Tìm hiểu về đất nước Trung Hoa và những vấn đề liên quan đến biển đảo Việt Nam

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
3.3.2 Đà Nẵng, Khánh Hòa yêu cầu Trung Quốc chấm dứt vi phạm luật pháp
Cũng trong ngày 24/7/2012 Chủ tịch Thành phố Đà Nẵng Văn Hữu Chiến và Chủ tịch tỉnh Khánh Hòa Nguyễn Chiến Thắng cùng ra tuyên bố yêu cầu Trung Quốc chấm dứt vi phạm luật pháp.
“Chính quyền và nhân dân Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Khánh Hòa một lần nữa hết sức lo ngại và bất bình trước việc ngày 19/7/2012, Quân ủy Trung ương Trung Quốc chính thức quyết định thành lập “Cơ quan chỉ huy quân sự” của cái gọi là “thành phố Tam Sa” và ngày 21/7/2012 phía Trung Quốc đã tổ chức bầu cử đại biểu Đại hội đại biểu Nhân dân khóa I của cái gọi là “thành phố Tam Sa”.
Những hành động sai trái của Trung Quốc không làm thay đổi thực tế hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là bộ phận không tách rời của lãnh thổ Việt Nam.
Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Khánh Hòa cương quyết phản đối và yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay những việc làm vi phạm luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam, cản trở nỗ lực chung duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông, làm tổn hại tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.” – tuyên bố cho biết.
Việc Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa, đã tạo ra nhiều phản ứng khác nhau từ nhiều nơi, nhiều bên. Các phản ứng và cách thức phản ứng thay đổi theo thòi gian, quan điểm, chủng tộc, cương vị của từng giới, từng cá nhân nhưng nhìn chung các nhóm có chung các quyền lợi tinh thần, vật chất thì có quan điểm gần giống nhau. Nhưng cũng không thể nói rằng có một quy luật để phân định các cách thức phản ứng về việc thành lập đô thị cấp huyện Tam Sa dựa trên cách phân chia ra nhóm, giới có cùng quyền lợi hoặc phân chia ra các nhóm dựa trên tiêu chí có cùng sự am hiểu về lịch sử chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa, hoặc tiêu chí có cùng sự hiểu biết về luật pháp quốc tế về biển, về cách thức xác định chủ quyền lãnh thổ theo luật pháp quốc tế hoặc tiêu chí đơn thuần dựa trên cách thức đánh giá biện pháp thể hiện lòng yêu nước hoặc dựa trên tiêu chí đánh giá tình hình so sánh tương quan giữa các bên để giải quyết bất đồng trong tranh chấp chủ quyền lãnh thổ. Cũng không thể nói rằng những người có cùng chung quyền lợi tinh thần hoặc vật chất do cùng chủng tộc, cương vị thì có chung cách thức phản ứng hoặc đồng tình với cách thức đó.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
3.3.3 **** Cộng sản Việt Nam cũng đã phản ứng và trên báo điện tử của **** đã có ngay một bài báo ngắn bày tỏ thái độ bằng cách trích dẫn lời người phát ngôn bộ Ngoại giao và tỏ ra đồng tình vói sự phản đối đó[3]. Đánh giá đây là vấn đề thời sự nổi bật trong tuần và khẳng định :
"Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việt Nam phản đối việc Trung Quốc thành lập thành phố hành chính cấp huyện Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam trực tiếp quản lý 3 quần đảo trên Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Hành động này đã vi phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, không phù hợp với nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao hai nước, không có lợi cho tiến trình đàm phán tìm kiếm biện pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề trên biển giữa hai bên."
Đồng thời khẳng định quan điểm:
" Trước sau như một, Việt Nam chủ trương giải quyết các bất đồng thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở tôn trọng Luật pháp Quốc tế và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển 1982 và tinh thần Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông năm 2002 nhằm giữ gìn hòa bình và ổn định trên Biển Đông và khu vực."
Việc nhấn mạnh đến cơ sở tôn trọng Luật pháp Quốc tế và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển 1982 và tinh thần Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông năm 2002 nhằm giữ gìn hòa bình và ổn định trên Biển Đông và khu vực được một số bài báo đăng trên BBC Tiếng Việt cho là quan điểm của **** đã có sự thay đổi so với trước.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Quốc hội Việt Nam cũng đã phản đối việc lập thị xã cấp huyện Tam Sa, một số đại biểu cũng đã lên tiếng trên phương tiện truyền thông đại chúng. Ngày 17 tháng 12 năm 2007 trên trang điện tử của Quốc hội có đăng bài "Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tham dự Hội nghị Cấp cao Đông Á lần thứ 2" vào ngày 15 tháng 1 năm 2007 trong đó có nhấn mạnh kết quả hội nghị cấp cao ASEAN đã đạt được:
"Kết quả các hội nghị cấp cao ASEAN với các nước đối thoại đã đem lại những tiến triển đáng chú ý trong quan hệ hợp tác giữa ASEAN với từng nước. Trước hết là đối với Trung Quốc, hai bên khẳng định quyết tâm thực hiện hiệu quả Tuyên bố về cách ứng xử ở Biển Đông để tiến tới sớm ký kết Bộ Quy tắc ứng xử ở biển Đông vì hòa bình và ổn định ở khu vực;..."

Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cũng đã phản đối và theo một bài báo trên BBC thì họ sẽ tổ chức cho thanh niên tuần hành phản đối và ông Nguyễn Thành Tài, phó Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh cũng ủng hộ điều đó. Điều này được người viết bài đánh giá là ông công nhận hành động biểu tình của các bạn sinh viên là hành động yêu nước, đáng biểu dương.
Hội Đồng Nhân dân Thành phố Đà Nẵng khoá VII ngày 7 tháng 12 năm 2007 Kỳ họp thứ 10 của khẳng định rộng rãi trên phương tiện đại chúng rằng Hoàng Sa là đơn vị hành chính của thành phố này và phản đối Trung Quốc đòi quản lý quần đảo này. Sau đó vào chiều ngày 21-12-2007, Hội Đồng Nhân Dân tỉnh Khánh Hòa đã ra nghị quyết khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, nghị quyết nêu rõ: "HĐND tỉnh Khánh Hòa phản đối việc Trung Quốc đưa huyện Trường Sa của Khánh Hòa vào đơn vị hành chính mới trực thuộc tỉnh Hải Nam của Trung Quốc, và khẳng định huyện Trường Sa là một trong 9 đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Khánh Hòa". Ông Mai Trực, chủ tịch HĐND tỉnh phát biểu: "Từ trước đến nay, chúng ta luôn khẳng định chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đối với hai huyện đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Huyện đảo Trường Sa được Trung ương giao cho tỉnh Khánh Hòa quản lý. Vì vậy, chúng ta chịu trách nhiệm trước lịch sử trong việc bảo vệ chủ quyền này!".
Quan hệ Việt-Trung và sự việc càng thêm rắc rối khi có tin vào ngày 16/1/2008, tàu Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt Nam và 10 ngư dân mất tích ở khu vực Trường Sa, báo chí Việt Nam chỉ ghi là một chiếc tàu không rõ nguồn gốc và báo chí Trung quốc sau đó lại loan tin ngược lại là tàu vũ trang Việt Nam tấn công tàu đánh cá Trung
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
3.3.4 Biểu tình tự phát của dân chúng
Vài trăm người Việt Nam đa số là sinh viên vào ngày 9 tháng 12 năm 2007,học sinh thông qua Internet và điện thoại di động đã tập hợp và biểu tình ôn hòa trước cổng Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội và trước Lãnh sự quán Trung quốc tại Thành phố Hồ Chí Minh để phản đối Trung Quốc và bảo vệ tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vụ biểu tình này theo người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Dũng cho biết "Đây là việc làm tự phát chưa được phép của các cơ quan chức năng Việt Nam. Và khi các vụ việc trên xảy ra, các lực lượng bảo vệ (công an) của Việt Nam đã kịp thời có mặt, giải thích và yêu cầu bà con chấm dứt việc làm này". Còn Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội đã ra thông báo yêu cầu sinh viên, giáo viên, nhân viên không tham gia biểu tình, "tránh bị kích động, lôi kéo"].
3.3.5 Một số người Việt ở nước ngoài đã biểu tình đốt và xé cờ Trung Quốc
Vào ngày chủ nhật 16 tháng 12 năm 2007, BBC tiếng Việt có bài Tiếp tục biểu tình phản đối Trung Quốc cho biết có vài trăm người Việt Nam đã xuống đường ngày Chủ Nhật 16/12, tại cả Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh để biểu tình phản đối các động thái gần đây của Trung Quốc muốn quản lý về hành chính đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng trong bài này thì: " Tại Hà Nội, những người biểu tình, chủ yếu là các sinh viên đại học, đã tuần hành qua các đường phố gần khu vực đại sứ quán Trung Quốc, hô vang "Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam", và hát nhạc cách mạng thể hiện lòng yêu nước. Nhưng những người tuần hành không tới được trước cửa đại sứ quán Trung Quốc do khu vực này đã bị an ninh phong tỏa. Cuộc biểu tình tại Hà Nội diễn ra trong vòng hơn ba giờ trước khi đám đông bị giải tán bởi các cảnh sát và nhân viên an ninh mặc thường phục. Một bạn trẻ tham gia biểu tình ở Hà Nội nói với đài BBC rằng cuộc 'tuần hành vì hoà bình' của họ ban đầu chỉ có khoảng 300 người, nhưng sau đó đã có sự tham gia của hơn một ngàn người, và đạt được mục đích như mong muốn. Tại thành phố Hồ Chí Minh, cuộc biểu tình cũng không diễn ra tại địa điểm trước lãnh sự quán Trung Quốc như những người tổ chức mong đợi, vì các lực lượng chức năng bao vây hết các con đường quanh khu vực này. Do đó, các thanh niên buộc phải đi ra góc công viên 30 tháng Tư để biểu tình." Song chưa thấy báo chí Việt Nam đưa tin về vụ biểu tình này. Ngoài ra, BBC tiếng Việt ngày 16 tháng 12 năm 2007 lại có bài báo "Người biểu tình phản đối TQ bị bắt" cho biết có ít nhất 5 người biểu tình đã bị bắt và thẩm vấn trong nhiều giờ. Cũng trong bài này thì các tin tức về cuộc biểu tình mới nhất (16/12) ngập tràn các trang blog nhưng báo chí chính thống đã không nhắc gì tới sự kiện này.
Ngày 17 tháng 12 năm 2007 trên báo Thanh Niên có bài Qua việc Trung Quốc xâm chiếm 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của VN đưa tin phản ứng của bạn đọc, cho biết: "Vừa qua, Quốc vụ viện Trung Quốc phê chuẩn việc thành lập thành phố Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam trực tiếp quản lý quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, lãnh thổ bất khả xâm phạm của Việt Nam. Hành động này tiếp nối hàng loạt những động thái trước đó của Trung Quốc nhằm "hợp thức hóa" việc thôn tính mảnh đất ruột thịt của Việt Nam. Việc hành xử của Trung Quốc như thế cho thấy họ sẽ không dừng lại, và nhiệm vụ của chúng ta bây giờ là phải có hành động cụ thể, mạnh mẽ. Báo Thanh Niên trong thời gian qua đã nhận được nhiều thư của bạn đọc bức xúc, phẫn nộ trước vụ việc này.".
Ngày chủ nhật 23 tháng 12 năm 2007 lại có biểu tình lần thứ ba gần Lãnh sự quán Trung Quốc ở thành phố Hồ Chí Minh, cuộc biểu tình chừng năm chục người của 2 tổ chức bất đồng chính kiến là "Nhà báo tự do" (NBTD) và "Thanh niên tập hợp dân chủ" và một số sinh viên chỉ diễn ra ngắn ngủi và nhanh chóng bị dập tắt bởi lực lượng cảnh sát đông đảo, đã có một nhà báo tham gia bị bắt.
Cuộc biểu tình của sinh viên học sinh tại Hà Nội ngày 9/1/2008 đã bị công an ngăn chận . Theo tin đài BBC, một số blog trên mạng Internet đưa tin là giới học sinh sinh viên ở Hà Nội đã dự định biểu tình vào ngày 19/1 nhưng đã bị ngăn cản. Cũng theo đài BBC, những cuộc biểu tình tự phát này thường bị công an ngăn chận
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
3.3.5 Người Việt ở nước ngoài
Từ đầu tháng 12/2007, nhiều cuộc biểu tình chống Trung quốc xâm chiếm Hoàng Sa-Trường Sa của người Việt tại nước ngoài đã được tổ chức tại Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Úc, Cộng hòa Séc, Hà Lan, Ba Lan và nhiều quốc gia khác. Vấn đề chủ quyền tại Hoàng Sa cũng là một chủ đề tại Đại hội Thanh niên Sinh viên Việt Nam Thế giới kỳ 5 tại Malaysia từ ngày 4 đến 7/1/2008
.Ngày 22 tháng 12 năm 2007, hơn 300 sinh viên Việt Nam tại Pháp và khoảng 100 sinh viên Việt Nam tại Anh đã xuống đường biểu tình trước Đại sứ quán Trung Quốc ở Paris và Luân Đôn phản đối hành động xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Tại Paris, các sinh viên đã mang cờ đỏ sao vàng, ảnh chủ tịch Hồ Chí Minh và các biểu ngữ có nội dung như "Chinese Government stops invading Vietnamese Paracel and Spratly islands" đến đại sứ quán Trung Quốc hô vang khẩu hiệu phản đối Trung Quốc và đọc thư yêu cầu Trung Quốc phải chấm dứt hành động xâm lược trắng trợn này. Cuộc biểu tình diễn ra ôn hòa trong vòng 3 giờ thì chấm dứt, và đã tạo được sự chú ý mạnh mẽ của nhân dân thế giới. Giới quan sát cho biết đây là cuộc biểu tình hiếm hoi của sinh viên Việt Nam tại Paris trong vòng 30 năm qua. Cho đến ngày 25 tháng 12, phía Trung Quốc vẫn chưa có phản ứng cụ thể về 2 cuộc biểu tình trên.
Được sự tham gia đông đảo nhất là tại Úc với hơn 5.000 người tại thủ đô Canberra vào ngày 12/1/2008 .
Người Việt cũng tiếp tục đóng chốt và biểu tình trước Đại sứ quán Trung Quốc Washington DC, mang theo khẩu hiệu tiếng Trung và tiếng Anh [32]. Đặc biệt trong ngày 18/1/2008, dịp kỷ niệm 34 năm trận hải chiến Hoàng Sa, đã có nhiều cuộc biểu tình và đêm thắp nến yểm trợ của người Việt tại Nam California, thủ đô Washington DC, Texas, Houston, Los Angeles
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Phản ứng từ các cá nhân và tổ chức của Trung Quốc
Khi được hỏi về việc sinh viên Việt Nam biểu tình trước tòa đại sứ và lãnh sự quán Trung Quốc tại Việt Nam, phát ngôn viên bộ ngoại giao Trung Quốc nói rằng quan điểm của chính phủ Trung Quốc là Trung Quốc có chủ quyền không thể chối cãi được đối với các đảo trong biển Nam Trung Quốc (Biển Đông) và các lãnh hải xung quanh. Họ cũng thừa nhận rằng Việt Nam đã có tuyên bố chủ quyền trong một số giai đoạn khác nhau trong lịch sử Việt Nam. Bộ ngoại giao Trung Quốc nói rằng Việt Nam và Trung Quốc đã thoả thuận giàn xếp bằng đàm phán và thương lượng, và việc biểu tình làm tổn hại quan hệ song phương. Cuối cùng, Bộ ngoại giao Trung Quốc nói rằng họ hy vọng chính phủ Việt Nam thực hiện các biện pháp nhằm ngăn chận việc biểu tình tiếp diễn.
Theo tác giả Kristine Kwok trên tờ Bưu điện Hoa nam buổi sáng ngày 19 tháng 12 năm 2007 một số quan chức Hải Nam đã bác bỏ chuyện có việc lập Tam Sa trong nghị trình công việc của họ và họ không có thành phố Tam Sa chỉ có thành phố Tam Á.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
4. Một số nhận xét
Một là, đánh giá tác động của việc thành lập thành phố Tam Sa
Có nhiều quan điểm khác nhau về việc đánh giá tác động của việc thành lập thành phố Tam Sa theo thời gian của nhiều bên, nhiều giới. Trong bài "VN nhấn mạnh đến Công ước Luật biển" đăng trên BBC tiếng Việt nhắc lại tin Đại sứ Hoàng Chí Trung của Việt Nam phát biểu hôm 10/11/2007 tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc ở New York rằng: "Việt Nam ủng hộ việc trao đổi quan điểm nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và thúc đẩy hợp tác theo các điều khoản của Công ước 1982". Và bài cũng cho rằng giới quan sát tại Hà Nội cho BBC hay "một "thông lệ" đã xảy ra trong quan hệ với Trung Quốc là trong lúc, hoặc ngay sau khi có các chuyến thăm cao cấp của lãnh đạo Việt Nam, phía Trung Quốc liền có các động thái trên biển khiến Việt Nam lo ngại". Nay Việt Nam nhấn mạnh đến Công ước về Luật biển của Liên Hiệp Quốc trong bước đi ngoại giao đáp lại các động thái của Trung Quốc về Biển Đông. Đại sứ Hoàng Chí Trung hôm 10.12 cho rằng Công ước về Luật biển của LHQ (UNCLOS) đã "tạo ra trật tự quốc tế trên biển và đại dương, góp phần tăng cường hoà bình, an ninh, hợp tác và quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia". Bài viết kết luận, một trật tự chung là điều Việt Nam đang hướng tới rất có thể vì các thỏa thuận, đàm phán song phương- vốn là một chiến lược của Trung Quốc- đã không đem lại lợi ích gì cho Việt Nam.
Phía Trung Quốc thì lại cho rằng các phản ứng biểu tình ở Việt Nam về việc thành lập thành phố Tam Sa sẽ làm tổn hại quan hệ hai nước.
Một ý kiến khác thì lại cho rằng việc biểu tình của người dân trong ôn hòa ở các xã hội dân sự là chuyện bình thường và không làm ảnh hưởng quan hệ chính thức giữa hai nước, cũng như biện pháp giải quyết hòa bình giữa hai nước Việt - Trung của hai Chính phủ.
Trung Quốc đẩy mạnh hiện thực hóa đường lưỡi bò ở Biển Đông là dựa trên các tính toán sau:
1. Trung Quốc cho rằng không nước nào trong vùng có khả năng chính trị, quân sự để đương đầu với Trung Quốc trong tham vọng này;
2. Sức mạnh mà Trung Quốc có được ngày hôm nay đang tạo những lo ngại sâu sắc trong các nước khu vực và cũng tạo ra cho Trung Quốc khả năng gây chia sẽ trong các nước này. Nhiều nước ASEAN hết sức tránh phải dính lứu vào tranh chấp mà họ không phải là một bên. Lập trường này được Trung Quốc hậu thuẫn mạnh mẽ. Thêm vào đó, Trung Quốc còn đe dọa trả đũa đối với nước nào muốn quốc tế hóa vấn đề Biển Đông. Thể hiện gần đây nhất là sự kiện ở Hội nghị BTNG các nước ASEAN ở Phnompenh.
3. Ngay cả khi Mỹ tập trung nhiều hơn lực lượng hải quân ở CÁ - TBD, thì khả năng can dự trực tiếp của Mỹ bên cạnh Việt Nam và hay Phi-líp-pin, rồi sau đến Malaysia và Indonesia là rất ít. Sự hỗ trợ duy nhất mà các nước khu vực có thể trông chờ là sự khẳng định hiện diện và một hành động đằng sau, ví dụ như một mối hợp tác quân sự có kèm theo cung cấp khí tài.
4. Trung Quốc cho rằng cộng đồng quốc tế cũng sẽ phản ứng rất chậm chạp trước các yêu sách của họ. Cộng đồng quốc tế thậm chí chưa ý thức được việc để cho Trung Quốc chiếm được Biển Đông là tạo ra một mối đe dọa đối với tự do hàng hải quốc tế ở đây. Cộng đồng quốc tế cũng chưa ý thực được rằng không phản ứng gì sẽ dẫn đến một tiền lệ nghiêm trọng trong luật pháp quốc tế và làm mất ý nghĩa của hàng loạt điều khoản của Công ước của LHQ về luật biển.
Cần phải thấy có nhiều lập luận mâu thuẫn nhau của Trung Quốc về các vùng biển nửa đóng, cũng như về quy chế các đảo. Trung Quốc một mặt muốn biến Biển Đông thành biển của Trung Quốc, trong khi đó ở Bắc Cực, nơi mà Trung Quốc thậm chí không phải là nước ven bờ, Trung Quốc lại đòi “lợi ích của cả nhân loại là tất các các quốc gia đều có thể chia sẻ vùng Bắc Cực”. Với tuyên bố này, Trung Quốc đem đến cho cộng đồng quốc tế một lập luận để sử dụng trong việc quốc tế hóa vấn đề Biển Đông và hỗ trợ cho các nước ven bờ trong bảo vệ lợi ích của họ. Điều này cũng đem lại cho cộng đồng quốc tế một lý lẽ để chống lại việc đi lại bị ngăn cản vô lối hay bị cấm đoán ở trên vùng biển này. Điều này cho phép các nước có cơ hội phản đối tính chất mâu thuẫn trong lập trường của Trung Quốc, khi Trung Quốc đòi vùng Bắc Cực là tài sản chung của nhân loại, thì không thể có chế độ nào khác cho Biển Đông và thậm chí cả Hoa Đông.
Trong khi chờ đợi cộng đồng quốc tế phản ứng, Trung Quốc theo nguyên tắc của món cờ vây, đang cố gắng dệt càng ngày càng dầy mạng lưới của mình ở Biển Đông để hiện thực hóa tham vọng của họ. Không cần phải ngược lại lich sử của Trung Quốc từ năm 1947 với chiến lược dần dần và kiên nhẫn đẩy các quân cờ của mình lên, những sự kiện gần đây từ việc quấy nhiễu các tàu khai thác, thăm dò dầu khí của VN và Phi-líp-pin, đến việc duy trì tầu cá ở Scarborough và việc gọi thầu thăm dò 9 lô dọc bờ biển miền trung VN có thể thấy rõ điều đó. Cần chú ý là trong bản đồ kèm theo bản gọi thầu của CNOOC, ở gần cực Nam của đường lưỡi bò, có một lô “mở”. Lô này không nằm trong đợt gọi thầu nhưng có thể thấy hé ra khả năng là sẽ có thể được gọi thầu trong tương lai. Nếu như vậy, Trung Quốc sẽ bước vào xung đột với Indonesia vì lô này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế thuộc đảo Natuna của Indonesia.
Cũng cần chú ý nữa là trong các hàng loạt hoạt động nhằm chiếm đoạt Biển Đông và nhằm làm cho thể giới chấp nhận điều mà Trung Quốc cho rằng là quyền của họ, Trung Quốc liên tục lợi dụng các đối tác nước ngoài mà rất nhiều người trong số đó không biết về tranh chấp thực tế ở đây. Điều đó thể hiện qua đợi gọi thầu 9 lô vừa qua của CNOOC. Tương tự như vậy, năm 2008, Trung Quốc đề nghị tàu nghiên cứu hải dương của Pháp Marion Dufresne tiến hành một chuyến thăm dò chung trong vùng. Đó cũng chính là việc Trung Quốc cấp giấy phép năm 2007 cho cuộc chơi “Ham Radio Expedition BS7H” của các nhà phát thanh nghiệp dự quốc tế, trong đó có nhiều người Mỹ và Trung Quốc, đến thực hiện hoạt động phát sóng ở bãi cạn Scarborough mà không cần đếm xỉa gì đến Phi-líp-pin. Đó cũng là ý nghĩa của các hoạt động cứu trợ mà Trung Quốc đang tiến hành trên vùng biển này.
Hai là, thử lí giải vì sao Trung Quốc chiếm được Hoàng Sa của Việt Nam
Thử suy nghĩ và đưa ra một số lý giải về việc Trung Quốc có thể chiếm được Hoàng Sa của Việt Nam. Có lẽ, do Trung Quốc có một thứ vũ khí nhạy bén, có thể tạm coi đó là “sức mạnh mềm” mà Việt Nam chưa có được. Việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa đã có sự chuẩn bị lâu dài từ trước, đặc biệt là Trung Quốc đầu tư nhiều tiền của cho việc nghiên cứu Biển Đông, quần đảo Hoàng Sa,ra sức tuyên truyền cho các nước khác trên thế giới một thông điệp “Hoàng Sa là của Trung Quốc”. Và lẽ tất nhiên, một vấn đề gì đó được nhắc đi nhắc lại một chiều sẽ định hình trong đầu óc con người ta ý nghĩ đúng là như vậy. Và khi về cơ bản đã hoàn thành công cuộc tuyên truyền, dựng nên nhiều bằng chứng chứng tỏ Hoàng Sa là của Trung Quốc…Trung Quốc đã dùng vũ lực, rồi dần dần chiếm được Hoàng Sa, thành lập ra một thành phố Tam Sa trong đó bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Về phía Việt Nam: có đầy đủ bằng chứng chứng minh chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng Việt Nam cần hiểu hơn về luật biển quốc tế. Chính xác hơn là Việt Nam cần có những dẫn chứng một cách hệ thống hơn, hợp lý và phù hợp với Luật biển quốc tế, để dễ dàng thu hút sự quan tâm, ủng hộ của nhân loại tiến bộ và đấu tranh giành lại những phần chủ quyền thuộc về chúng ta đã bị Trung Quốc chiếm mất.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Kết luận
Trung Quốc đơn phương thành lập 'thành phố Tam Sa' trên vùng lãnh thổ có tranh chấp. Thời gian qua, Trung Quốc liên tiếp có các hành động trên nhiều mặt trận nhằm xây dựng thế lực quanh cái gọi là thành phố Tam Sa bất chấp sự phản đối của các nước láng giềng.
Hành động này của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc ký tháng 10/2011, đi ngược lại tinh thần Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông ký năm 2002 giữa ASEAN và Trung Quốc và làm cho tình hình Biển Đông thêm phức tạp. Bộ Ngoại giao Việt Nam sau đó đã gửi công hàm phản đối tới Bộ Ngoại giao Trung Quốc, yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay những việc làm vi phạm luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam.
Thiết nghĩ, việc tăng cường tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của mỗi công dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, để họ có thể biết, hiểu, không thờ ơ, lãnh đạm trước những sự kiện chính trị của đất nước là vô cùng cần thiết. Hơn thế nữa, nhiệm vụ bảo vệ, gìn giữ cũng như tranh đấu để giành lại chủ quyền biển đảo đang là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu cần tất cả mọi người cũng chung tay góp sức suy nghĩ và cũng đề xuất những biện pháp hiệu quả nhất giành lại Hoàng Sa
 
Chỉnh sửa cuối:

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Còn đây là một tổng hợp về đường lưỡi bò (chữ U của bọn bành trướng ạ: (Đang hứng nên em pót lên lun, chưa edit gì cả....hihi)
Vấn đề tranh chấp biển Đông không chỉ là vấn đề nội bộ của các quốc gia Đông Nam Á, tham gia vào quá trình này còn có một số quốc gia khác có lien quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến chủ quyền và quyền lợi ở biển Đông. Trong đó Trung Quốc được coi là quốc gia đóng vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình tranh chấp bởi trung Quốc có phần chủ quyền ở biển Đông và cũng là nước tham gia vào quá trình tranh chấp một cách quyết liệt nhất. Đỉnh điểm tham vọng của Trung Quốc ở khu vực biển Đông là việc quốc gia này công bố với quốc tế tấm bản đồ chủ quyền lãnh thổ có gắn kèm phần bản đồ về “đường lưỡi bò”. “Đường lưỡi bò” ấy có lịch sử xuất hiện như thế nào và những tranh cãi xung quanh “đường lưỡi bò” ấy ra sao, nó nói lên mưu đồ gì của Trung Quốc ?.
Vào năm 1933, sau khi Pháp thực hiện việc đưa quân ra đồn trú tại các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chính quyền Cộng hòa Trung Hoa (chính quyền Tưởng Giới Thạch) đã cho thành lập Ủy ban Điều tra Bản đồ Đất và Biển nhằm khảo sát và đặt tên cho các đảo ở Biển Đông và xuất bản các bản đồ để thể hiện các đảo này thuộc lãnh thổ của Trung Quốc. Bản đồ chính thức đầu tiên thể hiện “đường lưỡi bò” có nguồn gốc từ sau Thế chiến II, được Vụ Biên giới và Lãnh thổ, Bộ Nội vụ Cộng hòa Trung Hoa xuất bản tháng 2/1948 có tên là Nanhai zhudao weizhi tu (Nam Hải chư đảo vị trí đồ) mà theo các học giả Trung Quốc là dựa theo một số bản đồ không rõ ràng của một vài cá nhân, tại đó xuất hiện một đường mà người Trung Hoa gọi là “đường chữ U” (đường lưỡi bò) bởi nó nhìn giống một cái lưỡi bò liếm xuống Biển Đông, được thể hiện trên bản đồ là một đường đứt khúc bao gồm 11 đoạn.
Năm 1949 Cộng hòa nhân dân(CHND) Trung Hoa cũng cho ấn hành một bản đồ, trong đó “đường lưỡi bò” được thể hiện giống như bản đồ trước đó gồm 11 đoạn. Tuy nhiên, sau đó một thời gian, bản đồ vẽ “đường lưỡi bò” của Trung Quốc xuất bản chỉ còn 9 đoạn mà không đưa ra giải thích vì sao. Và cho đến nay, vẫn không rõ quan điểm chính thức của chính quyền Trung Quốc về tính chất pháp lý của “đường lưỡi bò” này. Mặc dù, trong Công hàm CML/17/2009 và CML/18/2009 Chính phủ Trung Quốc cho rằng: “CHND Trung Hoa có chủ quyền không thể tranh cãi với các đảo ở Biển Nam Trung Hoa và các vùng biển kế cận và được hưởng các quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như đáy biển và lòng đất dưới đáy của vùng biển đó. Lập trường trên đây đã được Chính phủ Trung Quốc đưa ra một cách nhất quán và được cộng đồng quốc tế biết đến rộng rãi”.
Với Công hàm ngày 7/5/2009 có kèm bản đồ thể hiện “đường lưỡi bò”, có vẻ như Trung Quốc đòi hỏi cộng đồng quốc tế phải thừa nhận “tính chất lịch sử của “đường lưỡi bò”, coi Biển Đông như một vịnh lịch sử”. Đường này các học giả Trung Quốc coi là đường biên giới quốc gia trên biển của Trung Quốc. Họ cũng tìm cách kết hợp con đường này với các khái niệm đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của luật biển quốc tế hiện đại bằng tuyên bố dưới dạng “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi với các vùng nước phụ cận của quần đảo Trường Sa”.
Trước đó, mặc dù "đường lưỡi bò” đã được thể hiện nhiều lần trong một số bản đồ lưu hành trong nước, nhưng Chính phủ của họ chưa bao giờ có một tuyên bố chính thức nào trước cộng đồng quốc tế. Thậm chí trong những văn bản pháp lý quan trọng của Nhà nước Trung Quốc về các vùng biển như các Tuyên bố về Lãnh hải năm 1958, về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp năm 1992, về Đường cơ sở năm 1996, và về Vùng đặc quyền kinh tế và Thềm lục địa năm 1998... "đường lưỡi bò” cũng không hề được nhắc tới. Tham chiếu các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982 mà Trung Quốc cũng là một bên tham gia thì ai cũng thấy rằng yêu sách "đường lưỡi bò” hoàn toàn trái với các quy định của Công ước. Không một quy định nào của Công ước có thể biện minh cho yêu sách "đường lưỡi bò”. Đơn giản bởi vì vùng biển mà "đường lưỡi bò” ngoạm vào không thể nào là lãnh hải hoặc vùng đặc quyền kinh tế hoặc là thềm lục địa của Trung Quốc. Đó chính là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia và Brunei. Yêu sách "đường lưỡi bò” phi lý nói trên đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền của 5 nước ASEAN đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình. Chính vì vậy, mà Việt Nam, Malaysia, Indonesia và Philippines đã lần lượt gửi công hàm đến Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc bác bỏ yêu sách "đường lưỡi bò” của Trung Quốc. Việc nước này vẫn tiếp tục đưa ra yêu sách phi lý nói trên và tiến hành các việc làm trên thực địa nhằm đơn phương áp đặt yêu sách này càng làm cho tình hình Biển Đông trở nên phức tạp hơn, gây lo ngại thực sự cho cộng đồng thế giới và buộc dư luận phải lên tiếng. Không chỉ các quốc gia liên quan tranh chấp ở Biển Đông mà dư luận của nhiều quốc gia khác cũng đã bày tỏ ý kiến bất bình trước yêu sách đầy phi lý này.
Thứ nhất, các học giả quốc tế (bao gồm cả các học giả Đài Loan) cho rằng, thời điểm chính quyền Trung Quốc gửi hai Công hàm ngày 7/5/2009 lên Liên Hiệp Quốc, trong đó có kèm bản đồ có “đường lưỡi bò” mới là thời điểm đầu tiên bản đồ này xuất hiện công khai trước cộng đồng quốc tế. Trong vấn đề này, ta có thể tham khảo ý kiến của thẩm phán Oda trong vụ Kasikili/ Sedudu: “…Một yêu sách lãnh thổ chỉ có thể được đưa ra với ý định rõ ràng của chính phủ, điều có thể được phản ánh qua các bản đồ. Bản thân bản đồ, nếu không có các bằng chứng hỗ trợ khác không thể biện hộ cho một yêu sách chính trị”. Hai học giả danh tiếng về luật quốc tế của châu Âu là Erik Franckx & Marco Benatar trong một nghiên cứu của mình cho rằng: “Trong trường hợp này, tiêu chí để xét ý định rõ ràng về phía Chính phủ Trung Quốc không được đáp ứng đầy đủ. Các cách giải thích khác nhau về “đường chữ U” do các học giả đưa ra cũng như công hàm mập mờ của CHND Trung Hoa ngày 7/5/2009 là minh chứng cho kết luận này”. Như vậy thì ngay cả việc gửi bản đồ có kèm theo “đường lưỡi bò” lên Liên Hiệp Quốc ngày 7/5/2009 mà không có giải thích gì khác thì cũng chưa hình thành một yêu sách lãnh thổ, còn tới việc cho xuất bản bản đồ theo bản đồ (khó kiểm chứng tính chính xác) của một cá nhân mà không công bố rõ ràng trước cộng đồng quốc tế thì không thể gọi là một yêu sách lãnh thổ của một quốc gia được. Nếu Trung Quốc đòi hỏi các quốc gia khác phải công nhận những bản đồ, tài liệu do Trung Quốc đưa ra mà không công bố cho thế giới, thì Trung Quốc cũng phải công nhận các bản đồ, tài liệu của tất cả các nước, trong đó có các bản đồ cổ của Việt Nam và nhiều bản đồ phương Tây khác nêu rõ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam!
` Thứ hai, Trung Quốc luôn cho rằng, họ có chủ quyền trên vùng biển này bởi vì họ đã thiết lập một danh nghĩa lịch sử từ lâu đời. Thế nhưng, cho đến trước năm 1909, Trung Quốc chưa có bất cứ sự hiện diện nào trên Hoàng Sa, cũng như trước năm 1988 Trung Quốc cũng chưa có bất kỳ sự hiện diện nào tại Trường Sa. Thêm nữa, tất cả các bộ chính sử của nhà nước phong kiến Trung Quốc, từ “Sử ký”cho đến “Đại Nguyên nhất thống chí” (1294), “Đại Minh Nhất thống chí” (1461), “Đại Thanh Nhất thống chí” (1842), trước năm 1909 đều khẳng định “Cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc là Nhai huyện, đảo Hải Nam”.
Hiện nay trong tay người dân Việt Nam ít nhất đã có hai bằng chứng lịch sử để chứng minh với nhân dân Việt Nam, Trung Quốc và cả cộng đồng quốc tế về việc lãnh thổ Trung Quốc trước khi xuất hiện “đường lưỡi bò” thì cực Nam của Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam và xác nhận chủ quyền của Việt Nam tại 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đó là:
Tấm bản đồ do Tiến sỹ Mai Hồng nguyên là Trưởng phòng Tư liệu thư viện của Viện Hán Nôm, hiện ông đang là Giám đốc trung tâm nghiên cứu và ứng dụng phả học Việt Nam. Hơn 30 năm gắn bó với công tác lưu trữ, đã sưu tập được rất nhiều tư liệu quý và có giá trị lịch sử cũng như giá trị thực tiễn cao. Trong số đó có một bức bản đồ cổ có tên gọi “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” có xuất xứ từ Trung Quốc….“Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” (Toàn bộ bản đồ địa lý của đất nước) là tập bản đồ Trung Quốc xuất bản tại Thượng Hải năm 1905 và tái bản năm 1910. Đây là một trong những tập bản đồ Trung Quốc được vẽ và ấn hành vào cuối triều Thanh, phản ánh nhận thức đương thời của người Trung Quốc, quan chức, học giả đối với cương giới, lãnh thổ Trung Quốc thời điểm đó. Giá trị nhất là trên bản đồ toàn quốc và bản đồ tỉnh Quảng Đông chỉ vẽ đến đảo Hải Nam. Đảo Hải Nam trên bản đồ là điểm cực Nam lãnh thổ Trung Quốc và bản đồ tỉnh Quảng Đông, chứng minh các quần đảo ở Biển Đông nằm ngoài lãnh thổ Trung Quốc. Tấm “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” được in màu khá đẹp gồm 35 miếng ghép bằng giấy bồi dán trên mặt vải bố, trong đó mỗi miếng ghép có kích cỡ khoảng 20x30cm.
“Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” phía trên có một văn bản bằng Hán tự cổ có nội dung đại ý rằng từ đời xưa người Hán đã có các tấm bản đồ nhưng không được rõ ràng, chính xác và không rõ ngọn nguồn. Đến đời Khang Hy thứ 47 Thánh tổ nhân hoàng đế đã sai phái 2 giáo sỹ người nước ngoài làm ra tấm “Vạn lý thành đồ” trong vòng hơn 1 năm. Sau khi các tỉnh đã duyệt quy mô như đã định trên bản đồ, đến năm Tân Mão đời Khang Hy thứ 50 các giáo sỹ đã tập trung ở Kinh đô cùng nhau vẽ “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” gồm 13 tỉnh của Trung Quốc, trong đó có nói rõ “Chỗ nào bị tàn khuyết thì bổ sung, chỗ nào nhầm lẫn thì sửa lại cho đúng, khiến cho nó được rõ ràng như trong lòng bàn tay…”. Nếu nhìn vào “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” có thể thấy đại đồ thể hiện cương vực Trung Quốc xưa (có giá trị như bản đồ hành chính Trung Quốc ngày nay), đó là cơ sở pháp lý để xác định chủ quyền cương vực quốc gia. Song trên tấm “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” điểm cực Nam của Trung Quốc chỉ dừng lại ở địa giới của đảo Hải Nam ngày nay mà không hề có sự xuất hiện các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa ở Biển Đông. Ngược về quá khứ, có thể thấy Trung Quốc là nơi có truyền thống lâu đời về sử học nói chung và địa đồ nói riêng. Với những tấm địa đồ vẽ những địa phương nhỏ đã xuất hiện và có niên đại từ rất sớm (năm 229 trước Công nguyên phát hiện 7 bức Bãi thả ngựa sông Thiên Thủy có niên đại thời Chiến Quốc). Song địa đồ được xem là thể hiện cương vực quốc gia hoàn chỉnh sớm nhất xuất hiện vào năm 1121 (đời Tống) và được khắc trên đá có tên gọi Cử vực thú lệnh đồ. Giới hạn cương vực nhà Tống trong Cửu vực thú lệnh đồ về phía Nam đến Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam ngày nay). Theo các nhà nghiên cứu, các địa đồ sau này trải qua các đời Nguyên, Minh như Quảng dư đồ (hoàn thành năm 1541, khắc in năm 1555), Hoàng triều chức phương địa đồ (khắc in năm 1636)… là những địa đồ hành chính toàn quốc, được thực hiện theo chủ trương của chính quyền Trung ương các đời. Những địa đồ này thực hiện dưới sự ảnh hưởng của kỹ thuật vẽ địa đồ phương Tây, tuy nhiên điểm cực Nam của Trung Quốc trong cương vực tổng thể vẫn không vượt quá Quỳnh Châu. Theo Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Hà thuộc Trung tâm Bảo tồn khu di tích Cổ Loa, Thành cổ Hà Nội, “Hoàng Triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” được ấn hành vào năm 1905 và tái bản năm 1910. Trước đó trên các bản đồ của Việt Nam như Hồng Đức bản đồ, trong các ghi chép của Lê Quý Đôn trong “Phủ biên tạp lục”…chủ quyền đã thuộc về Việt Nam. Điều này đã được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, luật pháp chứng minh. TheoTiến sỹ Mai Hồng“Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” là tấm bản đồ do người Trung Quốc xây dựng và ấn hành thời gian đầu thế kỷ XX, do vậy bên cạnh giá trị về mặt lịch sử nó còn là cơ sở giúp các học giả Việt Nam trong các nghiên cứu chủ quyền quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa hoặc các nghiên cứu chung về Biển Đông. Vì vậy ông đã hiến tặng tài liệu quý này cho các cơ quan chức năng có trách nhiệm để phục vụ vào mục đích chung, hiện nay nó đã được trưng bày tại bảo tàng lịch sử Quốc gia và được người dân Việt hết sức quan tâm, nô nức đến xem. Điều đó cũng cho thấy sự quan tâm của người dân Việt tới vấn đề biển Đông và đặc biệt là vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Thêm một chứng cớ cho vấn đề chủ quyền tại biển Đông:


Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn công bố Tập sách “Địa dư đồ khảo” trước báo chí​
Đó là tập sách do cụ Trần Đình Bá (1867-1933) lúc làm Thượng thư bộ Hình triều Khải Định (1916-1925) đã cho sao chép cất vào tủ sách Phước Trang ở tư thất (số 114 Mai Thúc Loan, thành phố Huế), truyền đến đời thứ 4 là Trần Đình Sơn thừa kế, di chuyển vào Sài Gòn từ năm 1968, hiện vẫn được lưu giữ tại 128 Đinh Tiên Hoàng, TP. Hồ Chí Minh.
Tập sách “Địa dư đồ khảo” viết trên giấy xuyến tốt, bên ngoài có bìa cứng, bọc lụa đỏ, kế đến là bìa giấy cũ màu nâu. Tổng cộng có 65 tờ viết chữ Nho hai mặt, chữ còn rõ đẹp, gồm 20 mục khảo cứu về địa dư và 20 bản đồ chi tiết đính kèm. Giáo sư Cao Huy Thuần, giảng dạy về Luật học và Chính trị tại Đại học Picardia (Pháp) đánh giá cao đóng góp của nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn đã cung cấp một chứng cứ mới, thêm một trong những bằng chứng “sáng chói”, góp phần khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; khẳng định từ xa xưa, chính Trung Quốc chỉ công nhận biên giới của Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn cho biết thêm: Ngày nay tại Du Lâm, cực Nam của Hải Nam vẫn còn các tảng đá rất to lớn ghi hàng chữ lớn Thiên Nhai Hải Giác (chân trời góc biển), hoặc Hải Khoát Thiên Không (biển rộng trời không, mênh mông vô bờ bến). Ông cũng trích bài viết về biển Đông của học giả người Trung Quốc Lý Lệnh Hoa (Trung tâm Thông tin hải dương Trung Quốc), có đoạn viết: Vào thời nhà Thanh, có một chiếc tàu buôn của Pháp chở đồng đi qua vùng biển Tây Sa thì gặp cướp biển, bị cướp sạch. Theo quy tắc vận tải hàng hóa trên biển, họ phải đến gặp chính quyền sở tại để trình báo, đề nghị giúp bắt bọn cướp, đồng thời xin chính quyền nơi đó xác nhận làm bằng chứng để khi về báo cáo lại với chủ hãng và đòi bảo hiểm bồi thường.
Viên thuyền trưởng người Pháp đưa tàu chạy đến cảng gần nhất là Du Lâm ở đảo Hải Nam, trình báo với tri phủ địa phương. Viên quan địa phương nói với thuyền trưởng người Pháp: 'Nơi chúng ta đứng đây có tên là Thiên Nhai Hải Giác. Đất của Thiên triều đến đây là hết rồi. Chuyện ông bị cướp ngoài biển biết là ở chỗ nào? Ông bị cướp, chúng tôi không chịu trách nhiệm. Không quản được mà cũng không muốn quản'. Viên thuyền trưởng đành phải cho tàu chạy vào cảng Hải Phòng. Quan chức địa phương ở đó rất tốt, xác nhận cho ông ta, lại còn cho tàu ra chạy ngoài biển, coi như đã truy bắt cướp. Đó là chứng cứ về kiểm soát và quản lý thực tế . Chứng cứ này nói lên: Chính phủ Trung Quốc ngay từ thời triều Thanh đã không thừa nhận Tây Sa là lãnh thổ của mình, cũng không đảm trách công tác trị an ở đó. Còn chính quyền Việt Nam khi đó không những đã cho Tây Sa là lãnh thổ của mình, mà còn thực thi công tác giữ gìn trật tự ở đó. Điều đó chẳng chứng minh Tây Sa từ xưa đến nay đều thuộc về Việt Nam hay sao?”.
Hoàng Sa và Trường Sa vốn dĩ thuộc về Việt Nam, như vậy “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc vì lý do gì lại xuất hiện trên chính trường?
Theo ông Dương Danh Dy nguyên là Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu từ năm 1993 đến 1996 và làm việc, tìm hiểu Trung Quốc trong nhiều năm, nhà nghiên cứu người rất am tường các vấn đề về Trung Quốc. Ông nhận định: “Phải thấy ý đồ của Trung Quốc đối với biển Đông, họ không còn “giấu mình chờ thời” như trước đây. Phải nhìn tận gốc của vấn đề để thấy rằng tuyên bố mời thầu ở khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam chưa phải là hành động ghê gớm nhất, mà họ có thể có những bước đi xa hơn nữa”.


“Đừng bao giờ mất cảnh giác trước các âm mưu xâm chiếm Biển Đông của Trung Quốc. Lịch sử và thực tế đã chứng minh, họ luôn có những mưu đồ và hành động rất khó lường. Họ sẽ còn tiếp tục có những hành động gây hấn. Chúng ta phải luôn cảnh giác đề phòng những bước đi xa hơn của Trung Quốc”. Những nhận định trên được nhà nghiên cứu Dương Danh Dy đưa ra dựa trên cơ sở sự lớn mạnh nhanh chóng về nhiều mặt của Trung Quốc: Giữa năm 2010, GDP của Trung Quốc đã vượt Nhật Bản, trở thành nền kinh tế thứ 2 trên thế giới và trong nội bộ Trung Quốc có ý định phải đuổi kịp Mỹ. Song song với tiềm lực về kinh tế, Trung Quốc nghĩ rằng thực lực của họ đang lớn mạnh, Trung Quốc nghĩ rằng phải có hành động mạnh mẽ hơn trên biển Đông và thể hiện quan điểm rõ ràng biển Đông là lợi ích cốt lõi của họ. Điều này có nghĩa là biển Đông giống như Tây Tạng, Tân Cương và Nội Mông, nếu nước khác động đến sẽ xảy ra chiến tranh. Đó chính là nguyên nhân khiến Trung Quốc hành động mạnh mẽ hơn. Chúng ta đã thấy trung Quốc luôn thực hiện một chính sách khá cứng rắn trong tất cả vấn đề tranh chấp tại khu vực biển Đông, thực tiễn lịch sử đã chứng minh: Năm 1988 trong một cuộc đụng độ Trung quốc đã đánh chìm 3 tàu vận tải quân sự của Việt Nam đang làm nhiệm vụ tại quần đảo Trường Sa. Năm 1989 gây xung đột vũ trang với Philipin ở khu vực bãi Vành khăn. Năm 2006 xây dựng cột mốc trái phép tại quần đảo Hoàng Sa. Gần đây nhất là hành động mời thầu của Tổng công ty dầu khí xa bờ quốc gia Trung Quốc(CNOOC), đang tìm cách mời các công ty nước ngoài đấu thầu 26 lô dầu khí tổng diện tích trên 73.700km2, trong đó 22 lô thuộc biển Đông và lô 65-12 chỉ cách đảo Cây thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam chưa đầy 3 hải lý. Hành động mời thầu tại lô dầu khí 65-12 đã xâm phạm nghiêm trọng tới chủ quyền của Việt Nam đối với quần đào Hoàng Sa. Trong khi đó, Reuters dẫn đánh giá của giới phân tích cho hay đây là đợt mời thầu lớn nhất của CNOOC về số lượng lô dầu khí kể từ thập niên 1990. Diều này chứng minh CNOOC đang muốn đẩy mạnh khai thác do sản lượng dầu tăng chậm. các chuyên gia quốc tế cũng đánh giá rằng: Bắc Kinh sẽ còn đầy mạnh hơn nữa hành động gây lo ngại trên biển Đông.
Thêm vào đó, nội bộ của Trung Quốc cũng đang đấu tranh mạnh mẽ, và thường trong những cuộc đấu tranh nội bộ đó, họ đều chuyển hướng dư luận và hành động ra ngoài biên giới nước họ. Do vậy, nếu chúng ta không chuẩn bị kỹ lưỡng mọi điều kiện thì khó có thể biết điều gì xảy ra. Dự đoán về những hành động tiếp theo Trung Quốc có thể tiến hành, ông Dương Danh Dy cho rằng: “Theo tôi, Trung Quốc có thể sẽ có những hành động khác như: cho lính giả làm dân ra bãi đá ngầm Trường Sa làm giàn khoan để thử phản ứng của Việt Nam. Hoặc dù không đánh chiếm cả quần đảo, nhưng có thể họ sẽ chiếm 1 hoặc 2 trong số những đảo do Việt Nam đang quản lý để thử phản ứng của Việt Nam, thử phản ứng của thế giới, nếu không ăn thua thì rút, nếu có cơ hội thì lấn tới”. Hiện nay chúng ta thấy hành động của Trung quốc ngày càng thể hiện rõ nét mưu đồ. Với việc mời thầu phi pháp các lô dầu khí thuộc chủ quyền Việt Nam chỉ là một phần trong chiến lược thâu tóm biển Đông mà Trung Quốc đề ra. Ngày 31.8.2012 tờ the straits times đã cung cấp tiền trợ giúp các ngư dân nước này để đánh bắt trái phép tại các vùng biển tranh chấp trên biển Đông. Hành động này nhằm theo đưởi chiến lược “mưa dầm thấm đất” để Bắc Kinh độc chiếm biển Đông, chứ không đơn thuần là hỗ trợ ngư dân mưu sinh. Theo đó, những ngư dân làng chài Đàm Môn, phía đông đảo Hải Nam, cho biết họ nhận được các khoản trợ cấp nhiên liệu hàng năm dựa trên công suất tàu. Cụ thể, vào năm ngoái, ngư dân Trần Nghị Tân nhận được khoảng 400.000 nhân dân tệ (khoảng 63.000 USD) cho chiếc tàu 750 mã lực; ngư dân Phó Minh Khang được khoảng 300.000 nhân dân tệ (khoảng 45.000 USD) cho tàu 600 mã lực. Ngoài ra, mỗi chủ tàu còn nhận được khoảng 5.000 nhân dân tệ (gần 800 USD) cho mỗi chuyến đánh bắt trái phép tại biển Đông. Các quan chức Trung Quốc còn thường xuyên đến thăm làng Đàm Môn để thúc giục ngư dân đánh bắt trái phép tại Trường Sa thuộc Việt Nam. Tờ The Straits Times dẫn lời chuyên gia hàng hải họ Chương tại Singapore nhận định Trung Quốc đang đẩy ngư dân mạo hiểm đến vùng biển tranh chấp. Ông Chương còn cho rằng hành động trên sẽ khiến căng thẳng trong khu vực càng tăng cao.
Khi các nhà ngoại giao Trung Quốc mạnh mẽ đưa ra tuyên bố về "lợi ích cốt lõi” của họ tại Biển Đông và đe dọa sẽ không dung thứ bất cứ hành động nào của các quốc gia khác xâm phạm "chủ quyền không thể tranh cãi” của họ trong "đường lưỡi bò” bao chiếm 80% diện tích Biển Đông. Mong muốn kiểm soát Biển Đông, tham vọng biến vùng biển này trở thành "ao nhà” ngày càng trở nên rõ ràng qua nhiều tuyên bố, biện pháp và hành động mạnh mẽ của Trung Quốc mang tính áp đặt, nôn nóng khẳng định "chủ quyền không thể tranh cãi” của họ trên Biển Đông, ráo riết thực hiện việc kiểm soát trên thực tế trong khi không đưa ra được bất kỳ bằng chứng lịch sử hay cơ sở pháp lý quốc tế nào có sức thuyết phục. Có thể dễ dàng nhìn thấy Trung Quốc có nhiều lợi ích hữu hình quan trọng trên Biển Đông như: là đường biển quan trọng vận chuyển hàng hóa phục vụ phát triển kinh tế, trong đó có 70% tổng số lượng dầu hỏa cho nền kinh tế; là vùng biển có nhiều tài nguyên, trong đó quan trọng nhất là dầu khí và hải sản. Tuy nhiên, thái độ và hành động của Trung Quốc ở Biển Đông từ năm 2007 đến nay cho thấy giới chính trị - quân sự nước này nhìn nhận Biển Đông chủ yếu ở góc độ địa chính trị và địa chiến lược. Theo đó, Biển Đông là không gian lợi ích sống còn, là cửa ngõ để tiến xuống khu vực Đông Nam Á và vươn xa hơn trở thành cường quốc đại dương. Việc các lực lượng quân sự của Trung Quốc mạnh dạn chặn các tàu của Mỹ, thử phản ứng của Mỹ với đề nghị chia khu vực ảnh hưởng ở Thái Bình Dương, đe dọa và bắt bớ các tàu thuyền của các nước tranh chấp, xây dựng căn cứ tàu ngầm chiến lược ở Tam Sa là những minh chứng rõ ràng về quan niệm của giới chính trị và quân sự Trung Quốc về tầm quan trọng của Biển Đông và tương lai của vùng biển này trong chiến lược cường quốc của nước này. Các nhà phân tích cho rằng, chính sách đối với Biển Đông của Trung Quốc cần được xem xét trong tổng thể chiến lược an ninh và phát triển của nước này nhằm vươn lên thành một cường quốc toàn cầu. Theo đó, cần nhìn thấy sự bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông chỉ là một phần của kế hoạch bành trướng tổng thể, bao gồm "bành trướng cứng” như bành trướng trên biển, trên đất liền, và "bành trướng mềm” như tăng cường hiện diện ở tất cả các nơi có tiềm năng lợi ích về tài nguyên, dầu mỏ, địa chính trị, v.v... Mong muốn trở thành cường quốc toàn cầu của Trung Quốc đã bộc lộ từ lâu, khi nước này tự coi mình là đại diện của các nước thế giới thứ ba trong cuộc đấu tranh với hai siêu cường và các nước công nghiệp phát triển. Định hướng chiến lược này, tuy nâng Trung Quốc lên hàng một cường quốc trung gian giữa Mỹ và Liên Xô, nhưng lại không thể giúp Trung Quốc có được nguồn vốn và công nghệ cần thiết để phát triển kinh tế. Sau đó, Trung Quốc chuyển sang mục tiêu chiến lược "bốn hiện đại hóa”, đồng thời áp dụng phương châm "giấu mình chờ thời”. Ước vọng toàn cầu được giấu đi, kìm nén, không được cụ thể hóa, chỉ nói chung chung là phấn đấu cho một trật tự thế giới công bằng, dân chủ và "đa cực hóa”. Sau một phần tư thế kỷ "cải cách, mở cửa”, Trung Quốc đã từ một nước nghèo nàn lạc hậu vươn lên thành một nước công nghiệp mới, trở thành một đầu tàu tăng trưởng của thế giới, với tổng sản phẩm xã hội đứng thứ 2 thế giới (2010) và một viễn cảnh sẽ vươn lên dẫn đầu thế giới sau nửa thế kỷ tiếp theo. Những điều này một mặt khiến nhiều nước, nhất là Mỹ, lo ngại Trung Quốc là đối thủ tiềm tàng của họ, mặt khác cũng khiến bản thân Trung Quốc khó lòng kiềm chế trong việc bày tỏ tham vọng. Một biểu hiện của việc thiếu kiềm chế là Trung Quốc cố sức tự đưa người vào vũ trụ trong khi thu nhập quốc dân đầu người vẫn còn ở mức nghèo (hơn 1000 USD), một việc làm mà nhiều nước phát triển cao có khả năng cũng không đầu tư vì nặng tính khoa trương nhiều hơn là hiệu quả kinh tế. Cũng trong giai đoạn này, Trung Quốc đưa ra thuyết "trỗi dậy hòa bình” nhằm biện minh cho sự vươn lên vị thế một cường quốc thế giới. Khái niệm này sau một thời gian thử nghiệm đã được thay thế bằng cụm từ nhẹ nhàng hơn là "phát triển hòa bình”. Dù Trung Quốc đã hết sức cẩn trọng trong ngôn từ, người ta vẫn nhận thấy tham vọng toàn cầu của Trung Quốc. Từ năm 2007 đến nay, chiến lược "giấu mình chờ thời” hay "ngoại giao hài hòa” nhường chỗ cho chiến lược an ninh và đối ngoại mang tính khẳng định hơn, chủ động và quyết liệt hơn. Về an ninh, nội dung cốt lõi của chiến lược này là xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh, tăng cường quyền kiểm soát của Trung Quốc ở các vùng biển trọng yếu, đảm bảo an ninh cho các hoạt động giao thương của Trung Quốc. Có nhận định cho rằng Trung Quốc đang xây dựng vành đai an ninh "chuỗi ngọc trai” kết nối các đảo mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, Biển Đông Trung Hoa (Trung Quốc gọi tắt là Đông Hải) và Biển Nhật Bản cùng với các đảo và những cơ sở cầu cảng khác của Trung Quốc trải rộng từ Hải Nam tới Trung Đông, "chuỗi ngọc trai” sẽ giống như như một vành đai bao quanh rất nhiều đất liền châu Á. Những khu vực này chính là lợi ích an ninh quốc gia mà Trung Quốc tin là sống còn với cả sứ mệnh bảo vệ vùng biển cũng như chi phối châu Á - Thái Bình Dương. Bên cạnh đó, Trung Quốc xây dựng chiến lược "hải dương xanh” và chuyển từ "phòng ngự biển gần”, sang phát triển theo hướng "hải quân viễn dương”. Trung Quốc đang lên kế hoạch đóng tàu sân bay để tăng cường phạm vi hoạt động, phát triển các loại tên lửa tấn công của loại tàu này. Có thể thấy chiến thuật chính trị thực tiễn cứng rắn nhất và đáng báo động nhất của Trung Quốc đó là việc xây dựng hải quân ở Biển Đông. Bên cạnh việc Trung Quốc có được tàu ngầm và tàu khu trục mặt nước mới cũng như phát triển không lực trên biển, Hải quân Trung Quốc đã xây dựng một căn cứ ngầm rộng lớn ở đảo Hải Nam được xem là cảng nội địa giúp Hạm đội Nam Hải ở vị trí gần hơn với các vùng biển tranh chấp ở Biển Đông. Rõ ràng Trung Quốc tin rằng việc phát triển sức mạnh hải quân sẽ thúc đẩy việc giải quyết tranh chấp lãnh thổ với các quốc gia yêu sách nhỏ hơn theo cách của Trung Quốc, buộc Hải quân Mỹ ra khỏi Biển Đông và các khu vực biển tranh chấp khác xung quanh Trung Quốc. Việc xây dựng hải quân này cùng với các chiến thuật chính trị thực tiễn khác của Trung Quốc đã gây thêm căng thẳng cho khu vực. Chính sách dựa trên sức mạnh ngày càng quyết đoán của Trung Quốc trong nỗ lực áp đặt yêu sách đối với Biển Đông đã thu hút sự chú ý và quan tâm mới của Mỹ và nhiều cường quốc trên thế giới đối với khu vực này. Đến đây chúng ta hầu như đã cơ bản hiểu được nguyên cớ của sự xuất hiện của tấm bản đồ “đường lưỡi bò”, tư tưởng bành trướng của giới lãnh đạo Trung Quốc chưa từng mất đi, ngay cả khi Tưởng Giới Thạch phải bỏ chạy ra đảo Đài Loan. Những lợi ích mà biển Đông mang lại không chỉ đơn thuần là “dầu mỏ” bởi ngay như Brunei – nước sống chủ yếu bằng nguồn lợi nhuận từ dầu mỏ cũng phải kêu gọi người dân hạn chế phụ thuộc vào dầu mỏ. Điều đó cho thấy dầu mỏ ở biển Đông có trữ lượng cũng hạn chế và cũng mới ở giai đoạn thăm dò mà thôi. Nguồn lợi lớn hơn tất cả đó là “con đường hàng hải”, các nước trong khu vực muốn giao lưu thương mại với nhau và với các nước bên ngoài thì đều phải thông qua con đường biển này. Khi Trung Quốc thâu tóm được biển Đông thì các nước cả trong và ngoài khu vực đều phải phụ thuộc vào Trung Quốc, phải thông qua những điều khoản mà Trung Quốc đưa ra. Như vậy Biển Đông chiếm một vị trí chiến lược quan trọng trong việc đưa Trung Quốc có vị thế mạnh hơn trên trường quốc tế. Nhưng trên thực tế, những hành động của Bắc Kinh đã không đạt được những ý đồ đã đặt ra. Bắc Kinh vẫn đang ráo riết thực hiện việc thâu tóm biển Đông, xây dựng lên cái gọi là “thành phố Tam Sa”, xây dựng cục phát điện…- những hành động trái phép, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của các nước lien quan trong đó có Việt Nam. Và những hành động đó của Bắc Kinh đã khiến cho cộng đồng thế giới phản đối kịch liệt. và theo như chính ông Lý Lệnh Hoa thì: Trung Quốc cần phải hủy bỏ đường chín đoạn nếu không muốn tự biến mình thành “kẻ thù của nhiều nước”. Việc khư khư chiếm trọn biển Đông đang dần khiến Trung Quốc trở nên “không thể chấp nhận được” trước các nước láng giềng, bởi sẽ chẳng nước nào chấp nhận cái đường vô lý do Trung Quốc tự đặt ra và “còn lâu người ta mới đồng ý cho Trung Quốc sấn đến tận cửa nhà mình”.


Học giả Lý nhấn mạnh việc hủy bỏ đường chín đoạn ngày càng trở nên cấp bách trong giai đoạn hiện nay nếu Trung Quốc không muốn tự cô lập. Trung Quốc không thể đi ngược lại những nguyên tắc do chính mình cam kết khi tham gia UNCLOS. Trung Quốc “buộc phải đi chung con đường với cả thế giới”. Trung Quốc phải tôn trọng quy ước do mình đã ký kết nếu không muốn ngày một xấu đi trong mắt cộng đồng quốc tế.

Đồng tình với việc Trung Quốc cần hủy bỏ đường chín đoạn, học giả Trâu Hồng Minh cũng cho rằng “Trung Quốc không thể cứ mãi trở thành đối thủ của nhiều nước, đặc biệt là các hàng xóm sát vách chúng ta. Không phải cứ dùng vũ lực chiếm lấy lãnh thổ là giải quyết được mọi vấn đề”.
Tại cuộc hội thảo, mặc dù không ít nhà nghiên cứu luật biển, học giả tỏ ra đồng tình với các quan điểm và lời kêu gọi của học giả Lý Lệnh Hoa về đường chín đoạn. “Trung Quốc đang ở vào thế dù biết mình vô lý vẫn phải “ném lao theo lao” - học giả Do Ký nhìn nhận. Song dù có khó khăn thế nào, theo ông Lý Lệnh Hoa, không thể viện cớ “chủ nghĩa dân tộc” để tiếp tục “sai lại càng sai” trong vấn đề biển Đông. Tại cuộc hội thảo này, ông Lý Lệnh Hoa cho biết ông chưa bao giờ sợ cô độc bởi ông đang nói lên sự thật. “Chỉ khi tuân thủ UNCLOS, hòa bình, ổn định cho Trung Quốc và các nước trong khu vực mới được giữ vững” .
Đặt trong điều kiện của Đông Nam Á gắn với địa bàn chiến lược biển Đông, khi các thế lực lớn như: Mỹ, Nhật Bản, EU…vẫn đang tiếp tục nhòm ngó Đông Nam Á với hy vọng có thể bá chủ, độc quyền địa bàn chiến lược này nhằm mưu cầu cho lợi ích kinh tế, chính trị của mình. Điều đó không cho phép Đông Nam Á mất cảnh giác, các quốc gia trong khu vực cần phải hợp lực đoàn kết lại với nhau để bảo vệ chủ quyền và quyền lợi trên biển Đông.
Trong khi Trung Quốc luôn áp đặt quan điểm đàm phán song phương không đàm phán đa phương, đặc biệt không muốn có sự dính dáng vai trò của Mỹ trong những tranh chấp nội bộ này nhằm dựa vào sức mạnh kinh tế, quân sự, ngoại giao để gây sức ép rất lớn đối với các bên tranh chấp. Thì các nước có tranh chấp ở biển Đông đã tích cực áp dụng phương châm: công khai, minh bạch, kêu gọi và tận dụng giới học giả, ngoại giao, các diễn đàn đa phương với sự tham dự tất yếu của các bên lien quan trong việc đàm phán, thảo luận tìm ra đối sách khả quan nhất cho hiện tượng căng thẳng hiện tại. Trong quan hệ quốc tế hiện nay khi các giá trị chung ngày càng được đề cao thì vai trò của các tổ chức quốc tế, khu vực cũng ngày càng trở nên quan trọng. Vì vậy trong nhiều cuộc xung đột cách giải quyết không đơn giản là 2 bên mà cộng đồng quốc tế có một vai trò rất quan trọng. Trong vấn đề biển Đông Trung Quốc rất muốn thâu tóm nhưng không dám nói thẳng với cộng đồng quốc tế mà chỉ cho đó là những tranh chấp đang được đôi bên tìm hướng giải quyết. Cũng vì vậy mà Trung Quốc luôn muốn giải quyết vấn đề theo hướng song phương, khi có sự can thiệp của các nước lớn mà đặc biệt là của các tổ chức quốc tế thì vấn đề càng trở nên bất lợi cho Bắc Kinh.
Mỹ luôn nhất quán quan điểm ủng hộ việc giải quyết hòa bình các tranh chấp và xung đột mà không dung tới sức mạnh quân sự. Mỹ không muốn phức tạp hóa tình hình trong khu vực khi các lợi ích kinh tế quan trọng với Trung Quốc và các đối tác khác có thể bị đe dọa lớnmột khi căng thẳng, chiến tranh xảy ra và leo thang. Mỹ cũng chuyển từ “không can dự” sang “can dự có chừng mực”, sử dụng sự có mặt của Mỹ và các lien minh song phương như một nhân tố răn đe đối với các bên tranh chấp đối phó với xung đột nếu xảy ra. Mỹ cũng đã bày tỏ ý kiến của mình: nếu Trung Quốc phá bỏ các quy tắc trong DOC (Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc), Mỹ sẽ có thể phát động một chiến dich đối đầu với Trung Quốc bằng cả cuộc chiến chính trị, ngoại giao lẫn các biện pháp kinh tế, thương mại và cao hơn nữa là một cuộc chiến tranh cấp khu vực do Mỹ đứng dầu tấn công vào Trung Quốc. Có thể thấy cách ứng xử của Mỹ đối với vấn đề biển Đông rất khôn ngoan. Dù có xảy ra tình huống như thế nào đi chăng nữa thì Mỹ vẫn là siêu cường trong cuộc mà ngoài cuộc, ngoài cuộc mà trong cuộc nơi mà sân chơi quyền lực như biển Đông không thể thiếu được vai trò tất yếu của nước này.
Theo Tiến Sỹ Trần Trường Thủy: Những diễn biến gần đây đã chỉ ra những hạn chế của DOC trong việc ngăn ngừa căng thẳng, xung đột ở khu vực. Theo GS. Peter Dutton: tranh chấp biển Đông về cơ bản là tranh chấp chủ quyền, phân định quyện tài phán và việc kiểm soát vùng nước. Để đảm bảo các giải pháp hòa bình cho tranh chấp và ổn định của khu vực cần phải có bộ quy tắc ứng xử và thúc đẩy hợp tác khu vực để quản lý tài nguyên bền vững. Còn theo học giả C. Serverino nhấn mạnh: sự đối lập lợi ích giữa các bên trong tranh chấp biển Đông khiến cho các tranh chấp chủ quyền này khó có thể được giải quyết thông qua đàm phán hoặc phán quyết của các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên mức độ căng thẳng , mất ổn định có thể được hạn chế nếu các bên tranh chấp tuân thủ tối đa UNCLOS (công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển) và nếu các bên đạt được thỏa thuận xa hơn về mỗi điều khoản của DOC.
Như vậy đến đây chúng ta có thể đưa ra một nhận định: rõ ràng “đường lưỡi bò” là một biều hiện của tư tưởng bành trướng cố hữu đã tồn tại trong tư tưởng của giới lãnh đạo Trung Quốc, dù nó là trái nhưng vẫn cố tìm cách để bảo vệ. Dù các học giả Trung Quốc đã nhận định “đường lưỡi bò” là sai nhưng Trung Quốc vấn ngấm ngầm thực hiện mưu đồ của mình một cách trái phép mà ngang nhiên. Giới lãnh đạo Bắc Kinh đang muốn thực hiện cái gọi là “mưa dầm thấm đất” và “đi mãi thành đường mòn” để biến những khu vực mà Trung Quốc đang lấn chiếm trái phép thành của mình thực sự. Chúng ta phải thừa nhận Trung Quốc rất khôn ngoan khi dù Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc chủ quyền của mình nhưng từ những em học sinh tiểu học đã được giảng dạy và thấm nhuần vào trong suy nghĩ rằng: Hoàng Sa và Trường Sa là một phần lãnh thổ của họ. Trong khi đó Việt Nam, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của ta là một điều đã được lịch sử chứng minh thì người dân khi được hỏi đến thì đều nắm một cách lơ mơ. Chúng ta luôn khẳng định mong muốn xử lý vấn đề biển Đông trong hòa bình, mềm mỏng mà kiên quyết để bảo vệ chủ quyền của mình. Hiện nay cục diện cũng như cục diện thế giới đã thay đổi, Trung Quốc dù đã mạnh nhưng bình đẳng và tôn trọng độc lập – chủ quyền của nhau là nguyên tắc quốc tế và Trung Quốc là một chủ thể thuộc cộng đồng quốc tế này cần và phải thực hiện theo nguyên tắc để đảm bảo một không khí hòa bình trong sự phát triển thịnh vượng, để tráh một cuộc chiến tranh khu vực rất có thể xảy ra một khi có sự tham gia của các cường quốc lớn và tổ chức quốc tế. Và trên tinh thần nhìn nhận rõ cục diện chiến lược, bản thân các quốc gia trong khu vực đặc biệt là các quốc gia có tranh chấp trực tiếp cần hợp lực để bảo vệ chủ quyền và quyền lợi của mình tại biển Đông, để Trung Quốc phải rút bỏ cái thuyết “đường lưỡi bò” của mình chấp nhận cực Nam đến đảo Hải Nam. Đặc biệt cộng đồng các quốc gia khu vực Đông Nam Á cần phải hợp lực, khôn khéo trong đường lối chính trị cùng với những bằng chứng không thể chối bỏ của lịch sử để khiến các điều khoản trong DOC thực sự có giá trị và Trung Quốc phải ngoan ngoãn thực hiện UNCLOS.
Đầu tháng 9 -2012 nhân chuyến thăm của ngoại trưởng Hillary Clinton chiều 5/9, Ngoại trưởng Dương Khiết Trì cam kết Trung Quốc sẽ bảo đảm tự do hàng hải trên biển Đông và sẵn sàng phối hợp hoàn tất bộ quy tắc ứng xử cho các tranh chấp trên vùng biển này trên cơ sở đồng thuận và nói rằng ông hy vọng sẽ có “thành công” tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á vào tháng 11 tới tại Phnom Penh. Trước đó, bà Hillary đề xuất muốn thấy bộ quy tắc ứng xử này ra đời trước cuộc họp thượng đỉnh mà Tổng thống Mỹ Barack Obama dự kiến sẽ tham gia. Trong khi đó Phó Chủ tịch Tập Cận Bình - người được trông đợi sắp lên lãnh đạo Trung Quốc - đã hủy cuộc gặp đã hẹn trước với bà Hillary, dự kiến vào sáng 5.9, mà không rõ nguyên do. Trước thềm chuyến thăm của bà Hillary, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã cảnh báo Mỹ nên khuyến khích ổn định ở Châu Á - Thái Bình Dương và không nên can dự vào các tranh chấp lãnh thổ trong khu vực. “Chúng tôi hy vọng Mỹ sẽ giữ đúng cam kết và có những nỗ lực xây dựng chứ không phải phá hoại hòa bình và ổn định khu vực,” - người phát ngôn Bộ Ngoại giao Hồng Lỗi tuyên bố. Như vậy chứng tỏ giới lãnh đạo Trung Quốc vẫn đang một mực giữu quan điểm của mình và mong muốn được giải quyết song phương chứ không phải là đa phương mặc dù các nước trong khu vực Đông Nam Á trong đó có Việt Nam rất muốn giải quyết theo hướng đa phương. Trước những hành động ngày càng trắng trợn của Trung Quốc chúng ta cần phải hết sức cảnh giác trước mọi hành động dù là nhỏ nhất của đất nước này tại biển Đông đồng thời cần phải có những hành động thiết thực hơn nữa để cho nhân dân thế giới biết rằng Trung Quốc đang ngạo mạn muốn dung sức mạnh kinh tế, quân sự, ngoại giao…để xâm hại đến chủ quyền quốc gia của các nước láng giềng và vi phạm vào các công ước quốc tế. Điều đó cũng cho thấy Trung Quốc đang không coi các tổ chức quốc tế gia gì? Liệu có phải cục diện chiến lược thế giới đang thay đổi theo hướng mà Trung Quốc đang hy vọng? Chúng ta rất đang hy vọng vấn đề biển Đông sẽ sớm đi vào ổn định với những đường biên như quốc tế đã công nhận và điều đó chúng ta đang rất mong đợi ở sự cố gắng cùng hợp tác của tất cả các bên.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Chủ đề tiếp theo đây ạ:
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG THÔNG QUA ĐÀM PHÁN TỪ DOC ĐẾN COC
Kính mong các cụ các mợ hưởng ứng!
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Dạ, nhà cháu xin bắt đầu chủ đề mới: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG THÔNG QUA ĐÀM PHÁN TỪ DOC ĐẾN COC
“Nếu không hành động, có thể đến cả cá nục Biển Đông con cháu chúng ta cũng không còn được ăn”. Đó có lẽ không đơn thuần là một câu nói cho vui miệng của một vị PGS của một trường đại học. Mà hơn hết, đó có lẽ cũng là nỗi niềm đau đáu của bất kì một người Việt Nam nào còn có ý thức về cội nguồn, về quốc gia, về dân tộc mình.
Biển Đông đang “nóng” lên từng ngày, theo những cách riêng mà các bên liên quan muốn “làm nóng” ở vùng biển này. Độ “nóng” của các vấn đề Biển Đông tỉ lệ nghịch với tiến trình đi đến một sự đồng thuận trong việc giải quyết các tranh chấp, đụng độ về quyền lợi, thế lực, vị trí và tương quan lực lượng của các bên có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến Biển Đông - ít nhất là trên giấy tờ.
Khi tất cả các dân tộc còn đứng trên lập trường dân tộc để nhìn nhận và đấu tranh thì chắc chắn các vấn đề Biển Đông sẽ không dễ để giải quyết. Hơn thế nữa, trong thế tương quan của cái mạnh – cái yếu, cái giàu – cái nghèo, cái đơn lẻ - cái liên minh…giữa các bên ở thời điểm hiện tại thì tìm được một cách giải quyết đối với các vấn đề Biển Đông thông qua đàm phán là rất khó khăn. Mất 19 năm để Trung Quốc và Asean đi đến được một sự nhất trí “lỏng lẻo” khi thông qua “Quy tắc hướng dẫn thực thi (Doc Declaration On The Conduct - DOC)” về Biển Đông. Ở thời điểm đó – tức là vào tháng 7 năm 2011 các bên liên quan còn mang một sự lạc quan đáng kể khi hướng tới một thoả thuận mang tính ràng buộc pháp lý – Bộ quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông (COC - Code of Conduct). Nhưng trong thời điểm hiện tại, có lẽ đó là điều khó nói nhất trong tất cả các điều khó giải quyết ở Biển Đông.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
1. Tiến trình đi đến kí kết DOC
Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, khi chế độ tư bản phát triển tới mức họ bắt đầu mở rộng thị trường ra toàn thế giới để đáp ứng cho như cầu phát triển đó của mình. Châu Á, Phi và sau đó là Mỹ La Tinh lần lượt trở thành thuộc địa. Thế giới bước vào giai đoạn phân chia, tranh giành, xâm phạm, xâu xé, cạnh tranh…quyết liệt. Nhưng khi ấy người ta mới chỉ tính đến các lục địa, các đại dương chỉ mới dừng lại ở các tuyến vận tải, những vị trí chiến lược nào đó cho một chiến dịch quân sự hoặc kinh tế. Có lẽ vì vậy mà phải tới đầu những năm 90 của thế kì XX, thế giới mới phải sử dụng tới một công cụ công quyền chung cho vấn đề biển đảo. Và sau hơn 4 năm chuẩn bị và 9 năm đàm phán, ngày 10 tháng 12 năm 1982, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là Công ước Luật biển 1982), tên tiếng Anh là United Nations Convention on the Law of the Sea, hay thường được gọi tắt là UNCLOS 1982, được 107 quốc gia, trong đó có Việt Nam, ký tại Montego Bay, Jamaica (tính đến nay, số quốc gia ký là 157), đánh dấu thành công của Hội nghị LHQ về Luật biển lần thứ 3, với sự tham gia của trên 150 quốc gia và nhiều tổ chức quốc tế, kể cả các tổ chức quốc tế phi chính phủ, cùng xây dựng nên một Công ước mới về Luật biển, được nhiều quốc gia, kể cả những quốc gia không có biển, cùng chấp nhận.
Sau Hiến chương LHQ, Công ước Luật biển 1982 được đánh giá là văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, được nhiều quốc gia ký kết và tham gia. Công ước Luật biển 1982 có hiệu lực từ ngày 16 tháng 11 năm 1994 (12 tháng kể từ ngày Guyana, nước thứ 60 phê chuẩn Công ước ngày 16 tháng 11 năm 1993). Là một văn kiện pháp lý đa phương đồ sộ, bao gồm 320 điều khoản và 9 Phụ lục, với hơn 1000 quy phạm pháp luật, Công ước Luật biển 1982 đã đáp ứng nguyện vọng và mong đợi của cộng đồng quốc tế về một trật tự pháp lý quốc tế mới đối với tất cả các vấn đề về biển và đại dương, bao gồm cả đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Mặc dù đi đến một công ước chung mang tính quốc tế về luật biển đã là một tiến bộ rất lớn của cả thế giới nhằm tạo ra một hành lang pháp lý cần thiết để phân chia và giải quyết các vấn đề liên quan đến biển, đảo, đại dương. Nhưng dường như, vấn đề không đơn giản như thế, khi các nguồn lợi từ biển – bao gồm cả vị trí địa lý ngày càng có vai trò quan trọng thì cũng là lúc hàng loạt các vấn đề nảy sinh, trong đó giải quyết nhất chính là những tranh chấp giữa các bên liên quan đến biển đảo. Mà tình hình ở Châu Á – Thái Bình Dương nói chung và ở biển Đông Việt Nam nói riêng là một điển hình.
Nếu như thế giới mất 9 năm đàm phán để đưa ra được một công ước chung về luật biển, thì Asean và Trung Quốc phải mất tới 19 năm để có được một tiếng nói chung trong vấn đề biển đảo khi đi đến sự nhất trí và chính thức thông qua Quy tắc hướng dẫn thực thi Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). DOC từng được thai nghén và thông qua cấp chuyên viên những năm 1990. Tuy nhiên, hơn mười năm sau, mãi đến năm 2002, TQ mới đặt bút ký với ASEAN văn bản này. Và phải chờ thêm gần 9 năm nữa, đến nay, Quy tắc hướng dẫn thực thi một tuyên bố ký kết cách đấy 10 năm mới được chứng thực.
Dư luận hiển nhiên có quyền đặt nhiều câu hỏi: Tại sao các “tài liệu quan trọng” nhường ấy mà phải chờ mãi bao nhiêu năm nay TQ mới chịu đàm phán (từ 1990)? Tại sao thương thảo kéo dài đến ngần ấy năm mới đạt được thỏa thuận (từ 2002)? Và liệu khi nào thì TQ và ASEAN mới ký kết được văn bản cuối cùng mà khu vực và thế giới đang nóng lòng đón đợi - COC?
Căng thẳng vừa qua tại Biển Đông xuất phát từ những quyết đoán đơn phương về chủ quyền của Bắc Kinh trên vùng biển này. Tàu hải giám và ngư chính TQ bắt giữ hoặc đe dọa tàu cá của Việt Nam, Philippines, ngăn cản tàu thăm dò của hai nước này, thậm chí còn nhiều lần cắt cáp thăm dò dầu khí của tàu Việt Nam ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Đó là căn nguyên của mọi bức xúc trong khu vực và thế giới.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Như vậy ở DOC đã có gì và thiếu sót điều gì khiến cho vấn đề không được giải quyết tận gốc? Nội dung cơ bản của DOC gồm 10 điểm đã được bổ sung thêm bằng Bản Quy tắc hướng dẫn 8 điểm nhằm làm rõ thêm những nội dung trong các điểm của DOC. Các điểm này là :
1.Việc thực hiện DOC cần tiến hành từng bước phù hợp với các điều khoản trong DOC.
2. Các bên tham gia DOC sẽ tiếp tục thúc đẩy đối thoại và tham vấn theo tinh thần của DOC.
3. Việc tiến hành các hoạt động hoặc các dự án đã được quy định trong DOC cần được xác định rõ ràng.
4. Việc tham gia các hoạt động hoặc các dự án cần được thực hiện trên cơ sở tự nguyện.
5. Các hoạt động ban đầu được cam kết trong phạm vi DOC cần phải là các biện pháp xây dựng lòng tin.
6. Quyết định thực hiện các biện pháp hoặc các hoạt động cụ thể của DOC cần dựa trên sự đồng thuận giữa các bên liên quan và tiến tới hiện thực hóa COC.
7. Trong quá trình thực hiện các dự án đã được thỏa thuận, khi cần thiết, sẽ trưng cầu sự phục vụ của các chuyên gia, các nhân vật kiệt xuất nhằm cung cấp nguồn lực cụ thể đối với các dự án liên quan.
8. Tiến trình thực hiện các hoạt động và các dự án đã được thỏa thuận trong DOC sẽ được thông báo hàng năm cho Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN - Trung Quốc.
Tại cuộc họp lần thứ nhất của Nhóm làm việc ASEAN – Trung Quốc về thực thi DOC tổ chức ngày 4-5/8/2005 tại Manila, Philipppin, dự thảo của ASEAN gồm 7 điểm:
1. Việc thực hiện DOC cần tiến hành từng bước phù hợp với các điều khoản trong DOC.
2. ASEAN sẽ tiếp tục thực tiễn hiện có của mình về tham vấn giữa các thành viên trước khi gặp Trung Quốc.
3. Việc thực hiện DOC cần được dựa trên các hoạt động hoặc các dự án được xác định rõ ràng.
4. Việc tham gia các hoạt động hoặc các dự án cần được thực hiện trên cơ sở tự nguyện.
5. Các hoạt động ban đầu được tiến hành trong phạm vi DOC cần phải là các biện pháp xây dựng lòng tin.
6. Quyết định thực hiện các biện pháp hoặc các hoạt động cụ thể của DOC cần dựa trên sự đồng thuận giữa các bên liên quan và tiến tới hiện thực hóa COC.
7. Trong quá trình thực hiện các dự án đã được thỏa thuận theo DOC, khi cần thiết, sẽ trưng cầu sự phục vụ của các chuyên gia, các nhân vật kiệt xuất nhằm cung cấp nguồn lực cụ thể đối với các dự án liên quan.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Nếu so sánh thì hầu hết các điểm trong Dự thảo ban đầu của ASEAN đều được hai bên chấp nhận, nhất là các điểm 1, 3, 4, 5, 6, 7. Bản Quy tắc hướng dẫn DOC 2011 chỉ thêm điểm số 8 mới và có thay đổi nội dung của điểm số 2.
Nguyên tắc 2 được đề xuất phù hợp với nguyên tắc đồng thuận trong Hiến chương của ASEAN và tinh thần DOC là văn bản ký‎ kết giữa một bên là ASEAN và một bên là Trung Quốc. Các nước thành viên ASEAN mong muốn có sự trao đổi trước thống nhất lập trường của khối trước khi thảo luận với Trung Quốc. Điều 2.2.b của Hiến chương 2007 quy định ASEAN chia xẻ cam kết và trách nhiệm tập thể đối với hòa bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực và điều 2.2.g ASEAN tăng cường tham vấn đối với các vấn đề ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích chung của khối. Hầu hết các nước ASEAN, dù có yêu sách chủ quyền hay không, đều có những quyền lợi trên Biển Đông như quyền tự do hàng hải, quyền quá cảnh, quyền đánh bắt cá, quyền đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phù hợp với các quy định của Công ước luật biển 1982. Các Tuyên bố tại các Hội nghị thượng đỉnh ASEAN từ năm 1992 đều có vấn đề Biển Đông. Ngày 7 tháng 6 năm 2011, Philippin chính thức đưa ra sáng kiến kêu gọi ASEAN và các nước liên quan đóng góp để chuyển Biển Đông từ một vùng tranh chấp thành một khu vực Hòa bình, Tự do, Hữu nghị và Hợp tác (Zone of Peace, Freedom, Friendship, and Cooperation - ZoPFF/C).
Tuy nhiên đề xuất này của ASEAN lại vấp phải lập trường trái ngược của Trung Quốc. Nếu vào thời điểm ký‎ DOC, Trung Quốc không bình luận gì về hình thức ký kết văn bản thì trong các cuộc thảo luận về hướng dẫn thực hiện DOC, Trung Quốc thể hiện quan điểm DOC là văn bản ký giữa Trung Quốc và từng nước thành viên ASEAN chứ không phải với một bên là khối ASEAN, bên kia là Trung Quốc. Tại ARF 17 tổ chức ở Hà Nội năm 2010, chính sách của Trung Quốc đối với Biển Đông là không quốc tế hóa, không đa phương hóa, giải quyết tranh chấp trên cơ sở song phương. Trong bối cảnh các bên đều cần có một văn bản chính trị để hạ nhiệt ở Biển Đông như Bản quy tắc hướng dẫn thực hiện DOC thì việc tìm ra một công thức thỏa thiệp là bắt buộc. Nguyên tắc 2 của bản Quy tắc hướng dẫn (“Các bên tham gia DOC sẽ tiếp tục thúc đẩy đối thoại và tham vấn theo tinh thần của DOC”) là một công thức như vậy. ASEAN có thể hiểu các bên ở đây là ASEAN và Trung Quốc. Ngược lại Trung Quốc có thể giải thích các bên DOC là Trung Quốc và 10 nước ASEAN và họ có thể đối thoại riêng rẽ với từng nước. Khó khăn lớn nhất trong xác định chủ thể của DOC và cơ chế làm việc đã không có được sự hướng dẫn thỏa đáng. Điều này sẽ không thể không ảnh hưởng tới việc thực thi DOC trong tương lai. ASEAN có thể hài lòng với nội dung thêm ở điểm 8 hướng dẫn báo cáo hàng năm cho Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN - Trung Quốc về tiến trình thực hiện các hoạt động và các dự án đã được thỏa thuận trong DOC. Điểm 8 Hướng dẫn này không làm thay đổi thực chất chấp nhận nguyên tắc 2 trong Bản quy tắc hướng dẫn. Đây là một yếu thế pháp lý trong thực hiện nguyên tắc đồng thuận của ASEAN
Điểm thứ hai có thể thấy gọi là Bản quy tắc hướng dẫn DOC nhưng thực chất là hướng dẫn thực hiện các dự án trong khuôn khổ DOC. Đã có tới 4/8 điểm trong bản quy tắc có chữ “dự án” nếu không nói là hầu hết 8 điểm đều liên quan đến các dự án. Trợ lý Ngoại trưởng Trung Quốc Lưu Chí Dân phát biểu tại Bali, Indonexia, sau khi bản Quy tắc hướng dẫn được thông qua cũng nhấn mạnh đến việc thực hiện các dự án: "Trung Quốc và ASEAN sẽ thực thi đầy đủ và toàn diện DOC và sẽ khởi động các hoạt động thực thi thông qua các dự án hợp tác". Như đã biết, việc thực hiện DOC ít nhất có hai mục tiêu đồng thời: tạo ra sự tin tưởng lẫn nhau giữa các bên tranh chấp và thúc đẩy để đi đến một Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông mang tính khu vực (điểm 10 của COC). Trong việc tạo ra sự tin tưởng lẫn nhau thì các dự án chỉ là một phần. Cái chính mà DOC phải đạt được là giúp hạn chế các hành động gia tăng căng thẳng ở Biển Đông. Thỏa thuận DOC đã không cụ thể hóa thế nào là các hành vi gây phức tạp hoặc gia tăng tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình ổn định ở khu vực ngoài quy định không đưa người ra ở tại những đảo, đá, bãi ngầm chưa có người ở...
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Sau những vụ tàu Bình Minh 02, Vi king 02 bị cắt cáp khi khảo sát trên thềm lục địa Việt Nam hay các cáo buộc của Philippins về những hoạt động của Trung Quốc ở Bãi Cỏ rong, vào sâu thềm lục địa của họ, cộng đồng khu vực và thế giới rất mong muốn Bản quy tắc hướng dẫn thực hiện DOC sẽ cụ thể hóa thêm những gì DOC chưa thể hiện. Rất tiếc, các thỏa thuận đạt được phần lớn chỉ tập trung vào các dự án trong các lĩnh vực phi truyền thống như nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường biển, an toàn hàng hải; tìm kiếm cứu nạn; chống tội phạm có tổ chức. Các bên vẫn tiếp tục được quyền tự giải thích DOC và bản quy tắc hướng dẫn theo cách hiểu của mình. Điều này cắt nghĩa tại sao chỉ vài ngày sau khi thông qua Bản Quy tắc ứng xử, Philippin và Trung Quốc lại tiếp tục to tiếng với nhau khi Nhân dân Nhật báo ngày 2/8/2011 cảnh báo một số quốc gia sẽ phải trả giá đắt cho hành động sai lầm đối với chủ quyền của Trung Quốc sau khi báo Philippine Star đưa tin công binh Philippines sắp hoàn thành tòa nhà thứ hai trên một hòn đảo tại biển Đông. Ngày hôm trước Trung Quốc cũng lên tiếng cảnh báo kế hoạch của Philiippines khoan thăm dò ít nhất hai giếng và tiến hành một loạt các cuộc khảo sát địa chấn vào đầu năm sau trên vùng biển giàu khí thuộc Bãi Cỏ rong.
Cũng giống như DOC, Bộ quy tắc hướng dẫn lảng tránh vấn đề phạm vi áp dụng, dù chỉ là phạm vi cho các dự án hợp tác. Phạm vi áp dụng của DOC được Việt Nam và ASEAN hiểu bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa những khu vực có tranh chấp, còn Trung Quốc lại hiểu chỉ bao gồm Trường Sa. Ngày 7 tháng 5 năm 2009, với việc chính thức công bố bản đồ đường lưỡi bò tại Liên hợp quốc, theo Trung Quốc, phạm vi tranh chấp đồng nghĩa với phạm vi áp dụng DOC, ít nhất là trong phạm vi đường lưỡi bò nhưng không được nói đến Hoàng Sa đã “thuộc” sự chiếm đóng của họ, không có gì phải đàm phán hay tranh cãi. Việc xác định phạm vi cho từng dự án được điều chỉnh bởi các quy tắc 3, 4 và 6 với điều kiện các dự án đó phải rõ ràng, phải thông qua đồng thuận và việc tham gia trên cơ sở tự nguyện. Theo luật pháp và thực tiễn quốc tế, các dự án như các biện pháp xây dựng lòng tin có thể được tiến hành trên các khu vực tranh chấp có phạm vi xác định trên cơ sở thỏa thuận của các bên liên quan. Tại các khu vực không có tranh chấp, các dự án hợp tác phải tuân thủ luật pháp của nước chủ nhà. Ở Bali, Indonexia tháng 7 năm 2011, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì tuyên bố duy trì đường đứt khúc 9 đoạn từ năm 1948 thì đồng nghiệp Philipppin của ông Albert del Rosario than thở, đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông nhiều đến mức nếu đáp ứng đòi hỏi của họ, việc xây dựng một bộ quy tắc ứng xử với Trung Quốc trở thành vô ích. Các hoạt động đấu thầu dầu khí của Philippin và Việt Nam trong tháng 7 tháng 8 năm 2011 trên thềm lục địa tính từ đất liền mà các nước này cho là của họ phù hợp Công ước luật biển 1982 liên tục bị Bắc Kinh cảnh báo là vi phạm chủ quyền của Trung Quốc. Bộ quy tắc hướng dẫn đã không đề cập đến hướng giải quyết các tranh chấp tương tự như thế nào, dựa trên Công ước luật biển hay dựa trên các bằng chứng lịch sử mà các bên thi nhau đưa ra và không có một biểu hiện nhượng bộ. Rõ ràng việc xác định phạm vi triển khai các dự án trong khuôn khổ DOC sẽ không dễ dàng hơn so với trước khi có Bộ quy tắc hướng dẫn thực hiện và nếu đạt được thỏa thuận thì việc tiến hành dự án cũng chưa hẳn đã thuận lợi khi việc tiến hành này là trên cơ sở tự nguyện, nghĩa là có thể tham gia hay rút ra tùy ý ‎?
Điểm 7 của Bộ Quy tắc ứng xử là nhằm tăng cường nguồn lực cụ thể đối với các dự án liên quan. Tuy nhiên nó không cho biết rõ sẽ trưng cầu sự phục vụ của các chuyên gia, các nhân vật kiệt xuất mang quốc tịch Trung Quốc, các nước ASEAN hay một nước thứ ba. Ở đây cũng thể hiện sự nhượng bộ hai lập trường của ASEAN và Trung Quốc về mở rộng hợp tác giữa các bên liên quan trong và ngoài khu vực. Một dự án liên quan đến an toàn hàng hải hay bảo vệ môi trường biển rõ ràng cần có sự ủng hộ của không chỉ các nước trong khu vực mà cả các nước ngoài khu vực khi Biển Đông tập trung nhiều tuyến đường hàng hải quốc tế. Việc quy định không cụ thể có thể sẽ gây ra những thảo luận triền miên ở cấp chuyên viên, gây ảnh hưởng đến tiến trình thực hiện các dự án. Bộ quy tắc hướng dẫn cũng như DOC không giải quyết được dạng tranh chấp thứ ba ở Biển Đông đã bắt đầu bằng những tranh cãi giữa Mỹ và Trung Quốc về quyền tự do hàng hải, khảo sát khoa học qua vụ tàu Imppeccable tháng 3 năm 2009, cũng như các tranh luận về lợi ích cốt lõi của Trung Quốc và lợi ích quốc gia của Mỹ trước và sau ARF 17 tại Hà Nội tháng 7 năm 2010.
Bộ quy tắc hướng dẫn cũng không có một quy định nào về cơ chế giám sát, thực thi các hoạt động hay các dự án trong khuôn khổ DOC ngoài quy định điểm 8 về nghĩa vụ thông báo hàng năm cho cuộc họp cho Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN - Trung Quốc. Điều này cũng dễ hiểu vì DOC là một văn bản lỏng lẻo, mang tính chính trị nhiều hơn là ràng buộc pháp lý nên Bản Quy tắc hướng dẫn cũng không thể khắc phục được tính chất này. Kết quả có thể dự báo là tính hiệu quả của các dự án không cao do không có một cơ chế hữu hiệu trong giám sát và thúc đẩy tiến trình dự án.
Bản quy tắc hướng dẫn đề cập duy nhất tới COC, mục tiêu mà khu vực và quốc tế mong đợi, trong điểm 6, khi khẳng định quyết định tiến hành các hoạt động cụ thể này là nhằm tiến tới hiện thực hóa COC. Nếu bản quy tắc này được thông qua năm 2005 hay 2006 thì những quy định này có thể có tác động thúc đẩy nhanh hơn quá trình xây dựng COC và điểm 1: “Việc thực hiện DOC cần tiến hành từng bước” mới phù hợp. Trong bối cảnh được đặt giữa quyết tâm của ASEAN thông qua COC vào năm 2012 tại Phnompenh-Campuchia kỷ niệm 10 năm thông qua DOC và tuyên bố của Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì ở Bali, Indonesia tháng 7 năm 2011 về chân thành thực hiện DOC và chỉ thảo luận xây dựng COC khi các điều kiện đã “chín muồi”, thì thời gian thực hiện bản quy tắc hướng dẫn này quá ngắn ngủi, đồng nghĩa với hiệu quả thấp của nó.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Thời điểm tháng 5 – 6 năm 2011 được đánh giá như một mốc kịch tính nhất, đe dọa xảy ra xung đột trên Biển Đông tính từ năm 1988. Người ta có thể đặt câu hỏi vậy tình hình hiện nay đã thực sự chín muồi để xây dựng COC chưa hay đợi đến bao giờ. Cảnh báo của Ngoại trưởng Trung Quốc làm tăng thêm mức độ hoài nghi về một bản ASEAN - Trung Quốc COC sẽ được thông qua vào năm sau. Trung Quốc vẫn dành cho mình quyền chủ động phán xét khi nào thì “chín muồi” để thảo luận về COC. Đó chắc chắn sẽ là một trở ngại rất lớn để đi đến COC trong tình trạng của Trung Quốc, ASEAN và tình hình Biển Đông hiện nay.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
2. Từ DOC đến COC và việc giải quyết các vấn đề Biển Đông thông qua đàm phán trong tương quan lực lượng giữa các bên.
“Thai nghén” suốt 19 năm DOC mới được thông qua, dù vô tình hay cố ý nó mang lại một sự tin tưởng nhất định cho những người lạc quan. Tổng thư ký ASEAN, ông Surin Pitsuwan cho rằng thỏa thuận này là một thành tựu ngoại giao quan trọng, việc áp dụng bản Hướng dẫn sẽ tạo ra tiến trình qua đó đối thoại có thể phát triển và lòng tin lẫn nhau giữa các bên tranh chấp sẽ được thiết lập. Ngoại trưởng nước chủ nhà Indonesia cho rằng, cam kết về Quy tắc hướng dẫn thực hiện DOC sẽ thuyết phục thế giới rằng hai bên có thể tránh được xung đột và giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa bình. Việc kết thúc các quy tắc chứng tỏ rằng các quốc gia thành viên ASEAN và Trung Quốc đã nhận ra những lợi ích chung. Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì cho rằng: “Kết quả này thể hiện quyết tâm, long tin và khả năng của Trung Quốc và ASEAN cùng nhau thúc đẩy hòa bình và ổn định trong Biển Nam Trung Hoa bằng việc thực hiện DOC”. China Daily ngày 27 tháng 7 năm 2011 viết: "Lần đầu tiên, cơn bão trên Biển Đông trong suốt hai tháng qua bắt đầu có dấu hiệu dịu lại. Kết quả đáng ca ngợi này đại diện cho cam kết của các bên liên quan trực tiếp tới tranh chấp để giải quyết vấn đề theo con đường song phương và trong hòa bình". Trợ ly‎ Bộ trưởng Nhà ngoại giao Việt Nam, ông Phạm Quang Vinh cho rằng "đây là một khởi đầu tốt và có ý nghĩa để chúng ta tiếp tục cùng nhau đối thoại và hợp tác để thúc đẩy hơn nữa sự ổn định, lòng tin trong khu vực". Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton nhận định, bản hướng dẫn là "một bước đi đầu tiên quan trọng" tiến tới một giải pháp ngoại giao cuối cùng.[“Việt Nam lên tiếng về Trường Sa”, BBC Tiếng Việt, ngày 07/12/2007, tại địa chỉ http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2007/12/071203_viet_china_spratlys.shtml]
 
Chỉnh sửa cuối:

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Đối với Trung Quốc, việc thông qua bản quy tắc hướng dẫn bảo đảm: 1) không mâu thuẫn với chính sách hai không (không đa phương hóa, không quốc tế hóa) thể hiện trong việc thuyết phục ASEAN điều chỉnh nguyên tắc 2 trong dự thảo; 2) chứng tỏ cho cộng đồng quốc tế biết rằng Trung Quốc hoàn toàn có thể dẫn dắt ASEAN cũng giải quyết “nội bộ” vấn đề tranh chấp Biển Đông không có sự can thiệp từ bên ngoài; 3) khẳng định vai trò của Trung Quốc trong giải quyết tranh chấp theo hướng có lợi, chỉ xây dựng COC khi điều kiện đã chín muồi; 4) xoa dịu mâu thuẫn nội bộ giữa bên chủ chiến dùng vũ lực và bên chủ hòa đàm phán song phương để giải quyết tranh chấp; 5) không bị ràng buộc gì khi thực hiện các dự án DOC và tạo điều kiện để đòi hỏi thực hiện “gác tranh chấp cùng khai thác” trên tinh thần hợp tác DOC.
Đối với ASEAN, việc thông qua bản quy tắc hướng dẫn là một thắng lợi chính trị của ASEAN khi chứng tỏ được ASEAN có khả năng dàn xếp được những tranh cấp trong khu vực, nhất là khi ngoài vấn đề Biển Đông, ASEAN còn phải đối đầu với tranh chấp biên giới Thái Lan – Campuchia ở đền Preah Vihear cũng như vấn đề Myanma. ASEAN và Trung Quốc đã tháo ngòi nổ vấn đề lớn nhất - chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ đang có tranh chấp ở Biển Đông bằng cách đồng ý những hướng dẫn mới để xử lý các tranh chấp. Đối với ASEAN, việc kéo Trung Quốc vào nói chuyện về DOC đã là một bước tiến dù chưa đi đến ddwwocj giải pháp mong muốn. ASEAN cũng mong muốn có được tiến triển trước lễ kỷ niệm 45 năm của khối vào 2012. Mặc dù nguyên tắc 2 trong dự thảo của ASEAN không đạt được yêu cầu của ASEAN nhưng nó không ảnh hưởng lớn đến nguyên tắc đồng thuận và tham vấn của ASEAN. Đây cũng là thắng lợi của Indonesia trong vai trò Chủ tịch ASEAN, thể hiện vai trò không chỉ có thể lãnh đạo đi đến những giải pháp cho tranh chấp khu vực mà cả lãnh đạo toàn khối. Đó là tiền đề để thực hiện tốt COC, góp phần mang lại hòa bình và ổn định cho Biển Đông. Bộ quy tắc hướng dẫn là cơ sở cho niềm tin tình hình Biển Đông sẽ dịu đi và một tiến trìnhh thảo luận COC có thể bắt đầu.
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top