Tìm hiểu về đất nước Trung Hoa và những vấn đề liên quan đến biển đảo Việt Nam

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Các cơ chế quốc tế để thực thi các quy định của Công ước luật Biển năm 1982
Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm 1982 họp thường niên để thảo luận việc thực hiện công ước, bầu các cơ chế liên quan như Tòa án quốc tế về luật Biển, Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương, Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa, xem xét và đánh giá hoạt động của các cơ chế đó. Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm 1982 được tổ chức tại trụ sở LHQ ở New York vào khoảng tháng 6 hằng năm. Các quyết định được hội nghị thông qua bằng đa số phiếu.
Tòa án quốc tế về luật Biển có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan giải thích và thực hiện Công ước luật Biển năm 1982. Trụ sở của tòa án đặt tại Hamburg (Đức). Tòa có 21 thẩm phán với nhiệm kỳ 9 năm (có thể được bầu lại). Các thẩm phán của tòa án được Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm 1982 bầu bằng bỏ phiếu kín. Cho đến nay các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm 1982 đã trình 19 vụ việc lên Tòa án quốc tế về luật Biển, trong đó 18 vụ liên quan tranh chấp giữa các quốc gia và 1 vụ Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương xin ý kiến tư vấn của tòa. Dư luận cho rằng về lâu về dài các quốc gia sẽ đưa nhiều vụ việc tranh chấp ra tòa nhiều hơn vì tòa án này có một số ưu thế nhất định so với các cơ chế tư pháp quốc tế khác.
Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương có chức năng thay mặt toàn thể cộng đồng quốc tế quản lý đáy biển quốc tế (cấp phép thăm dò tài nguyên ở đó, định ra các chính sách thăm dò khai thác, phân chia thu nhập từ việc khai thác tài nguyên ở đáy biển quốc tế cho cộng đồng quốc tế…). Các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm 1982 là thành viên đương nhiên của Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương. Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương đóng tại Kingston (Jamaica). Các cơ quan chính của Cơ quan Quyền lực bao gồm Đại hội đồng với đại diện tất cả các quốc gia thành viên (tương tự như Đại hội đồng LHQ), Hội đồng với 36 thành viên (nhiệm kỳ 4 năm) và Ban Thư ký do Tổng thư ký đứng đầu.
Ủy ban Ranh giới thềm lục địa được trao chức năng xem xét các báo cáo quốc gia về ranh giới ngoài thềm lục địa quá 200 hải lý, sau đó ra khuyến nghị đối với các báo cáo. Ủy ban có 21 thành viên được Hội nghị các thành viên công ước bầu với nhiệm kỳ 5 năm. Sau khi Ủy ban có khuyến nghị, các quốc gia ven biển ấn định ranh giới thềm lục địa ngoài phạm vi 200 hải lý của mình. Tính đến ngày 5/6/2012, Ủy ban Ranh giới thềm lục địa đã nhận được 60 báo cáo quốc gia về thềm lục địa quá 200 hải lý, trong đó có Báo cáo chung giữa Việt Nam và Malaysia về khu vực thềm lục địa phía nam biển Đông và Báo cáo riêng của nước ta về thềm lục địa phía Bắc. Hằng năm Ủy ban tiến hành các kỳ họp tại trụ sở LHQ ở New York. Do nội dung các báo cáo phức tạp và công việc xem xét các báo cáo thuộc dạng mới, nên đến nay mặc dù đã rất cố gắng, nhưng Ủy ban mới ra khuyến nghị đối với 17 báo cáo. Với tiến độ như vậy, dự kiến phải khoảng hai chục năm nữa Ủy ban mới ra được kết luận về tất cả các báo cáo quốc gia. Vì thế, trong mấy năm gần đây các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm 1982 đang cố gắng thương lượng để tìm các biện pháp thúc đẩy tiến độ công việc của Ủy ban Ranh giới thềm lục địa.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
2.2. Ảnh hưởng của Luật biển đối với tranh chấp ở biển Đông
2.2.1 Ảnh hưởng tiêu cực của Luật biển

Công ước luật biển của Liên Hợp Quốc (1982) là công ước cả gói được ra đời sau 9 năm và 11 phiên đàm phán liên tục từ năm 1973 đến 1982. Công ước ghi nhận như một bản hiến pháp về biển với sự đồ sộ của hơn 300 điều khoản và sự toàn diện của các quy định trong các lĩnh vực quản lý và sử dụng biển. Mục tiêu của công ước nhằm thúc đẩy việc sử dụng biển vào mục đích hòa bình tận dụng các nguồn tài nguyên biển trên cơ sở nguyên tác công bằng, bền vững và tôn trọng chủ quyền lẫn nhau. Rất tiếc là đối với an ninh biển Đông, Công ước dường như không phát huy được vai trò tích cực.
Sở dĩ như vậy, vì trước hết nguyên nhân sâu xa nhất đối với mối đe dọa đối với an ninh trên biến Đông là tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ, như UNCLOS có quyết định về điều chỉnh vấn đề này. Hơn nữa, lịch sử tranh chấp biển Đông cho thấy, tranh chấp dường như bị mở rộng và leo thang một phần do Công ước. Thời điểm Công ước đang được đàm phán cũng là thời điểm tranh chấp về biển Đông ghi nhận sự mở rộng của 3 bên tranh chấp mới: Philippin, Malaysia và Brunei. Điều này có thể được lý giải bởi những quy định mới của Công ước về việc đảo có thể tạo ra các vùng biển đầy đủ như đất liền đã làm cho các quốc gia ven biển nhận ra tầm quan trọng của các thực thể tại biển Đông và đưa ra yêu sách của mình. Ngoài ra, dựa trên các quy định của Công ước như quy định về xác định đường cơ sở, cách xác định vùng ven biển, quy chế các vùng biển. Các quốc gia đã cố tình giải thích và áp dụng theo hướng có lợi nhất cho quốc gia của mình, để từ tranh chấp chủ quyền tranh chấp mở rộng thành tranh chấp về vùng biển và cạnh tranh trong việc thực thi các quyền chủ quyền về quyền tài phán để củng cố yêu sách của mình từ đó tạo ra mối đe dọa đối với an ninh hàng hải khu vực. Ngày 23/3/2011, Tân Hoa Xã, hãng tin chính thức của Trung Quốc, đã phát bài viết “Tranh chấp Nam Hải dưới góc độ của luật biển quốc tế” của hai học giả Hạ Giám và Uông Cao, Đại học Tương Đàm, trong đó không những khẳng định cái gọi là “chủ quyền”của Trung Quốc mà còn vu cáo Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác, “bẻ cong” Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc và “tranh giành chủ quyền của Trung Quốc” ở Biển Đông.
2.2.2. Vai trò tích cực của Luật biển
Tuy nhiên, ở góc độ ngược lại, người ta cũng có thể lập luận rằng hoàn toàn không có sự mâu thuẫn giữa mục đích của UNCLOS và an ninh hàng hải nhằm duy trì trật tự trên biển. Cùng với sự tham gia gần đây của Thái Lan, hầu hết các quốc gia ven biển Đông, đặc biệt là tất cả các quốc gia là các bên tranh chấp biển Đông, cũng như có lợi ích liên quan đều là thành viên của Công ước luật biển. Là thành viên, các quốc gia ven biển Đông có nghĩa vụ giải thích và thực hiện nghĩa vụ được quy định trong Công ước thiện chí theo nguyên tắc Pacta sunt servander. Theo đó các quy định của công ước sẽ phải được giải thích và áp dụng theo hướng đúng mục đích của Công ước và như vậy không thể đe dọa đến an ninh hàng hải tại biển Đông. Vai trò cụ thể của Công ước có thể được nhìn nhận ở các khía cạnh sau đây:
Vai trò của UNCLOS năm 1982 trong việc kiềm chế và quản lý các mối đe dọa an ninh hàng hải
Hạn chế và làm rõ đối tượng của yêu sách chủ quyền lãnh thổ.
Đối với yêu sách chủ quyền, mặc dù không quy định về giải pháp tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, UNCLOS có thể được áp dụng thu hẹp và làm rõ đối tượng của tranh chấp lãnh thổ. Hiện nay, đối tượng tranh chấp chủ quyền đến mất an ninh hàng hải tại biển Đông chủ yếu là yêu sách chủ quyền đối với các đảo nằm giữa biển Đông. Các quốc gia thường chỉ đưa ra yêu sách chủ quyền một cách chung chung là yêu sách chủ quyền với một nhóm các thực thể dược gọi tên là Hoàng Sa, Trường Sa và Kalayaan. Tuy nhiên không phải mọi thực thể của Hoàng Sa, Trường Sa, hoặc Kalayaan đều thỏa mãn những đối của tranh chấp lãnh thổ.
Các thực thể trên biển có thể chia thành 3 loại là các thực thể chìm, các bãi nửa nổi, nữa chìm và các đảo. UNCLOS đã định nghĩa rất rõ ràng, theo đó chỉ “các vùng nước được hình thành tự nhiên, có nước bao bọc và nổi trên mặt nước khi thủy triều lên” mới là đảo theo định nghĩa tại điều 121. Các tiêu chí về “hình thành tự nhiên”, “có nước bao bọc” và “nổi khi thủy triều lên” phải được kết hợp với nhau để xác định một thực thể là đảo. Các tiêu chí này loại bỏ khả năng can thiệp của con người để làm thay đổi định dạng, cấu trúc tự nhiên của các thực thể nhằm tạo thành đảo. Đồng thời các tiêu chí nổi kể cả khi thủy triều xuống thấp chỉ là các bãi chìm, thuộc một phần của thềm lục địa và đáy đại dương. Trong số các thực thể này, chỉ có đảo thỏa mãn là đối tượng của yêu sách lãnh thổ. Các bãi nửa nổi nửa chìm có thể được sử dụng làm điểm cơ sở cho các đảo trong một số điều kiện theo quy định của Công ước. Nó không thể là đối tượng của yêu sách chủ quyền. Đồng thời với quan điểm là bãi nửa nổi nửa chìm không thể đồng nhất với đảo, các quốc gia không được sử dụng bãi nửa nổi nửa chìm để xây dựng các công trình trên bãi nửa nổi nửa chìm trong các vùng chồng lấn làm điểm cơ sở. Ngoài ra, hành vi can thiệp của con người để xây dựng các công trình trên các bãi nửa nổi nửa chìm và bãi chìm có thể tạo ra đảo nhân tạo, những đảo nhân tạo không phải là đối tượng của yêu sách chủ quyền vì việc quy định cho phép xây đựng đảo nhân tạo thuộc quyền tài phán của quốc gia ven biển, và khi được xây dựng đảo nhân tạo cũng chỉ là vùng an toàn tối đa 500 mét, khác hoàn toàn đảo.
Như vậy, nếu giải thích và áp dụng đúng đắn quy định của UNCLOS, số lượng các đảo là đối tượng của yêu sách chủ quyền lãnh thổ tại biển Đông sẽ nhỏ hơn nhiều số lượng thực thể đang được yêu sách chủ quyền lãnh thổ hiện nay. Các quốc gia không thể tiến hành xây dựng các công trình để biến các bãi nửa nổi nửa chìm hoặc các bãi chìm thành đảo để đưa ra yêu sách chủ quyền lãnh thổ. Qua đó việc áp dụng các quy định của UNCLOS đã giúp hạn chế và làm sánh tỏ đối tượng của yêu sách chủ quyền lãnh thổ của các bên, từ đó hạn chế việc chiếm giữ các bãi chìm, bãi nổi và xây dựng các công trình nhân tạo trên thực thể này.
Thiết lập cơ sở pháp lý đối với yêu sách của biển.
Với yêu sách vùng biển theo học thuyết đất thống trị biển được pháp điển hóa vào nội dung các quy định của Công ước, các vùng biển chỉ co thể được tạo ra từ các dãnh nghĩa chủ quyền lãnh thổ. Theo đó, đất liền có thể tạo ra các vùng biển nội thủy, lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. các đảo cũng có thể tạo ra đầy đủ các vùng biển như đất liền nếu các đảo có đời sống kinh tế riêng hoặc có khả năng cho con người sinh sống. Nếu vùng biển của các quốc gia chồng lấn lên nhau thì việc phân định được thực hiện để hướng tới giải pháp công bằng. Thực tiễn áp dụng các quy định quản lý của UNCLOS có mấy điểm cần lưu ý sau đây:
Thứ nhất, việc xây dựng các vùng biển của đảo là vấn đề còn gây tranh cãi do quy định mập mờ của Công ước và các quốc gia có xu hướng tối đa lợi ích của mình thông qua giải thích rộng rãi các điều kiện về khả năng con người cư trú và đời sống kinh tế riêng của điều 121 về yêu sách đầy đủ các vùng biển cho các đảo. tuy nhiên xu hướng này đi ngược lại mục đích của điều ước 121 là để nhằm hạn chế sự mất cân đối về hiệu lực tạo ra các vùng biển giữa đất liền và các đảo, chứ không phải là công cụ để mở rộng vùng biển cho các đảo.
Thứ hai việc phân định biển để hướng đến các giải pháp công bằng đã được thực tiễn các quốc gia thực hiện với một quy định thống nhất gồm 2 bước: xác định đường cách đều và điều chỉnh đường này nhằm đạt được giải pháp công bằng. Trong số các tiêu chí để xác định sự điều chỉnh, tỷ lệ độ dài bờ biển luôn là yếu tố có sức mạnh. Điều này cho thấy, cho dù các đảo ở biển Đông có thể được yêu sách đầy đủ vùng biển, nhưng do kích thước quá nhỏ bé, tỉ lệ bờ biển của các đao chênh lệch lớn vơi bờ biển của các quốc gia ven biển khi nhận định các đảo này sẽ chệnh lệch lớn đối với bờ biển của các quốc gia ven biển nên khi phân định các đảo này sẽ không bao giờ được hướng đầy đủ hiệu lực. Phán quyết gần đây giữa Ukraina và Rumani đã cho thấy để phân định biển giữa hai quốc gia, tòa không cần xem xét về việc đảo Serpent là đảo thuộc quy định tại khoản 2 (tức là có đầy đủ các vùng biển) hay đảo thuộc quy định tại điều 3 điều 121 để có thể phân định được vùng biển chồng lấn giữa hai quốc gia. Như vậy, nhìn vào đặc điểm địa lý của biển Đông có thể thấy việc yêu sách vùng biển cho các đảo ở biển Đông không thực sự quan trọng, vì các đở này sẽ bị giảm hiệu lực thạm chí bỏ qua khi phân định biển với các vùng biển đất liền và kết luận này không phụ thuộc vào chủ quyền đối với các dỏa thuộc quốc gia nào.
Thứ ba, ngoài cơ sở pháp lý để xác định vùng biển, UNCLOS không quy đinh về cơ sở lịch sử để yêu sách các vùng biển, mà chỉ đề cập đến khái niệm vịnh lich sử. Thực tiễn quốc tế cũng cho thấy thuật ngữ lịch sử chỉ áp dụng cho vùng nước lịch sử và vịnh lịch sử với ý nghĩa như là nội thủy và để thiết lập vùng nước lịch sử hay vinh lịch sử cần thỏa mãn các yêu cầu về chiếm hữu thực sự, hòa bình, liên tục trong thời gian dài và không có sự phản đối của các quốc gia có liên quan. Thực tiễn về chiếm hữu thực sự, hòa bình, liên tục trong thời gian dài và không có sự phản đối của các quốc gia có liên quan không tồn tại ở biển Đông.
Như vậy có thể thấy, việc áp dụng đúng đắn Công ước 1982 sẽ tạo sơ sở hợp pháp cho yêu sách vùng biển của mỗi bên. Theo đó, yêu sách vùng biển cần được dựa trên các vùng biển tạo ra từ bờ biển đất liền của các quốc gia ven biển. Do các đặc thù về tự nhiên và địa lý, các đảo giữa biển đông không được yêu sách có đầy đủ các vùng biển, cho dù được các yêu sách như vậy, các đảo này cũng không thể hưởng nguyên các vùng biển được yêu sách trong phân định biển do có chồng lấn với vùng biển của các quốc gia ven biển khác. Các yêu sách về vùng biển dựa trên cơ sở lịch sử không phù hợp với quy đinh của UNCLOS. Với ý nghĩa này, các quốc gia ven biển Đông có thể định hướng pháp lý cho những yêu sách vùng biển, từ đó phạm vi các vùng biển không có tranh chấp được làm rõ.
Tạo cơ sở pháp lý cho các hành xử phù hợp
UNCLOS không chỉ định ra cơ sở pháp lý để xác định giới hạn của các yêu sách các vùng biển mà còn định ra các chế độ pháp lý của các vùng biển. Chế độ pháp lý của từng vùng biển được đặc trưng bởi quy định về quyền và nghĩa vụ của hai nhóm nước: quốc gia ven biển và các quốc gia khác. Các quốc gia khác có nghĩa vụ tôn trọng quyền và nghĩa vụ của các quốc gia ven biển và ngược lại. Theo đó nội thủy và lãnh hải thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển. Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc quyền chủ quyền của quốc gia ven biển trong lĩnh vực thăm dò, khai thác và quản lý, bảo tồn sinh vật và phi sinh vật biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Các quốc gia ven biển cũng có quyền tài phán đối với việc lắp đặt, sử dụng các công trình, các đảo nhân tạo, lắp dây cáp, ống dẫn ngầm và nghiên cứu khoa học biển. Các quốc gia khác được hưởng quyền qua lại không gây hại trong lãnh hải, quyền tự do hàng không, hàng hải tại vùng đặc quyền kinh tế.
Từ những phân tích về cơ sở pháp lý của yêu sách vùng biển, trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia ven biển, các quốc gia ven biển Đông có toàn quyền thực hiện các hoạt động thăm dò, khai thác, bảo tồn, quản lý tài nguyên thiên nhiên. Có hành vi quấy rối, đe dọa sử dụng vũ lực đối với các tàu thăm dò, khảo sát tài nguyên thiên nhiên, bắt giữ tàu cá và dơn phương áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá tại các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia ven biển là vi phạm các quyền của các quốc gia ven biển theo quy định của UNCLOS.
Ngược lại, các quốc gia ven biển cũng cần tôn trọng quyền lợi của các quốc gia khác, không được có hành vi cản trở quyền tự do hàng hải và tự do hàng không của tàu thuyền và các phương tiện bay, không được có hành vi phân biệt đối xử khi trao quyền qua lại vô hại tại lãnh địa.
Như vậy, nếu thực hiện đúng quy định của UNCLOS thì đa số các hành vi mà các bên tranh chấp hiện nay nhằm củng cố chủ quyền, đồng thời gây mất trật tự an ninh hàng hải là hành vi vi phạm nghĩa vụ mà các quốc gia thành viên đã cam kết khi tham gia UNCLOS. Việc giải thích và áp dụng đúng đắn UNCLOS sẽ giúp các mối đe dọa đến an ninh hàng hải dược hạn chế và kiểm soát.
Đề ra cơ chế giải quyết tranh chấp
Cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định tai điều XV đã giúp các quốc gia giải quyết những bất đồng về giải thích và thực hiện các nghĩa vụ của Công ước. Theo đó, UNCLOS khẳng định nguyên tắc cơ bản của giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia thành viên thông qua các biện pháp hòa bình. Để thực hiện nguyên tắc này, trước hết các bên tranh chấp cẩn giải quyết tranh chấp thông qua trao đổi quan điểm và hòa giải. Nếu sau một thời gian hợp lý, tranh chấp chưa được giải quyết thì các bên có nghĩa vụ bắt buộc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp tư pháp. Trong đao, các quốc gia có quyền lựa chọn một trong bốn cơ chế: Tòa án Công lý quốc tế, Tòa án luật biển của Liên Hợp Quốc, trọng tài theo mục VII và trọng tài theo mục VIII. Không đưa ra lựa chọn sẽ dẫn tới việc giải quyết tại Trọng Tài theo phụ lục VII là cơ chế bắt buộc.
Tuy nhiên, Công ước cũng giành cho các quốc gia thành viên được quyền bỏ một số tranh chấp ra khỏi phạm vi xét xử bắt buộc của phần XV, trong số này có tranh chấp về chủ quyền, về phân định biển. Theo đó trung quốc đã sử dụng quyền này để loại bỏ khả năng áp dụng thủ tục bắt buộc của phần XV vào việc giải quyết tranh chấp tại biển Đông. Trung Quốc đã tuyên bố vào ngày 25/8/2006 để loại bỏ thủ tucjgiair quyết bắt buộc của cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS đối với tất cả các tranh chấp được liệt kê tại khoản 1a,b,c của điều 298 của Công ước. Theo đó, tranh chấp liên quan đến chủ quyền và phân định biển tại biển Đông đã bị loại trừ khỏi thủ tục tranh chấp bắt buộc. Do đó cần thuyết phục Trung Quốc với tư cách là nước lớn, rút bảo lưu để đưa tranh chấp biển Đông ra giải quyết bởi cơ chế giửi quyết tranh chấp của UNCLOS nhằm đạt được giải pháp liên quan và lâu dài.
Trong khi chờ động thái như vậy của Trung Quốc, các quốc gia ven biển Đông vẫn có thể vận dụng cơ chế giải quyết của Công ước để giải quyết một số tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng một số điều khoản của Công ước, trong đó điều 121 có thể là một ví dụ. Một yêu sách như vậy có thể đệ trình lên Tòa an Công lý quốc tế hoặc Tòa luật biển dưới dạng một yêu cầu xét xử do có sự áp dụng khác nhau hoặc yêu ccầu đưa ra ý kiến tư vấn. Ngoài ra, trong các trường hợp cấp thiết, nhằm ngăn chận các hậu quả không thể khắc phục được , các bên còn có thể yêu cầu Tòa công lý quốc tế hoặc tòa luật biển ra quyết định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS trong bối cảnh hiện nay, ít nhất có thể giúp các quốc gia ven biển thống nhất việc giải quyết và áp dụng một số điều khoản quan trọng đối với tranh chấp tại biển Đông, ngăn chặn các hành vi và hậu quả nghiêm trọng qua đó hạn chế các nguy cơ đới với an ninh hàng hải.
Xây dựng cơ chế hợp tác
Nhiều mối đe dọa đến an ninh hàng hải, đặc biệt an ninh phi truyền thống là hậu quả của việc các quốc gia đã quá tốn thời giai vào việc leo thang tranh chấp và thực hiện các hoạt động củng cố yêu sách mà quên đi thực hiện các hoạt động hợp tác về vấn đề bảo vệ và bảo tồn môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, về phát triển và chuyển giao khoa học kĩ thuật hàng hải, và tôn trọng quyền của các quốc gia không có biển hoặc gặp bất lợi về mặt địa lý ( điều XIII của UNCLOS)
Hơn nữa, liên quan đến bối cảnh biển Đông, các quốc gia ven biển có nhiệm vụ đạt được các dàn xếp tạm thời trong khi chờ đợi đạt được giải pháp lâu dài theo quy định của điều 73 (3), 83(3). Hai điều khoản này quy định rằng trong khi chờ ký kết thỏa thuận phân định biển, các quốc gia hữu quan, trên tinh thần hòa bình và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến dàn xếp tạm thời có tính chất thực tiễn không phương hại hoặc cản trở việc kí kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoạn quá độ này. Các dàn xếp tạm thời không phương hại đến hoạch định cuối cùng. Công ước không quy định cụ thể về các hình thức thỏa thuận tạm thời, do vậy tinh thần hợp tác và khai thác chung chính là những hình thức thỏa thuận tạm thời đáp ứng việc thực hiện nhiệm vụ này.
Ngoài ra với đặc điểm là một vùng biển nửa kín, có nguồn tài nguyên sinh vật biển nhiệt đới vô cùng phong phú. Theo diều 123, các quốc gia ven biển Đông có nghĩa vụ hợp tác trực tiếp hoặc thông qua các thiết chế khu vực trong việc thể hiện các quyền và nghĩa vụ theo quyddinhj của Công ước nhằm: một lad quản lý , bảo tồn, thăm dò, khai thác các nguồn tài nguyên sinh vật biển; hai là phối hợp thực hiện các nghĩa vụ để bảo vệ và bảo tồn môi trường biển; ba là phối hợp thực hiện các công nghiên cứu khoa học biển và nếu phù hợp thực hiện công trình nghiên cứu khoa học biển chung trong khu vực; bốn là nếu phù hợp mời các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế tham gia để thúc đẩy việc thực hiện nghĩa vụ khu vực.
Như vậy trong khi đạt đến một giả pháp lâu dài cho tranh chấp chủ quyền tại biển Đông, các quốc gia có thể hợp tác với nhau trong các linh vực trong quy đinh của điều 123 nhằm hạn chế và kiểm soát các nguy cơ đối với an ninh phi truyền thống tại biển Đông. Biển Đông là nơi hội tụ của nhiều mối quan tâm về an ninh trên biển. Dưới góc độ an ninh truyền thống, những xung đột về yêu sách lãnh thổ và vùng biển ngày càng gay gắt khiến cho xung đột vũ trang có thể xảy ra tại khu vực biển Đông.
Dưới góc độ an ninh phi truyền thống, sự suy giảm đa dạng sinh học của môi trường sinh vật biển nửa kín, sự khai thác quá mức tài nguyên sinh vật biển, sự đe dọa đến quyền tự do và an toàn hàng hải và hàng không và sự mất an toàn về sinh kế của người dân ven biển là những nguy cơ đang hiện hữu. Tất cả những triển vọng này đặt an ninh của khu vực biển Đông ở mức báo động cao. Công ước luật biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc là một khuôn khổ pháp lý đa phương và toàn diện nhằm giúp các quốc gia sử dụng và quản lý biển một cách hòa bình, công bằng và bền vững trên cơ sở tôn trọng chủ quyền lẫn nhau.
Với mục tiêu này, các quy định của Công ước 1982 đã cung cấp cơ sở để các quốc gia trong khu vực biển Đông kiềm chế và quản lý các nguy cơ đối với an ninh trên biển. Mặc dù không tạo cơ sở pháp lý giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền, Công ước có thể giúp các bên xác định và thu hẹp đối tượng của tranh chấp chủ quyền. Công ước là cơ sở để các bên đưa ra các yêu sách vùng biển hợp pháp, từ đó xác định được các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia ven biển và các quốc gia khác.
Công ước cũng thiết lập cơ chế hợp tác về bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học biển và đặc biệt là nghĩa vụ hợp tác giữa các quốc gia trong vùng biển nửa kín. Cơ chế giải quyết tranh chấp của Công ước có thể được vận dụng để thu hẹp và tiến tới giải quyết tranh chấp, trong đó các quốc gia có nghĩa vụ đạt được giải pháp tạm thời trong khi tranh chấp chưa được giải quyết triệt để. Nhằm áp dụng hiệu quả các quy định của Công ước vào bối cảnh đặc thù của biển Đông, các quốc gia cần cụ thể hóa các quy định của Công ước để xây dựng một bộ luật ứng xử có hiệu lực ràng buộc trong khu vực.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
2.2. Ảnh hưởng của Luật biển đối với tranh chấp ở biển Đông
2.2.1 Ảnh hưởng tiêu cực của Luật biển

Công ước luật biển của Liên Hợp Quốc (1982) là công ước cả gói được ra đời sau 9 năm và 11 phiên đàm phán liên tục từ năm 1973 đến 1982. Công ước ghi nhận như một bản hiến pháp về biển với sự đồ sộ của hơn 300 điều khoản và sự toàn diện của các quy định trong các lĩnh vực quản lý và sử dụng biển. Mục tiêu của công ước nhằm thúc đẩy việc sử dụng biển vào mục đích hòa bình tận dụng các nguồn tài nguyên biển trên cơ sở nguyên tác công bằng, bền vững và tôn trọng chủ quyền lẫn nhau. Rất tiếc là đối với an ninh biển Đông, Công ước dường như không phát huy được vai trò tích cực.
Sở dĩ như vậy, vì trước hết nguyên nhân sâu xa nhất đối với mối đe dọa đối với an ninh trên biến Đông là tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ, như UNCLOS có quyết định về điều chỉnh vấn đề này. Hơn nữa, lịch sử tranh chấp biển Đông cho thấy, tranh chấp dường như bị mở rộng và leo thang một phần do Công ước. Thời điểm Công ước đang được đàm phán cũng là thời điểm tranh chấp về biển Đông ghi nhận sự mở rộng của 3 bên tranh chấp mới: Philippin, Malaysia và Brunei. Điều này có thể được lý giải bởi những quy định mới của Công ước về việc đảo có thể tạo ra các vùng biển đầy đủ như đất liền đã làm cho các quốc gia ven biển nhận ra tầm quan trọng của các thực thể tại biển Đông và đưa ra yêu sách của mình. Ngoài ra, dựa trên các quy định của Công ước như quy định về xác định đường cơ sở, cách xác định vùng ven biển, quy chế các vùng biển. Các quốc gia đã cố tình giải thích và áp dụng theo hướng có lợi nhất cho quốc gia của mình, để từ tranh chấp chủ quyền tranh chấp mở rộng thành tranh chấp về vùng biển và cạnh tranh trong việc thực thi các quyền chủ quyền về quyền tài phán để củng cố yêu sách của mình từ đó tạo ra mối đe dọa đối với an ninh hàng hải khu vực. Ngày 23/3/2011, Tân Hoa Xã, hãng tin chính thức của Trung Quốc, đã phát bài viết “Tranh chấp Nam Hải dưới góc độ của luật biển quốc tế” của hai học giả Hạ Giám và Uông Cao, Đại học Tương Đàm, trong đó không những khẳng định cái gọi là “chủ quyền”của Trung Quốc mà còn vu cáo Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác, “bẻ cong” Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc và “tranh giành chủ quyền của Trung Quốc” ở Biển Đông.
2.2.2. Vai trò tích cực của Luật biển
Tuy nhiên, ở góc độ ngược lại, người ta cũng có thể lập luận rằng hoàn toàn không có sự mâu thuẫn giữa mục đích của UNCLOS và an ninh hàng hải nhằm duy trì trật tự trên biển. Cùng với sự tham gia gần đây của Thái Lan, hầu hết các quốc gia ven biển Đông, đặc biệt là tất cả các quốc gia là các bên tranh chấp biển Đông, cũng như có lợi ích liên quan đều là thành viên của Công ước luật biển. Là thành viên, các quốc gia ven biển Đông có nghĩa vụ giải thích và thực hiện nghĩa vụ được quy định trong Công ước thiện chí theo nguyên tắc Pacta sunt servander. Theo đó các quy định của công ước sẽ phải được giải thích và áp dụng theo hướng đúng mục đích của Công ước và như vậy không thể đe dọa đến an ninh hàng hải tại biển Đông. Vai trò cụ thể của Công ước có thể được nhìn nhận ở các khía cạnh sau đây:
Vai trò của UNCLOS năm 1982 trong việc kiềm chế và quản lý các mối đe dọa an ninh hàng hải
Hạn chế và làm rõ đối tượng của yêu sách chủ quyền lãnh thổ.
Đối với yêu sách chủ quyền, mặc dù không quy định về giải pháp tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, UNCLOS có thể được áp dụng thu hẹp và làm rõ đối tượng của tranh chấp lãnh thổ. Hiện nay, đối tượng tranh chấp chủ quyền đến mất an ninh hàng hải tại biển Đông chủ yếu là yêu sách chủ quyền đối với các đảo nằm giữa biển Đông. Các quốc gia thường chỉ đưa ra yêu sách chủ quyền một cách chung chung là yêu sách chủ quyền với một nhóm các thực thể dược gọi tên là Hoàng Sa, Trường Sa và Kalayaan. Tuy nhiên không phải mọi thực thể của Hoàng Sa, Trường Sa, hoặc Kalayaan đều thỏa mãn những đối của tranh chấp lãnh thổ.
Các thực thể trên biển có thể chia thành 3 loại là các thực thể chìm, các bãi nửa nổi, nữa chìm và các đảo. UNCLOS đã định nghĩa rất rõ ràng, theo đó chỉ “các vùng nước được hình thành tự nhiên, có nước bao bọc và nổi trên mặt nước khi thủy triều lên” mới là đảo theo định nghĩa tại điều 121. Các tiêu chí về “hình thành tự nhiên”, “có nước bao bọc” và “nổi khi thủy triều lên” phải được kết hợp với nhau để xác định một thực thể là đảo. Các tiêu chí này loại bỏ khả năng can thiệp của con người để làm thay đổi định dạng, cấu trúc tự nhiên của các thực thể nhằm tạo thành đảo. Đồng thời các tiêu chí nổi kể cả khi thủy triều xuống thấp chỉ là các bãi chìm, thuộc một phần của thềm lục địa và đáy đại dương. Trong số các thực thể này, chỉ có đảo thỏa mãn là đối tượng của yêu sách lãnh thổ. Các bãi nửa nổi nửa chìm có thể được sử dụng làm điểm cơ sở cho các đảo trong một số điều kiện theo quy định của Công ước. Nó không thể là đối tượng của yêu sách chủ quyền. Đồng thời với quan điểm là bãi nửa nổi nửa chìm không thể đồng nhất với đảo, các quốc gia không được sử dụng bãi nửa nổi nửa chìm để xây dựng các công trình trên bãi nửa nổi nửa chìm trong các vùng chồng lấn làm điểm cơ sở. Ngoài ra, hành vi can thiệp của con người để xây dựng các công trình trên các bãi nửa nổi nửa chìm và bãi chìm có thể tạo ra đảo nhân tạo, những đảo nhân tạo không phải là đối tượng của yêu sách chủ quyền vì việc quy định cho phép xây đựng đảo nhân tạo thuộc quyền tài phán của quốc gia ven biển, và khi được xây dựng đảo nhân tạo cũng chỉ là vùng an toàn tối đa 500 mét, khác hoàn toàn đảo.
Như vậy, nếu giải thích và áp dụng đúng đắn quy định của UNCLOS, số lượng các đảo là đối tượng của yêu sách chủ quyền lãnh thổ tại biển Đông sẽ nhỏ hơn nhiều số lượng thực thể đang được yêu sách chủ quyền lãnh thổ hiện nay. Các quốc gia không thể tiến hành xây dựng các công trình để biến các bãi nửa nổi nửa chìm hoặc các bãi chìm thành đảo để đưa ra yêu sách chủ quyền lãnh thổ. Qua đó việc áp dụng các quy định của UNCLOS đã giúp hạn chế và làm sánh tỏ đối tượng của yêu sách chủ quyền lãnh thổ của các bên, từ đó hạn chế việc chiếm giữ các bãi chìm, bãi nổi và xây dựng các công trình nhân tạo trên thực thể này.
Thiết lập cơ sở pháp lý đối với yêu sách của biển.
Với yêu sách vùng biển theo học thuyết đất thống trị biển được pháp điển hóa vào nội dung các quy định của Công ước, các vùng biển chỉ co thể được tạo ra từ các dãnh nghĩa chủ quyền lãnh thổ. Theo đó, đất liền có thể tạo ra các vùng biển nội thủy, lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. các đảo cũng có thể tạo ra đầy đủ các vùng biển như đất liền nếu các đảo có đời sống kinh tế riêng hoặc có khả năng cho con người sinh sống. Nếu vùng biển của các quốc gia chồng lấn lên nhau thì việc phân định được thực hiện để hướng tới giải pháp công bằng. Thực tiễn áp dụng các quy định quản lý của UNCLOS có mấy điểm cần lưu ý sau đây:
Thứ nhất, việc xây dựng các vùng biển của đảo là vấn đề còn gây tranh cãi do quy định mập mờ của Công ước và các quốc gia có xu hướng tối đa lợi ích của mình thông qua giải thích rộng rãi các điều kiện về khả năng con người cư trú và đời sống kinh tế riêng của điều 121 về yêu sách đầy đủ các vùng biển cho các đảo. tuy nhiên xu hướng này đi ngược lại mục đích của điều ước 121 là để nhằm hạn chế sự mất cân đối về hiệu lực tạo ra các vùng biển giữa đất liền và các đảo, chứ không phải là công cụ để mở rộng vùng biển cho các đảo.
Thứ hai việc phân định biển để hướng đến các giải pháp công bằng đã được thực tiễn các quốc gia thực hiện với một quy định thống nhất gồm 2 bước: xác định đường cách đều và điều chỉnh đường này nhằm đạt được giải pháp công bằng. Trong số các tiêu chí để xác định sự điều chỉnh, tỷ lệ độ dài bờ biển luôn là yếu tố có sức mạnh. Điều này cho thấy, cho dù các đảo ở biển Đông có thể được yêu sách đầy đủ vùng biển, nhưng do kích thước quá nhỏ bé, tỉ lệ bờ biển của các đao chênh lệch lớn vơi bờ biển của các quốc gia ven biển khi nhận định các đảo này sẽ chệnh lệch lớn đối với bờ biển của các quốc gia ven biển nên khi phân định các đảo này sẽ không bao giờ được hướng đầy đủ hiệu lực. Phán quyết gần đây giữa Ukraina và Rumani đã cho thấy để phân định biển giữa hai quốc gia, tòa không cần xem xét về việc đảo Serpent là đảo thuộc quy định tại khoản 2 (tức là có đầy đủ các vùng biển) hay đảo thuộc quy định tại điều 3 điều 121 để có thể phân định được vùng biển chồng lấn giữa hai quốc gia. Như vậy, nhìn vào đặc điểm địa lý của biển Đông có thể thấy việc yêu sách vùng biển cho các đảo ở biển Đông không thực sự quan trọng, vì các đở này sẽ bị giảm hiệu lực thạm chí bỏ qua khi phân định biển với các vùng biển đất liền và kết luận này không phụ thuộc vào chủ quyền đối với các dỏa thuộc quốc gia nào.
Thứ ba, ngoài cơ sở pháp lý để xác định vùng biển, UNCLOS không quy đinh về cơ sở lịch sử để yêu sách các vùng biển, mà chỉ đề cập đến khái niệm vịnh lich sử. Thực tiễn quốc tế cũng cho thấy thuật ngữ lịch sử chỉ áp dụng cho vùng nước lịch sử và vịnh lịch sử với ý nghĩa như là nội thủy và để thiết lập vùng nước lịch sử hay vinh lịch sử cần thỏa mãn các yêu cầu về chiếm hữu thực sự, hòa bình, liên tục trong thời gian dài và không có sự phản đối của các quốc gia có liên quan. Thực tiễn về chiếm hữu thực sự, hòa bình, liên tục trong thời gian dài và không có sự phản đối của các quốc gia có liên quan không tồn tại ở biển Đông.
Như vậy có thể thấy, việc áp dụng đúng đắn Công ước 1982 sẽ tạo sơ sở hợp pháp cho yêu sách vùng biển của mỗi bên. Theo đó, yêu sách vùng biển cần được dựa trên các vùng biển tạo ra từ bờ biển đất liền của các quốc gia ven biển. Do các đặc thù về tự nhiên và địa lý, các đảo giữa biển đông không được yêu sách có đầy đủ các vùng biển, cho dù được các yêu sách như vậy, các đảo này cũng không thể hưởng nguyên các vùng biển được yêu sách trong phân định biển do có chồng lấn với vùng biển của các quốc gia ven biển khác. Các yêu sách về vùng biển dựa trên cơ sở lịch sử không phù hợp với quy đinh của UNCLOS. Với ý nghĩa này, các quốc gia ven biển Đông có thể định hướng pháp lý cho những yêu sách vùng biển, từ đó phạm vi các vùng biển không có tranh chấp được làm rõ.
Tạo cơ sở pháp lý cho các hành xử phù hợp
UNCLOS không chỉ định ra cơ sở pháp lý để xác định giới hạn của các yêu sách các vùng biển mà còn định ra các chế độ pháp lý của các vùng biển. Chế độ pháp lý của từng vùng biển được đặc trưng bởi quy định về quyền và nghĩa vụ của hai nhóm nước: quốc gia ven biển và các quốc gia khác. Các quốc gia khác có nghĩa vụ tôn trọng quyền và nghĩa vụ của các quốc gia ven biển và ngược lại. Theo đó nội thủy và lãnh hải thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển. Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc quyền chủ quyền của quốc gia ven biển trong lĩnh vực thăm dò, khai thác và quản lý, bảo tồn sinh vật và phi sinh vật biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Các quốc gia ven biển cũng có quyền tài phán đối với việc lắp đặt, sử dụng các công trình, các đảo nhân tạo, lắp dây cáp, ống dẫn ngầm và nghiên cứu khoa học biển. Các quốc gia khác được hưởng quyền qua lại không gây hại trong lãnh hải, quyền tự do hàng không, hàng hải tại vùng đặc quyền kinh tế.
Từ những phân tích về cơ sở pháp lý của yêu sách vùng biển, trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia ven biển, các quốc gia ven biển Đông có toàn quyền thực hiện các hoạt động thăm dò, khai thác, bảo tồn, quản lý tài nguyên thiên nhiên. Có hành vi quấy rối, đe dọa sử dụng vũ lực đối với các tàu thăm dò, khảo sát tài nguyên thiên nhiên, bắt giữ tàu cá và dơn phương áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá tại các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia ven biển là vi phạm các quyền của các quốc gia ven biển theo quy định của UNCLOS.
Ngược lại, các quốc gia ven biển cũng cần tôn trọng quyền lợi của các quốc gia khác, không được có hành vi cản trở quyền tự do hàng hải và tự do hàng không của tàu thuyền và các phương tiện bay, không được có hành vi phân biệt đối xử khi trao quyền qua lại vô hại tại lãnh địa.
Như vậy, nếu thực hiện đúng quy định của UNCLOS thì đa số các hành vi mà các bên tranh chấp hiện nay nhằm củng cố chủ quyền, đồng thời gây mất trật tự an ninh hàng hải là hành vi vi phạm nghĩa vụ mà các quốc gia thành viên đã cam kết khi tham gia UNCLOS. Việc giải thích và áp dụng đúng đắn UNCLOS sẽ giúp các mối đe dọa đến an ninh hàng hải dược hạn chế và kiểm soát.
Đề ra cơ chế giải quyết tranh chấp
Cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định tai điều XV đã giúp các quốc gia giải quyết những bất đồng về giải thích và thực hiện các nghĩa vụ của Công ước. Theo đó, UNCLOS khẳng định nguyên tắc cơ bản của giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia thành viên thông qua các biện pháp hòa bình. Để thực hiện nguyên tắc này, trước hết các bên tranh chấp cẩn giải quyết tranh chấp thông qua trao đổi quan điểm và hòa giải. Nếu sau một thời gian hợp lý, tranh chấp chưa được giải quyết thì các bên có nghĩa vụ bắt buộc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp tư pháp. Trong đao, các quốc gia có quyền lựa chọn một trong bốn cơ chế: Tòa án Công lý quốc tế, Tòa án luật biển của Liên Hợp Quốc, trọng tài theo mục VII và trọng tài theo mục VIII. Không đưa ra lựa chọn sẽ dẫn tới việc giải quyết tại Trọng Tài theo phụ lục VII là cơ chế bắt buộc.
Tuy nhiên, Công ước cũng giành cho các quốc gia thành viên được quyền bỏ một số tranh chấp ra khỏi phạm vi xét xử bắt buộc của phần XV, trong số này có tranh chấp về chủ quyền, về phân định biển. Theo đó trung quốc đã sử dụng quyền này để loại bỏ khả năng áp dụng thủ tục bắt buộc của phần XV vào việc giải quyết tranh chấp tại biển Đông. Trung Quốc đã tuyên bố vào ngày 25/8/2006 để loại bỏ thủ tucjgiair quyết bắt buộc của cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS đối với tất cả các tranh chấp được liệt kê tại khoản 1a,b,c của điều 298 của Công ước. Theo đó, tranh chấp liên quan đến chủ quyền và phân định biển tại biển Đông đã bị loại trừ khỏi thủ tục tranh chấp bắt buộc. Do đó cần thuyết phục Trung Quốc với tư cách là nước lớn, rút bảo lưu để đưa tranh chấp biển Đông ra giải quyết bởi cơ chế giửi quyết tranh chấp của UNCLOS nhằm đạt được giải pháp liên quan và lâu dài.
Trong khi chờ động thái như vậy của Trung Quốc, các quốc gia ven biển Đông vẫn có thể vận dụng cơ chế giải quyết của Công ước để giải quyết một số tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng một số điều khoản của Công ước, trong đó điều 121 có thể là một ví dụ. Một yêu sách như vậy có thể đệ trình lên Tòa an Công lý quốc tế hoặc Tòa luật biển dưới dạng một yêu cầu xét xử do có sự áp dụng khác nhau hoặc yêu ccầu đưa ra ý kiến tư vấn. Ngoài ra, trong các trường hợp cấp thiết, nhằm ngăn chận các hậu quả không thể khắc phục được , các bên còn có thể yêu cầu Tòa công lý quốc tế hoặc tòa luật biển ra quyết định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS trong bối cảnh hiện nay, ít nhất có thể giúp các quốc gia ven biển thống nhất việc giải quyết và áp dụng một số điều khoản quan trọng đối với tranh chấp tại biển Đông, ngăn chặn các hành vi và hậu quả nghiêm trọng qua đó hạn chế các nguy cơ đới với an ninh hàng hải.
Xây dựng cơ chế hợp tác
Nhiều mối đe dọa đến an ninh hàng hải, đặc biệt an ninh phi truyền thống là hậu quả của việc các quốc gia đã quá tốn thời giai vào việc leo thang tranh chấp và thực hiện các hoạt động củng cố yêu sách mà quên đi thực hiện các hoạt động hợp tác về vấn đề bảo vệ và bảo tồn môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, về phát triển và chuyển giao khoa học kĩ thuật hàng hải, và tôn trọng quyền của các quốc gia không có biển hoặc gặp bất lợi về mặt địa lý ( điều XIII của UNCLOS)
Hơn nữa, liên quan đến bối cảnh biển Đông, các quốc gia ven biển có nhiệm vụ đạt được các dàn xếp tạm thời trong khi chờ đợi đạt được giải pháp lâu dài theo quy định của điều 73 (3), 83(3). Hai điều khoản này quy định rằng trong khi chờ ký kết thỏa thuận phân định biển, các quốc gia hữu quan, trên tinh thần hòa bình và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến dàn xếp tạm thời có tính chất thực tiễn không phương hại hoặc cản trở việc kí kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoạn quá độ này. Các dàn xếp tạm thời không phương hại đến hoạch định cuối cùng. Công ước không quy định cụ thể về các hình thức thỏa thuận tạm thời, do vậy tinh thần hợp tác và khai thác chung chính là những hình thức thỏa thuận tạm thời đáp ứng việc thực hiện nhiệm vụ này.
Ngoài ra với đặc điểm là một vùng biển nửa kín, có nguồn tài nguyên sinh vật biển nhiệt đới vô cùng phong phú. Theo diều 123, các quốc gia ven biển Đông có nghĩa vụ hợp tác trực tiếp hoặc thông qua các thiết chế khu vực trong việc thể hiện các quyền và nghĩa vụ theo quyddinhj của Công ước nhằm: một lad quản lý , bảo tồn, thăm dò, khai thác các nguồn tài nguyên sinh vật biển; hai là phối hợp thực hiện các nghĩa vụ để bảo vệ và bảo tồn môi trường biển; ba là phối hợp thực hiện các công nghiên cứu khoa học biển và nếu phù hợp thực hiện công trình nghiên cứu khoa học biển chung trong khu vực; bốn là nếu phù hợp mời các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế tham gia để thúc đẩy việc thực hiện nghĩa vụ khu vực.
Như vậy trong khi đạt đến một giả pháp lâu dài cho tranh chấp chủ quyền tại biển Đông, các quốc gia có thể hợp tác với nhau trong các linh vực trong quy đinh của điều 123 nhằm hạn chế và kiểm soát các nguy cơ đối với an ninh phi truyền thống tại biển Đông. Biển Đông là nơi hội tụ của nhiều mối quan tâm về an ninh trên biển. Dưới góc độ an ninh truyền thống, những xung đột về yêu sách lãnh thổ và vùng biển ngày càng gay gắt khiến cho xung đột vũ trang có thể xảy ra tại khu vực biển Đông.
Dưới góc độ an ninh phi truyền thống, sự suy giảm đa dạng sinh học của môi trường sinh vật biển nửa kín, sự khai thác quá mức tài nguyên sinh vật biển, sự đe dọa đến quyền tự do và an toàn hàng hải và hàng không và sự mất an toàn về sinh kế của người dân ven biển là những nguy cơ đang hiện hữu. Tất cả những triển vọng này đặt an ninh của khu vực biển Đông ở mức báo động cao. Công ước luật biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc là một khuôn khổ pháp lý đa phương và toàn diện nhằm giúp các quốc gia sử dụng và quản lý biển một cách hòa bình, công bằng và bền vững trên cơ sở tôn trọng chủ quyền lẫn nhau.
Với mục tiêu này, các quy định của Công ước 1982 đã cung cấp cơ sở để các quốc gia trong khu vực biển Đông kiềm chế và quản lý các nguy cơ đối với an ninh trên biển. Mặc dù không tạo cơ sở pháp lý giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền, Công ước có thể giúp các bên xác định và thu hẹp đối tượng của tranh chấp chủ quyền. Công ước là cơ sở để các bên đưa ra các yêu sách vùng biển hợp pháp, từ đó xác định được các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia ven biển và các quốc gia khác.
Công ước cũng thiết lập cơ chế hợp tác về bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học biển và đặc biệt là nghĩa vụ hợp tác giữa các quốc gia trong vùng biển nửa kín. Cơ chế giải quyết tranh chấp của Công ước có thể được vận dụng để thu hẹp và tiến tới giải quyết tranh chấp, trong đó các quốc gia có nghĩa vụ đạt được giải pháp tạm thời trong khi tranh chấp chưa được giải quyết triệt để. Nhằm áp dụng hiệu quả các quy định của Công ước vào bối cảnh đặc thù của biển Đông, các quốc gia cần cụ thể hóa các quy định của Công ước để xây dựng một bộ luật ứng xử có hiệu lực ràng buộc trong khu vực.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
2. 3. Áp dụng luật biển vào tình hình cụ thể của biển Đông
2. 3. Áp dụng luật biển vào tình hình cụ thể của biển Đông
Trong tác phẩm “Sự đảo lộn trật tự thế giới địa chính trị thế kỉ XX” của tác giả Maridân Tuarenơ có viết: “Nên xem trật tự thế giới khi có 3 điều kiện: Sự tồn tại của nhà nước chính trị có đủ tiêu chuẩn; sự tồn tại của những quy tắc chơi được thừa nhận; sự tồn tại của cái được thua chung, những cái sáng tạo ra một cái hợp lí chính trị có được sự nhất trí chung. Tuy nhiên vấn đề biển Đông thì không phải theo thỏa thuận được thua chung, nhưng vẫn được coi là trật tự thế giới. Công ước luật biển quốc tế 1982, có vai trò như một công cụ pháp lý để duy trì trật tự trên biển Đông.
Tính đến nay, đã có 161 quốc gia và tổ chức quốc tế tham gia Công ước Luật Biển năm 1982, trong đó có 7 quốc gia ven Biển Đông là Việt Nam, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Brunei.
Áp dụng Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc vào điều kiện cụ thể của Biển Đông chúng ta thấy mấy điểm cơ bản sau đây.
Một là, các quốc gia ven Biển Đông có chủ quyền đối với nội thủy và lãnh hải 12 hải lý kể từ đường cơ sở của mình. Đáng lưu ý là theo luật biển quốc tế những năm 40 - 50 của thế kỷ trước, vùng lãnh hải của các quốc gia ven Biển Đông chỉ có 3 hải lý và toàn bộ phía ngoài 3 hải lý đó là vùng biển quốc tế. Như vậy, Công ước đã mở rộng phạm vi vùng lãnh hải của các quốc gia ven Biển Đông thêm 9 hải lý. .
Hai là, mỗi quốc gia ven Biển Đông có quyền chủ quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa tối thiếu 200 hải lý của mình. Chiều rộng của hai vùng biển này đều được đo từ đường cơ sở dùng để tính lãnh hải. Trong trường hợp thềm lục địa thực tế lớn hơn 200 hải lý thì quốc gia ven Biển Đông có thể mở rộng thềm lục địa của mình đến 350 hải lý với điều kiện tuân thủ đúng các quy định và thủ tục nêu trong Công ước.
Mỗi quốc gia ven Biển Đông có toàn quyền thăm dò, khai thác các tài nguyên trong các vùng biển của mình, đặc biệt là trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, để phục vụ đời sống nhân dân và phát triển đất nước. Mỗi quốc gia ven Biển Đông có toàn quyền quyết định cho phép hay không cho phép các quốc gia khác khai thác tài nguyên trong các vùng biển của mình. Mỗi quốc gia ven Biển Đông có nghĩa vụ tôn trọng các quyền chủ quyền đó của các quốc gia láng giềng khác ven Biển Đông.
Đồng thời, phù hợp các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, các quốc gia ven Biển Đông có nghĩa vụ tôn trọng quyền của các quốc gia khác được tự do hàng hải, tự do hàng không ở trong vùng đặc quyền kinh tế và ở vùng trời trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia ven biển.
Ba là, xuất phát từ Công ước Luật Biển năm 1982 thì sự kiện Trung Quốc ký hợp đồng với Công ty Creston năm 1992 ở bãi Tư Chính của Việt Nam và chính thức đưa yêu sách “đường lưỡi bò” ra Liên hợp quốc vào tháng 5/2009 cần được nhìn nhận thế nào? Khu vực bãi Tư Chính hoàn toàn nằm trong phạm vi thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam và đã được Việt Nam phân lô thăm dò dầu khí. Việc Công ty Dầu khí quốc gia Trung Quốc vào năm 1992 ký với Công ty Creston của Mỹ hợp đồng thăm dò dầu khí tại khu vực bãi Tư Chính trong thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam (mà họ đặt tên là Vạn An Bắc) là sự vi phạm trắng trợn quyền chủ quyền của Việt Nam theo Công ước Luật Biển năm 1982.
Còn về yêu sách “đường lưỡi bò” hay “đường 9 đoạn,” thì các học giả Trung Quốc đều biết rõ là tại Hội thảo quốc tế về Biển Đông ở Hà Nội (2009) và Thành phố Hồ Chí Minh (2010) cũng như các Hội thảo quốc tế khác, các học giả Pháp, Bỉ, Mỹ và nhiều học giả quốc tế khác đã nêu rõ yêu sách “đường lưỡi bò” mơ hồ, không có cơ sở và cho rằng Trung Quốc cần giải thích rõ bản chất pháp lý của các vùng biển trong “đường lưỡi bò” đó. Nhưng cho đến nay, cả chính giới lẫn học giả Trung Quốc đều không thể đưa ra các câu trả lời thỏa đáng.
Dùng các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982 mà Trung Quốc cũng là một bên tham gia để đối chiếu thì ai cũng thấy rằng yêu sách này hoàn toàn trái với các quy định của Công ước. Không một quy định nào của Công ước có thể biện minh cho yêu sách “đường lưỡi bò.” Đơn giản bởi vì vùng biển mà “đường lưỡi bò” ngoạm vào không thể nào là lãnh hải hoặc vùng đặc quyền kinh tế hoặc là thềm lục địa của Trung Quốc. Đó chính là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia và Brunei.
Yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý nói trên đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền của 5 nước ASEAN đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình. Chính vì vậy, mà Việt Nam, Malaysia, Indonesia và Philippines lần lượt gửi công hàm đến Tổng Thư ký Liên hợp quốc bác bỏ yêu sách này.
Việc đưa yêu sách phi lý nói trên ra Liên hợp quốc và tiến hành các việc làm gần đây ở trên thực địa nhằm theo đuổi yêu sách này đang làm cho tình hình Biển Đông trở nên phức tạp hơn, gây lo ngại thực sự cho cộng đồng thế giới và buộc dư luận phải lên tiếng. Không chỉ các quốc gia liên quan tranh chấp ở Biển Đông mà dư luận của nhiều quốc gia khác cũng đã bày tỏ ý kiến bất bình trước yêu sách này.
Đối với việc giải quyết tranh chấp chủ quyền đối với lãnh thổ, pháp luật quốc tế đã hình thành nguyên tắc xác lập chủ quyền là nguyên tắc chiếm hữu thật sự và thực hiện quyền lực Nhà nước một cách thật sự, liên tục và hòa bình. Nguyên tắc này đã được các nước và các cơ quan tài phán quốc tế áp dụng để giải quyết nhiều vụ tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ ở trên thế giới. Trong số đó, các vụ kinh điển thường được viện dẫn nhiều là vụ tranh chấp đảo Palmas giữa Mỹ và Hà Lan, vụ Minquiers và Ecréhous giữa Anh và Pháp, vụ đảo Clipperton giữa Mexico và Pháp, vụ Greenland giữa Na Uy và Đan Mạch…
Tất cả các nước có yêu sách trong khu vực trung tâm biển Đông đề đã kí và phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về luật biển. Như vậy bằng nhiều cách họ cũng đã đóng góp cho sự phát triển của tập quán quốc tế thông qua thỏa thuân song phương và giả pháp có sự tham gia của bên thứ ba, và họ cũng chú ý đến cách thức mà các bên thỏa thuận, giải pháp ở khu vực khác trên thế giới tọ thành tiền lệ. Tựu chung tát cả các điền này tạo thành một cơ chế pháp lý quan trọng. Tuyên bố của ASEAN – Trung Quốc năm 2002 về ứng xử của các bên ở biển Đông (tuyên bố DOC) đề cập đến “ các nguyên tắc được thừa nhận toàn cầu của luật pháp quốc tế, bao gồm công ước về luật biển 1982. Điểm đầu tiên ghi rằng: Các bên khẳng định các cam kết của họ đối với mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc, Công ước Liên Hợp Quốc về luật biển năm 1982, hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á, nguyên tắc 5 điểm chung sống hòa bình và nguyên tắc được thừa nhận khác nhau của pháp luật quốc tế được dùng như tiêu chí cơ bản để điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia.”
 
Chỉnh sửa cuối:

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
2.4. Việt Nam và Công ước luật Biển năm 1982 của LHQ
Là một quốc gia ven biển, Việt Nam đã tích cực tham gia vào quá trình thương lượng về dự thảo Công ước luật Biển năm 1982. Việt Nam đánh giá cao việc hội nghị lần thứ III của LHQ về luật Biển thông qua Công ước luật Biển năm 1982. Trong quá trình thương lượng tại hội nghị, sự tập hợp lực lượng và sự đấu tranh về nội dung của dự thảo công ước diễn ra từ góc độ các nhóm nước khác nhau: nhóm nước ven biển và nhóm nước không có biển, nhóm nước đang phát triển và nhóm nước phát triển, nhóm nước nghèo và nhóm nước có tiềm lực hải quân hùng mạnh… Lợi ích và quan tâm của các nhóm nước đối với quy chế pháp lý các vùng biển rất khác nhau và nhiều lúc rất mâu thuẫn. Vì vậy, các quy định của Công ước luật Biển năm 1982 không thể thỏa mãn tất cả các yêu sách mà các nhóm nước đặt ra, nhưng về tổng thể đã dung hòa yêu cầu và quan tâm của các nhóm.
Sau khi Công ước luật Biển năm 1982 được thông qua, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên ký công ước và ngày 23.6.1994, Quốc hội nước ta đã quyết định phê chuẩn văn kiện pháp lý quan trọng này. Từ khi trở thành thành viên của Công ước luật Biển năm 1982, nước ta đã tích cực tham gia các hoạt động trong khuôn khổ các cơ chế quốc tế theo công ước. Việt Nam đã được bầu làm Phó chủ tịch Đại hội đồng Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương và thành viên của Hội đồng Cơ quan Quyền lực. Tại các diễn đàn liên quan, Nhà nước ta luôn khẳng định trong hoạt động sử dụng biển các quốc gia phải tuân thủ đúng các quy định trong công ước, thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo công ước. Là một quốc gia ven biển Đông, Nhà nước ta triển khai nhiều hoạt động khai thác các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của mình để xây dựng và phát triển đất nước. Trong khi tiến hành các hoạt động ở biển Đông, Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của công ước, tôn trọng quyền của các quốc gia khác ven biển Đông cũng như các quốc gia khác theo đúng các quy định của công ước. Đồng thời Nhà nước ta cũng yêu cầu các quốc gia ven biển Đông và các quốc gia khác tôn trọng các quyền lợi chính đáng của Việt Nam ở biển Đông. Trong thực tế, có lúc đã xảy ra một số vụ việc xâm hại nghiêm trọng quyền chủ quyền của Việt Nam đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của mình. Nhà nước ta đã kiên quyết đấu tranh ở các cấp qua đường ngoại giao và dư luận cũng như trên thực địa để bảo vệ quyền chủ quyền của Việt Nam đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Việt Nam nhận thức rõ ràng rằng trong việc sử dụng biển và áp dụng Công ước luật Biển năm 1982 việc nảy sinh các bất đồng và tranh chấp giữa các quốc gia là điều khó tránh. Cách thức duy nhất để giải quyết những sự khác biệt và các tranh chấp giữa các quốc gia liên quan đến giải thích và thực hiện các quy định của công ước chính là sử dụng các biện pháp hòa bình theo pháp luật quốc tế quy định. Giải quyết các tranh chấp biển bằng các biện pháp hòa bình vừa là nghĩa vụ của các thành viên LHQ theo quy định của Hiến chương và vừa là nghĩa vụ theo Công ước luật Biển năm 1982.
Chính vì vậy, Nghị quyết của Quốc hội nước ta về việc phê chuẩn Công ước luật Biển năm 1982 tuyên bố rõ Nhà nước Việt Nam chủ trương giải quyết các bất đồng liên quan đến biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước luật Biển năm 1982 của LHQ, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển Đông đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản lâu dài, các bên liên quan cần duy trì hòa bình, ổn định trên cơ sở giữ nguyên hiện trạng, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
Với chủ trương nhất quán và xuyên suốt đó, Nhà nước ta đã căn cứ vào các quy định của Công ước luật Biển năm 1982 tiến hành đàm phán với các nước láng giềng về các vấn đề liên quan biển Đông. Thời gian qua ta và một số nước láng giềng liên quan như Thái Lan, Trung Quốc và Indonesia đã giải quyết một số tranh chấp về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa chồng lấn. Năm 1997, ta và Thái Lan ký Hiệp định phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong vịnh Thái Lan. Năm 2000, ta và Trung Quốc ký Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong vịnh Bắc bộ. Năm 2003, ta và Indonesia ký Hiệp định phân định thềm lục địa của hai nước ở phía nam biển Đông. Sau khi có hiệu lực, các hiệp định này đã được lưu chiểu tại LHQ theo đúng quy định của Hiến chương LHQ. Phù hợp với nghĩa vụ theo Công ước luật Biển năm 1982 và các cam kết theo Tuyên bố năm 2002 giữa ASEAN và Trung Quốc về ứng xử của các bên ở biển Đông, Nhà nước Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục hành động theo chủ trương tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của Công ước luật Biển năm 1982; đồng thời yêu cầu kêu gọi các quốc gia khác tuân thủ nghĩa vụ này. Lập trường đó của Nhà nước Việt Nam đang nhận được sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế. Điều đó cho thấy, nỗ lực của Việt Nam nhằm quốc tế hóa các tranh chấp ở biển Đông bằng cách thu hút Mỹ và các cường quốc bên ngoài.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
TÚM LẠI
Các vấn đề liên quan Biển Đông rất phức tạp, hệ trọng và nhạy cảm đối với nhiều quốc gia liên quan. Các nguồn lợi trong các vùng biển ở Biển Đông rất quan trọng đối với kế sinh nhai và đời sống hàng ngày của hàng trăm triệu con người của 9 quốc gia ven Biển Đông. Các tài nguyên thiên nhiên ở đây là một điều kiện cần thiết cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế của các nước liên quan. Các nước ven Biển Đông đang đẩy mạnh các hoạt động thực hiện chủ quyền biển, đảo của mình. Đồng thời các hoạt động khác liên quan đến Biển Đông cũng hết sức đa dạng, phong phú (tự do, an toàn hàng hải, chống tội phạm trên biển..) và gắn với lợi ích của nhiều quốc gia khác nhau (cả trong và ngoài khu vực).
Từ đó, một yêu cầu hết sức khách quan đặt ra cho tất cả các nước có hoạt động liên quan Biển Đông là phải tuân thủ luật chơi chung mà cộng đồng quốc tế, trong đó có các quốc gia ven Biển Đông, đã dày công xây dựng - Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc.
Công ước luật biển năm 1982 một nỗ lực của Liên Hợp Quốc, trong khi Liên Hợp Quốc được xem như công cụ để duy trì trât tự hai cực Ianta, vậy Công ước cũng là một phần để duy trì trật tự đó.
Khi vận dụng Công ước để thực thi chủ quyền và quyền chủ quyền đối với nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình như được quy định trong Công ước, quốc gia ven Biển Đông có nghĩa vụ tôn trọng chủ quyền và quyền chủ quyền của các nước khác ven Biển Đông đối với lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ. Đó là nghĩa vụ của quốc gia thành viên Liên hợp quốc. Đó là nghĩa vụ theo Công ước Luật Biển năm 1982. Đó là nghĩa vụ theo Công ước Vienna năm 1969 về Luật điều ước.
Sẽ là rất không công bằng và phi lý khi một quốc gia ven Biển Đông tùy tiện vẽ ra một đường yêu sách mơ hồ, trái với Công ước Luật Biển năm 1982, vi phạm các vùng biển của các quốc gia láng giềng, tạo ra “vùng tranh chấp”trong vùng biển của quốc gia láng giềng, để rồi đòi các quốc gia láng giềng bị nạn “gác tranh chấp, cùng khai thác” trên chính thềm lục địa của họ. Tương tự, việc một quốc gia ven Biển Đông tự ý quy định cấm đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia láng giềng khác cũng là việc làm trái với quy định của Công ước Luật Biển năm 1982. Cách hành xử như vậy, rõ ràng là những sự vi phạm cam kết quốc tế của một nước thành viên Liên hợp quốc theo Hiến chương của tổ chức này.
Sự tồn tại các tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như tranh chấp về các vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn là một thực tế khách quan. Việc giải quyết các tranh chấp này, đặc biệt là tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo, là một công việc khó khăn, phức tạp, nhưng không phải là không thể giải quyết được.
Các tranh chấp liên quan đến Biển Đông dĩ nhiên là phức tạp. Con đường đi đến giải pháp cuối cùng cho các tranh chấp mà các bên liên quan đều chấp nhận được sẽ không bằng phẳng và còn dài. Thực tế đó đòi hỏi các bên tranh chấp ở Biển Đông tăng cường nhiều nỗ lực hơn nữa. Trong quá trình tìm kiếm giải pháp cơ bản lâu dài cho các tranh chấp, các bên cần tuân thủ các cam kết đã được nêu trong Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) ký giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002, đặc biệt là cam kết không có bất cứ hành động nào làm phức tạp thêm tình hình ở biển Đông.
Các quốc gia thành viên ASEAN và Trung Quốc cũng cần tăng cường các nỗ lực, cùng nhau phấn đấu để xây dựng một văn kiện có tính pháp lý cao hơn, có tính ràng buộc cao hơn là Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Về hình thức văn kiện này có thể có thể dưới dạng một Hiệp ước, hoặc một Hiệp định, hoặc một Thỏa thuận, hoặc cũng có thể là một MOU giữa ASEAN và Trung Quốc được các đại diện có thẩm quyền của ASEAN và Trung Quốc ký, sau đó được các cơ quan có thẩm quyền của ASEAN và Trung Quốc phê duyệt.
Tôn trọng các nguyên tắc cơ bản (các nguyên tắc just cogent) của pháp luật quốc tế, tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, tôn trọng các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, thực hiện đầy đủ các cam kết trong DOC, tiến tới xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông, cùng chung sức theo hướng biến Biển Đông thành vùng biển hòa bình, hữu nghị và hợp tác chính là chìa khóa cho các vấn đề phức tạp ở Biển Đông hiện nay.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Tổng hợp từ các tài liệu sau ạ:

1. Đặng Đình Quý (cb), Biển Đông hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực: Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế . - H. 2010
2. B.M Claget, Những yêu sách đối kháng của Việt Nam và Trung Quốc ở khu vực bãi ngầm Tư Chính và Thanh Long, Nd. Nguyễn Quang Vinh, cao Xuân Thự, H. Chính trị quốc gia- Sự thật, 2012
3. TS. Nguyễn Thị Lan Anh, Công ước Luật biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc và an ninh hàng hải tại khu vực Biển Đông, Bài tham luận tại Hội thảo Khoa học Quốc tế lần thứ ba: “Biển Đông: Hợp tác vì An ninh và Phát triển trong Khu vực” do Học viện Ngoại giao và Hội Luật gia đồng tổ chức tại Hà Nội từ 4-5/11/2011.
4. Nguyễn Việt Long, Lẽ phải luật quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, NXB Trẻ, TP HCM, 2013
5. GS. Stein Tønnesson, Luật Pháp Quốc tế ở Biển Đông:thúc đẩy hay hỗ trợ giải quyết xung đột?, Bài tham luận tại Hội thảo Khoa học Quốc tế lần thứ ba: “Biển Đông: Hợp tác vì An ninh và Phát triển trong Khu vực” do Học viện Ngoại giao và Hội Luật gia đồng tổ chức tại Hà Nội từ 4-5/11/2011.
6. www. Nghiencuubiendong.vn
7. www.wikipedia.org.vn
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Còn đây là Tìm hiểu về “đường lưỡi bò”/chữ U
Đường 9 đoạn còn gọi là Đường lưỡi bò, Đường chữ U, là tên gọi dùng để chỉ đường quốc giới hải vực biển Đông mà Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chủ trương, đuợc cho là của Trịnh Tư Ước, nguyên là quan chức phụ trách Vụ Nội chính tiện tay vẽ vào
Lịch sử: Đường chín đoạn được hình thành dựa trên cơ sở "đường mười một đoạn" của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc. Đường mười một đoạn là đường quốc giới trên biển Đông do mười một đoạn liên tục tạo thành, xuất hiện công khai lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1948 trong phụ đồ "Bản đồ vị trí các đảo Nam Hải" của "Bản đồ khu vực hành chính Trung Hoa Dân Quốc" do Cục Phương vực Bộ Nội chính Trung Hoa Dân Quốc phát hành. Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa sau khi thành lập vẫn xác định cương vực trên biển Đông theo "đường mười một đoạn" của Trung Hoa Dân Quốc, đến năm 1953 thì bỏ hai đoạn trong vịnh Bắc Bộ, trở thành "đường chín đoạn".
Đặc điểm: Đường chín đoạn bao trọn bốn nhóm quần đảo, bãi ngầm lớn trên biển Đông là quần đảo Hoàng Sa, Quần đảo Trường Sa, quần đảo Đông Sa và bãi Macclesfield với khoảng 75% diện tích mặt nước của biển Đông, chỉ còn lại khoảng 25% cho tất cả các nước Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, và Việt Nam, tức mỗi nước được trung bình 5%
* Tranh chấp nội vùng đường 9 đoạn
Các sự kiện nổi lên trong quan hệ Việt Trung như cản trở hợp đồng của BP với Việt Nam tại khu vực bồn trũng Nam Côn Sơn (năm 2007), cản trở hợp đồng của Exxon Mobil với Việt Nam (năm 2008)[3], vụ tàu Trung Quốc bắn ngư dân Việt Nam năm 2007, vụ căng thẳng giữa tàu thăm dò đại dương USNS Impeccable (T-AGOS-23) của Mỹ với một số tàu Trung Quốc đầu năm 2009 v.v. đều nằm trong ranh giới đường chín đoạn trên biển này.
Trong năm 2012, bãi cạn Scarborough-một bãi đá nằm cách bờ biển Philippines tầm 124 hải lý và hoàn toàn thuộc vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của nước này-đã trở thành mục tiêu tranh chấp căng thẳng và kéo dài giữa Trung Quốc và Philippines. Bãi cạn Scarborough nằm trong vùng biển mà đường chín đoạn đã vẽ.
Ngày 23 tháng 6 năm 2012, Tổng công ty Dầu khí hải dương Trung Quốc (CNOOC) công bố mời thầu quốc tế với chín lô dầu khí. Các lô dầu khí này, chiếm diện tích tới 160.129 km2, thuộc nội vùng biển của đường chín đoạn nhưng nằm sâu trên thềm lục địa của Việt Nam. Chồng lên các lô từ 128 đến 132 và từ 145 đến 156 mà Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã và đang tiến hành các hoạt động dầu khí cùng đối tác của mình
* Vấn đề công nhận
Từ khi Trung Hoa Dân Quốc công bố ranh giới chín đoạn vào năm 1947 cho tới nay, Trung Hoa Dân Quốc và Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa cũng chưa bao giờ chính thức nói ý nghĩa của ranh giới đó là gì: nó là ranh giới cho chủ quyền đối với các đảo hay cho cả chủ quyền đối với các vùng nước. Nếu cho cả chủ quyền đối với các vùng nước thì với tư cách gì: nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, hay biển lịch sử[3], dù Trung Quốc đã có nhiều hành động thực tế bên trong ranh giới chín đoạn, thí dụ như: khảo sát vùng bãi ngầm James sát bờ biển Malaysia (năm 1983), ký hợp đồng khảo sát vùng Tư Chính với Crestone (năm 1992), quy định là tất cả các bản đồ của Trung Quốc phải vẽ ranh giới chín đoạn (năm 2006).
Sau vụ đụng độ giữa Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam năm 1988, một số học giả Trung Quốc nói rằng ranh giới chín đoạn là ranh giới biển lịch sử của Trung Quốc. Tuy nhiên, dù Trung Quốc có đề cập tới chủ quyền lịch sử của họ ở Biển Nam Trung Hoa hay chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa, Trường Sa và những vùng biển lân cận, phát ngôn chính thức của Trung Quốc cũng chưa bao giờ chính thức nói là phạm vi của những vùng biển đó là ranh giới chín đoạn. Phản đối quan điểm của nhóm các học giả trên, nhóm thứ hai cho rằng yêu sách vùng nước lịch sử của Cộng hoà Trung Hoa khó có thể biện minh được cho tính chất tuỳ tiện, thiếu hệ thống tọa độ cũng như khái niệm vùng nước lịch sử đã trở nên lỗi thời, không thể sử dụng để trợ giúp cho yêu sách của chính quyền Trung Quốc và Đài Loan.
Tại cuộc Hội thảo lần thứ nhất về vấn đề tranh chấp chủ quyền tại biển Đông tổ chức tại Hà Nội tháng 3 năm 2009, báo cáo của ông Hoàng Việt thuộc Quỹ Nghiên cứu biển Đông, đã phân tích các yêu sách của Trung Quốc về khu vực “đường lưỡi bò” theo luật quốc tế, khẳng định đường lưỡi bò vi phạm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982.
Chỉ một ngày sau khi Trung Quốc trình tấm bản đồ 9 đường gián đoạn trên Biển Đông lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, ngày 7 tháng 5 năm 2009, Việt Nam, Malaysia và tiếp đó là Indonesia đã phản đối, bác bỏ[7][8].
Ngày 5 tháng 4 năm 2011, Philippines gửi thư ngoại giao lên Liên Hiệp Quốc phản đối yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc ở Biển Đông, theo đó tuyên bố chủ quyền Biển Đông của Trung Quốc là "không có căn cứ theo luật quốc tế"Bản thân Trung Quốc cũng không thống nhất với chính họ về việc này.
Tại cuộc hội thảo mang tên Tranh chấp biển Đông: chủ quyền quốc gia và quy tắc quốc tế do Viện Nghiên cứu Kinh tế Thiên Tắc và báo điện tử Sina.com/blog chủ trì, tổ chức chiều ngày 14 tháng 6 năm 2012 tại Viện nghiên cứu Kinh tế Thiên Tắc, học giả Trung Quốc Lý Lệnh Hoa, nhà nghiên cứu lâu năm về vấn đề vạch ranh giới biển quốc tế, thừa nhận rằng: Đường chín đoạn do tiền nhân của chúng ta vạch ra không có kinh độ, vĩ độ cụ thể, cũng chẳng có căn cứ pháp lý"
 

Hieucook

Xe buýt
Biển số
OF-193732
Ngày cấp bằng
12/5/13
Số km
549
Động cơ
333,546 Mã lực
Em cảm ơn cụ Lầm, bài viết hay quá.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Báo cáo các cụ, mợ chủ đề tiếp theo mà nhà cháu đang edit sẽ là: “Thành phố Tam Sa – hành động đơn phương của Trung Quốc”. Dự là vài ba hôm nữa mới xong để hầu các cụ, mợ.
Mong các cụ hưởng ứng và chỉ giáo ạ.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Trong lúc chờ đợi, nhà cháu kính các cụ một chủ đề nhỏ a: Tình trạng tranh chấp trong biển Đông
Hiện tại, trong khu vực Biển Đông đang tồn tại 2 loại tranh chấp chủ yếu:
1. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
2 .Tranh chấp ranh giới các vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa các nước có bờ biển đối diện hoặc liền kề.
Hai loại tranh chấp này được hình thành vào các thời điểm khác nhau, có nội dung , mức độ khác nhau và diễn ra trên những pham vi địa lý có liên quan đến các bên tranh chấp cũng rất khác nhau
Cụ thể như sau:
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
1. Loại tranh chấp chủ quyền lãnh thổ :
+ Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa:
Đây là tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quôc. Thời điểm xảy ra tranh chấp là vào đầu thế kỷ XX (năm 1909), mở đầu là sự kiện Đô đốc Lý Chuẩn đem 3 phái thuyền ra thăm chớp nhoáng một vài đảo và đổ bộ lên đảo Phú Lâm, rồi rút lui ngay .Bởi lẽ, trên quần đảo này đang nằm dưới sự kiểm soát, quản lý của quân đội Pháp đóng trong những căn cứ đồn trú khá vững chắc, cùng với những cơ sở phục vụ cho công tác quản lý của chính quyền Pháp, vơi tư cách đại diện cho Nhà nước VN, tiếp tục thực hiện chủ quyền của VN như đã từng có ít nhất là từ thế kỷ XVII đối với cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1946, lợi dụng việc giải giáp quân Nhật, Chính quyền Trung Hoa dân quốc đưa lực lượng ra chiếm đóng nhóm phía Đông Hoàng Sa và sau đó phải rút lui vào thời điểm Quốc dân **** bị đuổi khỏi Hoa lục chạy ra Đài Loan. Năm 1956,lợi dụng tình hình quân đội thực dân Pháp phải rút khỏi Đông Dương, theo Hiệp định Geneve và Chính quyền Nam Việt Nam chưa tiếp quản Hoàng Sa, Cộng hoà nhân dân TH đưa quân ra tái chiếm nhóm phía Đông Hoàng Sa và đến năm 1974, lợi dụng tình hình quân đội của chính quyền Sài gòn đang trên đà suy sụp, quân đội viễn chinh Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam VN, và với thoả thuận ngầm của Mỹ để cho TQ tự do hành đông(laisser faire), CHND TH đưa quân ra đánh chiếm nhóm phía Tây Hoàng Sa đang do quân đội Sài gòn đóng giữ. Mọi hành động nói trên của phía TQ đều bị phìa VN chống trả hoặc chính thức lên tiếng phản đối với tư cách là Nhà nước có chủ quyền đối với Hoàng Sa; “Nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiêm hữu và thực hiện chủ quyền của mình ; việc chiếm hữu và thực hiện chủ quyền này là thật sự, liên tục và hoà bình, phù hợp với các nguyên tắc của luật pháp và thực tiễn quốc tế”. Từ đó,TQ đã ráo riết củng cố, xây dựng quần đảo Hoàng Sa trở thành căn cứ quân sự quan trọng , làm bàn đạp tiến xuống phía Nam.
Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Trường Sa:
- Đó là tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc từ những năm 30 của thế kỷ trước, mở đầu bằng sự kiện Công sứ TQ ở Paris gửi công hàm cho Bộ ngoại giao Pháp năm 1932 khẳng định “các đảo Nam Sa là bộ phận lãnh thổ TQ xa nhất về phía Nam”. Năm 1946, Trung Hoa Dân quốc, lấy danh nghĩa làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật đã đưa tàu Thái Bình ra chiếm đóng đảo Ba Bình (Itu Aba). Năm 1956, Đài Loan lại đưa quân ra tái chiếm Ba Bình. Năm 1988, CHND Trung Hoa đưa quân ra chiếm 6 vị trí là những bãi cạn ở phía Tây Trường Sa, ra sức củng cố nâng cấp các vị trí này thành các điểm đóng quân, và năm 1995, lại chiếm đóng thêm một vị trí nữa, đá Vành Khăn, nằm về phía Đông Trường Sa. Cho đến nay, Trung Quốc đã chiếm đóng 7 vị trí trên quần đảo Trường Sa. Như vậy, tổng số đảo, đá mà phía Trung quốc (kể cả Đài Loan) chiếm đóng lên đến 8 vị trí.
- Đó là tranh chấp giữa Việt Nam với Philippines: bẳt đầu bằng sự kiện Tổng thống Quirino tuyên bố rằng quần đảo Trường Sa phải thuộc về Philippines vì nó ở gần Philippines. Từ năm 1971 đến 1973, Phi đưa quân chiêm đóng 5 đảo; năm 1977-1978 chiếm thêm 2 đảo nữa. Năm 1979, Phi công bố Sắc lệnh của Tổng thống Marcos ky ngày 11-6-1979 coi toan bộ quần đảo Trường Sa, trừ đảo Trương Sa, là lãnh thổ của Phi và đặt tên là Kalayaan. Năm 1980, Phi mở rộng chiêm đóng thêm 1 đảo nữa ở phía Nam, đó là đảo Công Đo.
- Đó là tranh chấp giữa Việt Nam và Malaysia mở đầu băng sự kiện Sứ quán Malaysia tại Sài gòn ngày 3 tháng 2 năm 1971 gửi công hàm cho Bộ ngoại giao chính quyền Sài gòn hỏi rằng quần đảo Trường Sa hiện thuộc nước cộng hoà Morac Songhrati Meads có thuộc Cộng Hòa Việt Nam hay Cộng Hòa Việt Nam có yêu sach đối với quần đảo đó không? Ngày 20 tháng 4 năm 1971 Chính quyền Sài gòn trả lời rằng quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam, mọi xâm phạm đến chủ quyền Việt Nam ở quần đảo này đều bị coi là vi phạm pháp luật quốc tế. Tháng 12 năm 1979, Chính phủ Malaysia cho xuất bản bản đồ gộp vào lãnh thổ Malaysia một khu vực phía Nam Trường Sa, bao gồm cả đảo An Bang và Thuyền Chài nơi Việt Nam đang đóng giữ. Năm1983-1984, Malaysia cho quân đóng 3 bãi ngầm ở phía Nam Trường Sa là Hoa Lâu, Kỳ Vân, Kiệu Ngựa. Năm 1988 họ đóng thêm 2 bãi ngầm Én Đất và Thám Hiểm, đưa số vị trí mà Malaysia chiếm đóng lên đến 5 điểm.
Quan điểm pháp lý cũng như các chứng cứ của các bên tranh chấp đưa ra để bảo vệ cho lập trường của mình cũng rất khác nhau và có thể tóm tắt như sau:
Quyền thụ đắc lãnh thổ dựa trên nguyên tắc phát hiện đầu tiên(Trung Quốc)
Quyền thụ đắc lãnh thổ dựa trên nguyên tăc chiếm hữu thật sự (Việt Nam).
Quyền thụ đắc lãnh thổ dựa trên nguyên tắc kế cận lãnh thổ,…(Phi, Malaysia)…
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
2. Tranh chấp ranh giới biển,thềm lục địa:
+ Đây là loại tranh chấp được hình thành trong xu hướng thay đổi có tính chất cách mạng về Địa-Chính trị , Địa – Kinh tế trên pham vi thế giới với việc khoảng 36% diện tích biển và đại dương thế giới đã đươc đặt dưới chủ quyền,quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia ven biển kể từ khi Công ước của LHQ về Luật biển đã được thông qua năm 1982. Kết quả là, trên thế giới còn khoảng 416 tranh chấp liên quan đến ranh giới biển cần phải được giải quyết, trong đó khu vực Đông Nam châu Á còn khoảng 15 tranh chấp. Việc đàm phán xác định ranh giới biển và thềm lục địa giữa Việt Nam và cac nước xung quanh Biển Đông đã , đang và sẽ tiến hành giải quyết cho các khu vực sau đây:
- Ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ở trong Vinh Bắc Bộ và khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ có liên quan giữa Việt Nam và Trung Quốc, nơi mà bờ biển đối diện nhau và cách nhau dưới 400 hải lý.
- Ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ở phía Nam Biển Đông có liên quan giữa Việt Nam, Malaisia, Philippin, Brunei, Indonesia.
- Ranh giới các vùng biển, thềm lục địa có liên quan giữa Việt Nam, Malaisia,Thái Lan, Campuchia.
- Ranh giới biển của phạm biển thuộc quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa giữa các bên tranh chấp có liên quan.
+ Cho đến thời điểm hiện nay, các bên liên quan đã giải quyết :
- Ranh giới biển trong Vịnh Băc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc, ký ngày 25 tháng 12 năm 2000.
- Ranh giới thềm lục địa giữa Việt Nam và Indonesia tại vùng thềm lục địa phía Nam Biển Đông, ký ngày 23 tháng 6 năm 2003.
- Ranh giới Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong vịnh Thái Lan có liên quan giữa Việt Nam và Thái Lan, ký ngày 9 tháng 8 năm 1997.
- Thoả thuận về giải pháp tạm thời cùng khai thác vung chồng lấn được ký kết giữa Việt Nam và Malaysia ngày 5 tháng 6 năm 1992.
- Hiệp định về “Vùng nước lịch sử” giữa Việt Nam và Campuchia, ký ngày 7 tháng 7 năm 1982.
+ Như vậy, việc xác định ranh giới các vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa các nước có liên quan còn lại là rất lớn và khó khăn, phức tạp. Tình trạng khó khăn, phức tạp đó có thể vì những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Các nước ven Biển Đông đã đưa ra các yêu sách về các vùng biển và thềm lục địa trong Biển Đông rất khác nhau, hoặc là do hoàn toàn không tuân thủ các quy định có liên quan của Công ước của Liên Hợp Quốc (LHQ) về Luật Biển, hoặc là đã giải thích và vận dụng các tiêu chuẩn của Công ước của LHQ về Luật Biển một cách chủ quan, không chuẩn xác, thậm chí hoàn toàn sai lệch, sao cho có lợi nhât khi tiến hành đàm phán vơi các bên hữu quan để phân định ranh giới biển và thềm lục địa.
- Giữa Biển Đông lại có 2 quần đảo, vừa đang ở trong tình trạng tranh chấp phưc tạp về chủ quyền lãnh thổ, vừa tồn tại những quan niệm khác nhau về hiệu lưc đối với việc xác định pham vi các vùng biển và thềm lục địa của chúng.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Về tầm quan trọng của Biển Đông đối với kinh tế thế giới thi có thể hình dung qua bản đồ sau:
Những tuyến đường chuyên chở dầu thô của thế giới

Nguồn : Eo biển, Các tuyến đường biển và những eo biển hẹp: Địa lý chính trị chiến lược về hàng hải trong phân phối dầu mỏ, được truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2009 tại địa chỉ:http://people.hofstra.edu/faculty/Jean-paul_Rodrigue/downloads/CGQ_strategicoil.pdf

Vì thế, cũng không khó lý giải vì sao "công xưởng của thế giới" hiện nay lại phát cuồng vì Biển Đông như vậy và khi Trung Quốc gây hấn thì giá xăng dầu phục vụ vợ hai của các cụ có vấn đề ngay. Hihi...
 
Chỉnh sửa cuối:
Biển số
OF-128
Ngày cấp bằng
8/6/06
Số km
85,802
Động cơ
4,658,848 Mã lực
Nơi ở
Trạm sạc xe đạp điện
Báo cáo các cụ, mợ chủ đề tiếp theo mà nhà cháu đang edit sẽ là: “Thành phố Tam Sa – hành động đơn phương của Trung Quốc”. Dự là vài ba hôm nữa mới xong để hầu các cụ, mợ.
Mong các cụ hưởng ứng và chỉ giáo ạ.
Mời bác cứ đưa thông tin, trong này rất nhiều người đọc nhưng do tiêu chí ngay từ đầu để tồn tại thớt, nên sẽ ít comment trong này :)

Lý do em mở thớt này:
Trên diễn đàn Otofun, dù có dùng nick ảo thì vẫn là nhưng con người thật và mọi người đều biết nhau, nhất là các thành viên ở khu vực các chi hội. Vẫn biết chúng ta không bàn về chính trị nhưng sự hiểu biết của mỗi thành viên về tình hình đất nước Việt Nam yêu quý, hay những vấn đề liên quan đến các nước bạn ở xung quanh là nhu cầu thực tế và chính đáng của mỗi thành viên trên diễn đàn.
Các bác cũng đã từng biết đến nick Lầm qua các bài tin và ảnh rất sinh động về những vấn đề mà cả nước đều quan tâm. Qua trao đổi với bác, bọn em rất muốn được mở một thớt để chia sẻ những thông tin ấy. Toàn bộ thông tin trong thớt này đều là những thông tin chính thống và không vi phạm đến an ninh chính trị
Để đảm bảo thớt được tồn tại với mục đích chia sẻ thông tin cho thành viên, mong các bác chỉ đọc và cmt với tính xây dựng, không chửi bới. Mọi bài viết hoặc trích dẫn liên quan đến chủ đề trên không phải do nick Lầm đưa lên em xin phép được xóa.
Sau đây xin nhường sân cho bác và cảm ơn bác về sự chia sẻ.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Mời bác cứ đưa thông tin, trong này rất nhiều người đọc nhưng do tiêu chí ngay từ đầu để tồn tại thớt, nên sẽ ít comment trong này :)
Bác Sonrack cho em hỏi nhờ chỗ tô màu xanh tý ạ:
"ý do em mở thớt này:
Trên diễn đàn Otofun, dù có dùng nick ảo thì vẫn là nhưng con người thật và mọi người đều biết nhau, nhất là các thành viên ở khu vực các chi hội. Vẫn biết chúng ta không bàn về chính trị nhưng sự hiểu biết của mỗi thành viên về tình hình đất nước Việt Nam yêu quý, hay những vấn đề liên quan đến các nước bạn ở xung quanh là nhu cầu thực tế và chính đáng của mỗi thành viên trên diễn đàn.
Các bác cũng đã từng biết đến nick Lầm qua các bài tin và ảnh rất sinh động về những vấn đề mà cả nước đều quan tâm. Qua trao đổi với bác, bọn em rất muốn được mở một thớt để chia sẻ những thông tin ấy. Toàn bộ thông tin trong thớt này đều là những thông tin chính thống và không vi phạm đến an ninh chính trị
Để đảm bảo thớt được tồn tại với mục đích chia sẻ thông tin cho thành viên, mong các bác chỉ đọc và cmt với tính xây dựng, không chửi bới. Mọi bài viết hoặc trích dẫn liên quan đến chủ đề trên không phải do nick Lầm đưa lên em xin phép được xóa.
Sau đây xin nhường sân cho bác và cảm ơn bác về sự chia sẻ."

Liệu mấy chủ đề em đã post có bị xóa không ạ? (Em mới tham gia diễn đàn nên chưa rõ nhiều quy định và chưa biết nhiều, mong bác thông cảm!).
Đa tạ bác ạ.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Về Quốc kỳ của Trung Quốc:
Có nhiều cách giải thích ý nghĩa của quốc kỳ CHND Trung Hoa, nhưng có 2 cách giải thích được nhiều người chấp nhận là:

1. Ngôi sao lớn tượng trưng cho **** Cộng sản Trung quốc, ngôi sao nhỏ tượng trưng cho 4 tộc Hán, Tráng, Mãn, Hồi, bốn tộc đông nhất Đại lục. Cách giải thích này có trên một số trang web của chính quyền địa phương ở Hồng Kông, và được một số thành viên đem vào Wikipedia Tiếng Anh và Tiếng Việt. Tuy nhiên cách giải thích này không thỏa đáng. Thứ nhất, "tộc Hồi" thực chất chỉ là những người Hán theo đạo Hồi từ xưa, lâu đời. Ở Trung Hoa có quá nhiều dân tộc, không thể chỉ có 4 tộc trên đó.

2. Ngôi sao lớn tượng trưng cho giai cấp lãnh đạo tức giai cấp công nhân. 4 ngôi sao nhỏ vây quanh nó tạo nên 1 hình tiếu diện (mặt cười), tượng trưng cho 4 tầng lớp Sĩ, Nông, Thương, Binh. Đây là cách giải thích thường thấy trong các phim ảnh Trung Quốc, đình đám nhất là phim Đại Nghiệp Kiến Quốc kỷ niệm Quốc Khánh CHND Trung Hoa, và quan trọng nhất là China Radio International khẳng định thế này:
Quốc kỳ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: Quốc kỳ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là Cờ đỏ Năm sao với tỷ lệ giữa chiều dài và chiều cao là 3:2. Quốc kỳ lấy màu đỏ làm chủ đạo, tượng trưng cho cách mạng. Trên lá cờ có 5 sao 5 cánh màu vàng, 4 sao nhỏ bao vây 1 sao lớn với một cánh chỉ về điểm trung tâm sao lớn, tượng trưng cho nhân dân cách mạng đại đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc. http://vietnamese.cri.cn/chinaabc/chapter1/chapter10102.htm


Cờ đỏ năm sao (ngũ tinh hồng kỳ) là Quốc kỳ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được quy định trong "Hiến pháp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa" do Tăng Liên Tùng thiết kế tháng 7 năm 1949.

Nền đỏ tượng trưng cho cách mạng.

Năm ngôi sao màu vàng tượng trưng cho ánh sáng.

Ngôi sao lớn đại biểu cho **** Cộng sản Trung Quốc.

Bốn ngôi sao nhỏ đại biểu cho nông dân, công nhân, giai cấp tiểu tư sản và giai cấp tư sản dân tộc.

Bốn ngôi sao nhỏ vây quanh ngôi sao lớn tương trưng cho nhân dân cách mạng đại đoàn kết dưới mạng dưới sự lãnh đạo của **** Cộng sản Trung Quốc và sự ủng hộ của nhân dân dối với **** cộng sản.
Ngoài ra, do bản chất Đại Hán của Trung Hoa nên có nhiều người gán thêm một số ý nghĩa khác cho Quốc kỳ của Trung Quốc
........
 
Chỉnh sửa cuối:

SonrackTài khoản đã xác minh

OF vì cộng đồng
Biển số
OF-6764
Ngày cấp bằng
5/7/07
Số km
12,180
Động cơ
659,394 Mã lực
Nơi ở
Nơi có rượu và...
Bác Sonrack cho em hỏi nhờ chỗ tô màu xanh tý ạ:
"ý do em mở thớt này:
Trên diễn đàn Otofun, dù có dùng nick ảo thì vẫn là nhưng con người thật và mọi người đều biết nhau, nhất là các thành viên ở khu vực các chi hội. Vẫn biết chúng ta không bàn về chính trị nhưng sự hiểu biết của mỗi thành viên về tình hình đất nước Việt Nam yêu quý, hay những vấn đề liên quan đến các nước bạn ở xung quanh là nhu cầu thực tế và chính đáng của mỗi thành viên trên diễn đàn.
Các bác cũng đã từng biết đến nick Lầm qua các bài tin và ảnh rất sinh động về những vấn đề mà cả nước đều quan tâm. Qua trao đổi với bác, bọn em rất muốn được mở một thớt để chia sẻ những thông tin ấy. Toàn bộ thông tin trong thớt này đều là những thông tin chính thống và không vi phạm đến an ninh chính trị
Để đảm bảo thớt được tồn tại với mục đích chia sẻ thông tin cho thành viên, mong các bác chỉ đọc và cmt với tính xây dựng, không chửi bới. Mọi bài viết hoặc trích dẫn liên quan đến chủ đề trên không phải do nick Lầm đưa lên em xin phép được xóa.
Sau đây xin nhường sân cho bác và cảm ơn bác về sự chia sẻ."

Liệu mấy chủ đề em đã post có bị xóa không ạ? (Em mới tham gia diễn đàn nên chưa rõ nhiều quy định và chưa biết nhiều, mong bác thông cảm!).
Đa tạ bác ạ.
Việc bác post bài có tính chất chia sẻ sẽ không bị xóa, nhưng dùng từ ngữ không đúng sẽ bị xóa cả bài ngay, xin bác lưu ý (ví dụ câu cuối của post #1294)
#1298: Bài hoàn toàn có tính chất suy diẽn, bác tự xóa đi! Tiêu chí của thớt này em đã nói ở bài đầu tiên rồi!
 
Chỉnh sửa cuối:

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Cảm ơn bác Bác Sonrack. Nhà cháu hỉu rùi! Nhà cháu tiến hành ngay và luôn đây.
(Mem mới, các bác thông cảm giùm)
Đối với #1298: nhà cháu lượm lặt thông tin và đưa ý kiến của dư luận chứ nhà cháu có suy diễn gì đâu ạ? Cuối bài nhà cháu có nhận xét có thể đó là suy diễn rồi cơ mà.
Tuy nhiên, nhà cháu vẫn xóa theo yêu cầu của bác.
 
Chỉnh sửa cuối:

Haiau Auto Service

Xe container
Biển số
OF-123456
Ngày cấp bằng
11/11/11
Số km
5,279
Động cơ
435,230 Mã lực
Nơi ở
140 K2 Hàm Nghi, Mỹ Đình, Hà Nội
Cảm ơn bác Bác Sonrack. Nhà cháu hỉu rùi! Nhà cháu tiến hành ngay và luôn đây.
(Mem mới, các bác thông cảm giùm)
Đối với #1298: nhà cháu lượm lặt thông tin và đưa ý kiến của dư luận chứ nhà cháu có suy diễn gì đâu ạ? Cuối bài nhà cháu có nhận xét có thể đó là suy diễn rồi cơ mà.
Tuy nhiên, nhà cháu vẫn xóa theo yêu cầu của bác.
Cái dòng tô đậm thì bác làm ơn tránh để bọn em được nhờ nhé! :P
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top