Nhà cháu vẫn học suốtThấy có chữ Nhất với chữ Thập, bất giác nhà cháu lại nhớ đến truyện tiếu lâm " Thầy đồ liếm mật".
Nhà cháu vẫn học suốtThấy có chữ Nhất với chữ Thập, bất giác nhà cháu lại nhớ đến truyện tiếu lâm " Thầy đồ liếm mật".
Vì đọc tiếng "bồi" nên thằng nghe bên kia sông Như Nguyệt ko hiểu.Cụ biết bài đó được đọc ở đâu không, và đọc cho ai nghe không?
Có vẻ cụ nói bừa!Vì đọc tiếng "bồi" nên thằng nghe bên kia sông Như Nguyệt ko hiểu.
Còn mục đích đọc cho quân lính ta nghe thì cũng ko đạt nốt, vì có hiểu qué gì tiếng bồi đó đâu.
Cái này không phải nói bừa đâu và cũng được bàn đến ở một số thớt. Đúng là ta chỉ có chữ Hán và chỉ viết được từ Hán Việt cho nên gần như tất cả các hoạt động của đời sống xã hội, từ văn học cho đến khoa học kỹ thuật, không phát triển được.Có vẻ cụ nói bừa!
Tuy nhiên nội dung này không đúng chủ đề, nên xin phép không bàn thêm!
Em đang nói với cụ ấy riêng về bản Nam quốc sơn hà với các hoàn cảnh và đối tượng của nó.Cái này không phải nói bừa đâu và cũng được bàn đến ở một số thớt. Đúng là ta chỉ có chữ Hán và chỉ viết được từ Hán Việt cho nên gần như tất cả các hoạt động của đời sống xã hội, từ văn học cho đến khoa học kỹ thuật, không phát triển được.
Em ví dụ một câu đơn giản:
“Lấy hai mảnh gỗ xoan dài 03 tấc ghép lại với nhau rồi dùng đinh đóng lại”. Muốn ghi ra giấy bằng chữ Hán câu này thì phải dịch ra tiếng Hán (tức là ra tiếng nước ngoài) mới ghi được, mà các cụ nhà ta hàng nghìn năm chỉ học sách từ thời nhà Hán – Đường (có thêm 20 năm nhà Minh đô hộ chắc thêm được một ít sách Minh Nho, chủ yếu về triết học và sử học, cùng lắm là y học và toán pháp chứ chắc là không có sách về các khoa học khác, ví dụ như khoa học về lịch sử hình thành tự nhiên (có lẽ cũng là tiền thân thuyết tiến hóa của Darwin, đã có ở Trung Quốc từ thời Bắc Tống, do nhà bác học Thẩm Quát phát triển).
Một câu đơn giản đã khó như vậy, nói gì đến lĩnh vực khoa học sâu hơn như luyện gang thép hay cơ khí.
Chữ Nôm thì quá phức tạp nên không phổ biến được. Cụ Nguyễn Du ngoài là thiên tài về mặt thơ ca cũng còn là thiên tài về ngôn ngữ, vì nhớ được từng đó mặt chữ Nôm không phải đơn giản.
Cũng đóng góp thêm 02 câu cho cháu Jochi (chiết tự thời chống Pháp)
Rút ruột vua, tam dân bình đẳng (bỏ nét sổ trong chữ Vương)
Chém đầu Tây, tứ đẳng giai huynh (bỏ nét đầu của chữ Tây thành chữ Tứ)
Tôi xin diễn giải theo cách hậu hiện đại, phù hợp hơn với tình trạng sau 2000:(13) Bài thơ Chiết tự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cảm ơn bác comiki đã đóng góp bài này ạ.
Bài thơ Chiết tự (折字) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cháu xin tô đỏ những chữ được chiết tự để thấy cái hay và đẹp của bài thơ.
折字 (Chiết tự)
囚人出去或為國 (Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc)
患過頭時始見忠 (Hoạn quá đầu thì thủy kiến trung)
人有憂愁優點大 (Nhân hữu ưu sầu ưu điểm đại)
籠開竹閂出真龍 (Lung khai trúc sản xuất chân long)
囚人出去或為國 : chữ tù (囚) bỏ chữ nhân (人) bên trong, thay vào đó là chữ hoặc (或) để thành chữ quốc (國): người tù ra khỏi ngục dựng nên đất nước.
患過頭時始見忠 : chữ hoạn (患) bớt phần trên đi thành chữ trung (忠): qua cơn hoạn nạn mới rõ lòng trung.
人有憂愁優點大 : chữ nhân (人) ghép với chữ ưu sầu (憂) thành ưu điểm (優) : người biết lo âu (là) ưu điểm lớn.
籠開竹閂出真龍 : chữ lung (籠) bỏ đi bộ trúc (竹) thành chữ long (龍) : nhà lao mở then cửa trúc, chân long sẽ bay ra.
Người tù ra khỏi ngục dựng nên đất nước
Qua cơn hoạn nạn mới rõ lòng trung
Người biết lo âu, ưu điểm lớn
Nhà lao mở then cửa trúc, chân long sẽ bay ra.
Rút ruột vua (王) tức là bỏ đi nét sổ, thành chữ tam (三).Cũng đóng góp thêm 02 câu cho cháu Jochi (chiết tự thời chống Pháp)
Rút ruột vua, tam dân bình đẳng (bỏ nét sổ trong chữ Vương)
Chém đầu Tây, tứ đẳng giai huynh (bỏ nét đầu của chữ Tây thành chữ Tứ)
Đúng rồi đấy cháu.Rút ruột vua (王) tức là bỏ đi nét sổ, thành chữ tam (三).
Chém đầu Tây (西), tức là bỏ đi phần đầu, thành chữ tứ (四).
Bác kiểm tra xem cháu hiểu có đúng không ạ, và cháu ghi vào #1.
Câu ví dụ của cụ thì nếu dùng kiểu “lục bản mộc, nhị lạng đinh” thì ghi dễ không “ nhị xoan bản, tam thốn trường, thiết đinh đột liên”. Thợ mộc xưa đã biết viết chữ Hán lên sào mực thì mấy động từ cơ bản trong nghề, thêm mấy con số với tên các loại gỗ (loanh quanh rữ thiết với tre trúc) thì không quá khó.Cái này không phải nói bừa đâu và cũng được bàn đến ở một số thớt. Đúng là ta chỉ có chữ Hán và chỉ viết được từ Hán Việt cho nên gần như tất cả các hoạt động của đời sống xã hội, từ văn học cho đến khoa học kỹ thuật, không phát triển được.
Em ví dụ một câu đơn giản:
“Lấy hai mảnh gỗ xoan dài 03 tấc ghép lại với nhau rồi dùng đinh đóng lại”. Muốn ghi ra giấy bằng chữ Hán câu này thì phải dịch ra tiếng Hán (tức là ra tiếng nước ngoài) mới ghi được, mà các cụ nhà ta hàng nghìn năm chỉ học sách từ thời nhà Hán – Đường (có thêm 20 năm nhà Minh đô hộ chắc thêm được một ít sách Minh Nho, và chủ yếu về triết học và sử học, cùng lắm là y học và toán pháp chứ chắc là không có sách về các khoa học khác, ví dụ như khoa học về lịch sử hình thành tự nhiên (có lẽ cũng là tiền thân thuyết tiến hóa của Darwin, đã có ở Trung Quốc từ thời Bắc Tống, do nhà bác học Thẩm Quát phát triển).
Một câu đơn giản đã khó như vậy, nói gì đến lĩnh vực khoa học sâu hơn như luyện gang thép, làm đồ sứ hay cơ khí. Không ghi lại được thì bao nhiêu kinh nghiệm đời trước đến đời sau chỉ truyền miệng thì làm sao phát triển được.
Chữ Nôm thì quá phức tạp nên không phổ biến được. Cụ Nguyễn Du ngoài là thiên tài về mặt thơ ca cũng còn là thiên tài về ngôn ngữ, vì nhớ được từng đó mặt chữ Nôm không phải đơn giản.
Cũng đóng góp thêm 02 câu cho cháu Jochi (chiết tự thời chống Pháp)
Rút ruột vua, tam dân bình đẳng (bỏ nét sổ trong chữ Vương)
Chém đầu Tây, tứ đẳng giai huynh (bỏ nét đầu của chữ Tây thành chữ Tứ)
Với người Trung Quốc thì chữ Hán là chữ để ghi tiếng của họ, còn với người Việt là chữ để ghi tiếng nước ngoài. Tất nhiên là thợ Trung Quốc có sách, và sách rất chi tiết trong rất nhiều lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Nhưng các sách đó không truyền qua Việt Nam, và nếu giả dụ có truyền qua thì các cụ đồ cũng chưa chắc đọc được.Câu ví dụ của cụ thì nếu dùng kiểu “lục bản mộc, nhị lạng đinh” thì ghi dễ không “ nhị xoan bản, tam thốn trường, thiết đinh đột liên”. Thợ mộc xưa đã biết viết chữ Hán lên sào mực thì mấy động từ cơ bản trong nghề, thêm mấy con số với tên các loại gỗ (loanh quanh rữ thiết với tre trúc) thì không quá khó.
Khó vì vua quan xứ ta không cho dân đen học chữ thôi, các phường thợ bên Tàu đều có kinh sách cả, kể cả nghề đồ tể. Em xem truyện “đàn hương hình” em biết.
Dịch phải như này cụ ạVới người Trung Quốc thì chữ Hán là chữ để ghi tiếng của họ, còn với người Việt là chữ để ghi tiếng nước ngoài. Tất nhiên là thợ Trung Quốc có sách, và sách rất chi tiết trong rất nhiều lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Nhưng các sách đó không truyền qua Việt Nam, và nếu giả dụ có truyền qua thì các cụ đồ cũng chưa chắc đọc được.
Viết vài câu đơn giản thì dễ, nhưng câu phức tạp hơn và cần có tính chính xác, lắt léo một chút thì không ghi được cụ ạ.
Hai câu truyện Kiều viết bằng chữ Nôm
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Nếu viết bằng chữ Hán thì sẽ thành (em dịch linh tinh với vốn tiếng Hán rất có hạn):
Bách niên nhân gian trung
Tài tự khắc mệnh tự
Thì còn ra gì nữa.
Thanh (清) = thập (十) + nhị (二) + nguyệt (月)Bạn có thể chiết tự dùm mình chữ Thanh Thúy ra chữ Thập Nhị Nguyệt Vũ Tốt được không?
À xin cãm ơn bạn.Thanh (清) = thập (十) + nhị (二) + nguyệt (月)
Thúy (翠) = vũ (羽) + tốt (卒)
Nhờ có bác cháu mới nhớ ra cái việc Thập Nhị Nguyệt Vũ Tốt của cụ Phùng Khắc Khoan.À xin cãm ơn bạn.
Tôi chỉ chiết tự chữ Thanh ra thập nhị Nguyệt không chiết tự chữ Thúy được
Tôi nghĩ đó chỉ là giai thoại.Nhờ có bác cháu mới nhớ ra cái việc Thập Nhị Nguyệt Vũ Tốt của cụ Phùng Khắc Khoan.