Tìm hiểu về đất nước Trung Hoa và những vấn đề liên quan đến biển đảo Việt Nam

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Đặc điểm của chính sách Biển Đông của Mĩ với Trung Quốc là:
a) Mỹ “không thể hiện quan điểm trong các giá trị pháp lý trong việc tranh chấp chủ quyền lãnh thổ” tại Biển Đông.
b) Duy trì tự do hàng hải là “lợi ích quốc gia” cơ bản của Mỹ.
c) Các nước không thể hạn chế một cách hợp pháp các hoạt động khảo sát quân sự trong vùng đặc quyền kinh tế của họ (EEZ).
Do đó, trong năm 2009 Giám đốc Tình báo Quốc gia Mỹ Dennis Blair đã gọi việc Trung Quốc quấy nhiễu tàu USNS Impeccable trong khi tàu đang tiến hành một cuộc khảo sát quân sự là một bất đồng quân sự nghiêm trọng nhất giữa Trung Quốc và Mỹ từ năm 2001. Gần đây, Bộ trưởng Ngoại giao và Quốc Phòng Mỹ đã phản ứng trước các hành động được cho là quyết đoán của Trung Quốc trên Biển Đông và sự miễn cưỡng của Trung Quốc trong việc làm rõ mục đích của mình bằng cách tái khẳng định sự tự do hàng hải như là “lợi ích quốc gia” của Mỹ và đề xuất các cuộc đàm phán giữa tất cả các nước có yêu sách tại Biển Đông.
Các quan chức Mỹ lúng túng trước lập trường mơ hồ của Trung Quốc về “đường lưỡi bò” đánh dấu tuyên bố của Trung Quốc tại Biển Đông và việc khẳng định tính chất của vùng biển này như một “lợi ích cốt lõi”. Động cơ cho hành động của Trung Quốc không rõ ràng. Yếu tố nội tại định hướng chính sách của Trung Quốc không xuyên suốt. Trong mắt người Mỹ, các hành động của Trung Quốc dường như không đạt hiệu quả bởi một số lý do sau.
Thứ nhất, các hành động của Trung Quốc đã làm phương hại đến chiến dịch kéo dài một thập kỷ của nước này trong việc miêu tả mình như một đối tác ôn hòa với các nuớc láng giềng phía nam.
Thứ hai, các hành động của Trung Quốc đẩy nhanh việc “quay trở lại châu Á” dưới thời chính quyền Mỹ hiện nay.
Thứ ba, sau khi các căng thẳng được giảm bớt tại Biển Đông trong hơn gần một thập kỷ qua đã cho phép Trung Quốc và Mỹ không đặt nặng an ninh như một phần trong mối liên hệ của họ với Đông Nam Á, Trung Quốc và Mỹ đã nêu bật các tính toán về an ninh truyền thống trong các mối quan hệ của các thành viên Đông Nam Á với các cường quốc bên ngoài.
Tại thời điểm này, Mỹ theo đuổi một số nguyên tắc cơ bản như tự do hàng hải ở Biển Đông, đẩy mạnh quan hệ với Việt Nam và hợp tác chặt chẽ với đại đa số các nước ASEAN. Washington cảm thấy bối rối trước hành động do dự khi phải làm rõ các quan điểm của Trung Quốc. Một học giả người Mỹ đã chỉ ra rằng ngày qua ngày, Trung Quốc dường như càng làm “mềm” đi các quan điểm của mình, Đông Nam Á thì “điều chỉnh” và lợi ích của Mỹ ở Biển Đông thì “giảm bớt đi”.
Tuy nhiên có một vài yếu tố sẽ ảnh hưởng tới chính sách của Mỹ.
Các yếu tố này gồm có:
A. Mỹ sẽ không bị hăm dọa hay thỏa hiệp về những nguyên tắc cơ bản.
B. Mối quan hệ Trung-Mỹ vốn là một tổng thể của hợp tác, đối đầu và cạnh tranh đã hàm chứa trong nó sự phức tạp và cả những vấn đề quan trọng khác. Phía Mỹ không thích phải đưa vấn đề Biển Đông thêm vào danh sách các vấn đề vốn có. Tại Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng mở rộng của ASEAN (ADMM+) hồi tháng 10, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã nhận lời mời thăm Trung Quốc. Tuy nhiên, các vấn đề an ninh ở Biển Đông sẽ không còn tách rời khỏi chính sách của Mỹ và Trung Quốc đối với toàn bộ khu vực Đông Nam Á. Trung Quốc sẽ tiếp tục chính sách “chia và trị” trong các cuộc đàm phán song phương với các bên tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông và cũng có thể gửi lại cho Mỹ lời khẳng định của mình về những quyền của họ, thế nhưng phía Mỹ nhìn nhận rằng quả bóng về nguyên tắc là nằm ở phía Trung Quốc vì Trung Quốc cần phải có biện pháp giảm căng thẳng và làm rõ các mục tiêu của họ.
C. Mỹ muốn củng cố vai trò của ASEAN ở Biển Đông, nâng cao vị thế của ASEAN và đảm bảo cho các quốc gia ASEAN rằng Mỹ vẫn sẽ tiếp tục liên đới tới khu vực này. Mỹ sẽ đặc biệt lưu tâm tới Indonesia, Malaysia và Philippine. Dường như ASEAN sẽ chiếm lĩnh vai trò chủ chốt trong việc “đưa vào cuộc sống” bộ quy tắc ứng xử.
D. Xuất phát từ những lý do lịch sử, rất nhiều nhà hoạch định chính sách đối ngoại cao cấp của Washington đặc biệt cảm thấy hài lòng với những tiến triển trong quan hệ Việt-Mỹ. Tuy nhiên, không thể tránh khỏi việc cả Hà Nội và Washington sẽ tính toán những lợi ích dài hạn trong việc nâng cao hợp tác hơn nữa trong bài toán quan hệ với Trung Quốc.
E. Mỹ nhìn nhận vấn đề Biển Đông như là một cơ hội để kiểm tra Trung Quốc . Những người phải chuẩn bị phương án cho một kịch bản tồi tệ nhất đang tập trung vào quan sát khả năng ngày càng lớn mạnh của hải quân Trung Qulafquan hệ . Thế nhưng “bàn chân đã tuột khỏi chân ga” trong vấn đề Biển Đông.
Các yếu tố trong nước điều chỉnh chính sách của Trung Quốc với Biển Đông lại không hề rõ ràng. Người Mỹ thường cảm thấy khó khăn khi xác định liệu chính sách của Trung Quốc là phản ánh quyết định của chính quyền trung ương ở Bắc Kinh hay lại là sự cạnh tranh giữa các giới chức hay lợi ích của từng tỉnh. Tuy nhiên, nếu như Bắc Kinh đã chuẩn bị cho việc làm rõ các mục đích của mình ở Biển Đông trong những cuộc thảo luận với Mỹ và bước vào đàm phán với ASEAN, thì những căng thẳng trên vùng biển này sẽ giảm bớt khi mà Mỹ và Trung Quốc thành công trong mối quan hệ song phương trong những năm tới đây.
Khi nhìn vào sự xung đột lợi ích giữa Mỹ và Trung Quốc, người ta thấy nổi bật nhất là sự hiện diện mang tính lịch sử của Mỹ trong khu vực thông qua các mối quan hệ liên minh, đối tác và sự quan tâm ngày càng lớn của Mỹ đến các tổ chức đa phương trong khu vực. Sự quyết liệt và hiếu chiến của Trung Quốc, đặc biệt ở Biển Đông và biển Hoa Đông, đang đẩy các nước láng giềng của nước này về phía Mỹ trong khi điều đó cũng gây ra nỗi lo ngại giữa những người Trung Quốc về việc Mỹ đang tìm kiếm một chính sách kiềm chế giống như họ đã làm với Liên Xô trong cuộc Chiến tranh Lạnh trước đây. Những mâu thuẫn tiềm ẩn sẵn như vậy có thể bùng nổ bất kỳ lúc nào.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Vậy Mỹ có thể làm gì để duy trì hòa bình và sự ổn định trong khu vực cũng như giúp các bên có liên quan kiểm soát và giải quyết các cuộc tranh chấp?
Trước hết, việc các bên có liên quan giữ thái độ kiềm chế là điều vô cùng quan trọng. Việc sử dụng đe dọa, ép buộc hay vũ lực để tranh giành chủ quyền trong khu vực là điều không thể chấp nhận. Nguyên tắc này đã được công nhận trong Tuyên bố về Ứng xử của Các bên ở Biển Đông được ASEAN và Trung Quốc ký kết năm 2002. Vì thế, Mỹ phải tiếp tục ủng hộ các nước ASEAN trong nỗ lực tìm kiếm những tiến bộ đáng kể trên con đường tiến tới thực thi một Bộ Quy tắc Ứng xử hoàn thiện và toàn diện. Bộ quy tắc này sẽ đặt ra các quy định và đưa ra trình tự, thủ tục để giải quyết các bất đồng. Các cuộc họp cuối tuần vừa rồi là cơ hội để Trung Quốc, ASEAN thể hiện rằng họ có thể và sẽ đạt được tiến bộ trong việc tìm kiếm mục tiêu nói trên.
Thứ hai, giới lãnh đạo Mỹ phải quan tâm sâu sắc đến Châu Á và nên ủng hộ nỗ lực của các bên trong khu vực nhằm phát triển cơ chế quản lý khủng hoảng thích hợp để bất kỳ vụ việc không mong muốn nào xảy ra liên quan đến các lực lượng quân sự và bán quân sự trong khu vực đều không bị vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Việc Trung Quốc và Việt Nam gần đây thiết lập một đường dây nóng là bước đi đúng hướng và được hoan nghênh.
Thứ ba, Mỹ nên tăng cường gấp đôi nỗ lực hợp tác với các nước ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương để phát triển một cơ chế xử lý vấn đề hiệu quả có thể giúp giải quyết các cuộc tranh chấp thông qua tiến trình ngoại giao, phù hợp với những nguyên tắc đã được công nhận trong luật quốc tế. Mỹ không thể là một bên trong các cuộc gặp giữa ASEAN và Trung Quốc nhưng có thể và nên ủng hộ nỗ lực của họ nhằm tạo ra một cơ chế ngoại giao tập thể giúp giải quyết, kiểm soát các cuộc tranh chấp.
Thứ tư, Mỹ có thể đóng một vai trò đáng kể trong việc củng cố năng lực an ninh hàng hải trong khu vực thông qua việc phát triển các cơ chế phối hợp chung, các thủ tục, nguyên tắc hoạt động, nhận biết về phạm vi hàng hải và xây dựng năng lực cho cảnh sát biển...
Thứ năm, Mỹ nên tiếp tục làm rõ rằng, nước này sẽ đứng bên cạnh các đồng minh và thực hiện cam kết theo hiệp ước đã ký kết. Mỹ phải tiếp tục cam kết lâu dài với khu vực.
Với tư cách là một quốc gia Châu Á-Thái Bình Dương, Mỹ có lợi ích sống còn trong việc hợp tác với tất cả các nước nhằm phát triển, thể chế hóa và duy trì một trật tự dựa trên luật pháp trong khu vực. Điều này phải được bắt đầu bằng việc đưa vào thực hiện các cơ chế hiệu quả nhằm kiểm soát các cuộc tranh chấp hàng hải để chúng không gây chia rẽ trong khu vực đồng thời ủng hộ, khuyến khích việc giải quyết các cuộc tranh chấp thông qua con đường hòa bình.
Như vậy, có thể thấy nội bộ Hoa Kỳ có sự thống nhất cao về chính sách “tái cân bằng ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương” nói chung và trên vấn đề Biển Đông nói riêng. Cả cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp đều lên án những hành động gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông, kêu gọi giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, bao gồm cả cơ chế Trọng tài quốc tế; đồng thời hối thúc ASEAN và Trung Quốc sớm xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông COC.
Mặt khác, Hoa Kỳ tăng cường sự hiện diện của tàu sân bay, tàu khu trục và các loại tàu chiến khác ở Biển Đông; tiến hành diễn tập quân sự với Philippines, Singapore….
Nguyên nhân của việc Hoa Kỳ tỏ thái độ ngày càng mạnh mẽ trên vấn đề Biển Đông là những hành động gây hấn ngày càng leo thang của Trung Quốc ở Biển Đông cũng như ở biển Hoa Đông đang đe doạ những lợi ích và giá trị của Hoa Kỳ về tự do hàng hải ở khu vực. Về lâu dài mục tiêu khống chế, độc chiếm Biển Đông và biển Hoa Đông để thực hiện chiến lược xây dựng cường quốc biển của Trung Quốc trở thành thách thức lớn đối với vị trí siêu cường của Hoa Kỳ. Nhận thức rõ nguy cơ của Trung Quốc đối với vai trò vị trí của Hoa Kỳ ở khu vực, Hoa Kỳ thấy cần phải lên tiếng mạnh mẽ và có hành động cụ thể để ngăn chặn.
Trong khi trước đây Mỹ giữ lập trường trung lập trong các cuộc tranh chấp chủ quyền thì hiện nay với tư cách là một quốc gia Châu Á-Thái Bình Dương, Mỹ có lợi ích an ninh quốc gia ràng buộc trong việc duy trì sự ổn định ở nơi đây. Mỹ cũng có lợi ích trong việc đảm bảo tự do hàng hải, tự do thương mại, tôn trọng luật pháp và giải quyết các cuộc tranh chấp bằng con đường hòa bình.
Những diễn biến trong thời gian qua trong quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc khiến nhiều người lo ngại về viễn cảnh một cuộc chiến nổ ra giữa hai siêu cường hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, cả Bắc Kinh và Washington đều không muốn để xảy ra một cuộc chiến tranh thực sự bởi điều đó ảnh hưởng rất lớn đến nước họ. Hai nước này vốn có lợi ích kinh tế gắn bó với nhau chặt chẽ.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Chủ đề: ASEAN và vấn đề tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc (Từ 2009)
MỞ ĐẦU
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức này được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967 với các thành viên đầu tiên là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore, và Philippines, để biểu thị tinh thần đoàn kết giữa các nước trong khu vực, đồng thời hợp tác chống bạo động và bất ổn tại những nước thành viên. Tuy vậy, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên trong thời gian đầu, ASEAN không nhận được sự đồng tình, hưởng ứng tham gia của tất cả các quốc gia trong khu vực. Phải mất một thời gian dài, ASEAN mới có thể có mặt đầy đủ tất cả các nước trong khu vực Đông Nam Á (Tính đến nay, ASEAN gồm có 10 quốc gia thành viên: Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore và Philippines (1967), Brunei (1984), Việt Nam (1995), Lào và Myanmar (1997) và Campuchia (1999). Và cũng phải mất rất nhiều thời gian sau đó, ASEAN mới tìm được một tiếng nói chung trong việc giải quyết các vấn đề lớn của khu vực. Tuy vậy, ngày nay vẫn còn rất nhiều vấn đề mà ASEAN vẫn chưa tìm được tiếng nói chung. Một trong những vấn đề nan giải đó chính là vấn đề tranh chấp trên Biển Đông giữa các nước ASEAN với Trung Quốc.
Biển Đông là một phần của Thái Bình Dương, trải rộng từ vĩ độ 3 lên đến vĩ độ 26 Bắc và từ kinh độ 100 đến 121 Đông, bao phủ một diện tích khoảng 3.500.000 km². Các nước và lãnh thổ có biên giới với vùng biển này gồm: đại lục Trung Quốc, Ma Cao, Hồng Kông, Đài Loan, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Singapore, Thái Lan, Campuchia, Đông Timo và Việt Nam. Như vậy, trong số các nước ASEAN chỉ có Lào không có biên giới lãnh thổ với Biên Đông.
Có thể nói Biển Đông có một vai trò vô cùng quan trọng đối với các quốc gia Đông Nam Á. Đây là một vùng biển giàu tài nguyên thiên nhiên: thủy sản, dầu mỏ (khoảng 1,2 km³ (7,7 tỷ thùng)). khí tự nhiên (ước tính khoảng 7.500 km³). Đặc biệt đây là một vùng biển có ý nghĩa chính trị, quân sự vô cùng quan trọng. Nó là đường hàng hải đông đúc thứ hai trên thế giới, nếu tính theo tổng lượng hàng hoá thương mại chuyển qua hàng năm thì có hơn 50% đi qua eo biển Malacca, eo biển Sunda, và eo biển Lombok, hơn 1,6 triệu m³ (10 triệu thùng) dầu thô được chuyển qua eo biển Malacca hàng ngày… Vì vậy với những vai trò đó, Biển Đông không chỉ là chủ quyền, lãnh thổ của các quốc gia giáp Biển Đông mà còn là quyền lợi, thế trận và tiềm lực của mỗi nước.
Hiện nay Biển Đông là vấn đề tranh chấp trực tiếp giữa giữa 6 nước và vùng lãnh thổ gồm Trung Quốc đại lục, Đài Loan, Malayxia, Philippin, Việt Nam và Brunei. Với tiềm lực kinh tế ngày càng lớn mạnh, Trung Quốc ngày càng lộ rõ âm mưu khống chế Biển Đông, biến Biển Đông thành “ao nhà” với việc đưa đưa ra Liên hợp quốc yêu sách đường 9 đoạn (đường luỡi bò) năm 2009 và những hành động tranh chấp Biển Đông ngày càng quyết liệt với các nước Đông Nam Á, Trung Quốc đã ngang nhiên vi phạm Luật biển năm 1982 của Liên hợp quốc (cho phép các nước có vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) mở rộng 200 dặm biển (370.6 km) từ lãnh hải của họ, tất cả các nước quanh vùng biển có thể đưa ra tuyên bố chủ quyền với những phần rộng lớn của nó). Để bảo vệ quyền lợi của mình, và giảm bớt căng thẳng trên Biển Đông, các quốc gia Đông Nam Á có tranh chấp biển, đảo với Trung Quốc đã dựa vào ASEAN như là một một tổ chức trung gian để giải quyết tranh chấp giữa Trung Quốc và các thành viên của ASEAN. Nhưng do sự thao túng của Trung Quốc đối với một số nước trong nội bộ ASEAN nên không phải lúc nào nội bộ tổ chức này cũng có những quan điểm thống nhất về vấn đề Biển Đông. Vì vậy vấn đề đặt ra đối với ASEAN lúc này là phải đoàn kết, đưa ra những quyết sách hợp lý để bảo vệ quyền lợi của các quốc gia trong khu vực trước sự bành trướng của Trung Quốc. Mặt khác trong những nỗ lực giải quyết vấn đề Biển Đông, ASEAN cũng nhận được sự ủng hộ đồng tình của cộng đồng quốc tế trong việc duy trì ổn định an ninh khu vực, an ninh hàng hải trên Biển Đông gắn với quyền lợi của các cường quốc lớn như Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Nga…
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
1. Tương quan lực lượng, thuận lợi, thách thức và nhiệm của ASEAN trong vấn đề tranh chấp Biển Đông.
1.1 Tương quan lực lượng giữa Trung Quốc và các nước ASEAN
Có thể nói, ngày nay với lợi thế lãnh thổ rộng lớn, dân cư đông đúc vào bậc nhất thế giới cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế trong những năm gần đây, Trung Quốc đã trở thành một cường quốc của khu vực Châu Á. Trong thế trận đó, Trung Quốc đang nuôi dưỡng một tham vọng lớn đó là làm bá chủ Châu Á - Thái Bình Dương, thậm chí làm bá chủ thế giới. Tham vọng đó được Trung Quốc thể hiện một cách rõ ràng trong vấn đề tranh chấp tại Biển Đông khi đưa ra đường “Lưỡi bò” vào năm 2009. Trong khi đó, các nước có tranh chấp trực tiếp với Trung Quốc như Việt Nam, Philippin, Malaixia, Brunei… xét về tiềm lực trên nhiều mặt thì không thể sánh được với Trung Quốc. Trên cơ sở tương quan lực lượng đó, Trung Quốc không hề muốn “quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông mà muốn vấn đề Biển Đông chỉ là vấn đề song phương để với lợi thế của mình áp đặt lên các nước còn lại. Đối với ASEAN, tổ chức trung gian giải quyết vấn đề tranh chấp giữa Trung Quốc và các nước liên quan, nước này luôn tìm cách chia rẽ nội bộ ASEAN để phá vỡ khối đoàn kết khu vực trong vấn đề Biển Đông tạo lợi thế cho mình.
Tuy vậy ý đồ của Trung Quốc không thể dễ dàng thực hiện được theo ý muốn chủ quan của riêng Trung Quốc vì nó còn chịu sự chi phối của cộng đồng quốc tế, ý chí của các cường quốc lớn trong bối cảnh các vấn đề tranh chấp lãnh thổ ngày càng được quốc tế hóa cao. Bởi lẽ Biển Đông và vấn đề an ninh biển không chỉ là của riêng Trung Quốc và ASEAN mà nó còn liên quan đến quyền lợi sát sườn của các cường quốc khác trong khu vực và trên thế giới như: Mĩ, Nhật Bản, Ấn Độ… Hơn nữa nếu Trung Quốc thực hiện được ý đồ của mình thì quyền lợi và vị thế của nhiều nước lớn có thể bị đe dọa.
Với Mĩ, sự suy giảm của nền kinh tế Mỹ trong những năm gần đây cùng sự phát triển với tốc độ chóng mặt của kinh tế Trung Quốc không khỏi khiến Mỹ lo ngại. Với mục đích khống chế Trung Quốc, Mỹ đang có chiến lược “xoay trục” và “tái cân bằng” tại châu Á nhằm đoạt lại tầm ảnh hưởng tại khu vực này từ tay Trung Quốc, làm giảm sức mạnh của đối thủ và tăng tầm ảnh hưởng của mình tại khu vực này. Một trong những vấn đề mà Mỹ đặc biệt quan tâm chính là tranh chấp tại Biển Đông. Nếu tranh chấp này được giải quyết theo hướng có lợi cho Trung Quốc, đó sẽ trở thành tiền lệ không tốt cho việc giải quyết những tranh chấp trong giai đoạn sau. Và hơn hết, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của Mỹ trên Biển Đông. Nếu xung đột quân sự xảy ra trên Biển Đông, hay Trung Quốc “làm chủ” được Biển Đông chắc chắn sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến con đường hàng hải và tự do hàng hải quốc tế mà Biển Đông là một bộ phận quan trọng. Do đó, Mỹ muốn can thiệp vào Biển Đông nhằm hạn chế sự lớn mạnh của Trung Quốc ở đây. Sự hiện diện của Mỹ tại Châu Á – Thái Bình Dương vì thế sẽ đảm bảo hiện trạng "không dễ dàng” tại Biển Đông trong thời gian trước mắt và "giới hạn sự hung hăng của Trung Quốc ở mức chủ yếu trên bản đồ”.
Các nước lớn ở Châu Á như Nhật Bản, Ấn Độ… cũng có những mưu đồ, lợi ích nhất định trong vấn đề Biển Đông. Cũng như Mĩ, nếu các cuộc xung đột quân sự giữa các nước ASEAN và Trung Quốc nổ ra, con đường hang hải quốc tế trên Biển Đông ngưng trệ, sẽ là ảnh hưởng lớn đến hoạt động thương mại biển của các quốc gia liên quan vì Biển Đông có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các quốc gia thương mại ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Đây là con đường lưu thông huyết mạch của hoạt động thương mại toàn cầu. Đối với Nhật Bản, 90% hoạt động nhập khẩu dầu của nước này phụ thuộc vào các tuyến đường biển đó. Hơn nữa nếu tranh chấp quân sự trên Biển Đông nổ ra trong bối cảnh ASEAN bị chia rẽ, Trung Quốc đang lớn mạnh sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích của Nhật Bản (bao gồm cả tranh chấp của Nhật Bản với Trung Quốc về quyền sở hữu Đảo Senkaku/Điếu Ngư.) Vì vậy, Nhật Bản đã cố gắng thúc đẩy sự đoàn kết bên trong khối ASEAN đối với “các vấn đề an ninh hàng hải” và bắt đầu hỗ trợ xây dựng năng lực cho Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Philippines.
Ấn Độ không thực sự là bên tham gia trong tranh chấp, nhưng cũng có những động thái bày tỏ quan ngại của mình tại các diễn đàn an ninh đa phương. Đối với Ấn Độ, tự do hàng hải trên Biển Đông là hết sức quan trọng từ trước đến nay. Để đảm bảo lợi ích này, Ấn Độ sẵn sàng hợp tác hải quân với các nước trong khu vực. Trung Quốc nuôi tham vọng biến “Biển Đông thành ao nhà” khiến Ấn Độ hết sức lo ngại. Lợi ích của Ấn Độ cũng đang bị lung lay vì những xung đột đó. Hơn nữa sự lớn mạnh bành trướng của Trung Quốc cũng là điều đáng lo ngại đối với quốc gia có đường biên giáp với Trung Quốc này.

Như vậy, mặc dù xét về tiềm lực kinh tế, quân sự, các nước ASEAN không thể bì với Trung Quốc nhưng mưu đồ làm bá chủ Biển Đông của Trung Quốc cũng không dễ thực hiện được bởi ít nhiều sự chi phối của cộng đồng quốc tế mà chủ yếu là ý chí của một số cường quốc.
1.2. Thuận lợi, thách thức và nhiệm vụ của ASEAN trong việc giải quyết tranh chấp tại Biển Đông.
Từ việc phân tích tương quan lực lượng giữa Trung Quốc và ASEAN ta có thể thấy được những thuận lợi và thách thức mà ASEAN phải đối mặt trong việc giải quyết vấn đề Biển Đông

1.2.1 Thuận lợi
Thứ nhất: Trong vấn đề Biển Đông, ASEAN nhận được sự ủng hộ từ cộng đồng quốc tế. Biển Đông xét theo một khía cạnh nào đó đã bị quốc tế hóa.
Cụ thể, khi Trung Quốc đã tiến hành một loạt các hoạt động vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước Việt Nam, Philippin, Malaysia (tháng 4/2012 Trung Quốc gây ra tranh chấp kéo dài với Philippin ở khu vực bãi cạn Scarborough; tháng 6/2012 Trung Quốc tuyên bố thành lập “thành phố Tam Sa” và ra sức củng cố cơ quan hành pháp, lập pháp, quân sự hóa thành phố Tam Sa; đồng thời công bố mời thầu quốc tế 9 lô dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam (cách bờ biển của Việt Nam chỉ khoảng 50 hải lý); tháng 8/2012 Trung Quốc cắt cáp của tàu khảo sát Malaysia trên thềm lục địa của Malaysia; tháng 11/2012, tàu cá Trung Quốc cắt cáp của tàu khảo sát Bình Minh 02 của Việt Nam trên thềm lục địa của Việt Nam ở vị trí chỉ cách bờ biển Việt Nam khoảng 50 hải lý; cũng trong tháng 11/2012, Trung Quốc ban hành “Điều lệ quản lý trị an biên phòng ven biển tỉnh Hải Nam”, dùng “tiểu xảo” cho in bản đồ “đường lưỡi bò” vào trong hộ chiếu) thì nhiều nước đã lên tiếng phê phán hành động của Trung Quốc như:
Ngày 03/8/2012 Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chính thức tuyên bố rằng việc thành lập “thành phố Tam Sa” và việc quân sự hóa “thành phố Tam Sa” của Trung Quốc là đi ngược lại những nỗ lực ngoại giao tập thể để giải quyết bất đồng và càng làm tăng nguy cơ căng thẳng trong khu vực. Nhiều Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ như John Kerry, John Mccain, Jim Webb, Joseph Lieberman … phát biểu phê phán mạnh mẽ các hành động gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông.
Cùng với Mỹ, Nhật Bản công khai phê phán yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc, cho rằng yêu sách của Trung Quốc vượt quá các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982; chủ động đề nghị thành lập Hội nghị cấp cao ASEAN – Nhật về an ninh biển.
Ấn Độ cũng có thái độ rất rõ ràng trên vấn đề Biển Đông. Đáp lại việc Trung Quốc mời thầu 9 lô dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam (trong đó có lô 128 mà Công ty ONGC của Ấn Độ đang hợp tác với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam), Chính phủ nước này công khai khẳng định ủng hộ và sẵn sàng bảo vệ các hoạt động dầu khí của ONGC của Ấn Độ tại lô 128 trên thềm lục địa Việt Nam. Ngày 03/12/2012, Tham mưu trưởng Hải quân Ấn Độ, Đô đốc D.K. Joshi khẳng định trong bối cảnh Trung Quốc nhanh chóng hiện đại hóa hải quân, Ấn Độ sẽ tăng cường bảo vệ các lợi ích của Ấn Độ ở Biển Đông; cam kết bảo đảm cho Tập đoàn năng lượng Nhà nước Ấn Độ (ONGC) tham gia thăm dò dầu khí ở Biển Đông.
Thứ hai: khả năng xảy ra chiến tranh trên Biển Đông không lớn, bởi Trung Quốc cũng dễ dàng nhìn thấy nguy cơ phải đối đầu với không chỉ các nước ASEAN mà đằng sau đó còn sự hậu thuẫn chặt chẽ từ phía Mỹ, Nga, Ấn Độ và Nhật Bản. Liên minh này tạo ra một nguy cơ thất bại không hề nhỏ cho Trung Quốc nểu đẩy căng thẳng tranh chấp Biển Đông đến xung đột quân sự. Cụ thể, Mỹ và Philippin đang tiến hành các cuộc tập trận trên Biển Đông, Nhật Bản tăng cường các chuyến công du đến Đông Nam Á, tăng cường đầu tư vào các quốc gia Đông Nam Á…
Thứ ba, tranh chấp tại Biển Đông giờ đây đang trở thành một tranh chấp mang tính chất quốc tế. Do vậy, xu hướng giải quyết vấn đề đang thiên về hướng đàm phán, thông qua một tổ chức quốc tế. Mà ASEAN là sự lựa chọn hàng đầu. Do đó, giải quyết tốt vấn đề này, tiếng nói và uy tín của ASEAN sẽ được nâng cao trên trường quốc tế.
1.2.2 Thách thức
Thứ nhất, Cộng đồng ASEAN đang bị chia rẽ về mặt lợi ích quốc gia trong việc thống nhất, đoàn kết giải quyết vấn đề biển Đông.
Mặc dù ASEAN luôn cố gắng đẩy mạnh tình đoàn kết giữa các thành viên để cùng hợp tác và phát triển nhưng trong vấn đề Biển Đông các nước thành viên ASEAN vẫn có những tính toán riêng của mình và không thống nhất lập trường. Trong các nước có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, xu hướng dựa vào Mỹ của Việt Nam và Philippin để chống lại Trung Quốc là tương đối rõ ràng. Hai nước này còn tiến hành diễn tập chung và tổ chức đối thoại cấp cao với Mỹ. Còn đối với Thái Lan, đặc biệt là Campuchia, hai nước không có sự tranh chấp biển đảo với Trung Quốc lại bị nước này mua chuộc, nên có xu hướng “thần phục” Trung Quốc. Có thể lấy ví dụ như trường hợp của Campuchia. Mấy năm gần đây, Trung Quốc đã tăng cường đầu tư vào Campuchia. Theo con số chính thức được công bố, riêng trong năm 2011, đầu tư của Trung Quốc vào Campuchia lên tới con số 1,9 tỉ USD, cao gấp hai lần tổng đầu tư của các nước ASEAN và 10 lần so với đầu tư của Mỹ vào Campuchia. Có lẽ chính vì vậy, với tư cách Chủ tịch ASEAN trong năm 2012, Campuchia bị Trung Quốc “mua chuộc” đã tìm cách gạt bỏ vấn đề Biển Đông ra khỏi chương trình nghị sự và các văn kiện của các hội nghị liên quan được tổ chức tại Campuchia, làm rạn nứt sự đoàn kết trong ASEAN. Tuy nhiên, do vấn đề Biển Đông đã trở thành một vấn đề mang tầm quốc tế, liên quan đến lợi ích của các nước trong và ngoài khu vực nên những mưu đồ của Trung Quốc đã không trở thành hiện thực. Tháng 7/2012, Campuchia đã tìm mọi cách gạt bỏ nội dung Biển Đông ra khỏi Tuyên bố của Hội nghị Ngoại trưởng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (AMM 45) tại Phnom Penh dẫn đến việc lần đầu tiên trong lịch sử 45 năm tồn tại Hội nghị AMM không ra được một tuyên bố chung. Các nước hết sức bất bình với “sự phá hoại” của Campuchia. Cách làm đó của Campuchia lại được lặp lại trong Hội nghị cấp cao ASEAN 21 và các hội nghị cấp cao khác tại Phnom Penh hồi tháng 11/2012. Thủ tướng Campuchia Hun Sen cố tình tuyên bố “ASEAN nhất trí không quốc tế hóa vấn đề Biển Đông” và đưa nội dung này vào dự thảo Tuyên bố chung của Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 21. Tuy nhiên, Philippin, Việt Nam và nhiều nước khác đã phản đối mạnh mẽ việc làm này của Campuchia vì nhiều nước ASEAN không đồng tình với nội dung này. Cuối cùng, bản thân ông Hun Sen với tư cách Thủ tướng nước chủ nhà phải thừa nhận ASEAN tiếp tục thất bại trong việc đạt được đồng thuận về vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông với Trung Quốc.
Thứ hai, thách thức không hề nhỏ đặt ra đối với ASEAN trong vấn đề Biển Đông là thái độ không mấy thiện chí của Trung Quốc trong giải quyết xung đột Biển Đông. Việc Trung Quốc từ chối đàm phán với các nước ASEAN về COC (Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông có tính ràng buộc) cùng với việc kiên quyết từ chối đàm phán đa phương cho thấy Trung Quốc đang thi hành một chính sách cứng rắn trên các vấn đề trên biển với các nước láng giềng nhằm thực hiện mục tiêu đưa Trung Quốc trở thành “cường quốc biển” mà Đại hội 18 **** Cộng sản đã đề ra. Ngày 29 tháng 5 năm 2012, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố rằng "những bên không có tuyên bố chủ quyền trong Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á cũng như các nước bên ngoài sẽ không được quyền can dự vào cuộc tranh chấp lãnh thổ." đã chứng minh cho thái độ cứng rắn của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.
Thứ ba: Các cường quốc lớn ngoài khu vực nhất là Mỹ, không phải lúc nào cũng có động thái tích cực ủng hộ ASEAN trong vấn đề Biển Đông. Họ chỉ ủng hộ ASEAN khi tranh chấp Biển Đông gây bất lợi cho họ. Vì thế, muốn ngăn chặn được Trung Quốc trên Biển Đông, các nước ASEAN cần phải dựa vào tiềm lực về mọi mặt đặc biệt là tiềm lực kinh tế, quân sự của chính mình. Trong khi nền kinh tế Trung Quốc đang vươn lên mạnh mẽ thì nền kinh tế của các nước ASEAN vẫn chưa có nhiều khởi sắc. Vì vậy ASEAN cần phải đẩy mạnh hơn nữa hợp tác khu vực, quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, để tăng cường tiềm tiềm lực cho chính mình.
1.2. 3 Nhiệm vụ đặt ra cho ASEAN
Những thách thức kể trên đặt ra hai nhiệm vụ lớn cho ASEAN
Một là: đoàn kết, thống nhất ASEAN trong vấn đề tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc.
Hai là: cần phải tìm ra lối thoát trong vấn đề Biển Đông với Trung Quốc bằng con đường đàm phán để đi đến một bộ quy tắc ứng xử chung mang tính ràng buộc (COC) nếu không muốn những căng thẳng tại vùng biển này dâng cao dẫn tới đối đầu - một tình thế không có lợi cho tất cả các bên mà ASEAN không thể để xảy ra.
Để giải quyết những vấn đề nêu trên, một trong những giải pháp then chốt và hiểu quả nhất cho vấn đề Biển Đông là ASEAN phải tăng cường đoàn kết khu vực, đoàn kêt quốc tế để có đủ sức mạnh chống lại thủ đoạn “tham” của Trung Quốc. Về cơ bản, giải quyết các bất đồng trên Biển Đông với Trung Quốc cần dựa trên nguyên tắc ngoại giao và đàm phán đa phương, đặc biệt không được phép đe dọa hoặc sử dụng vũ lực để thôn tính lẫn nhau.
Trước hết, tất cả các nước có tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông cần nhất trí về một mô hình hợp tác và cũng cần nhận thức đầy đủ rằng các tuyên bố chủ quyền chồng lấn xung quanh những đảo tranh chấp sẽ không thể giải quyết được trong tương lai gần. Điều cấp bách hiện nay là các nước có tuyên bố chủ quyền cần đồng thuận làm theo mô hình cùng phát triển của Thái Lan và Malaixia tại Vịnh Thái Lan, được áp dụng thành công từ năm 1979, với tỷ lệ lợi ích được chia đều 50-50. Năm 2008, dựa trên lời kêu gọi gác tranh chấp và đặt việc cùng phát triển lên hàng đầu của nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc và Philíppin đã nhất trí cho phép các công ty dầu khí nhà nước tiến hành khảo sát địa chấn tại những vùng biển tranh chấp. Việt Nam đã quyết định tham gia thỏa thuận song phương sau đó vài tháng với sự ủng hộ của Philíppin và Trung Quốc. Tuy nhiên, thỏa thuận ba bên đã không mang lại kết quả như mong muốn để trở thành khuôn mẫu giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, các thành viên ASEAN không tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông phải tích cực ủng hộ các nước trong ASEAN có tranh chấp biển Đông với Trung Quốc hơn. Inđônêxia hiện là thành viên duy nhất có khả năng làm trung gian hòa giải các tranh cãi trong nội bộ ASEAN, nhờ vào sáng kiến và các hoạt động ngoại giao con thoi của Ngoại trưởng Marty Natalegawa. Là quốc gia đông dân nhất trong khối, chắc chắn vai trò ngày càng lớn cùng khả năng lãnh đạo tài tình của Inđônêxia sẽ có tác động lớn tới các các hoạt động chính trị của ASEAN trong tương lai.
Thứ ba: nước giữ vai trò chủ tịch ASEAN trong năm 2013 phải tiếp tục nỗ lực thúc đẩy khối này ra một Thông cáo chung sớm nhất có thể, bởi nhiều quyết định quan trọng của toàn hiệp hội sẽ được nêu ra trong văn bản này.
Thứ tư, ASEAN cần tiếp tục thảo luận vấn để Biển Đông như đã làm trước đây giữa các thành viên và với Trung Quốc, theo cơ chế ASEAN + 1. Nếu ASEAN quyết định né tránh vấn đề, hay sợ Trung Quốc nổi giận, điều đó sẽ làm giảm uy tín của hiệp hội nhiều hơn. Khi tất cả các bên có tuyên bố chủ quyền và các bên đối thoại thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ việc tiếp tục tiến trình hoàn thành Bộ Quy tắc ứng xử của các bên tại Biển Đông (COC), các nước không có tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc trong khối không nên gây cản trở mà phải tạo điều kiện cho các quan chức cao cấp ASEAN và Trung Quốc tiếp tục làm việc với nhau về COC.
Thứ năm: để tồn tại và chơi với những đối thủ lớn, ASEAN phải được chuẩn bị. đầu tiên ASEAN phải trở thành một cộng đồng với nền kinh tế phát triển năng động, bền vững. Chỉ có như vậy ASEAN mới có thể chống lại các áp lực từ các cường quốc bên ngoài.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
2. ASEAN và những nỗ lực giải quyết vấn đề Biển Đông
Từ đầu năm 2013 đến nay, khối ASEAN có hai Hội nghị lớn là Hội nghị Ngoại trưởng các thành viên của khối vào ngày 11 - 4 và Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN vào 24 và 25 – 4.
Tại Hội nghị Ngoại trưởng, Bộ trưởng Ngoại giao và Thương mại Brunei: Mohamed Bolkiah khẳng định Biển Đông tiếp tục là một trọng tâm của ASEAN trong năm 2013 và hoàn tất COC là ưu tiên hàng đầu của nước Chủ tịch. Với tư cách là Chủ tịch ASEAN, Brunei ưu tiên giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng các cách thức hoà bình trên tinh thần đảm bảo an ninh và ổn định, đồng thời sẽ tham vấn các nước lớn và các nước liên quan về vấn đề này. Ngoại trưởng 10 nước ASEAN khẳng định Tuyên bố nguyên tắc 6 điểm về Biển Đông năm 2012 của ASEAN và giao nhiệm vụ cho các Quan chức cấp cao của khối (SOM ASEAN) làm việc với Trung Quốc nhằm sớm hoàn thành Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông. Trước Hội nghị, Trung Quốc tiếp cận các nước ASEAN gây sức ép với họ bằng cách đưa điều kiện là nếu ASEAN muốn thảo luận COC thì Philippin phải rút đơn kiện về “đường lưỡi bò” của Trung Quốc tại toàn án Liên hợp quốc. Với việc tiếp tục khẳng định thúc đẩy thảo luận COC nói trên, Hội nghị đã bác bỏ thủ đọan của Trung Quốc.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 22 (24 và 25 - 4 - 2013), nguyên thủ và thủ tướng các nước ASEAN dành rất nhiều thời gian thảo luận vấn đề Biển Đông, coi đây là vấn đề thuộc quan tâm chung của ASEAN và ASEAN cần có tiếng nói chung vì liên quan đến hoà bình, an ninh khu vực. Lãnh đạo các nước đều khẳng định tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định và an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông, và đảm bảo giải quyết hòa bình các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông phù hợp với các nguyên tắc của luật pháp quốc tế đã được công nhận, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Các nhà lãnh đạo ASEAN khẳng định tất cả các bên phải kiềm chế, không tiến hành các hoạt động có thể làm phức tạp hay gia tăng căng thẳng trong khu vực, tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982; tôn trọng và thực hiện đầy đủ DOC đi đôi với thúc đẩy đẩy sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Hội nghị cũng nhấn mạnh Nguyên tắc 6 điểm về Biển Đông của ASEAN, Tuyên bố chung ASEAN - Trung Quốc kỷ niệm 10 năm DOC; nhất trí giao các Ngoại trưởng và các Quan chức cao cấp (SOM) ASEAN tiếp tục làm việc với Trung Quốc nhằm thúc đẩy Bộ Quy tắc ứng xử COC.
Về vấn đề xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử Biển Đông COC với Trung Quốc, ngày 14- 9 tại thành phố Tô Châu thuộc miền đông Trung Quốc, đại diện ngoại giao 10 nước ASEAN và nước chủ nhà bắt đầu cuộc hội đàm 2 ngày nhằm thiết lập COC. Kyodo News dẫn lời giới chức ASEAN cho hay trong ngày đầu, đại diện hai bên bàn chi tiết của dự thảo COC và sẽ trình kết quả thảo luận cho quan chức cấp cao hai bên xem xét vào ngày thứ hai. Theo lịch trình, hai bên còn tập trung thảo luận về việc thực thi Tuyên bố ứng xử giữa các bên ở biển Đông (DOC) được ký hồi năm 2002. Kết quả của cuộc họp dự kiến sẽ được đưa vào tuyên bố chung sau cuộc gặp thượng đỉnh ASEAN - Trung Quốc ở Brunei vào tháng 10. Việc các ngoại trưởng ASEAN và Trung Quốc hồi tháng 6 quyết định tổ chức cuộc họp trên được cho là bước tiến đáng kể trong vấn đề Biển Đông. Giới quan sát cũng khẳng định cần sớm cho ra đời COC để giải quyết căng thẳng do tranh chấp chủ quyền ở biển Đông hiện nay.
Tuy vậy, theo đánh giá của một số nhà nghiên cứu thì con đường đi đến COC không dễ dàng, vì cho đến bây giờ khi mà các quốc gia ASEAN gần như nhất trí hoàn toàn nội dung của COC, chỉ cần sự đồng ý của Trung Quốc thì qua các phát biểu của những chính khách Trung Quốc, nước này chỉ mới đang tiến hành gọi là ‘tham vấn’ để bàn luận về COC thôi.
Cụ thế, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã từng phát biểu “Trung Quốc không thấy có gì phải vội” để đi đến COC. Ngoài ra, trước khi cuộc họp diễn ra vài ngày, phía Trung Quốc đã có nhiều động thái thị uy. Cụ thể, ngày 12 - 9, Phó chủ tịch Quân ủy T.Ư Trung Quốc Phạm Trường Long thăm một đơn vị hải quân ở tỉnh Quảng Đông, vốn tiếp giáp Biển Đông, và ra lệnh binh sĩ tại đây tăng cường khả năng sẵn sàng tác chiến. Cũng trong ngày 12- 9, Reuters dẫn lời Tư lệnh hải quân Trung Quốc Ngô Thắng Lợi tuyên bố sẽ cân nhắc về việc đưa tàu sân bay Liêu Ninh vào tác chiến trong vòng vài năm tới. Đến ngày 13 - 9, Bộ Quốc phòng Trung Quốc ra thông cáo cảnh báo Mỹ tránh xa tranh chấp chủ quyền ở biển Đông và biển Hoa Đông. AFP dẫn thông cáo cho hay khi tiếp Thứ trưởng Quốc phòng Mỹ James Miller hồi đầu tuần, Phó tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc Vương Quán Trung nói Bắc Kinh hy vọng Washington sẽ không trở thành bên thứ ba trong các tranh chấp ở biển Đông và Hoa Đông.
Điều đó cho thấy dường như Trung Quốc chưa sẵn sàng để ký COC. Chiến thuật của họ như là đang muốn câu giờ, kéo dài thời gian ra. Chính vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu vẫn quan ngại về tương lai của COC. Chắc trong một thời gian ngắn nữa, COC vẫn chưa thể ký kết được. Ý kiến của các giới đều cho rằng trước một thế lực quân sự đang được củng cố và thái độ kẻ cả của một nước lớn trong khu vực thì sự đoàn kết của các nước nhỏ là một tất yếu nếu như họ không muốn để cho Trung Quốc làm mưa làm gió, thâu tóm hết mọi nguồn lợi phong phú tại khu vực Biển Đông…
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Túm lại là:
Như vậy, trong bối cảnh khu vực hiện nay, cùng với sự hung hăng và dã tâm ngày càng lộ liễu của Trung Quốc, sự tham gia của nhiều yếu tố bên ngoài, vấn đề Biển Đông không còn là chuyện “trong nhà “ của riêng mỗi nước ASEAN nữa. Đó là chuyện của cả khu vực, liên quan đến quyền lợi của nhiều nước trên thế giới và tác động đến quan hệ quốc tế. Vì vậy, vấn đề đoàn kết ASEAN là một vấn đề vô cùng quan trọng. Muốn làm được điều đó, ASEAN phải có những quyết sách đứng đắn, làm thế nào để dung hòa giữa lợi ích dân tộc và lợi ích của toàn khối, dẹp bỏ những bất đồng mang tính chất lịch sử. Đặt quyền lợi của toàn khối bên cạnh quyền lợi dân tộc để có được những giải pháp cần thiết cho những vấn đề nóng bỏng liên quan đến biển đảo trong khu vực. Đó là giải pháp duy nhất để có thể trở thành một đối trọng đủ sức nặng với Trung Quốc trong việc giải quyết các tranh chấp Biển Đông, thực thi DOC và đi đến kí kết COC một cách hiệu quả. Đồng thời, sự đoàn kết của ASEAN là một sức mạnh để các nước này có thể bình tĩnh đón nhận một cách khôn ngoan sự có mặt của các cường quốc trong việc gỡ rối các tranh chấp ở Biển Đông.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Chủ đề 3 đây a: Philippin với vấn đề Biển Đông
I. Sơ lược vài nét về tiềm năng của Biển Đông – nguyên nhân của sự tranh chấp.
1. Biển Đông – Vị trí chiến lược.
Biển Đông giữ một vị trí chiến lược quan trọng , là tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Châu Âu và Châu Á, Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, cũng như giữa Trung Đông và Châu Á. Lượng hàng hóa trung chuyển bằng đường thủy qua khu vực này chiếm khoảng gần 50% tổng trữ lượng hàng hóa vận tải đường thủy trên toàn thế giới. Với vị trí chiến lược của mình, Biển Đông không những có tầm quan trọng to lớn đối với các nước Đông Nam Á mà thậm chí nhiều nước ở khu vực Đông Á có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào con đường biển này như Nhật Bản (Hàng năm có khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập khẩu và khoảng 45% khối lượng hàng hoá xuất khẩu của Nhật Bản được vận chuyển qua Biển Đông), Hàn Quốc, Đài Loan và cả Trung Quốc (Trung Quốc có 29/39 tuyến đường hàng hải và khoảng 60% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu được vận chuyển bằng đường biển qua Biển Đông).
2. Biển Đông – Với trữ lượng dầu mỏ và nguồn thủy sản to lớn.
Trong kỷ nguyên bùng nổ của khoa học – kỹ thuật vấn đề năng lượng luôn là vấn đề sống còn đối với nền kinh tế các quốc gia cũng như nền kinh tế toàn cầu, bên cạnh việc nghiên cứu và tìm ra các nguồn năng lượng mới trong tương lai thì hiện tại cũng như trong các thập niên tiếp theo năng lượng dầu mỏ vẫn giữ một vai trò hết sức quan trọng.
Biển Đông được coi là một trong năm bồn chứa dầu khí lớn nhất thế giới Theo báo cáo mới nhất của Cục Quản lý thông tin năng lượng Mỹ (EIA) Biển Đông nắm giữ trữ lượng khoảng 11 tỷ thùng dầu và 190 nghìn tỷ feet khối khí đã được chứng minh và ở dạng tiềm năng, con số này thậm chí còn nhiều hơn các nguồn tài nguyên chưa được khai thác của cả Châu Âu (Nguồn: www.petrotimes.vn). Đặc biệt , theo các chuyên gia Nga thì khu vực vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa còn chứa đựng tài nguyên khí đốt đóng băng, trữ lượng loại tài nguyên này trên thế giới ngang bằng với trữ lượng dầu khí và đang được coi là nguồn năng lượng thay thế dầu khí trong tương lai gần. Điều đó càng làm cho vấn đề tranh chấp ở biển Đông trở nên cực kỳ phức tạp, vì nó trực tiếp liên quan đến quyền lợi của các bên.
Bên cạnh đó việc khai thác thủy, hải sản trên biển Đông cũng giữ một vị trí đáng kể với các nước giáp biển trong và ngoài khu vực. Trong khu vực, có các nước đánh bắt và nuôi trồng hải sản đứng hàng đầu thế giới như Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia và Philippin, trong đó Trung Quốc là nước đánh bắt cá lớn nhất thế giới (khoảng 4,38 triệu tấn/năm), Thái Lan đứng thứ 10 thế giới (với khoảng 1,5 - 2 triệu tấn/năm), cả khu vực đánh bắt khoảng 7 - 8% tổng sản lượng đánh bắt cá trên toàn thế giới. Việc đánh bắt thủy hải sản không những giải quyết được một phần nhân công khá lớn, mà còn mang về cho những nước này nguồn thu nhập đáng kể.
3. Tầm quan trọng chiến lược của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông
Đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vấn đề không chỉ dừng lại ở việc nơi đây có trữ lượng dầu khí rất lớn mà còn ở vị trí chiến lược vô cùng quan trọng nếu làm chủ được 2 quần đảo này. Do vị trí địa lý nằm giữa biển Đông nên hệ thống hai quần đảo này có thể khống chế hầu hết các con đường trên biển trong khu vực, ngoài ra nếu nhìn nhận trên phương diện quân sự chúng cũng có những lợi thế rất mạnh ví như dùng làm địa điểm đặt trạm ra đa, các trạm thông tin, xây dựng các trạm dừng chân và tiếp nhiên liệu cho tàu bè... Và không ngoa khi nói rằng nếu làm chủ được hai quần đảo này sẽ khống chế được toàn bộ vùng biển Đông.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
II. Những tuyên bố lãnh hải và khu vực tranh chấp của Philippin trong khu vực Biển Đông
Có thể nói rằng việc tranh chấp lãnh hải trên biển Đông đều xoay quanh cái gọi là “vùng đặc quyền kinh tế” được công bố trong phần V - Vùng đặc quyền kinh tế của Công ước Liên hiệp quốc về luật biển 1982 theo đó vùng đặc quyền kinh tế là vùng nằm ngoài và tiếp giáp với lãnh hải ,vùng biển này có chiều rộng 200 hải lý (khoảng 370 km) tính từ đường cơ sở, ngoại trừ những chỗ mà các điểm tạo ra đó gần với các quốc gia khác. Trong khu vực đặc quyền kinh tế, quốc gia có đặc quyền khai thác và sử dụng các tài nguyên biển. Nó là một trong các vùng mà quốc gia có quyền chủ quyền. Như vậy trong thực tế sẽ không tránh được sự chồng chéo một phần giữa các quốc gia, hoặc cố tình hiểu sai để mở rộng phạm vi lãnh hải của mình ví như “đường lưỡi bò” của Trung Quốc.
Xung quanh vấn đề chủ quyền biển Đông có rất nhiều sự tranh chấp giữa các nước như Đài Loan, Singapo, Việt Nam, Philippin, Trung Quốc... Song trong thời gian vài năm gần đây, vấn đề tranh chấp này đã thực sự nóng lên và thu hút dư luận thế giới. Đầu tiên phải kể đến một vài sự kiện tiêu biểu như: tuyên bố về “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc, vụ kiện của Philippin đối với Trung Quốc về “Đường lưỡi bò” ra tòa án quốc tế. Đó là chưa kể đến nhiều vụ dụng độ nhỏ đối với ngư dân khai thác thủy hải sản trên biển... Trong các vụ này hầu hết đều có dính dáng đến Trung Quốc với những chính sách bá quyền, tự áp đặt theo kiểu nước lớn của họ. Nhưng có thể thấy rằng các chính sách của họ luôn gặp phải sự phản đối mạnh mẽ từ phía dư luận quốc tế, trong đó có sự phản đối mạnh mẽ nhất của Philippin.
Việc tuyên bố chủ quyền lãnh hải và tranh chấp của Philippin với khu vực biển Đông chủ yếu ở một số địa điểm sau đây:
Philippines và CHND Trung Hoa về những khu khai thác khí gas Malampaya và Camago.
Philippines và CHND Trung Hoa về bãi cạn Scarborough.
Một số hay toàn bộ quần đảo Trường Sa đang bị tranh chấp giữa Việt Nam, CHND Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Philippines và một số nước khác
Ngoài ra còn phải kể đến sự vi phạm nghiêm trọng chủ quyền lãnh hải của “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc đối với một số nước nói chung và với Philippin nói riêng.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
III. Philippin từ góc nhìn địa lý, lịch sử.
Philippin nằm trong khu vực Đông nam á hải đảo - một đất nước được hình thành bởi hơn 7000 hòn đảo lớn nhỏ trong đó có ba đảo lớn. Sự ngăn cách về phương diện địa lý với các lục địa tạo cho Philippin những nét đặc trưng riêng cả trong đời sống văn hóa của dân cư lẫn nền tảng kinh tế của quốc gia này.
Có thể thấy rằng, tuy nằm trong khu vực Đông Nam Á nhưng Philippin có một nét khác biệt riêng điều này được mang lại từ vị trí địa lý, cũng như tiến trình lịch sử của nó. Là đất nước duy nhất trong khu vực không chịu ảnh hưởng Phật giáo và Ấn Độ giáo trước thời chủ nghĩa thực dân vào Đông nam á ở Philippin không có sự hình thành một nhà nước, do sự ngăn cách giữa các đảo, vì vậy tính địa phương được thể hiện rõ rệt, không có những hệ tư tưởng ăn sâu vào xã hội hoặc các truyền thống lớn. Cùng với sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân đã nhanh chóng tạo cho đất nước này một lớp phủ văn hóa mới với tư duy phương Tây rõ rệt. Mặt khác cuộc sống thiên phần nhiều về thương nghiệp cũng tạo cho họ những tính cách năng động hơn, họ dễ tiếp thu những ảnh hưởng văn hóa bên ngoài, nhất là sau khi thực dân Tây Ban Nha thống trị khu vực này (Nơi định cư đầu tiên của người Tây Ban Nha là đảo Cebu ở miền nam Philippines vào năm 1565, năm 1571 tổng hành dinh của Tây Ban Nha được chuyển về Manila, nơi sau nay là một trung tâm xuất nhập khẩu thu mua và phân phối hàng hoá do các thương gia người Hoa thống trị. Từ đây, bắt đầu hơn 300 năm ảnh hưởng của Tây Ban Nha ở Philippines, các đảo được đặt tên của thái tử Felipe của Tây Ban Nha và nhanh chóng trở thành tên Philippines) giao thương được mở rộng hơn rất nhiều so với các giai đoạn trước đó. Như vậy, trong tiềm thức của người Philippin hiện nay yếu tố lịch sử dân tộc là một cái gì đó không rõ ràng ở giai đoạn trước khi Tây ban nha đặt nền thống trị, có chăng đi nữa thì chỉ là những mô thức về chủ nghĩa địa phương dưới sự kiểm soát của cac đại gia đình kinh doanh bản xứ và mạng lưới họ hàng thân tộc.
Việc người Tây Ban Nha, người Anh, sau đó là người Mỹ đặt hệ thống thuộc địa ở khu vực này đã tạo ra cho nó những diện mạo mới ở hầu hết tất cả các mặt, từ việc định hình một quốc gia thống nhất, việc có tên nước, truyền bá đọa Thiên chúa (Phần lớn nhân dân Philippin theo đạo Thiên Chúa – một đất nước có số lượng tín đồ Thiên Chúa lớn nhất khu vực Đông Nam á). Trải qua hơn 500 năm dưới ảnh hưởng của văn minh phương Tây, cùng với quá trình hình thành cộng đồng quốc gia dân tộc đã tạo cho đất nước và con người Philippin những đặc điểm tâm lý, tính cách, riêng không hoàn toàn giống như các quốc gia cùng khu vực.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
IV. Thái độ của Philippin về vấn đề biển Đông trước Trung Quốc.
Kể từ sau chiến tranh thế giới II kết thúc, đặc biệt là trong những thập niên 70 – 80 của thế kỷ XX trở lại đây, vấn đề biển Đông nhanh chóng trở nên ngày càng nóng lên do những động thái từ phía Trung Quốc, từng bước leo thang Trung Quốc tuyên bố một phần rồi đến khoảng 75% lãnh hải biển Đông thuộc về họ, dưới nhiều hình thức: sử dụng lực lượng quân sự chiếm đánh, chiếm đóng, ép buộc... mặc cho dư luận quốc tế và dư luận trong các nước có liên quan. Sự bành chướng của Trung Quốc mang đặc thù áp đặt của nước lớn và không tôn trọng luật pháp quốc tế. Có thể kể ra một vài ví dụ tiêu biểu cho những hành động ngang ngược này như : Việc công khai “đường mười một đoạn” lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1948 trong phụ đồ "Bản đồ vị trí các đảo Nam Hải" của "Bản đồ khu vực hành chính Trung Hoa Dân Quốc" do Cục Phương vực Bộ Nội chính Trung Hoa Dân Quốc phát hành. Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa sau khi thành lập vẫn xác định cương vực trên biển Đông theo "đường mười một đoạn" của Trung Hoa Dân Quốc, đến năm 1953 thì bỏ hai đoạn trong vịnh Bắc Bộ, trở thành "đường chín đoạn”
Việc Trung Quốc lợi dụng cuộc chiến tranh hai miền ở Việt nam đang trong giai đoạn căng thẳng chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa trong trận “Hải chiến Hoàng Sa” năm 1974
Tiếp sau đó vào năm 1988 là việc ngang nhiên gây ra cuộc “Hải chiến Trường Sa” chiếm đóng một phần quần đảo Trường Sa của Việt Nam
Tháng 4 năm 1988 Trung Quốc đã thông qua một nghị quyết để thành lập tỉnh Hải Nam, trong đó bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa mà Việt Nam đã khẳng định chủ quyền
Tháng 11 năm 2007, Quốc vụ viện Trung Quốc lại phê chuẩn việc lập thành phố Tam sa nhằm trực tiếp quản lý các quần đảo trên biển Đông, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa mà họ gọi là Tây Sa và Nam Sa.
Năm 2011, căng thẳng dâng lên khi các tranh chấp giữa Trung Quốc với Việt Nam và Philippines nổ ra. Ngày 26 tháng 5 năm 2011, 3 tàu hải giám của Trung Quốc xâm nhập lãnh hải của Việt Nam, phá hoại thiết bị và cản trở tàu khảo sát địa chấn Bình Minh 2 của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam đang hoạt động tại vùng biển miền Trung chỉ cách mũi Đại Lãnh của tỉnh Phú Yên 120 hải lý. Tiếp đó là sự kiện một tàu thăm dò dầu khí khác của Việt Nam thuê vừa bị tàu Trung Quốc phá hoại thiết bị vào ngày 9 tháng 6 năm 2011 . Cùng với đó là vụ tranh chấp đối đầu hải quần giữa Trung Quốc với Philippin đầu năm ngoái, dẫn đến việc Trung quốc làm chủ bãi cạn Scarborough mà trước đây do Philippin nắm giữ, vụ việc này đánh dấu một bước leo thang mới ở khu vực biển Đông.
Nằm trong chuỗi những động thái trên, trong các nước có lợi ích tại biển Đông và các nước bị vi phạm nghiêm trọng chủ quyền do “đường lưỡi bò” đem lại có những hướng giải quyết vấn đề trong những khuôn khổ khác nhau song chủ yếu đi theo con đường kêu gọi thỏa hiệp “giải quyết vấn đề biển Đông trên cơ sở hòa bình, tôn trọng lợi ích quốc gia” – một giải pháp hầu như không mang lại hiệu quả nào từ phía Trung quốc. Nhưng đối với Philippin thì lại chọn con đường khác, phía Philippin muốn công khai vấn đề lên tòa án quốc tế, nhằm giải quyết vấn đề biển Đông theo công ước luật biển quốc tế một cách rõ ràng, và có những hành động sẵn sàng “trả đũa” Trung quốc nếu cần, kể cả đáp lại sự đe dọa về quân sự từ phía Trung quốc thông qua những cuộc tập trận chung cùng với Mỹ, Philippin muốn chứng tỏ nếu cần có thể sẵn sàng dùng quân đội để giải quyết vấn đề chủ quyền biển Đông khi bị dồn ép.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
V. Philippin không hy vọng dựa vào Asian để giải quyết tranh chấp biển Đông.
Việc Philippin liên tục tiến hành tập trận chung với Mỹ và đưa đơn kiện lên tòa án quốc tế với Trung quốc trong những năm gần đây, ngoài việc Mỹ là đồng minh thân cận của nước này còn có thể nói đến việc dường như Philippin không hy vọng thông qua khối ASIAN để có thể giải quyết vấn đề biển Đông được nữa. Và có thể nói rằng không phải không có lý do để Philippin đưa ra các lựa chọn cho các hành động của mình.
Sự thật, khối ASIAN bao gồm 11 quốc gia, trong đó hầu hết các quốc gia đều giáp biển, song không phải quốc gia nào cũng tham gia tranh chấp tại biển Đông, vấn đề biển Đông dường như chỉ là vấn đề lớn đối với một vài nước như Việt Nam, Philippin, Singapo, Bruney mà thôi, còn đa số các nước còn lại không hoặc ít dính đến vấn đề này. Mặc dù khối Asian trước hết khối liên kết cùng phát triển về kinh tế, sau đó mới là các vấn đề khác như chính trị, văn hóa... Nhưng có thể thấy rằng hoạt động về hợp tác kinh tế giữa các nước dường như không có sự gắn bó, nếu so sánh với các tổ chức khác trên thế giới thì khối Asian mới chỉ hô hào là chính còn hành động thì hầu hết chẳng có gì nổi bật. Ngoài việc thiếu tính thống nhất đã nêu trên, giữa các nước trong tổ chức cũng không có sự đồng thuận cao trong nhiều vấn đề chứ chưa nói tới vấn đề biển Đông, thậm chí một vài nước còn thờ ơ hoặc quay lưng lại với vấn đề biển Đông của các thành viên trong nhóm, tiêu biểu là sự kiện năm 2012 của Campuchia.
Ngoài những yếu tố nội tại kể trên cũng cần phải nói tới sự gây áp lực từ phía Bắc kinh với một vài nước (bằng các con đường: đe dọa, lôi kéo, dụ dỗ...) nhằm phá vỡ sự đồng thuận của các nước trong vấn đề biển Đông thông qua tổ chức Asian.
Trong thời gian gần đây, sự hiện diện ngày càng lớn của Mỹ và Nhật bản trong việc đầu tư vào các nước Asian cũng đã làm cho Trung quốc phải lo ngại, lo sợ trước việc các nước Asian liên kết cùng các nước bên ngoài khu vực tạo thế cô lập cho mình, Trung Quốc cũng bắt đầu tiến hành có những hoạt động đầu tư mạnh vào khu vực Đông nam á, nhưng mọi nỗ lực của Trung quốc dường như có ý muốn cô lập Philippin ra khỏi khu vực. Có thể đây cũng là một trong số những nguyên nhân khiến Philippin không hy vọng vào khối Asian để giải quyết vấn đề biển Đông
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
VI. Vấn đề đồng minh của Philippin trong khuôn khổ giải quyết vấn đề biển Đông
1. Quan hệ Mỹ - Philippin.
a. Biển Đông trong con mắt của Washington qua các thời kỳ.
Biển Đông là một trong những con đường vận tải đường thủy nhộn nhịp trên thế giới, là ống thông gió Đông – Tây, vị trí chiến lược của nó là rất quan trọng trong cái nhìn của các nhà chính trị cũng như các nhà kinh tế. Nhưng trong các giai đoạn lịch sử trước đây, do những biến động thời cuộc cũng như sự nặng nhẹ trong vấn đề lợi ích mà khu vực này ít hoặc bị Mỹ cố tình “bỏ qua”. Có thể liệt kê ra một vài giai đoạn sau:
Giai đoạn từ năm 1972: Nhận thấy sự rạn vỡ trong hệ thống giữa các nước chủ nghĩa xã hội, quan hệ Trung Quốc – Liên Xô bắt đầu trở nên căng thẳng, tổng thống Mỹ thời kỳ này là Nixon có chuyến thăm tới Trung quốc mở ra thời kỳ hòa hoãn và câu kết Mỹ-Trung trong chiến lược tranh bá với Liên Xô. Và vấn đề Biển Đông được Mỹ “bỏ ngỏ”, tranh thủ sự “bỏ ngỏ” này chính quyền Bắc Kinh nhanh tay gây ra hàng loạt các hành động nhằm biến biển Đông thành “ao riêng”, tiêu biểu trong các chuỗi các hành động bành trướng này là các sự kiện “Hải chiến Hoàng sa” năm 1974 với chính quyền CH Miền Nam – Việt Nam (Đồng minh của Mỹ), tiếp đến là “Hải chiến Trường Sa’’ với CHXHCN Việt nam năm 1988.
Bước vào những thập niên 90 của thế kỷ XX, tâm lý “bài Mỹ” bắt đầu xuất hiện ở khu vực này, Mỹ đóng cửa hầu hết các căn cứ quân sự ở Đông Nam Á, trong đó có những căn cứ lớn ở Philippin, vấn đề biển Đông một lần nữa không là vấn đề được quan tâm quá nhiều của Washington. Do đó trong sự kiện đầu năm 1995 giữa Philippin và Trung quốc có nguy cơ leo thang thành cuộc xung đột quân sự lớn thì phía Washington vẫn không có động thái gì.
Sang đến những năm đầu của thế kỷ XIX: Trọng tâm chiến lược toàn cầu của Mỹ lần lượt đặt ở châu Âu và vấn đề chống khủng bố khiến Mỹ dính líu vào hai cuộc chiến tranh Iraq, Afghanistan, làm xao nhãng mối quan tâm của Mỹ đối với châu Á-Thái Bình Dương. Chính thời điểm này, con rồng Trung Quốc quẫy sóng Biển Đông. Trong suốt một thời gian dài, Mỹ giữ thái độ nước đôi về những hành động của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Bước vào những năm cuối của thập niên đầu tiên thế kỷ XIX, vấn đề biển Đông phát sinh những căng thẳng mới Mỹ bắt đầu có những động thái chuẩn bị cho việc tham gia cuộc chơi.
Năm 2008: Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thúc đẩy cuộc “khủng hoảng kép” về sức mạnh kinh tế và vị thế đối ngoại của Mỹ trên thế giới. Cùng lúc đó sự trỗi dậy của Trung Quốc với những nỗ lực xây dựng chiến lược hoặc trật tự Trung Hoa sớm muộn sẽ thách thức quyền lãnh đạo của Mỹ. Vai trò và sức mạnh của Mỹ tại châu Á-Thái Bình Dương đã suy yếu đáng kể. Sự nổi lên của Trung Quốc càng làm nổi bật sự sa sút của Mỹ. Nhưng vì suy yếu mà Mỹ đẩy mạnh can dự. Sự điều chỉnh bắt đầu ngay từ năm đầu của chính quyền Obama, từng bước định hình cùng với quá trình điều chỉnh lại các ưu tiên đối ngoại quốc gia cũng như chiến lược toàn cầu của Mỹ. Và sự trở lại của Mỹ ở Đông Nam Á bắt đầu bằng hàng loạt các sự kiện, các cuộc gặp gỡ cấp cao, giữa Mỹ và các nước trong khu vực này cũng như thông qua tổ chức Asian.
b.Mỹ - Philippin nhờ Trung Quốc mối quan hệ được thiết chặt.
Trong khi Mỹ đang tìm cách trở lại Đông Nam Á thì cũng là lúc các tranh chấp của Trung Quốc với Philippin đang lên cao, việc khối Asian dường như không tìm được giải pháp giải quyết tranh chấp với Trung quốc xung quanh vấn đề biển Đông càng làm cho Philippin thất vọng. Các hiềm khích xung đột nảy sinh trong các giai đoạn trước cộng với những mâu thuẫn mới đã đẩy Philippin vào tình thế chịu lép vế hơn khi so sánh về tương quan lực lượng mọi mặt đều thua kém Trung quốc. Sự xuất hiện của “đồng minh” Mỹ lúc này như một cứu cánh tuyệt vời cho Philippin bởi xét về mọi mặt lúc này chỉ có Mỹ mới tỏ ra đủ mọi yếu tố để “chống lưng” cho Philippin trong việc đối đầu với Trung quốc. Sự gặp gỡ giữa “kẻ cần” và “người muốn” mang lại lợi ích cho cả hai bên, cùng nhau bắt tay đưa vấn đề biển Đông trở nên gay cấn hơn sau bao nhiêu năm chỉ mang tính chất bó gọn trong khu vực.
2. Philippin trong việc tìm kiếm đồng minh với Australia.
Có thể khẳng định rằng cuộc tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippin là cuộc tranh chấp kịch liệt nhất trên khu vực biển Đông, nhất là khi mọt nước nhỏ như Philippin lại phải đối đầu với một cường quốc như Trung Quốc. Điều đó đã khiến Philippines không còn cách nào khác mà phải tìm tới những “điểm tựa” trên Biển Đông. Một mặt, Manila vẫn đang quyết tâm theo đuổi vụ kiện Trung Quốc lên tòa án quốc tế, mặt khác vẫn theo đuổi những phương cách khác nhằm bảo vệ sự toàn vẹn một phần lãnh thổ trên Biển Đông. Theo đó, Philippines đang muốn có tiếng nói chung và sự hỗ trợ của cả Austrlia, Nhật Bản và Mỹ trên nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, và đặc biệt là quân sự, hàng hải.
Hiện nay Australia cùng với Mỹ vẫn là đối tác chính trong chương trình Coast Watch South (Hệ thống Giám sát duyên hải) nhằm tăng cường nhận thức về chủ quyền hàng hải và an ninh biên giới của Philippines. Năm 2007, hai bước cũng ký kết Hiệp định về các lực lượng thăm viếng nhau (Status of Visiting Forces Agreement - SOFVA) nhằm thiết lập các cơ chế trao đổi quân đội, hay nói cách khác là tạo khung pháp lý cho sự hiện diện của binh lính Úc tại Philippines và ngược lại. Tuy vậy về phía Australia vẫn chưa có động thái rõ ràng đối với vấn đề của Philippin bởi sự quan ngại sẽ bị cuốn vào những tranh chấp mà nước này đang gặp phải trong vấn đề biển Đông.
3. Trong quan hệ với Nhật bản.
Biển Đông có một vị trí rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của Nhật bản, đây là con đường vận chuyển xuất nhập chủ yếu của đất nước mặt trời mọc này. Hàng năm có khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập khẩu và khoảng 45% khối lượng hàng hoá xuất khẩu của Nhật Bản được vận chuyển qua Biển Đông. Do vậy vấn đề tự do hóa biển Đông được Nhật bản hết sức coi trọng, vấn đề “đường lưỡi bò” của Trung Quốc đang đe dọa trực tiếp đến sự buôn bán của đất nước này với bên ngoài, nhất là trong bối cảnh những tranh chấp bên phía biển Đông Hoa đang diễn biến hết sức phức tạp, quan hệ Nhật – Trung đang ngày càng trở nên căng thẳng. Tìm một giải pháp cho con đường này không còn cách nào khác Nhật bản buộc phải mở rộng ảnh hưởng xuống phía Đông Nam Á thông qua các hoạt động đầu tư kinh tế. Trong những năm gần đây, các động thái của Nhật cho thấy nước này đang đẩy mạnh đầu tư xuống các nước như Việt Nam, Inđônêxia, Philippin...
Bên cạnh những hoạt động đầu tư kinh tế, Nhật bản cũng tích cực hợp tác với Philippin trong vấn đề an ninh trên biển, nhằm làm thất bại mưu đồ bá quyền của Trung quốc đối với khu vực biển Đông , ngăn chặn sớm việc bị cắt mất tuyến đường vận tải chủ chốt qua khu vực này. Có thể nói rằng quan hệ Nhật Bản – Philippin đang dần dần chuyển từ quan hệ hợp tác kinh tế sang an ninh biển, khi mà đầu năm 2012, Nhật Bản bắt đầu đưa ra kế hoạch cung cấp tàu tuần tra cho Philippin, theo chương trình viện trợ phát triển chính thức ODA từ Nhật. Sau đó, sang đầu năm 2013, Chính phủ Nhật Bản chính thức xác nhận sẽ chuyển giao nhiều tàu tuần tra có trị giá 11 triệu USD mỗi chiếc cho Philippin bắt đầu từ đầu năm 2014 để giám sát các hoạt động hàng hải của Bắc Kinh trên những vùng biển đang tranh chấp. Bên cạnh đó, Tokyo còn quyết định chi thêm khoảng hơn 20 triệu USD để cử lực lượng bảo vệ bờ biển tới huấn luyện cho lực lượng của Philippin. Có thể nói rằng vấn đề tranh chấp biển Đông không chỉ là vấn đề của riêng khu vực Đông Nam Á với Trung Quốc, mà lúc này đã trở thành vấn đề quốc tế, khi mà Trung quốc công khai chiếm riêng biển Đông thành “ao riêng” của mình, cả phía Nhật bản và phía Philippin cùng xác định rằng : lợi ích chiến lược trong bảo vệ đường biển của hai quốc gia chính là nền tảng cho một mối quan hệ mới.
Kết luận: Việc tranh chấp chủ quyền trên biển Đông chủ yếu giữa các nước Đông nam á nhằm chống lại sự áp đặt ngang ngược của Trung quốc theo từng thời kỳ có những động thái khác nhau, tùy thuộc vào cục diện thế giới qua các giai đoạn. Trong vấn đề tranh chấp giữa các nước Đông Nam Á với Trung quốc, Philippin luôn là nước có thái độ kiên quyết và cứng rắn nhất, bất chấp sự đe dọa từ phía cường quốc này. Song sự đối đầu kiên quyết của Philippin luôn có sự chống lưng từ các nước bên ngoài, gắn với lợi ích của từng nước này. Và cũng cần nói thêm rằng không giống như các nước khác trong khu vực Philippin đã đưa vấn đề biển Đông từ tranh chấp trong khu vực ra thành vấn đề của thế giới. Sự có mặt của Mỹ và Nhật bản trong việc ủng hộ Philippin trên cả lĩnh vực kinh tế, luật pháp, quân sự cũng đã làm cho Trung quốc phải nhìn nhận lại vấn đề, hạn chế một phần sự ngang ngược của Trung quốc như các giai đoạn trước. Tuy vậy trong tình hình hiện nay tranh chấp biển Đông khó có thể đưa tới một cuộc xung đột lớn, bởi sự có mặt của nhiều nước bên ngoài đặc biệt là Mỹ làm cho Trung quốc phải có những thay đổi mới trong đối sách “mềm nắn, rắn buông” của mình.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Nữa đây các cụ nhé: Vai trò của Trung Quốc và Philippin trong vấn đề tranh chấp ở biển Đông.
1. Xuất phát điểm của vấn đề tranh chấp ở biển Đông
Cuộc tranh chấp trên biển Đông vẫn đang là một “nguy cơ” gây bất ổn trong khu vực. Tranh chấp biển Đông đã trở thành một trong những cuộc tranh chấp phức tạp bậc nhất trên thế giới. Sự phức tạp của tranh chấp biển Đông xuất phát từ những yêu sách phức tạp về chủ quyền của nhiều quốc gia trên quyền lợi lịch ích quốc gia, vả lại, nó không chỉ đơn thuần là tranh chấp về mặt luật pháp quốc tế về biên giới biển, lãnh thổ trên biển mà hơn thế nữa nó còn được đan xen với những lợi ích về địa – chính trị, về kiểm soát con đường vận tải biển chiến lược, và về khai thác các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là dầu mỏ.
Có thể nói, xuất phát ban đầu của vấn đề biển Đông là từ phía Trung Quốc khi họ đưa ra khái niệm “đường lưỡi bò” trên vùng biển Đông và âm mưu của họ trong việc biến biển Đông thành “ao nhà” của mình.
Yêu sách về “đường lưỡi bò” được đưa ra một cách không chính thức từ hai chính quyền: một là Cộng Hoà Trung Hoa, sau thất bại năm 1949 phải chạy ra Đài Loan (từ thời điểm này gọi là chính quyền Đài Loan), và từ chính quyền Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa được thành lập từ năm 1949 tới nay.
Năm 1948, Bộ Nội Vụ nước Cộng Hoà Trung Hoa chính thức công bố một bản đồ xuất hiện một đường mà Trung Hoa gọi là đường hình chữ “U”, một số học giả gọi nó là “đường lưỡi bò” được thể hiện là một đường đứt khúc bao gồm 11 đoạn. Bản đồ được thể hiện bao trùm xung quanh cả bốn nhóm quần đảo, bãi ngầm lớn trên biển Đông, đó là các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, và Pratas (Trung Quốc gọi là Đông Sa) và bãi cạn Macclesfield (Trung Quốc gọi là Trung Sa).
“Đường lưỡi bò” này xuất phát từ biên giới đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vịnh Bắc Bộ, chạy xuống phía Nam tương tự như hình dáng của bờ biển Đông và Đông Nam Việt Nam tới cực Nam của bãi đá san hô Scaborough Shoal và sau đó quay ngược lên phía Bắc theo hướng đi song song với đường bờ biển phía Tây Sabah của Malaysia và Palawan của Philippines và quần đảo Luzon, kết thúc tại khoảng giữa eo Bashi nằm giữa Đài Loan và Philippin. Đường này được vẽ tùy tiện và không có tọa độ xác định chính xác.
Năm 1949, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời, sau đó thay thế Cộng Hoà Trung Hoa trở thành thành viên thường trực của Hội đồng Bảo An Liên Hợp Quốc. Năm 1949, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa cũng cho ấn hành một bản đồ, trong đó “đường lưỡi bò” được thể hiện giống như trên bản đồ trước đó gồm 11 đoạn.
Tuy nhiên, đến năm 1953, bản đồ vẽ “đường lưỡi bò” của Trung Quốc xuất bản chỉ còn 9 đoạn. Trong suốt một thời gian dài, mặc dù cho xuất bản bản đồ có thể hiện “đường lưỡi bò” như trên, nhưng cả Chính phủ Cộng Hoà Trung Hoa lẫn Chính Phủ Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa chưa bao giờ đưa ra lời tuyên bố hoặc giải thích chính thức gì về “đường lưỡi bò” đó cả.
Từ đó đến nay, tấm bản đồ có “đường lưỡi bò” được Trung Quốc sử dụng phổ biến nhằm xác định, xác lập và khẳng định chủ quyền của mình trên biển.
Trong những năm gần đây, vấn đề biển Đông ngày càng trở nên phức tạp và gay gắt hơn với những hành động gây hấn quyết liệt của Trung Quốc và động thái của các bên liên quan.
Với công hàm ngày 7/5/2009 có kèm bản đồ đường chữ U, có vẻ như Trung Quốc đòi hỏi cộng đồng quốc tế phải thừa nhận “tính chất lịch sử của đường lưỡi bò, coi Biển Đông như một vịnh lịch sử”. Đường này sẽ được ngộ nhận là đường biên giới quốc gia trên biển của Trung Quốc. Họ cũng rất khéo kết hợp con đường này với các khái niệm đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của luật biển quốc tế hiện đại bằng tuyên bố dưới dạng Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi với các vùng nước phụ cận của quần đảo Nam Sa (Trường Sa theo tên Việt Nam). Như vậy toàn bộ Biển Đông sẽ trở thành ao hồ của Trung Quốc.
Nói cách khác vùng nước do con đường này bao bọc là vùng nước lịch sử theo chế độ nội thuỷ của Trung Quốc. Con đường này chỉ là hình thức, còn danh nghĩa lịch sử của Trung Quốc trên vùng biển này mới là nội dung.
Với yêu sách đó, Trung Quốc đã động chạm đến quyền lợi trên biển của các quốc gia Việt Nam, Malaixia, Brunay, Đài Loan và Philipin.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
2. Vai trò của Trung Quốc và Philippin trong vấn đề tranh chấp ở biển Đông
2.1 Khái quát về tranh chấp trên biển Đông giữa Trung Quốc và Philippin
Những tranh chấp trên biển Đông giữa Trung Quốc và Philippin được đẩy lên cao độ trong vài năm gần đây, đặc biệt trong 2 năm trở lại đây. Vấn đề xoay quanh việc hai bên tranh chấp chủ quyền của mình trên bãi cạn Scaborough mà Trung Quốc gọi là Hoàng Nham.
Scarborough/Hoàng Nham là một bãi đá hình móng ngựa không có người sinh sống trên Biển Đông. Bãi đá này cách đảo lớn Luzon của Philippin khoảng 230 km về phía tây. Trong khi đó, cách đất liền Trung Quốc nơi gần nhất lên tới 1200 km. Bãi cạn này thực chất chỉ là một bãi đá nhưng vị trí của nó chứa đựng ý nghĩa kinh tế và chính trị rất lớn. Nằm trên Biển Đông, bãi cạn Scarborough là một khu vực chiến lược cho các chiến dịch quân sự. Ngoài ra, các nhà khoa học còn dự đoán, nơi đây có thể chứa những nguồn trữ lượng dầu mỏ tiềm năng.
Bãi cạn Scarborough là nơi chứng kiến cuộc chạm trán giữa tàu chiến lớn nhất của Philippin với hai tàu hải giám Trung Quốc hồi tháng 4 năm 2012. Sau vụ va chạm trên, hai nước Philippin và Trung Quốc rơi vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Trong suốt thời gian hơn một năm qua, tàu Trung Quốc nhất quyết không chịu rút khỏi bãi cạn Scarborough bất chấp nước này có thỏa thuận với Philippin về việc rút toàn bộ tàu thuyền hai bên ra khỏi khu vực sau cuộc đối đầu căng thẳng nói trên. Điều đáng nói là, Trung Quốc hiện giờ trên thực tế đang kiểm soát bãi cạn Scarborough.
Các cuộc đụng độ trên biển và những tranh cãi trên mặt trận ngoại giao liên tục nổ ra đối với hai bên. Đây là vùng lãnh thổ mà cả hai bên đều tuyên bố chủ quyền lãnh thổ, vì vậy cả hai bên đều cố gắng đưa ra những luận điểm chứng minh chủ quyền của mình và những biện pháp nhằm bảo vệ quyền lợi của mình trên vùng bị tranh chấp.
Về phía Philippin, khẳng định thái độ cứng rắn trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trên biển, sẵn sàng tự vệ nếu bị khiêu khích, thậm chí đã đề xuất đưa vấn đề này ra tòa án quốc tế về luật biển. Tuy vậy, Philippin cũng tỏ ý muốn vấn đề được giải quyết bằng con đường ngoại giao hòa bình nếu hai bên có thiện chí. Mọi cố gắng của hai bên đối với việc giải quyết tranh chấp bằng ngoại giao đàm phán được cho là không có hiệu quả và khiến cho tranh chấp được đẩy lên cao độ khi Philippin muốn tìm đến một lực lượng bên ngoài tranh chấp với Trung Quốc là Mĩ để can thiệp, giúp đỡ mình với tư cách là đồng minh chiến lược thể hiện qua những cuộc tập trận chung, sự giúp đỡ, hỗ trợ về vũ khí, quân sự của Mĩ đối với Philippin trong thời gian gần đây. Điều đó được Trung Quốc và cộng đồng quốc tế nhận định là Philippin đã tính tới và sẵn sàng cho sự đụng độ về mặt quân sự với Trung Quốc.
Về phía Trung Quốc, xuất phát từ sự toan tính của mình đối với vùng biển Đông được cho là chiến lược này, thái độ của Trung Quốc là không muốn rời bỏ quyền lợi của mình hay nói cách khác là bằng mọi cách chiếm được vùng biển Đông (trong đó là bãi cạn Scarborough) thành ao nhà của mình, đặc biệt thái độ trở nên kiên quyết và hung hăng khi Trung Quốc liên tiếp cử các hạm đội hải quân tuần tra, các tàu thuyền vào vùng tranh chấp hoặc tiến hành nhiều cuộc tập trận chuẩn bị sẵn sàng cho những cuộc đụng độ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Trước lời đề nghị của Philippin đưa vấn đề tranh chấp ra Luật pháp quốc tế về luật biển, trung Quốc đã thẳng thắn khước từ và muốn giải quyết như tranh chấp trong khu vực giữa các bên liên quan.
2.2 Vai trò của Trung Quốc và Philippin trong vấn đề tranh chấp ở biển Đông
Với tư cách là hai nước thuộc vấn đề tranh chấp trong vấn đề biển Đông, mỗi bên liên quan có cách ứng xử riêng và những động thái riêng, điều đó xuất phát từ tiềm lực, vai trò, vị thế của mỗi nước trong khu vực và trên thế giới hay nói cách khác là quyền lực của mỗi nước, điều đó sẽ ảnh hưởng lớn đến cục diện khu vực và thế giới khi vấn đề biển Đông có được giải quyết đến đâu.
Về phía Trung Quốc: có thể nói Trung Quốc chính là nước khởi xướng cho những tranh chấp trên biển Đông với những toan tính xuất phát từ nhu cầu phục vụ cho một nền kinh tế rộng lớn đối với biển Đông – một vùng biển với nhiều tiềm năng về dầu mỏ, với vị thế địa lý thuận lợi trong hệ thống giao thông trên biển giữa Đông – Tây. Tham vọng của Trung Quốc đã rất rõ ràng không chỉ thể hiện qua bản đồ “đường lưỡi bò” liếm trọn hơn 80% lãnh thổ biển Đông. Trong vấn đề tranh chấp với Philippin, thái độ của Trung Quốc cũng thể hiện một cách rõ ràng với tư thế của một kẻ có tiềm lực kinh tế rất hung hăng.
Thế kỷ XXI là thế kỷ vươn lên mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc trở thành cường quốc kinh tế thứ hai trên thế giới, là cường quốc hàng đầu của châu Á, trở thành đầu mối, bạn hàng của hầu hết các quốc gia trên thế giới, Trung Quốc đã thiết lập cho mình sức mạnh quân sự tương ứng với sức mạnh kinh tế với hệ thống vũ khí, trang thiết bị quân sự hiện đại. Với tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng, Trung Quốc đặt ra nhu cầu rất lớn về các nguồn tài nguyên, trong đó có tài nguyên biển. Vì vậy, trong những năm gần đây, toan tính và hành động của Trung Quốc trong việc thôn tính gần như toàn bộ lãnh thổ biển Đông được tiến hành một cách rất rõ rệt và mạnh mẽ bởi sự hậu thuẫn của một lực lượng quân đội hùng hậu và được trang bị hiện đại. Đây là một trong những toan tính nằm trong chiến lược vươn lên trở thành một cực trong trật tự thế giới mới hiện nay. Về mặt chính trị, Trung Quốc là một trong năm cường quốc trong Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, có quyền biểu quyết hoặc phủ quyết mọi quyết định của Liên hợp quốc, đó là lợi thế về chính trị của Trung Quốc trong việc áp đặt hoặc “đứng ở thế trên” trong ứng xử với các bên liên quan về các vấn đề tranh chấp.
Khi bên Philippin đưa ra yêu cầu đưa vấn đề tranh chấp ra tòa án quốc tế về luật biển, Trung Quốc đã từ chối tham gia vụ kiện và luôn tìm cách giải quyết vấn đề tranh chấp theo phương thức đối thoại song phương mà không muốn có sự can thiệp của các lực lượng bên ngoài. Đó là lý do tại sao khi chính phủ Philippin có động thái muốn dựa vào Mĩ can thiệp vào vấn đề tranh chấp này, Trung Quốc ngày càng gây hấn và có những hành động ngang ngược hơn trên vùng tranh chấp lãnh thổ mà gần đây nhất đó là những hình ảnh được phía Philippin công bố bên Trung Quốc đã cho xây dựng những cọc bê tông trên bãi đá Scarborough. Có lẽ, do Trung Quốc nhận thức được vị thế của mình trong mối quan hệ với Trung Quốc và những được, hơn của Mĩ trong vấn đề can thiếp vào tranh chấp giữa Trung Quốc với Philippin.
Về phía Philippin: có thể nói Philippin cũng là “nạn nhân” trong chiến lược bành trướng lãnh thổ trên biển của trung Quốc khi phải chạm trán Trung Quốc – một đối thủ được coi là mạnh hơn rất nhiều. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu thì Philippin là nước có thái độ cứng rắn nhất trong ứng xử và đối phó với Trung Quốc trong vấn đề biển Đông. Trên thực tế, gần như Trung Quốc đã nắm quyền kiểm soát và bắt đầu có những động thái khai thác, sử dụng bãi cạn Scarborough, vấn đề của Philippin là đòi lại và khẳng định lại chủ quyền của mình trên lãnh thổ đó. Như đã nói, Philippin không phải là đối thủ của Trung Quốc về cả tiềm lực kinh tế và quân sự, sự cứng rắn của Philippin trong việc giải quyết tranh chấp với Trung Quốc được cho là dựa vào mối quan hệ giữa Philippin với Mỹ - mối quan hệ đồng minh chiến lược đã được xác lập từ thời thuộc địa và được duy trì đến ngày nay. Trên cơ sở đó, phía Philippin có những hành động cứng rắn như quyết liệt đánh trả những động thái quân sự của Trung Quốc, và đặc biệt là quyết tâm trong việc đưa vấn đề tranh chấp ra Tòa án quốc tế về luật biển. Trong thời gian gần đây, sự giúp đỡ của Mĩ đối với Philippin được biểu hiện một cách rõ nét hơn khi Mĩ tài trợ cho Philippin nhiều trang thiết bị quân sự, giúp đỡ Philippin trong việc huấn luyện, tập trận … nhằm nâng cao khả năng và sức chiến đấu cho quân đội Philippin.
Tuy nhiên, sự xuất hiện của Mĩ chưa hẳn là Mĩ sẽ đứng về phía Philippin trong cuộc tranh chấp với trung Quốc vì như vậy đồng nghĩa với việc Mĩ sẽ để mất một đối tác quan trọng là Trung Quốc. Sự xuất hiện của Mĩ với chiến lược “Với tay đến Thái Bình Dương”, cùng với những sự can thiệp của các thế lực, các nước khác như Nga, Pháp, và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á khiến cho vấn đề biển Đông không còn bó hẹp trong phạm vi là một vấn đề khu vực. Điều đó thể hiện qua đề xuất đưa vấn đề tranh chấp ra Tòa án quốc tế về luật biển chứng tỏ vấn đề biển Đông không còn là vấn đề của riêng Trung Quốc và các bên trực tiếp liên quan đến tranh chấp trong đó là Philippin.
Đến nay, có thể thấy rằng, tiềm lực của Trung Quốc vẫn là rất lớn, tham vọng của Trung Quốc cũng không có dấu hiệu dừng lại. Tiềm lực đó không chỉ tồn tại trong vòng vài năm mà đến vài thập kỷ, và điều đó đồng nghĩa tham vọng của Trung Quốc ngày càng tăng, cùng những hành động mới. Tuy tranh chấp vẫn diễn ra giữa Trung Quốc với các bên liên quan nhưng trên thực tế, Trung Quốc hầu như đã đi vào khai thác, sử dụng những vùng tranh chấp đó. Về phía Philippin, dựa vào Mĩ trong giải quyết tranh chấp với Trung Quốc có thể là một biện pháp nhưng chưa chắc đã đạt được kết quả như ý muốn vì bất cứ sự giúp đỡ nào trong quan hệ quốc tễ cũng xuất phát từ lợi ích quốc gia, trong khi nếu làm phép so sánh lợi ích đem lại từ việc giúp đỡ Philippin mà để mất đi đối tác quan trọng là Trung Quốc thì đó không hẳn là sự lựa chọn của Mĩ. Có lẽ, vấn đề tranh chấp biển Đông trong đó có vấn đề tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippin cần được đưa thành vấn đề quốc tế, và trong thời gian gần đây dường như nó đã đang trở thành một vấn đề quốc tế. Mấu chốt giải quyết vấn đề tranh chấp nên được đưa ra cộng đồng quốc tế với những luật định, quy tắc chung. Đó cũng là vấn đề mà các nước “nhỏ yếu” hơn so với Trung Quốc, mà ở đây là ASEAN đang tìm cách đạt được để giải quyết vấn đề tranh chấp với Trung Quốc trên biển. Biện pháp hòa bình, đối thoại song phương và đa phương cần được tiến hành và được coi là biện pháp chủ yếu, song cũng không thể không có những hành động thể hiện sự cứng rắn trong việc bảo vệ lãnh thổ chính đáng của mình. Tuy nhiên, cứng rắn như thế nào cần được cân nhắc kỹ, đặc biệt trong việc sử dụng sức mạnh quân sự, tránh những cuộc chiến tranh, những cuộc đối đầu trực tiếp xảy ra giữa hai bên và các bên liên quan.
Vai trò của Trung Quốc và Philippin trong vấn đề biển Đông được thể hiện rõ rệt khi đây chính là hai nước liên quan trực tiếp đến những tranh chấp ở biển Đông. Việc vấn đề biển Đông có được giải quyết hay không, và giải quyết như thế nào phụ thuộc vào thái độ của mỗi nước, mỗi bên liên quan. Một câu hỏi được đặt ra là, liệu rằng sự tranh chấp có được đẩy lên bằng một cuộc chiến tranh tổng lực giữa hai bên hay không? Và nếu có thì phần thắng sẽ nghiêng về bên nào? Có lẽ, khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh tổng lực là ít, nhưng rõ ràng trên thực tế cả hai bên đều có những cuộc đụng độ trực tiếp và cả hai đều có những động thái chuẩn bị và sẵn sàng cho chiến tranh. Vấn đề tranh chấp cũng không còn dừng lại là vấn đề riêng của các bên liên quan trong khu vực mà được xem xét như một vấn đề quốc tế khi xuất hiện sự có mặt của các cường quốc, các tổ chức quốc tế. Điều này cho thấy cố gắng của cộng đồng quốc tế trong việc giải quyết những xung đột quốc tế theo hướng hòa bình, nâng cao vai trò của những tổ chức quốc tế trong sự vận động của một trật tự thế giới mới xu thế toàn cầu hóa. Ở đó, nước lớn muốn áp đặt quyền lực của mình lên nước nhỏ không phải là việc dễ dàng vì cần phải xem xét vị thế của các nước nhỏ trong khu vực và trên thế giới đặt trong mối liên hệ với những thế lực, những quốc gia, những tổ chức quốc tế khác.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Kính mong các cụ nghía kỹ chủ đề tiếp theo LUẬT BIỂN NĂM 1982 VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ TRONG
VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP Ở BIỂN ĐÔNG

Với tinh thần chung sức chung lòng, nhà cháu đang cố gắng edit nó để các cụ nghía lúc trà, rượu, thưởng hoa, bình thế sự (Không phải trà dư tửu hậu). Mong các cụ ghi nhận tấm lòng.
Lúc nào xong nhà cháu lại trình ra mời các cụ ạ.
Trân trọng!
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
LUẬT BIỂN NĂM 1982 VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP Ở BIỂN ĐÔNG
Bên cạnh chủ quyền lãnh thổ trên đất liền thì chủ quyền về biển cũng đóng vai trò quan trọng đối với chủ quyền lãnh thổ của một quốc gia. Chủ quyền về biển đang là vấn đề nóng và phức tạp, bởi các cuộc xung đột trong tranh chấp chủ quyền trên biển. Và biển Đông là một điểm nóng trong tranh chấp về biển.
Biển Đông là nơi hội tụ của nhiều mối quan tâm về an ninh trên biển. Dưới góc độ an ninh truyền thống, những xung đột về yêu sách lãnh thổ và vùng biển ngày càng gay gắt khiến cho xung đột vũ trang có thể xảy ra tại khu vực biển Đông. Điều đó cho thấy an ninh của khu vực biển Đông ở mức báo động cao. Tranh chấp về biển là các quốc gia mâu thuẫn với nhau về chủ quyền lãnh thổ trên biển ảnh hưởng đến an ninh hàng hải.
An ninh hàng hải là khái niệm khá mới và có nhiều cách tiếp cận về nội hàm trong tổng thể an ninh chung của quan hệ quốc tế. An ninh hàng hải được giới thiệu nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì trật tự trong việc sử dụng và quản lý biển vì mục tiêu phát triển của con người. Ở những khu vực nóng như Biển Đông, nơi các tranh chấp về chủ quyền và vùng biển còn đan xen và leo thang thì việc duy trì an ninh hàng hải càng là một vấn đề quan trọng, bao trùm cả khía cạnh an ninh truyền thống và phi truyền thống. Ở khía cạnh an ninh truyền thống, hiện trạng căng thẳng và tình hình trang bị vũ khí, hiện đại hóa quân đội và đặc biệt là hải quân cho thấy các bên đã chuẩn bị cho việc sử dụng vũ lực và xung đột vũ trang ở tầm khu vực có thể xảy ra. Ở khía cạnh phi truyền thống, an toàn hàng hải, hàng không, bảo vệ môi trường biển, đa dạng sinh học hay đảm bảo sinh kế cho con người là những lĩnh vực có thể đang đe dọa nghiêm trọng. Không những thế, các nước trong khu vực đều có nền kinh phụ thuộc vào biển. Việc đảm bảo an ninh hàng hải sẽ có yếu tố quyết định đến sự phát triển và thúc đẩy sự hợp tác giữa các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Bài toán về an ninh hàng hải chỉ có thể được giải đáp nếu các mối đe dọa đến an ninh hải được kiềm chế và quản lý. Công ước luật biển của Liên Hợp Quốc 1982 (UNCLOS) có vai trò là công cụ quản lý các mối đe dọa về an ninh hàng hải.
UNCLOS được lựa chọn làm công cụ nghiên cứu do bối cảnh các quốc gia ven biển Đông đều đã là thành viên nghiên của Công ước này, đồng thời, công cụ pháp lý sẽ là lựa chọn phù hợp nhất cho các quốc gia vừa và nhỏ tại Đông Nam Á. Công ước luật biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc là một khuôn khổ pháp lý đa phương và toàn diện nhằm giúp các quốc gia sử dụng và quản lý biển một cách hòa bình, công bằng và bền vững trên cơ sở tôn trọng chủ quyền lẫn nhau, giúp các bên xác định và thu hẹp đối tượng của tranh chấp chủ quyền, thiết lập cơ chế hợp tác về bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học biển và đặc biệt là nghĩa vụ hợp tác giữa các quốc gia trong vùng biển nửa kín. Nhằm áp dụng hiệu quả các quy định của Công ước vào bối cảnh đặc thù của biển Đông, các quốc gia cần cụ thể hóa các quy định của Công ước để xây dựng một bộ luật ứng xử có hiệu lực ràng buộc trong khu vực.
Trên cơ sở đó, bài viết này nghiên cứu về “Luật biển năm 1982 và ảnh hưởng của nó trong việc giải quyết tranh chấp ở biển Đông”.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
I. Tình hình biển Đông
1. 1. Khái quát về Biển Đông
Biển Đông là một biển nửa kín ở khu vực Thái Bình Dương với diện tích hơn 3,5 triệu km2. Có 9 quốc gia ven Biển Đông là Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Thái Lan và Singapore.
Trữ lượng tài nguyên thiên nhiên ở Biển Đông lớn, đặc biệt là dầu, khí và hải sản. Gần đây, nhiều thông tin cho biết Biển Đông có trữ lượng khá lớn về băng cháy.
Biển Đông là tuyến hàng hải nhộn nhịp thứ hai trên thế giới, sau tuyến Địa Trung Hải. Biển Đông nằm trên “con đường tơ lụa trên biển”, nối Đông và Tây, nối Châu Á với Châu Âu, Châu Mỹ, … Mỗi ngày có khoảng 150-200 tàu trọng tài lớn đi qua Biển Đông. Hàng hóa xuất nhập khẩu thiết yếu đối với các nền kinh tế lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hong Kong phụ thuộc rất nhiều vào tuyến đường biển này.
Từ góc độ quân sự, Biển Đông là địa bàn hoạt động của hạm đội hải quân của nhiều nước trong và ngoài khu vực. Tất cả những yếu tố này dẫn đến một hệ quả tất yếu và hiển nhiên là ở Biển Đông có sự đan xen rất chặt chẽ lợi ích của nhiều nước với các mức độ khác nhau. Hòa bình và ổn định ở Biển Đông ảnh hưởng trực tiếp đến hòa bình và ổn định của khu vực và thế giới.
1.2. Bối cảnh xung quanh vụ tranh chấp ở biển Đông
Do có những điều kiện thuận lợi của biển Đông mang lại, các quốc gia đang mâu thuẫn nhau nhằm chứng minh sức mạnh cũng như ảnh hưởng của mình lên các quốc gia khác. Thực tế vấn đề biển Đông tồn tại nhiều mâu thuẫn. Những mâu thuẫn này đồng thời thể hiện cục diện chiến lược quy định quan hệ quốc tế ở biển Đông.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa Trung Quốc và các nước bị ảnh hưởng bởi “đường lưỡi bò” hay “đường 9 đoạn” mà Trung Quốc tự vẽ ra như : Việt Nam, Philippin, Malayxia, Brunei. Trung Quốc với tốc độ phát triển kinh tế nhanh và “chủ nghĩa bành trướng” muốn biến biển Đông thành “ao nhà của mình”. Nhưng những yêu sách về “đường lưỡi bò” đã vi phạm đến chủ quyền lãnh thổ vùng biển của một số quốc gia. Với những hành động leo thang của mình, Trung Quốc đang đẩy vấn đề tranh chấp ở biển Đông thành vấn đề nóng cần cần quan tâm và giải quyết. Đây là mâu thuẫn chủ yếu về tranh chấp ở biển Đông.
Bên cạnh đó, mâu thuẫn giữa các nước các nước thành viên Asean ven biển Đông như: Việt Nam, Inđônêxia, Malayxia, Brunei, Singapo, Philippin.
Ngoài ra do vai trò, vị trí của biển Đông, một số quốc gia không ven biển biển Đông cũng đưa ra chính sách của mình về biển Đông như: Mỹ, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ…. Những quốc gia cũng góp phần ảnh hưởng đến tranh chấp ở biển Đông.
Mặt khác, do xu hướng toàn cầu hóa, các quốc gia cần tăng cường hợp tác lẫn nhau, chính vì thế điều này đã góp phần là cho vấn đề tranh chấp về biển Đông không căng thẳng để mà dẫn đến chiến tranh.
Ở Biển Đông có hai loại tranh chấp, gồm tranh chấp về các vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn và tranh chấp về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
* Do chiều rộng của một số khu vực ở Biển Đông (như Vịnh Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan) hẹp hơn 400 hải lý, nên một phần vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia láng giềng chồng lấn lên nhau. Từ đó nảy sinh một số tranh chấp giữa các quốc gia ven Biển Đông về ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Liên quan Việt Nam, ở phía Bắc chúng ta có vùng chồng lấn thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế với Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ và khu vực nhỏ phía ngoài cửa Vịnh, còn ở phía Nam có vùng chồng lấn với Campuchia, Thái Lan, Malaysia trong Vịnh Thái Lan và vùng chồng lấn với Indonesia ở nam Biển Đông.
Các nước ven Biển Đông khác cũng có một số vùng chồng lấn thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế với nhau, như giữa Malaysia và Thái Lan, giữa Thái Lan và Campuchia, giữa Indonesia và Malaysia. Các khu vực chồng lấn này đã và đang từng bước được Việt Nam và các nước hữu quan giải quyết thỏa đáng theo các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982.
* Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa gồm nhiều đảo đá san hô rất nhỏ ở giữa Biển Đông. Hiện nay, hai quần đảo đang là tâm điểm tranh chấp phức tạp giữa một số nước ven Biển Đông. Tranh chấp về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa liên quan Việt Nam và Trung Quốc, còn tranh chấp về chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa liên quan 5 nước, 6 bên là Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei (Brunei không yêu sách về chủ quyền các đảo) và Đài Loan (Trung Quốc).
1.3. Các mối đe dọa đến an ninh hàng hải tại biển Đông
Biển Đông là biển nửa kín nơi tập trung nhiều nguồn tài nguyên phong phú và điểm kết nối của nhiều tuyến đường hàng hải quan trọng. An ninh ở biển Đông có tầm quan trọng không chỉ với các quốc gia ven biển mà còn có ý nghĩa với các quốc gia khác. Hiện nay, cho dù theo cách hiểu rộng hay hẹp, an ninh hàng hải tại biển Đông đang bị đe dọa.
Thứ nhất là khả năng sử dụng vũ lực và xảy ra xung đột vũ trang tại khu vực biển Đông. Trong hai năm trở đây, các quốc gia trong khu vực biển Đông đã không ngừng nâng cao và hiện đại hóa hải quân và lực lượng quân sự của mình. Trung Quốc dẫn đầu với ngân sách quân sự khổng lồ và tăng đều đặn hàng năm. Đến năm 2010, ngân sách quốc phòng của Trung Quốc đã lên đến 78 tỉ đô la Mỹ. Đặc biệt, Trung Quốc đã tập trung phát triển lực lượng hải quân, xây dựng căn cứ tàu ngầm hạt nhân tại Sanya (đảo Hải Nam), trang bị tàu sân bay cùng các vũ khí hiện đại khác. Sức mạnh quân sự của Trung Quốc đã gây lo ngại cho các quốc gia trong khu vực. Việt Nam có kế hoạch trang bị thêm 6 chiếc tàu ngầm hạng kilo từ Nga. Singapore, Indonesia và Malaysia cũng trang bị thêm 2 chiếc tàu ngầm cho mỗi nước. Philippines gần đây cũng tăng cường hợp tác quân sự với Mỹ và nhập khẩu thêm các trang thiết bị quân sự mới. Tất cả những diễn biến này cho thấy các quốc gia dường như đang chuẩn bị sẵn sàng cho diễn biến xấu nhất của việc sử dụng vũ lực và xung đột vũ trang tại biển Đông. Giả thiết này càng được khẳng định khi Trung Quốc thực hiện các hành động quấy rối hoạt động nghiên cứu khoa học, thăm dò tài nguyên của các quốc gia ven biển và phát đi những thông điệp về khả năng các quốc gia ven biển Đông sẽ phải “chuẩn bị nghe tiếng súng thần công nếu còn tiếp tục theo đuổi chiến lược chống lại Trung Quốc”.
Thứ hai, quyền tự do hàng hải của tàu thuyền và quyền tự do hàng hải của các phương tiện bay có thể bị ảnh hưởng. Sự kiện EP3 và USN Impeccable cho thấy trong những điều kiện chưa xung đột vũ trang tại khu vực biển Đông thì cách hiểu và vận dụng khác nhau, các quy định pháp lý đã có thể tạo ra tác động tiêu cực cản trở tàu thuyền và phương tiện bay thể hiện quyền lợi qua lại được pháp luật quốc tế quy định. Hơn nữa trong những điều kiện nếu xung đột vũ trang xảy ra thì lưu lượng tàu thuyền và các phương tiện bay qua lại khu vực biển Đông sẽ chịu ảnh hưởng nghiêm trọng, bởi hàng năm hơn 41000 tàu thuyền, chiếm nửa số lượng tàu thuyền vận tải trên thế giới và khoảng 80% dầu thô nhập khẩu do Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan được vận chuyển qua biển Đông.
Thứ ba là sự suy thoái môi trường biển tại biển Đông, một môi trường biển có sự đa dạng sinh học cao nhất trong số các biển nhiệt đới. Số liêu thống kê của Liên Hợp Quốc cho thấy 80% các loài san hô tại biển Đông đang bị đe dọa, chủ yếu từ các hoạt động của con người. Hai phần ba số lượng các loài cá trong khu vực đang bị khai thác quá mức và khai thác với hình thức tận diệt.
Cuối cùng môi trường biển suy thoái, khả năng xảy ra xung đột vũ trang còn ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh con người. Theo thống kê chưa đầy đủ của trung tâm phát triển nghề các ở Đông Nam Á thì số lượng ngư dân trong khu vực lên đến hơn 2 triệu người. Số lượng cá cần thiết phản ánh nhu cầu con người và phát triển kinh tế ngày càng tăng lên. Ngành khai thác và chế biến thủy sản đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của các nước ven biển, trong đó Inđônêxia, Việt Nam, Thái Lan, Philippin là một trong 10 quốc gia đứng đầu về sản lượng cá xuất khẩu trên thế giới. Lượng cá trong khu vực biển Đông cung câp khoảng 25% số lượng prôtêin cần thiết cho 500 triệu người. Trong khi đó với môi trường san hô và thực vật biển bị hủy hoại, môi trường cho cá bị đe dọa, kích thước cá nhỏ dần và số lượng các cũng giảm dần, nhiều loài thậm chí tuyệt chủng. Hơn nữa thực trạng đánh bắt cá trong khu vực chưa được quản lý tốt. Hiện tượng đánh bắt cá bằng những phương tiện tận diệt như sử dụng chất đôc, chất gây ô nhiễm môi trường, còn xảy ra hiện tượng đánh bắt cá trái phép chưa được kiểm soát. Các quốc gia còn tranh chấp về khu vực và quyền đánh cá dẫn đến việc bắt giữ, xét xử và phạt tiền ngư dân và tàu thuyền của nhau. Tất cả những yếu tố này cho thấy mối đe dọa đối với an ninh con người, cụ thể là đối với sinh kế của ngư dân các nước ven biển, với nguồn lương thực từ thủy sản tại biển Đông.
Các tình trạng nói trên đa phần xuất phát từ hoạt động trưc tiếp và gián tiếp của các quốc gia ven biển. Hành vi chạy đua vũ trang, tăng cường các biện pháp hành pháp để kiểm soát các vùng biển chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến nguy cơ về xung đột vũ trang, đe dọa đến an toàn hàng hải, hàng hóa, đe dọa đến sinh kế của ngư dân. Đồng thời, gián tiếp thông qua việc thiếu kiểm soát và hợp tác về các vấn đề xuyên biên giới như: các nguồn gây ô nhiễm, bảo tồn các loài sinh vật biển đã dẫn đến sự đe dọa đối với môi trường biển và suy giảm tài nguyên sinh vật biển. Các hành vi này xảy ra bởi tình trạng tranh chấp chủ quyền và vùng biển đã ngăn cản các bên thực hiện các biện pháp hợp tác do lo ngại vấn đề công nhận chủ quyền của nhau. Như vậy suy cho cùng nguyên nhân sâu xa dẫn đến các mối đe dọa đến an ninh hàng hải tại biển Đông là nguồn gốc từ các yêu sách chủ quyền, từ yêu sách chủ quyền đến yêu sách vùng biển và được phản ánh trực tiếp thông qua các hoạt động nhằm củng cố các yêu sách đó.Như vậy, mâu thuẫn ở biển Đông xuất phát tham vọng về lợi từ biển Đông mang lại. Những mâu thuẫn trên đang ảnh hưởng đến an ninh hàng hải tại khu vực biển Đông. Do đặc trưng của không gian biển, an ninh hàng hải ảnh là một khía cạnh của trật tự trên biển. Theo đó, biển là một nguồn tài nguyên, nhưng cũng là môi trường cho giao thông, thông tin liên lạc và thương mại. Trật tự trên biển cần được duy trì nhằm phục vụ cho sự phát triển của con người và trật tự này có thể bị đe dọa từ các nguyên nhân như chiến tranh, cướp biển, khủng bố, phổ biến vũ khí, buôn lậu ma túy, và các hành vi bất hợp pháp khác. Việc kiểm soát các mối đe dọa với an toàn hàng hải sẽ giúp đảm bảo an ninh trên đất liền, đảm bảo sự ổn định toàn cầu và việc duy trì tự do hàng hải sẽ mang lại lợi ích chung cho tất cả các quốc gia.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
II. Luật biển năm 1982 và vai trò của nó đối với an ninh hàng hải Biển Đông
2. 1. Luật biển năm 1982

Kể từ khi được thành lập cho đến nay, LHQ đã dành sự ưu tiên đặc biệt cho hoạt động pháp điển hóa và phát triển tiến bộ các quy phạm và nguyên tắc của ngành luật biển quốc tế. Bằng chứng là LHQ đã tổ chức 3 hội nghị lớn và quan trọng về luật biển: Hội nghị luật Biển lần thứ I được tổ chức tại Geneva vào năm 1958; hội nghị luật Biển lần thứ II cũng được tổ chức tại Geneva vào năm 1960; hội nghị luật Biển lần thứ III chủ yếu được tổ chức tại New York và Geneva (với hai giai đoạn khác nhau: giai đoạn trù bị từ năm 1967 đến năm 1973 và giai đoạn chính thức từ năm 1973 đến năm 1982). Thành công lớn của Hội nghị luật Biển lần thứ III là đã thông qua Công ước luật Biển năm 1982 của LHQ với 320 điều và 9 phụ lục. Công ước được mở ra cho các quốc gia ký vào ngày 10.12.1982. Tính đến ngày 5.6.2012, công ước có 162 thành viên từ khắp châu Á, châu Phi, châu Âu, châu Mỹ và châu Đại dương. Trong số các nước ven biển Đông đã có 8 nước tham gia Công ước là Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Malaysia, Singapore, Brunei và Thái Lan.
Công ước luật Biển năm 1982 được coi là hiến pháp của thế giới về các vấn đề biển và đại dương bởi vì đã xác định một cách toàn diện quy chế pháp lý của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển cũng như quy chế pháp lý của vùng biển quốc tế và đáy biển quốc tế. Đồng thời công ước cũng quy định thành lập một loạt cơ chế quốc tế quan trọng liên quan đến hoạt động ở biển và đại dương như Tòa án quốc tế về luật Biển, Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy đại dương, Ủy ban Ranh giới thềm lục địa và Hội nghị các quốc gia thành viên công ước. Đặc biệt liên quan đến các tranh chấp có thể nảy sinh giữa các thành viên, Công ước luật Biển năm 1982 đòi hỏi các quốc gia thành viên giải quyết mọi tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng công ước bằng các biện pháp hòa bình theo đúng quy định của Hiến chương LHQ, đồng thời nêu rõ các cơ chế giải quyết tranh chấp mang tính triệt để. Đáng chú ý là công ước được thông qua như là một giải pháp cả gói, cho nên các quốc gia không được phép bảo lưu khi tham gia công ước.
Quy chế pháp lý của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia ven biển theo Công ước luật Biển năm 1982
Theo Công ước luật Biển năm 1982, quốc gia ven biển có các vùng biển là nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Chiều rộng của các vùng biển này được tính từ đường cơ sở dùng để tính lãnh hải của quốc gia ven biển.
Nội thủy là toàn bộ vùng biển tiếp giáp với bờ biển và nằm phía trong đường cơ sở của quốc gia ven biển. Trong vùng nội thủy của mình, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối như đối với lãnh thổ đất liền của mình.
Lãnh hải là vùng biển nằm phía ngoài đường cơ sở của quốc gia ven biển. Công ước luật Biển năm 1982 đã xác định chiều rộng của lãnh hải là 12 hải lý. Các quốc gia ven biển có chủ quyền đối với lãnh hải của mình cũng như đối với vùng trời ở trên lãnh hải, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải.
Tuy nhiên, tính chủ quyền ở đây không được tuyệt đối như trong nội thủy bởi vì trong lãnh hải của quốc gia ven biển tàu thuyền của các quốc gia khác được quyền đi qua không gây hại (tàu bay bay trên vùng trời vẫn phải xin phép). Công ước cũng đề ra những quy định rất cụ thể đối với việc đi qua không gây hại như không được đe dọa hoặc dùng vũ lực chống lại chủ quyền hoặc độc lập chính trị của quốc gia ven biển, hoặc dùng mọi cách khác trái với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế đã được nêu trong Hiến chương LHQ; hoặc tuyên truyền, thu thập thông tin gây hại cho quốc phòng, an ninh của quốc gia ven biển…
Quốc gia ven biển có quyền ban hành các quy định để kiểm soát và giám sát tàu thuyền nước ngoài thực hiện việc đi qua trong lãnh hải của mình trong một số vấn đề (an toàn hàng hải, điều phối giao thông đường biển; bảo vệ các thiết bị, công trình, hệ thống đảm bảo hàng hải; bảo vệ tuyến dây cáp và ống dẫn ở biển; bảo tồn tài nguyên sinh vật biển; ngăn ngừa vi phạm pháp luật của quốc gia ven biển liên quan đến đánh bắt hải sản; bảo vệ môi trường biển; nghiên cứu khoa học biển; và ngăn ngừa các vi phạm về hải quan, thuế khóa, xuất, nhập cảnh, y tế) và quy định hành lang để tàu thuyền đi qua.
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển đặc thù nằm ở trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển. Vùng này cũng có chiều rộng 12 hải lý kể từ ranh giới ngoài của lãnh hải. Có thể nói, vùng này như là một vùng đệm mà ở đó, các quốc gia ven biển có quyền thực hiện sự kiểm soát cần thiết nhằm mục đich ngăn ngừa và trừng trị các vi phạm xảy ra trong lãnh hải của quốc gia đó. Ngoài khía cạnh này ra, quy chế của vùng này hoàn toàn như phần còn lại của vùng đặc quyền kinh tế.
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển nằm phía ngoài lãnh hải và có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở (vì lãnh hải 12 hải lý, nên thực chất vùng đặc quyền kinh tế có 188 hải lý). Với việc ra đời của vùng đặc quyền kinh tế, vùng biển của quốc gia ven biển được mở rộng và vùng biển quốc tế bị thu hẹp đáng kể.
Khác với nội thủy và lãnh hải, quốc gia ven biển không có chủ quyền mà chỉ có quyền chủ quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế của mình. Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật ở đó cũng như đối với các hoạt động khác như sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió. Hiện nay, tài nguyên thiên nhiên chính trong vùng đặc quyền kinh tế mà các quốc gia ven biển đang quan tâm và đẩy mạnh thăm dò, khai thác là tôm, cá. Đối với số lượng tôm, cá mà quốc gia ven biển không đánh bắt hết thì có thể cho phép các quốc gia khác đánh bắt (nhưng họ phải trả lệ phí và tuân thủ các quy định của quốc gia ven biển). Quốc gia ven biển có quyền tài phán đối với việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị, công trình; nghiên cứu khoa học biển; bảo vệ và giữ gìn môi trường biển.
Bên cạnh đó, Công ước luật Biển năm 1982 cũng quy định rõ ở trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển, các quốc gia khác có một số quyền như quyền tự do hàng hải và quyền tự do hàng không ở vùng trời trên vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển.
Thềm lục địa là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển với chiều rộng tối thiểu là 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải. Theo công ước, quốc gia ven biển có thể mở rộng thềm lục địa của mình đến tối đa 350 hải lý kể từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý kể từ đường đẳng sâu 2.500 m (đường nối liền các điểm có độ sâu 2.500 m). Điều kiện để có thể mở rộng thềm lục địa quá 200 hải lý là quốc gia ven biển phải trình Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của LHQ báo cáo quốc gia kèm đầy đủ bằng chứng khoa học về địa chất và địa mạo của vùng đó. Thực hiện quyền này, các quốc gia ven biển đã trình lên LHQ 60 báo cáo quốc gia khác nhau, trong đó có 5 báo cáo chung - do 2 hoặc 3, 4 nước cùng làm báo cáo đối với một khu vực cụ thể. Ngày 6/5/2009, Đại diện thường trực nước ta tại LHQ cùng với Đại diện thường trực Malaysia trình LHQ báo cáo chung của Việt Nam và Malaysia về xác định ranh giới thềm lục địa ngoài 200 hải lý ở nam biển Đông. Tiếp đó, ngày 7/5/2009, Đại diện thường trực nước ta tại LHQ đã trình tiếp báo cáo riêng của Việt Nam về xác định thềm lục địa ngoài 200 hải lý ở khu vực phía Bắc.
Công ước luật Biển năm 1982 quy định trong thềm lục địa của mình, quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với việc thăm dò, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên ở đó. Hiện nay, các nước ven biển tập trung thăm dò, khai thác nguồn lợi dầu khí để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế. Trong tương lai, ngoài dầu và khí, các nước sẽ thăm dò và khai thác các tài nguyên khác như quặng sắt, đồng, chì, thiếc… Đặc biệt, khoản 2, điều 77 của công ước nhấn mạnh quyền chủ quyền đối với thềm lục địa mang tính đặc quyền ở chỗ nếu quốc gia ven biển không thăm dò, khai thác thì cũng không ai có quyền khai thác tại đây, nếu không được sự đồng ý của quốc gia ven biển.
Như vậy, các quy định của Công ước luật Biển năm 1982 về phạm vi cũng như quy chế pháp lý các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia ven biển rất rõ ràng và minh bạch. Phù hợp với quy định của Công ước, các quốc gia ven biển có các quyền hợp pháp và chính đáng đối với mỗi vùng biển của mình. Khi thực hiện các quyền đó của mình, mỗi quốc gia ven biển có nghĩa vụ tôn trọng các quyền tương tự của các quốc gia ven biển khác. Đó là yêu cầu khách quan của trật tự pháp lý trên biển mà cộng đồng quốc tế đã cùng nhau xây dựng nên. Các quyền và nghĩa vụ theo các cam kết quốc tế luôn luôn phải song hành.
 

vnthanh

Xe tải
Biển số
OF-344282
Ngày cấp bằng
26/11/14
Số km
291
Động cơ
274,788 Mã lực
Quy chế pháp lý của vùng biển quốc tế và đáy biển quốc tế theo Công ước luật Biển năm 1982
Vùng biển quốc tế: Theo Công ước luật Biển năm 1982, vùng biển quốc tế là vùng biển nằm ngoài vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của các quốc gia ven biển. Ở vùng biển quốc tế, mọi quốc gia đều có quyền tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do đặt dây cáp và ống ngầm, tự do đánh bắt cá và tự do nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, khi thực hiện các quyền tự do này, các quốc gia phải tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác cũng như phải tuân thủ các quy định liên quan của Công ước luật Biển năm 1982 như bảo vệ môi trường biển, bảo tồn tài nguyên sinh vật biển, an toàn hàng hải, hợp tác trấn áp cướp biển... Công ước quy định vùng biển quốc tế được sử dụng vì mục đích hòa bình và không nước nào được phép đòi một khu vực nào đó của vùng biển quốc tế thuộc chủ quyền của mình.
Đáy biển quốc tế (hay còn gọi là đáy đại dương) là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài thềm lục địa của quốc gia ven biển. Công ước luật Biển năm 1982 quy định đáy biển quốc tế là di sản chung của nhân loại và không một quốc gia nào có quyền đòi hỏi chủ quyền hay các quyền chủ quyền ở đáy biển quốc tế, kể cả tài nguyên ở đó. Đây cũng là những quy định mới trong luật biển quốc tế hiện đại. Công ước luật Biển năm 1982 quy định: khác với vùng biển quốc tế, ở đáy biển quốc tế các quốc gia không có quyền tự do khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Để điều chỉnh mọi hoạt động liên quan đến đáy biển quốc tế, Công ước luật Biển năm 1982 đã quy định thành lập một tổ chức quốc tế mới là Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương.
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top