Mỹ biến chiến trường Ukraine thành "phòng thí nghiệm" vũ khí mới như thế nào?
Thu Thủy
20/05/2024 10:40
0:00/0:00
0:00
VietTimes – Nhiều vũ khí mới do Mỹ sản xuất được trao cho Ukraine để tạo cơ hội "thử nghiệm chiến đấu thực tế" cho những vũ khí này.
|
Bom đường kính nhỏ phóng từ mặt đất (GLSDB) của Mỹ đưa vào thử nghiệm ở chiến trường Ukraine đã bị tác chiến điện tử Nga vô hiệu hóa (Ảnh: Thepaper) |
Với sự phát triển không ngừng của khoa học và công nghệ quân sự, hàm lượng khoa học và công nghệ của nhiều loại vũ khí mới liên tục gia tăng. Làm thế nào để kiểm tra chính xác hiệu quả và độ ổn định của chúng trở thành một vấn đề quan trọng mà quân đội các nước phải đối mặt.
Trong cuộc xung đột giữa
Nga và
Ukraine, Mỹ đã tung nhiều loại vũ khí mới vào chiến trường để thử nghiệm trên thực tế, với mục đích thử nghiệm toàn diện khả năng hoạt động, đồng thời cung cấp dữ liệu thực tế quan trọng để cải tiến và hoàn thiện chúng. Chiến trường Ukraine đã trở thành "phòng thử nghiệm tác chiến" cho vũ khí Mỹ.
Mỹ mượn tay quân đội Ukraine thử nghiệm vũ khí
Trên thực tế, việc quân đội
Mỹ đưa vũ khí mới vào chiến trường Ukraine để thử nghiệm không còn là điều bí mật. Trong nhiều cuộc chiến tranh cục bộ do Mỹ khởi xướng, quân đội Mỹ cũng có hành động tương tự và đưa nhiều trang thiết bị, công nghệ mới vào chiến trường để thử nghiệm. Đây cũng là cách phổ biến để Mỹ duy trì ưu thế lĩnh vực công nghệ quân sự trước các nước khác.
Sau khi xung đột Nga-Ukraine bùng phát, Mỹ đã cung cấp cho Ukraine nhiều loại vũ khí hạng nặng mới, bao gồm hệ thống pháo phản lực cơ động cao HIMARS, xe tăng Abrams M1A1 và các thiết bị khác để thử nghiệm tính năng thực chiến và giá thành bảo trì.
Đồng thời, hệ thống "Starlink" cũng được đưa vào sử dụng trên chiến trường với chức năng được mở rộng để đạt được khả năng định vị, điều hướng, trinh sát, liên lạc…giải quyết vấn đề hiện tại là các vệ tinh quân sự Mỹ không thể bao phủ toàn bộ chiến trường Ukraine.
Hệ thống pháo phản lực cơ động cao HIMARS của Mỹ được trang bị cho Quân đội Ukraine (Ảnh: Thepaper).
Ngoài ra, quân đội Mỹ cũng đưa các loại vũ khí mới vừa được phát triển và chưa từng sử dụng tới chiến trường Ukraine.
Theo danh sách tài liệu viện trợ quân sự được tiết lộ, Mỹ đã cung cấp cho Ukraine một loại đạn tuần kích (hay bom lảng vảng) có tên là "Phoenix Ghost" do Không quân Mỹ phát triển nhưng chưa được trang bị trên quy mô lớn và chủ yếu được sử dụng để giúp Ukraine ngăn chặn cuộc tấn công của Nga ở khu vực Donbass.
Đồng thời, Mỹ cũng đã sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) mới trên chiến trường Ukraine, giúp nước này sử dụng camera từ máy bay không người lái để xác định mục tiêu trên chiến trường. Công nghệ này thuộc dự án AI có tên "Project Maven" được xây dựng dựa trên một thuật toán mạnh mẽ có thể xử lý hình ảnh từ vệ tinh, radar, thiết bị hồng ngoại và thậm chí cả phương tiện truyền thông xã hội lên một màn hình để giúp nhận dạng con người, thiết bị và hệ thống trên chiến trường. Công nghệ này giúp binh sĩ kết nối với hệ thống nhanh chóng xác định mục tiêu để tấn công.
Ngoài chiến trường Ukraine, Mỹ cũng tận dụng chiến tranh ở Trung Đông làm nơi kiểm định hiệu quả chiến đấu thực tế của vũ khí. Sau khi xung đột Hamas-Israel bùng nổ, quân đội Mỹ đã mạnh mẽ triển khai các tên lửa "SM- 2", " SM-6", "Sea Sparrow" và thậm chí cả tên lửa " SM-3" đánh chặn trên diện rộng từ Biển Đỏ đến Địa Trung Hải.
Tháng 2/2024, quân đội Mỹ đã tiến hành kiểm tra thực chiến tên lửa "SM-6" đánh chặn tên lửa đạn đạo chống hạm ở Biển Đỏ. Mới đây, trước cuộc tấn công bằng tên lửa đạn đạo tầm trung của Iran nhằm vào Israel, quân đội Mỹ đã lần đầu tiên trong lịch sử đưa tên lửa "SM-3" vào chiến đấu thực tế và đánh chặn thành công nhiều tên lửa đang bay tới.
Đạn pháo dẫn đường "Excalibur" từng rất được kỳ vọng nhưng đã bộc lộ hạn chế tại chiến trường Ukraine (Ảnh: Thepaper).
Vũ khí Mỹ thực chiến không như ý
Lầu Năm Góc đã gửi một số lượng lớn vũ khí mới đến chiến trường Ukraine và thông qua chiến đấu thực tế của quân đội Ukraine, họ đã nghiên cứu hiệu suất của các hệ thống vũ khí này khi sử dụng và xác minh khả năng sát thương thực tế cũng như ưu, nhược điểm của chúng.
Ví dụ, Lầu Năm Góc phát hiện ra rằng nhiều loại vũ khí tiên tiến của họ được Ukraine sử dụng trên tiền tuyến thường dễ bị hệ thống tác chiến điện tử của Nga gây nhiễu và đánh lừa. Các vũ khí này bao gồm đạn pháo dẫn đường "Excalibur", bom đường kính nhỏ phóng từ mặt đất (GLSDB) và tên lửa chiến thuật Lục quân (ATACMS).
Hiệu quả chiến đấu của nhiều loại vũ khí dẫn đường chính xác này đã bị suy giảm nghiêm trọng.
Tháng 3/2024, Tiến sĩ Daniel Patt, một nhà nghiên cứu cấp cao tại Viện nghiên cứu Hudson của Mỹ, đã tiết lộ trong văn bản gửi lên Ủy ban Quân vụ Hạ viện rằng đạn pháo dẫn đường chính xác "Excalibur" khi lần đầu được đưa vào sử dụng ở Ukraine có tỷ lệ bắn trúng 70%. Tuy nhiên, sau 6 tuần lễ, do quân đội Nga điều chỉnh hệ thống tác chiến điện tử để can thiệp nên tỷ lệ bắn trúng giảm xuống chỉ còn 6%.
Nguyên nhân là do "Excalibur" dựa vào GPS để cải thiện độ chính xác; sau khi quân đội Nga gây nhiễu và đánh lừa tín hiệu GPS ở các khu vực liên quan, hiệu quả bắn trúng của đạn pháo đã giảm mạnh.
Ngoài ra, bom dẫn đường JDAM-ER của Mỹ cũng bị thiết bị tác chiến điện tử của Nga can thiệp. Loại bom này cũng sử dụng dẫn đường GPS nên rất dễ bị quân đội Nga gây nhiễu.
Nhiều loại máy bay không người lái do Mỹ cung cấp cho Ukraine cũng dễ bị Nga can thiệp điện tử, đặc biệt là đạn tuần kích "Switchblade-300", đã được chứng minh là kém hiệu quả hơn mong đợi trong chiến đấu thực tế. Những sai sót chết người này bộc lộ qua thử nghiệm chiến đấu thực tế đã trở thành cơ sở quan trọng để quân đội Mỹ tối ưu hóa và cải tiến vũ khí trong tương lai.
Xe phóng và đạn của hệ thống tên lửa chiến thuật Lục quân (ATACMS) lần đầu được sử dụng ở chiến trường Ukraine (Ảnh: Thepaper).
Vũ khí không phải “chìa khóa vạn năng” giải quyết chiến tranh
Qua chiến trường Ukraine, quân đội Mỹ đã nhận ra rằng dù vũ khí dẫn đường chính xác dù có hiện đại đến đâu, nếu không khắc phục được vấn đề chí mạng là dễ bị gây nhiễu điện tử thì sẽ không thể đạt được hiệu quả như mong muốn. Điều này cho thấy không có gì đảm bảo rằng Mỹ sẽ chiến thắng trong các cuộc xung đột khu vực trong tương lai.
Bởi vậy, Mỹ đã bắt đầu đẩy mạnh việc "vá sửa" dựa trên những sai sót, điểm yếu mà các loại vũ khí mới này bộc lộ trên chiến trường. Theo Defense News, Lầu Năm Góc gần đây đã phân bổ số tiền khổng lồ để phát triển thiết bị tác chiến điện tử tiên tiến và thiết bị chống nhiễu, bao gồm cả việc ký kết thỏa thuận mã hóa quân sự GPS trị giá 318 triệu USD với BAE Systems và mua một hệ thống định vị và dẫn đường chiến trường cầm tay thế hệ mới của công ty TRX Systems.
Đồng thời, Lục quân Mỹ cũng đang phát triển một loại thiết bị gây nhiễu mới có thể lắp trên xe bọc thép "Stryker" hoặc mang trên lưng binh sĩ để giải quyết vấn đề gây nhiễu điện tử.
Không quân Mỹ cũng đang tích cực mua sắm thiết bị mới, trong đó có một thiết bị bổ sung cho phép bom JDAM-ER chống lại hiện tượng gây nhiễu GPS. Trong khi đó, Hải quân Mỹ cũng đang bổ sung các tổ hợp tác chiến điện tử mới cho các tàu chiến không người lái trên mặt nước để đối phó với môi trường chiến trường ngày càng phức tạp.
Ngoài các loại vũ khí và thiết bị đã được đưa vào sử dụng trên chiến trường Nga-Ukraine, Mỹ cũng đang phát triển mạnh mẽ các loại vũ khí khái niệm mới như nhiều loại robot chiến đấu tự hành và máy bay không người lái mới, đồng thời có nhu cầu cấp thiết về kiểm nghiệm thực chiến các loại vũ khí liên quan. Nếu không được thử nghiệm qua chiến đấu thực tế, những loại vũ khí này sẽ không thể đưa vào sản xuất hàng loạt.
Đạn tuần kích "Switchblade" nhanh chóng bị rút khỏi chiến trường do hiệu quả không như kỳ vọng (Ảnh: Thepaper).
Nhìn chung, việc quân đội Mỹ đưa vũ khí mới vào chiến trường đã trở thành một cách quan trọng để họ kiểm tra hiệu suất vũ khí và cải thiện khả năng tác chiến. Điều này có tác động mạnh mẽ đến chiến tranh, công nghệ và quan hệ quốc tế trong tương lai.
Tuy nhiên, vũ khí mới không phải là "chìa khóa" để giải quyết các vấn đề chiến tranh. Chiến tranh không phải là cuộc cạnh tranh đơn giản giữa vũ khí và công nghệ mà bản chất là đấu tranh giành lợi ích và giải quyết xung đột, liên quan đến chiến lược, chiến thuật, nhân sự, vật liệu...Nếu bỏ qua những lý do cơ bản đằng sau chiến tranh và chỉ dựa vào vũ khí, công nghệ để giải quyết vấn đề, cuối cùng có thể rơi vào những rắc rối sâu sắc hơn.
Học viện Quân sự Hoa Kỳ công bố báo cáo mới về cuộc chiến với máy bay không người lái Kamikaze; Đề Xuất 3 Cách Chống UAV
Qua
Prakash Nanda
-
Ngày 21 tháng 5 năm 2024
Chia sẻ
Facebook
Twitter
WhatsApp
ReddIt
Trong số nhiều bài học rút ra từ cuộc xung đột đang diễn ra ở Ukraine là tính hiệu quả của máy bay không người lái giá rẻ trong việc gây ra thiệt hại nghiêm trọng, thường không đối xứng, lên các mục tiêu có độ tinh vi cao và đắt tiền.
Bài học này, cùng với hiệu quả của cuộc tấn công của Hamas vào Israel vào ngày 7 tháng 10 bằng cách bắn hàng nghìn máy bay không người lái mang đầy chất nổ, hiện đang buộc ngành công nghiệp chống máy bay không người lái phải phát triển các công nghệ mới nhằm hạn chế hiệu quả của máy bay không người lái trên chiến trường.
Tin tức mới nhất về sự phát triển này đến từ Nga. Nước này đã triển khai các hệ thống chống máy bay không người lái được hỗ trợ bởi trí tuệ nhân tạo (AI) mới, Abzats và Gyurza, trong cuộc xung đột đang diễn ra ở Ukraine.
Abzats, một nền tảng gây nhiễu di động, sử dụng thuật toán AI để tự động di chuyển và thực hiện các nhiệm vụ tác chiến điện tử, gây nhiễu toàn bộ dải tần được sử dụng bởi máy bay không người lái (UAV).
Nga cũng đã triển khai Gyurza, một thiết bị gây nhiễu chống máy bay không người lái khác được hỗ trợ bởi AI. AI của Gyurza được cho là có thể gây nhiễu có chọn lọc các tần số được máy bay không người lái Ukraine sử dụng và vô hiệu hóa chúng.
Theo Oleg Zhukov, Giám đốc điều hành của công ty nghiên cứu và sản xuất Geran của Nga, việc tích hợp AI vào tác chiến điện tử đang chứng tỏ tính hiệu quả của nó trong việc “tự động ngăn chặn các hệ thống máy bay không người lái của đối phương khi bị phát hiện trong khi vẫn không hoạt động khi chúng vắng mặt”.
Về phần mình, Ukraine cũng đang nhận được các hệ thống chống máy bay không người lái từ Mỹ, chẳng hạn như xe chở súng chống máy bay không người lái, hệ thống tên lửa dẫn đường bằng laser và “các thiết bị c-UAS khác”.
Ukraine gần đây cũng đã nhận được một số hệ thống CORTEX Typhon từ Kongsberg, một công ty của Na Uy. Các hệ thống này sử dụng radar để phát hiện máy bay không người lái và sau đó bắn tên lửa để bắn hạ chúng.
Ukraine đã tự mình phát triển và triển khai các hệ thống tác chiến điện tử như Brave1 để chống lại tên lửa hành trình của Nga.
Nó có một nền tảng khác, Thiết bị tên lửa ISR xếp theo mô-đun theo mô-đun L3Harris (VAMPIRE). Bệ phóng tên lửa dẫn đường bằng laser này, được lắp đặt trên xe tải, đóng vai trò quan trọng trong việc chống lại các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái của Nga ở Kiev và các nơi khác. Những tên lửa này đã được chứng minh là rất hiệu quả trong việc chống lại các máy bay không người lái Shahed do Iran sản xuất mà Nga sử dụng.
Rõ ràng, Israel đã nổi lên như một quốc gia đáng chú ý trong lĩnh vực chống máy bay không người lái, sử dụng Hệ thống phòng thủ tiên tiến Rafael Dome và Elbit Systems ReDrone. Các hệ thống này có thể phát hiện máy bay không người lái thông qua radar 3D, phát hiện tín hiệu hoặc camera, sau đó phát ra tín hiệu gây nhiễu để làm gián đoạn hoạt động của nó. Trên thực tế, những hệ thống này của Israel hiện được cho là được một số quốc gia khác sử dụng để bảo vệ cơ sở hạ tầng quan trọng khỏi các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái và thường được coi là khá hiệu quả trong việc vô hiệu hóa máy bay không người lái.
Không có gì ngạc nhiên khi thị trường máy bay không người lái trên toàn thế giới đang
phát triển nhanh chóng. Thị trường chống máy bay không người lái toàn cầu được định giá 1,3 tỷ USD vào năm 2021 và dự kiến sẽ đạt 14,6 tỷ USD vào năm 2031, tăng trưởng với tốc độ CAGR là 27,9% từ năm 2022 đến năm 2031.
Các công ty chủ chốt trong thị trường này là Tập đoàn Lockheed Martin, Dedrone, Advanced Radar Technologies, Liteye Systems Inc., SAAB, Thales, Raytheon Technologies Corporation, Blighter Giám sát Systems Limited, DETECT, INC. và DroneShield. Dựa trên mục đích sử dụng cuối cùng, phân khúc quân sự và quốc phòng chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Tuy nhiên, bất chấp sự tăng trưởng và tiềm năng của thị trường máy bay không người lái, các hệ thống mà nó phát triển được cho là có một số hạn chế nghiêm trọng.
Thách thức lớn nhất ở đây là yếu tố chi phí. Không giống như máy bay không người lái rẻ tiền và được sản xuất nhiều, tính kinh tế của các biện pháp đối phó được cho là mất cân bằng. Ngành công nghiệp chống máy bay không người lái được cho là đang chi hàng triệu đô la để đánh bại mối đe dọa có giá khoảng 500 đô la mỗi chiếc.
Ngoài ra, không có giải pháp nào phù hợp cho tất cả để giải quyết vấn đề máy bay không người lái. Mỗi công nghệ và phương pháp chống máy bay không người lái đều có những hoàn cảnh và mục tiêu cụ thể mà hệ thống đó hữu ích nhất. Đó là lý do tại sao các chuyên gia nói rằng ngành công nghiệp chống máy bay không người lái chưa phát triển các hệ thống “có thể khái quát hóa, có thể mở rộng và áp dụng cho nhiều nền tảng”.
Theo Brett Velicovich, một cựu quân nhân Hoa Kỳ và
là Giám đốc điều hành hiện tại của Drone Experts, “Thực sự có hơn 200 công nghệ chống máy bay không người lái khác nhau — mọi thứ từ súng, thiết bị giả mạo cho đến thiết bị gây nhiễu, bạn có thể đặt tên cho nó. Có hơn 100 nhà sản xuất chế tạo những thứ này, nhưng vẫn chưa có một giải pháp nào mà tôi có thể chỉ ra và nói, 'Đúng, 100% sẽ ngăn chặn máy bay không người lái bay vào.' Và điều đó thật đáng sợ khi bạn nghĩ về tất cả tiền bạc và trí tuệ được đổ vào nó.”
Vấn đề nổi lên là mặc dù có nhiều cách để hạ gục máy bay không người lái, thách thức thực sự là tạo ra một hệ thống “giá cả phải chăng” và “hiệu quả” để giải quyết các loại tình huống khác nhau—một “hệ thống tất cả trong một, một cửa hàng tổng hợp có khả năng khái quát hóa, có thể mở rộng và áp dụng cho nhiều nền tảng.”
Tệp hình ảnh: Drone FPV
Những cách khác nhau để đối phó với máy bay không người lái
Ở đây có thể lưu ý rằng có bốn loại hệ thống chính để đối phó với máy bay không người lái: Các phương pháp theo dõi, gây nhiễu, động học và kết hợp, chiếm quyền điều khiển/mạng. Các chuyên gia nói rằng mặc dù có nhiều lựa chọn trong ba loại đầu tiên, nhưng không đạt được nhiều tiến bộ trong lĩnh vực loại thứ tư là loại lai hoặc loại cướp.
Nói rộng hơn, thông qua việc theo dõi và gây nhiễu, là những hệ thống phi động học, người ta có thể xác định vị trí của máy bay không người lái và làm gián đoạn khả năng bay của nó bằng cách chặn hoặc làm hỏng các tín hiệu quan trọng để điều khiển và điều hướng. Do đó, những hệ thống này làm cho máy bay không người lái không có khả năng phát hiện các tín hiệu chỉ huy và làm gián đoạn kế hoạch bay đã được cài đặt sẵn.
Hệ thống động học là hệ thống bắn đạn, chẳng hạn như đạn hoặc tên lửa, vào máy bay không người lái để tiêu diệt nó. Các hệ thống này được đánh dấu bằng các cảm biến mạnh mẽ như radar để phát hiện máy bay không người lái và các bệ cơ giới để nhắm và bắn vũ khí.
Tuy nhiên, như đã chỉ ra ở trên, đây không phải là những hệ thống tất cả trong một và hiệu quả của chúng sẽ khác nhau tùy theo vị trí và tình huống, đặc biệt khi một người phải đối mặt với nhiều cuộc tấn công bằng máy bay không người lái cùng một lúc.
Xét cho cùng, công nghệ máy bay không người lái cũng đang đồng thời cải tiến và phát hiện thành công các lỗ hổng trong cảm biến và vùng phủ sóng radar. Máy bay không người lái tấn công đã đạt được những tiến bộ trong việc lựa chọn vectơ tấn công, tăng cường GPS và các khả năng thích ứng khác.
Chính trong bối cảnh đó mà ngày nay người ta đang nghe thấy tầm quan trọng của việc xây dựng những “nơi trú ẩn” bất khả xâm phạm như boongke chống lại các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái.
Một báo cáo vừa được công bố từ “Viện Chiến tranh Hiện đại” tại Học viện Quân sự Hoa Kỳ cho biết, từ tháng 8 năm 2023 đến tháng 4 năm 2024, “Đội tác chiến Lữ đoàn 2, Sư đoàn miền núi số 10” đã được triển khai trên khắp Iraq và Syria để hỗ trợ cho “Chiến dịch”. Inherent Resolve” đã học được một loạt bài học quan trọng về cách chống lại và phòng thủ trước tên lửa, tên lửa và máy bay không người lái ở mọi quy mô từ các nhóm dân quân khác nhau.
Báo cáo cho biết: “Cuối cùng, có ba cách để phòng thủ trước máy bay không người lái tấn công một chiều: bạn có thể bắn hạ chúng, bạn có thể tấn công chúng bằng nhiễu điện tử hoặc bạn có thể tìm nơi trú ẩn và hấp thụ các đòn tấn công”.
Bất chấp tất cả các công nghệ đắt tiền liên quan đến việc đánh bại các mối đe dọa từ máy bay không người lái, báo cáo nhấn mạnh một số lựa chọn đơn giản và rẻ nhất—như bao cát và bê tông—vẫn là một trong những biện pháp bảo vệ tốt nhất.
Bunker vẫn là một thành phần thiết yếu của phòng thủ tĩnh. “Những người đàn ông và phụ nữ của 2/10 có thể chứng thực rằng dù thô thiển nhưng họ vẫn làm việc - miễn là có con người bên trong họ”.
Theo báo cáo, sự kết hợp giữa boongke và radar đôi khi cũng quan trọng như những bức tường chữ T bê tông đến 2/10 trong cuộc chiến C-UAS. Các bức tường chữ T chứa một vụ nổ bất ngờ lan rộng và cản trở đường bay nhưng không có khả năng che phủ trên cao.
Bảo vệ phía trên, bao gồm các boongke được gia cố và mái che trước khi phát nổ trên một số tòa nhà chọn lọc, là cực kỳ quan trọng khi các cuộc tấn công trở nên chính xác hơn và nhắm mục tiêu vào các khu vực có nhiều người sử dụng và các nút chỉ huy quan trọng.
Kết luận của nó là “Nhìn chung, giống như bất kỳ kế hoạch chiến đấu nào khác, các hoạt động chống lại hệ thống máy bay không người lái (C-UAS) là một hệ thống phòng thủ có chiều sâu nhiều lớp và nhiều mặt. Cách tốt nhất để bảo vệ lực lượng là kết hợp các biện pháp phòng thủ chủ động và thụ động”.
Nói cách khác, một giải pháp đơn giản để đáp ứng những thách thức của máy bay không người lái dường như không khả thi vào lúc này. Theo như những gì người ta có thể hình dung, thế giới sẽ chứng kiến động thái mèo vờn chuột giữa máy bay không người lái và công nghệ chống máy bay không người lái.