng tên lửa tầm xa. Tuy nhiên, cho đến nay, Tehran đã giới hạn tầm bắn tên lửa của mình ở mức 2.000 km, bao phủ khu vực nhưng không đe dọa trực tiếp đến Tây Âu.
Hiện tại, mối quan tâm lớn nhất của Hoa Kỳ là khả năng Iran có thể tìm cách mua ICBM Hwasong-15 của Triều Tiên. Khả năng Iran mua công nghệ ICBM của Triều Tiên có thể là một phần trong chiến lược gây sức ép lên Israel từ nhiều mặt trận.
Tên lửa đạn đạo liên lục địa Hwasong-15 của Triều Tiên
Hình ảnh minh họa: Tên lửa đạn đạo xuyên lục địa Hwasong-15 của Triều Tiên
Sự hợp tác mở rộng này giữa Iran và Triều Tiên có thể tác động đáng kể đến sự ổn định khu vực và động lực địa chính trị. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Matthew Miller tuyên bố rằng Hoa Kỳ "vô cùng quan ngại" về sự hợp tác quân sự ngày càng tăng giữa Triều Tiên và Iran.
Đối với Bắc Triều Tiên, mối quan hệ chặt chẽ hơn với Iran có thể cung cấp quyền tiếp cận các nguồn công nghệ quân sự và hợp tác kinh tế bổ sung, mang lại nguồn ngoại tệ rất cần thiết. Tuy nhiên, trong nước, việc Bắc Triều Tiên tập trung vào các ngành công nghiệp nặng, mặc dù không hiệu quả, có thể dẫn đến mức sống của người dân thường ngày càng tệ hơn nhưng có thể đóng vai trò là chiến lược bền vững cho chế độ này trong bối cảnh căng thẳng toàn cầu gia tăng.
Khả năng phổ biến công nghệ hạt nhân và tên lửa tiên tiến giữa các quốc gia này làm dấy lên mối lo ngại đáng kể về an ninh toàn cầu.
Domino hạt nhân
Khi Triều Tiên mở rộng kho vũ khí tên lửa có khả năng mang vũ khí hạt nhân và Iran có khả năng tiến gần hơn đến khả năng vũ khí hạt nhân, nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân và mất ổn định khu vực ngày càng gia tăng.
Sự hỗ trợ lẫn nhau thông qua chia sẻ công nghệ, hợp tác kinh tế và liên minh ngoại giao đã tăng cường sức đề kháng của họ trước áp lực và lệnh trừng phạt quốc tế.
Liên minh CRINK đang phát triển đặt ra thách thức đáng kể đối với lợi ích của Hoa Kỳ và trật tự toàn cầu đã được thiết lập. Hoa Kỳ và các đồng minh phải đối mặt với nhiệm vụ phức tạp trong việc giải quyết mối đe dọa đang phát triển này.
Các phương pháp cô lập và trừng phạt kinh tế truyền thống đã chứng minh phần lớn là không hiệu quả trong việc kiềm chế tham vọng hạt nhân của Iran và Bắc Triều Tiên. Sự tham gia của các cường quốc như Trung Quốc và Nga làm tăng thêm sự phức tạp cho các nỗ lực ngoại giao nhằm kiềm chế. Sự thay đổi địa chính trị này đòi hỏi phải đánh giá lại các chiến lược hiện tại.
 

ZOV

Xì hơi lốp
Biển số
OF-833100
Ngày cấp bằng
29/4/23
Số km
1,647
Động cơ
5,802 Mã lực
Tuổi
34
Xung đột Iran-Israel: Khi Hải quân Hoa Kỳ “mất bình tĩnh” và đánh chìm tàu chiến Iran có nguồn gốc từ Anh gây chấn động ở Tehran
Qua
Ashish Dangwal
-
Ngày 5 tháng 8 năm 2024


Chia sẻ

Facebook


Twitter


WhatsApp


ReddIt


Iran gần đây đã trục vớt được tàu khu trục IRIS Sahand của mình từ đáy biển, gần hai tuần sau khi tàu bị lật úp và chìm.
Con tàu bị chìm hoàn toàn tại cảng nhà Bandar Abbas vào ngày 7 tháng 7 năm 2024, sau khi các nỗ lực ổn định tàu không thành công do dây neo bị đứt. IRIS Sahand là một trong những khinh hạm bản địa mới nhất của Iran, được mô phỏng theo Vosper Mark 5 do Anh thiết kế.
Tuy nhiên, cái tên Sahand mang một di sản lịch sử đối với Iran. Nó gợi nhớ đến một khinh hạm trước đó cùng tên, đã kết thúc một cách bi thảm dưới tay Hải quân Hoa Kỳ vào năm 1988.
Chiếc IRIS Sahand trước đó, ban đầu là Faramarz (F-74), được triển khai trong giai đoạn hỗn loạn những năm 1980, được gọi là Chiến tranh tàu chở dầu, ở Vịnh Ba Tư.


Cuộc chiến Tanker War xuất hiện từ cuộc xung đột kéo dài giữa Iran và Iraq, lan sang vùng biển chiến lược của Vịnh và đe dọa các chuyến hàng dầu toàn cầu. Với lực lượng hải quân hạn chế, Iraq chuyển sang các cuộc tấn công trên không, trong khi Iran sử dụng tàu nổi và triển khai các loại mìn chiến lược.

Sahand và tàu chị em Sabalan, cả hai đều là khinh hạm lớp Vosper Mark V (còn gọi là lớp Alvand) do Anh sản xuất, nổi tiếng vì hành động hung hăng chống lại tàu trung lập, góp phần làm gia tăng căng thẳng.
Vào thời điểm đó, Hoa Kỳ duy trì một sự hiện diện nhỏ của hải quân tại Vịnh Ba Tư, được gọi là Lực lượng Trung Đông. Lực lượng này không can thiệp vào các cuộc tấn công vào tàu buôn, một lập trường khiến nhiều sĩ quan Mỹ thất vọng vì họ coi người Iran là cướp biển hoặc khủng bố.



Vào cuối năm 1986, Kuwait yêu cầu bảo vệ tàu chở dầu của mình khỏi các cuộc tấn công của Iran, nhờ cả Hoa Kỳ và Liên Xô hỗ trợ. Hoa Kỳ đồng ý đặt tàu chở dầu của Kuwait dưới cờ Hoa Kỳ và cung cấp dịch vụ hộ tống, khởi xướng Chiến dịch Earnest Will.
Chương trình Chiến dịch Earnest Will bắt đầu vào mùa hè năm 1987, nhưng siêu tàu chở dầu hộ tống đầu tiên đã sớm đâm phải một quả mìn của Iran. Sự cố này, cùng với các mối đe dọa ngày càng tăng của Iran về việc khai thác thêm, đã dẫn đến một cuộc xung đột cấp thấp giữa Hoa Kỳ và Iran vào mùa thu năm đó.
Quân đội Hoa Kỳ sau đó mở rộng hoạt động của mình ở Trung Đông bằng cách thành lập một nhóm đặc biệt gọi là Lực lượng đặc nhiệm chung. Đồng thời, Iran vẫn tiếp tục hành động hung hăng, thường xuyên quấy rối lực lượng Hoa Kỳ theo cách gần như gây ra một cuộc xung đột toàn diện.

Để giải quyết vấn đề này, Hoa Kỳ đã bố trí Lực lượng đặc nhiệm tại các căn cứ nổi trong khu vực. Các lực lượng này được giao nhiệm vụ ngăn chặn Iran đặt mìn dưới nước và phòng thủ trước các cuộc tấn công bằng tàu nhỏ.

Vào mùa thu năm 1987, một số cuộc xung đột nhỏ nhưng quan trọng đã diễn ra giữa lực lượng Hoa Kỳ và Iran. Hải quân Hoa Kỳ đã đánh chìm một tàu Iran đang rải mìn, và lực lượng SEAL của Hải quân đã chiến đấu bằng những chiếc thuyền nhỏ của Lực lượng Vệ binh Cách mạng Iran.
Để trả đũa, Iran đã phóng một tên lửa Silkworm vào một tàu chở dầu treo cờ Hoa Kỳ, khiến thuyền trưởng bị thương. Để đáp trả cuộc tấn công này, Hoa Kỳ đã phá hủy một giàn khoan dầu của Iran.
Vào mùa đông, các hoạt động hộ tống của lực lượng Hoa Kỳ diễn ra mà không có sự cố lớn nào. Tuy nhiên, vào mùa xuân, Iran lại bắt đầu rải mìn. Vào ngày 14 tháng 4 năm 1988, khinh hạm Hoa Kỳ Samuel B. Roberts (FFG-58) đã trúng phải một quả mìn. Tuy nhiên, nhờ những nỗ lực anh hùng của thủy thủ đoàn trong việc kiểm soát thiệt hại, con tàu đã được cứu khỏi bị chìm.

Hoa Kỳ quyết định tấn công người Iran
Thiệt hại gây ra cho khinh hạm Samuel B. Roberts (FFG-58) đã thúc đẩy quân đội Hoa Kỳ phản ứng quyết liệt, nhanh chóng xây dựng một kế hoạch trả đũa với ba mục tiêu chính.

Hai mục tiêu đầu tiên là các giàn khoan dầu của Iran ở phía đông Vịnh, được gọi là Sirri và Sassan, đóng vai trò là trung tâm chỉ huy và kiểm soát để tấn công tàu chở dầu. Mục tiêu thứ ba là đánh chìm một tàu chiến của Iran, lý tưởng nhất là một trong những tàu khu trục khét tiếng.
Đô đốc William Crowe, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, đã liên lạc với Chuẩn đô đốc Anthony Less, chỉ huy cấp cao của Hoa Kỳ tại vùng Vịnh, và chỉ thị cho ông nhắm vào Sabalan, một khinh hạm được coi là nguy hiểm hơn IRIS Sahand.
Trong một tuần cuối tuần bận rộn lên kế hoạch, các chỉ huy Hoa Kỳ đã thành lập ba Nhóm hành động trên mặt nước (SAG) – Bravo, Charlie và Delta – mỗi nhóm bao gồm ba tàu hải quân.
Hơn nữa, Carrier Air Wing 11 từ tàu sân bay Enterprise (CVN-65), đóng quân ngay bên ngoài Vịnh, được giao nhiệm vụ hỗ trợ trên không. Chiến dịch có mật danh là Chiến dịch Praying Mantis, bắt đầu vào ngày 18 tháng 4.

SAG Bravo, gồm ba tàu hải quân—Merrill (DD-976), Lynde McCormick (DDG-8) và Trenton (LPD-14)—đã nhắm vào giàn khoan Sassan. Sau khi đưa ra cảnh báo sơ tán, nhóm này đã bắn phá giàn khoan bằng súng hải quân và trực thăng Marine Cobra.
Đồng thời, SAG Charlie – gồm Wainwright (CG-28), Simpson (FFG-56) và Bagley (FF-1069) – tấn công giàn khoan Sirri, nằm ở phía đông Sassan.
Cả hai bệ đều bốc cháy ngay sau đó. Thủy quân lục chiến đã lên được tàu và thu thập thông tin tình báo từ bệ Sassan, nhưng bệ Sirri bị hư hại quá nặng nên không thể lên được. Giai đoạn đầu của chiến dịch được coi là thành công.
Trong khi đó, SAG Delta – gồm Jack Williams (FFG-24), O'Brien (DD-975) và Joseph Strauss (DDG-16) – đã phải vật lộn để xác định vị trí và đánh chìm một tàu Iran. Mặc dù đã tuần tra nhiều giờ ở Eo biển Hormuz, họ vẫn không tìm thấy Sabalan hay bất kỳ tàu chiến nào khác của Iran.
Trong khi đó, phản ứng của Iran bị chia cắt nhưng táo bạo. Các tàu và máy bay nhỏ hơn đã được điều động, nhưng Sabalan vẫn neo đậu tại Bandar Abbas giữa hai tàu chở dầu lớn để bảo vệ.

Tuy nhiên, vào buổi chiều hôm đó, Sahand, một tàu chị em với Sabalan, đã rời Bandar Abbas. Mặc dù ít khét tiếng hơn Sabalan, Sahand có lịch sử tấn công các tàu buôn và có vẻ sẵn sàng trả đũa.
Tình báo Hoa Kỳ đã biết về cuộc xuất kích của Sahand nhưng không chắc chắn về danh tính của nó. SAG Delta được khuyên nên cảnh giác. Trong khi đó, Enterprise tiếp tục các hoạt động trên không, với các phi hành đoàn luân phiên tìm kiếm Sabalan hoặc mục tiêu khác.
Chỉ huy Arthur “Bud” Langston và người ném bom/hoa tiêu của ông đã thực hiện một nhiệm vụ trinh sát trên một chiếc A-6 Intruder, được hỗ trợ bởi một chiếc EA-6B Prowler và hai máy bay hộ tống F-14. Chiếc EA-6B đã báo cáo về một tàu khu trục Iran có thể đang di chuyển ở Eo biển Hormuz.
Máy bay A-6 của Langston phát hiện một khinh hạm rời khỏi bến cảng với tốc độ cao. Mặc dù tầm nhìn hạn chế, Langston vẫn tiến lại gần để quan sát kỹ hơn. Ông nhận ra hậu quả tiềm tàng của việc nhận dạng nhầm nhưng cho rằng cần phải xác nhận mục tiêu.

Chiếc A-6 của Langston hạ xuống gần tàu khu trục, và con tàu nổ súng, xác nhận tình trạng thù địch của nó. Máy bay tiếp cận cách tàu 50 yard để xác minh danh tính, khéo léo tránh né súng phòng không và vũ khí bắn từ vai trước khi rút lui đến một khoảng cách an toàn hơn.
Số phận của Sahand: Chuyến hạ cánh cuối cùng của tàu khu trục
Khi phát hiện ra mục tiêu, Langston nhanh chóng thông báo cho Enterprise và yêu cầu triển khai toàn bộ nhóm tấn công. Theo các quy tắc giao tranh, cho phép trả đũa ngay lập tức vì kẻ thù đã nổ súng trước, ông tiến hành đưa ra cảnh báo.
Langston phát đi một thông điệp vô tuyến tới tàu khu trục Iran đã bắn vào máy bay A-6 Intruder của ông, cho họ năm phút để rời khỏi tàu trước khi ông bắt đầu tấn công.
Tại Enterprise, Chỉ huy John Schork, chỉ huy Phi đội tấn công 95 (VA-95), nhận được chỉ thị triển khai nhóm tấn công, gồm bảy máy bay: một chiếc A-6 Intruder và sáu chiếc A-7 Corsair. Khi những máy bay này bay đến khu vực mục tiêu, Langston đợi năm phút được phân bổ trước khi tung ra cuộc tấn công đơn độc của mình.
Cuộc tấn công của Langston bắt đầu bằng một tên lửa Harpoon đánh trúng ngay phía sau cầu tàu của khinh hạm, tạo ra khói và khiến nó mất điện. Sau đó, ông tiếp tục thả hai quả bom Skipper và thêm nhiều quả bom dẫn đường bằng laser, gây ra nhiều đám cháy trên tàu Sahand.
Khi nhóm tấn công đến đích và tấn công bằng tên lửa Harpoon, căng thẳng leo thang. Schork và nhóm của ông đang chuẩn bị tấn công thì nhận được chỉ thị từ USS Joseph Strauss (DDG-16) (tàu khu trục hạm tên lửa dẫn đường lớp Charles F. Adams) để dừng lại vì nó sắp bắt đầu tấn công.
không xác định
Sahand bốc cháy sau cuộc tấn công của tàu và máy bay Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 18 tháng 4 năm 1988. Wikipedia
Tuy nhiên, Schork quyết định tiếp tục cuộc tấn công. Các mũi tên Harpoon từ Schork và Joseph Strauss đã tấn công Sahand gần như cùng lúc, đánh dấu một thời điểm quan trọng trong chiến dịch. Cuộc tấn công này sau đó được mô tả là một nỗ lực "phối hợp" giữa các tàu nổi và hỗ trợ trên không.
Chiếc khinh hạm từng đáng sợ, nổi tiếng với hành động hung hăng chống lại các tàu buôn, giờ đây đang bị tấn công dữ dội. Mặc dù các tàu của SAG Delta ở quá xa để có thể xác nhận trực quan cuộc tấn công, nhưng các thủy thủ đoàn đã nhận thức rõ tình hình.
Mặt khác, Schork tiếp tục tấn công thêm vài phút nữa, nhắm vào các phần của con tàu vẫn chưa chìm trong biển lửa. Nhận thấy thủy thủ đoàn đã bỏ tàu và đang ở trên bè cứu sinh, Schork quyết định dừng các cuộc tấn công tiếp theo.
“Là sĩ quan cao cấp trong buồng lái, tôi đã đánh giá thiệt hại và quyết định đã đến lúc dừng lại. Chúng tôi không ở đó để giết những người đã chạy trốn khỏi tàu,” ông giải thích. Với điều đó, nhóm tấn công đã quay trở lại Enterprise, kết thúc nhiệm vụ của họ.
IRIS Sabalan (73): Bị bao vây
Hải quân Hoa Kỳ đã dừng cuộc tấn công của mình, và Iran đã điều động thuyền để giải cứu những người sống sót trên tàu Sahand, trong khi các tàu của Hoa Kỳ không can thiệp. Tàu Sahand, chìm trong biển lửa và khói đen dày đặc, vẫn nổi nhưng chết máy trong nước trong nhiều giờ trước khi chìm vào đêm hôm đó. Sau đó, Iran báo cáo có 45 người tử vong và 87 người bị thương trong vụ việc.
Mặc dù bị áp đảo, Iran cuối cùng đã hạ thủy khinh hạm Sabalan, một động thái khiến các sĩ quan tình báo Hoa Kỳ bối rối. USS Joseph Strauss (DDG-16) đã thông báo cho máy bay tấn công về vị trí của Sabalan.
Ngay sau đó, một máy bay ném bom tấn công A-6 đã phát hiện ra tàu khu trục Iran và phóng một quả bom dẫn đường bằng laser đánh thẳng vào Sabalan, khiến nó bị hư hỏng nặng. Hải quân Hoa Kỳ đã quan sát Sabalan khi nó vật lộn để quay trở lại cảng, để lại một vệt dầu loang đáng kể.
Góc nhìn bên phải của tàu khu trục ITS Rostam (DE-73) của Iran, sau này được đổi tên thành IS Sabalan (F-73).
Góc nhìn bên phải của tàu khu trục ITS Rostam (DE-73) của Iran, sau này được đổi tên thành IS Sabalan (F-73).
Cuối cùng, Hoa Kỳ quyết định chấm dứt hoạt động này vì cho rằng đã gây ra đủ thiệt hại. Iran báo cáo có 29 người bị thương trên tàu Sabalan nhưng không có trường hợp tử vong.
Các máy bay A-6 đã trở về Enterprise sau hơn sáu giờ hoạt động căng thẳng, một sĩ quan Hoa Kỳ mô tả đó là "sáu giờ nhanh nhất trong cuộc đời tôi". Trong khi đó, chiếc Sabalan bị hư hỏng đã được kéo đến Bandar Abbas, nơi cuối cùng nó đã được sửa chữa và đưa vào hoạt động trở lại.
Khi chiến dịch sắp kết thúc, một trực thăng Cobra của Hải quân Hoa Kỳ đang điều tra một vụ tiếp xúc trên bề mặt đã báo cáo rằng đã tránh được một tên lửa, nhưng sau đó đã biến mất khỏi radar. Các Đại úy Thủy quân Lục chiến Stephen Leslie và Kenneth Hill đã mất mạng trong vụ việc, trở thành những người Mỹ duy nhất bị thương vong trong chiến dịch.
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top