[Funland] So sánh các loại Frigate - Warship

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,331
Động cơ
390,417 Mã lực
Khám phá “Chiến hạm Tự Do” LSC-1 của Mỹ đến biển Đông

Thứ tư 06/03/2013 07:04
ANTĐ - Thông báo tại Cổng thông tin của Bộ tư lệnh hải quân Mỹ cho biết, ngày 01/03 tàu tác chiến ven bờ LSC-1 “Freedom” đã lên đường tới châu Á – Thái Bình Dương nhận nhiệm vụ thường trực chiến đấu.

Được biết, LSC-1 sẽ tới thường trực sẵn sàng chiến đấu tại Nam Á và Singapore trong vòng 8 tháng.
LSC-1 là chiếc đầu tiên của lớp tàu tác chiến ven bờ “Freedom”
LSC-1 (Littoral Combat Ship) là tàu tác chiến ven bờ đầu tiên của hải quân Mỹ và cũng là chiếc đầu tiên trong số 6 tàu thuộc lớp “Tự Do” (Freedom). Ngoài 6 tàu lớp này, hải quân Mỹ còn 6 tàu thuộc lớp “Độc Lập” (Independence). Ngày 01/03 vừa qua, LSC-1 đã rời cảng mẹ là San Diego, lên đường đi nhận nhiệm vụ mới.
Hệ thống động lực phản thủy lực giúp tàu có tốc độ rất cao
Trong thời gian triển khai tại châu Á – Thái Bình Dương, LSC-1 sẽ hợp tác với hải quân các nước đồng minh và hải quân các nước trong khu vực để đảm bảo an ninh hàng hải. Sau khi hoàn tất chuyến viếng thăm 2 căn cứ quân sự viễn dương của Mỹ là Hawaii và Guam, LSC-1 sẽ tham dự triển lãm quốc phòng biển quốc tế Singapore và tham gia diễn tập “Huấn luyện và chuẩn bị chiến đấu liên hợp trên biển” Nam Á 2013.
Khả năng chuyển hướng trong luồng hẹp khi đang tăng tốc cực nhanh
Cũng trong thời gian triển khai tại đây, tàu tác chiến ven bờ LSC-1 “Freedom” sẽ thể hiện các tính năng tác chiến hoàn hảo của nó. Hải quân Mỹ cũng nhân cơ hội này để đánh giá lại kế hoạch bảo dưỡng và luân chuyển tàu thuyền, nhân viên của mình.
Tàu tác chiến ven bờ LSC-1 lớp “Freedom” là sản phẩm của hãng Lockheed Martin có tính năng tàng hình ưu việt, được thiết kế theo kiểu đóng rời và lắp ghép các Modul nhiệm vụ. Đây là lớp tàu được đánh số lẻ trong các tàu tác chiến ven bờ của Mỹ (bắt đầu từ LSC-1, LSC-3…), các tàu lớp “Independence” được đánh số chẵn (LSC-2, LSC-4…). Nó chủ yếu đảm nhận nhiệm vụ tác chiến tác chiến mặt nước, chống ngầm và chống thủy lôi.
Tàu có 1 sàn đỗ với 1 trực thăng săn ngầm MH-60R/S “Seahawk”
LCS-1 có chiều dài 115,3m, chiều ngang 17,5m, mớn nước 3,9m, lượng giãn nước 3.139 tấn. Tàu có tầm hoạt động 4500 hải lý (8000km), với tốc độ tuần hành 16 hải lý/giờ (28,8km/h) và 4300 hải lý (770km) với vận tốc 18 hải lý/h (32km/h), thời gia tác chiến liên tục 20 ngày.
Tàu có 1 sàn đỗ với 1 trực thăng hải quân MH-60R/S “Seahawk” chuyên đảm nhận công tác cứu hộ và chống tàu ngầm (ASW), 1 UAV trinh sát - tấn công MQ-8B “Fire Scout”. Thủy thủ đoàn 40 người (8 sỹ quan và 32 thủy thủ) cùng 30 nhân viên hàng không phụ trách máy bay trực thăng và UAV trên hạm.
Nhiệm vụ chống ngầm được giao phó hoàn toàn cho MH-60R/S “Seahawk”
LSC-1 được trang bị 2 động cơ Tuabin Rolls Royce MT30 và 2 động cơ Diezen và 4 hệ thống động lực phản thủy Rolls Royce, cùng với 4 máy phát điện tổng công suất 3.200kW. Hệ thống động lực này giúp tàu đạt vận tốc tối đa lên tới 44 hải lý/giờ (81km/h).
Tàu được trang bị hệ thống chiến đấu COMBATSS-21 của hãng Lockheed Martin và hệ thống sonar kiểu mảng kéo AN/SQR-20 dùng trong nhiệm vụ săn ngầm và chống thủy lôi. Do không trang bị ngư lôi nên nhiệm vụ chống ngầm được giao cho trực thăng hải quân MH-60R/S “Sea Hawk”.
Pháo hạm Mk110 Bofors 57mm của BAE Systems
Vũ khí trên tàu gồm 4 tên lửa gây nhiễu SRBOC, 1 pháo hạm Mk110 Bofors 57mm của BAE Systems, tầm bắn 17km, tốc độ bắn 4 phát/giây với cơ số đạn 400 viên; 2 khẩu pháo 2 nòng Bushmaster II Mk44 30mm và 4 khẩu đại liên làm nhiệm vụ đánh chặn máy bay tầm thấp, tên lửa hành trình.
Theo thông tin chính thức từ Website của hãng hãng Lockheed Martin, thiết kế trước đây của LSC-1 có sử dụng “hệ thống tác chiến tương lai” XM501, với 2 loại tên lửa hạm đối đất LAM và MK-31PAM nhưng đã bị hủy bỏ (hệ thống này sau được trang bị trên lớp tàu LSC “Independence”).
UAV trinh sát – tấn công MQ-8B “Fire Scout” có khả năng mang tới 6 loại vũ khí khác nhau
Hiện nay tàu chỉ được trang bị hệ thống MK-49 phóng tên lửa đánh chặn hồi chuyển RIM-116 (RAM) của hãng Raytheon, với 21 quả tên lửa, trong khi hãng Lockheed Martin đang dự định khôi phục hệ thống tác chiến XM501, để trang bị thêm cho tàu khả năng chống hạm và tấn công đối đất cực mạnh. Dự kiến hệ thống vũ khí tấn công này sẽ được tiến hành khi các gói nâng cấp trong tương lai được triển khai.
Hệ thống MK-49 phóng tên lửa đánh chặn hồi chuyển RIM-116 (RAM)
Vũ khí đáng sợ khác của tàu là UAV trinh sát – tấn công MQ-8B “Fire Scout”, được mệnh danh là “Lính trinh sát hỏa lực”, có khả năng mang tới 6 loại vũ khí khác nhau như: tên lửa không đối đất hạng nhẹ dẫn đường bằng laser Hellfire, tên lửa Hydra hay bom siêu nhỏ điều khiển chính xác bằng hệ thống định vị GPS Viper Strike...
Vào năm 2011, đơn giá mỗi chiếc LSC lớp Freedom được tính vào khoảng 670 triệu USD, nếu trang bị thêm “hệ thống tác chiến tương lai” XM501, giá thành của nó có thể lên tới trên 700 triệu USD.
 

Mannschaft

Xe điện
Biển số
OF-17341
Ngày cấp bằng
14/6/08
Số km
3,263
Động cơ
537,254 Mã lực
Nơi ở
Bốn bể là nhà
Nó quay cái luồng phản lực để táh bến đấy j. Hôm trc em xem trên discovery dzồi. Thuyền trưởn là thằng cu gốc việt
 

lamthitvit

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-105805
Ngày cấp bằng
14/7/11
Số km
725
Động cơ
401,930 Mã lực
Trông mấy cái đà trượt nó còn dựng đứng thế kia thì đúng là vừa hạ thủy xong !!
 
Biển số
OF-49
Ngày cấp bằng
23/5/06
Số km
7,400
Động cơ
660,704 Mã lực
Nơi ở
Thừa Thiên Huế
Hê hê! Cái này là ảnh hạ thủy bằng triền ngang chứ canô cao tốc cũng kg dám đánh võng như vậy nói giề đến tàu to. :)) :))
Nó quay cái luồng phản lực để táh bến đấy j. Hôm trc em xem trên discovery dzồi. Thuyền trưởn là thằng cu gốc việt
Em nói là phải có sách.... Mời cụ.

[video=youtube;RFo-P5DDPaE]http://www.youtube.com/watch?v=RFo-P5DDPaE[/video]
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,331
Động cơ
390,417 Mã lực
The guided-missile cruiser USS San Jacinto (CG 56), foreground, and Russian Navy destroyer Admiral Chebanenko steam alongside each other. Mediterranean Sea, Jan. 18, 2008 ( U.S. Navy/Justin Phillips)
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,331
Động cơ
390,417 Mã lực
Nga đưa biệt đội tàu chiến hùng hậu đến sát Syria
Quote:
Hải quân Nga đã bắt tay vào việc thành lập một biệt đội tàu chiến đóng thường trực tại Địa Trung Hải để bảo vệ lợi ích của nước này trong khu vực, Chỉ huy Lực lượng Hải quân Nga –Đô đốc Viktor Chirkov hôm qua (11/3) cho biết


“Bộ trưởng Quốc phòng đã ra lệnh cho chúng tôi thiết lập một biệt đội tàu chiến hoạt động cố định ở biển Địa Trung Hải. Chúng tôi đã bắt tay vào triển khai nhiệm vụ này”, ông Chirkov tiết lộ với giới phóng viên sau một cuộc họp của Bộ Quốc phòng Nga.



Động thái trên được đưa ra đúng thời điểm căng thẳng ở khu vực phía đông Địa Trung Hải đang leo thang nghiêm trọng vì cuộc nội chiến ngày một đẫm máu và ác liệt ở đất nước Syria. Nga trong thời gian qua đã kiên quyết bảo vệ chính quyền của Tổng thống Syria Bashar al-Assad trước sức ép dữ dội của phương Tây đòi ông này từ chức.



Theo Đô đốc Chirkov, vấn đề thiết lập biệt đội tàu chiến đóng thường trú tại Địa Trung Hải đã được thảo luận tại trụ sở chính của Lực lượng Hải quân. Theo đó, đội tàu này sẽ tập trung thực hiện các nhiệm vụ hậu cần và đào tạo nhân lực chỉ huy.



Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Shoigu trước đó cùng ngày cho biết, họ đã quyết định thành lập một đội tàu chiến hoạt động thường xuyên ở Địa Trung Hải. “Tôi tin rằng, chúng tôi có đủ năng lực để thiết lập và duy trì một biệt đội như vậy”, ông Shoigu cho biết đồng thời đưa ra dẫn chứng về cuộc tập trận quy mô lớn thành công gần đây của Hải quân Nga ở Biển Địa Trung Hải và Biển Đen. Cuộc tập trận này có sự tham gia của các tàu chiến đến từ Hạm đội Phía Bắc, Hạm đội Baltic, Hạm đội Biển Đen và Hạm đội Thái Bình Dương cùng với các máy bay ném bom chiến lược và lực lượng lính thủy đánh bộ.



Trước đó, hồi tháng 2, một nguồn tin quân sự cấp cao của Nga tiết lộ, nước này sẽ triển khai một biệt đội tàu hải quân hùng hậu có thể lên tới 10 tàu chiến và tàu hỗ trợ đến Biển Địa Trung Hải.



“Đó có thể là một biệt đội tàu bao gồm các tàu chiến đến từ 3 hạm đội của Nga giống như nhóm tàu đã thực hiện các cuộc tập trận ở phía đông Biển Địa Trung Hải, gần bờ biển Syria, trong thời gian qua”, nguồn tin quân sự cấp cao của Nga cho biết.

Biệt đội tàu chiến Nga có thể hoạt động trên cơ sở luân phiên và sẽ sử dụng các cảng ở Cyprus, Montenegro, Hy Lạp và Syria.

Bộ trưởng Quốc phòng Shoigu từng nói, Nga cần có một đội tàu chiến hiện diện thường trực ở Biển Địa Trung Hải để đảm bảo các lợi ích của đất nước trong khu vực.

Liên Xô duy trì Đội tàu chiến Địa Trung Hải thứ 5 ở khu vực Biển Địa Trung Hải từ năm 1967 đến 1992. Đội tàu này được thành lập nhằm làm đối trọng với Hạm đội Hải quân thứ 6 của Mỹ trơng thời Chiến tranh Lạnh. Khi đó, trong biên chế của Đội tàu chiến Địa Trung Hải của Liên Xô có từ 30 đến 50 tàu chiến và tàu hỗ trợ tuỳ vào từng thời điểm
Nguồn : http://news.go.vn/the-gioi/tin-12083...-sat-syria.htm
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,331
Động cơ
390,417 Mã lực
Tàu 'tia chớp' VN và chiến thuật bầy sói Biển Đông

Hải quân Việt Nam đã được biên chế và đang đóng thêm tàu tên lửa cao tốc Molniya trang bị mạnh, được mệnh danh là 'tia chớp', cực kỳ thích hợp với 'chiến thuật bầy sói' khi tác chiến trên Biển Đông.


Tàu hộ tống tên lửa hạng nhẹ mẫu thiết kế 1241, tên gọi (Molniya) theo phân loại của NATO tàu có tên là tàu hộ tống lớp Tarantul (Tarantul class corvettes) – thiết kế các lớp tàu hộ tống mang tên lửa – khinh hạm tên lửa, các tàu hộ tống hạng nhẹ này được đóng trong các xưởng đóng tàu của Liên bang Xô viết vào những năm 1979–1996 và được biên chế vào Lực lượng hải quân Xô viết.
Hải quân Việt Nam đã biên chế một số tàu tên lửa cao tốc Molniya (tia chớp) và hiện đang đóng thêm hàng loạt chiến hạm loại này theo giấy phép của Nga. Molniya có tốc độ cao, trang bị mạnh, cực kỳ thích hợp với chiến thuật bầy sói kiểu 'hit and run' tấn công nhanh, bất ngờ từ nhiều hướng khiến đối thủ không kịp trở tay.
Chiến thuật này rất hữu dụng với lực lượng hải quân của quốc gia có bờ biển dài, nhiều đảo và cửa sông dễ ẩn nấp, thuận lợi cho việc phục kích ra đòn bất ngờ khiến đối thủ dù mạnh đến đâu cũng phải khiếp sợ...
Đến năm 2011, các tàu hộ tống tên lửa này vẫn tiếp tục phục vụ trong lực lượng hải quân của Liên bang Nga hiện nay. Lớp tàu Molniya có nhiều loại tàu, với những đặc điểm khác biệt là vũ khí trang bị trên boong tàu và loại động cơ trạm nguồn.
Tàu hộ tống tên lửa thiết kế 1241 được biên chế chính thức trong lực lượng hải quân và hạm đội Xô viết, đồng thời được xuất khẩu sang các nước khác và được biên chế trong các hạm đội nước ngoài.
Trong lực lượng hải quân Xô viết, tàu hộ tống tên lửa 1241 được sử dụng trong tất cả các hạm đội (Hạm đội Ban tích, Hạm đội Biển Đen, ngoại trừ hạm đội Biển Bắc trong những năm 1980) và phục vụ trong lực lượng phòng thủ bờ biển của Liên bang Xô viết.

Tàu Molnyia 1241RE.​

Từ những năm 1970 trong biên chế trang bị các nước khối quân sự NATO được đưa vào sử dụng các chiến hạm mang tên lửa hạng nhẹ có trang bị 76mm và tên lửa chống tàu tầm gần, tầm trung ("Exocet", "OTO Melara", sau đó là "Harpoon"), điều kiện tác chiến của các khinh hạm tên lửa type 205, vốn được trang bị pháo hạng nhẹ và tên lửa tầm gần trở nên rất xấu do không có khả năng tác chiến tương đương.
Để tăng cường năng lực tác chiến của các đơn vị tàu tên lửa hạng nhẹ và yểm trợ hỏa lực cho các tàu hạng nhẹ lớp 205 và có thể tấn công tàu của đối phương ngoài tầm hoạt động của các hệ thống radar trinh sát, nhà nước Xô viết đã ra chỉ lệnh nghiên cứu phát triển các tàu hộ tống hạng nhẹ pháo binh mang tên lửa thế hệ mới.
Thiết kế tàu hộ tống tên lửa hạng nhẹ 1241P được bắt đầu vào năm 1969 tại trung tâm nghiên cứu thiết kế tàu biển Almaz dưới sự lãnh đạo của kỹ sư trưởng E.I.Yuknhin. Sau đó được thay thế bởi nhà thiết kế chính V.N. Ustrinov. Người kiểm soát - đại diện của Hải quân là đại úy thuyền trưởng cấp I YU.M.Osipov sau đó là đại úy hải quân cấp II V.I. Litovski.
Theo yêu cầu kỹ chiến thuật cho các tàu hộ tống mang tên lửa của dự án 1241 được sử dụng để tiêu diệt các chiến hạm, tàu vận tải và các loại tàu xuồng đổ bộ, tăng cường năng lực phòng không của các đơn vị binh chủng hợp thành, bảo vệ các cụm tàu chiến, tàu phóng lôi, tàu tên lửa chống lại các phương tiện tấn công đường không tầm thấp, chi viện hỏa lực bảo vệ các lực lượng chống lại các phương tiện tấn công đường biển hạng nhẹ của đối phương.
Tàu hộ tống tên lửa chiến thuật lớp 1241 cần hiệp đồng tác chiến với các tàu tên lửa hạng nhẹ lớp 205 và bảo vệ cho các tàu tên lửa hạng nhẹ chống lại các khinh hạm của đối phương, có trang bị pháo 76 mm. Chính vì vậy tàu hộ tống lớp 1241 cần có tốc độ tương đương, không thua tàu tên lửa lớp 205.
Theo những yêu cầu chiến thuật đã nêu của Hải quân Liên xô, Trung tâm thiết kế tàu chiến đã đưa ra hai mẫu thiết kế đầu tiên với lượng giãn nước khoảng 500 tấn, với hệ thống tên lửa chống tàu bốn ống phóng Moskit.
Điểm trọng tâm của hai phiên bản tàu 1241 được các nhà thiết kế quan tâm là hệ thống radar đa nhiệm có kích thước nhỏ gọn, có công suất lớn, đảm bảo hỗ trợ cho tất cả các loại vũ khí bố trí trên tàu.
Phương án 1 là trang bị hệ thống radar "Gravel-M” đã vượt qua được những thử nghiệm đầu tiên, phương án 2 là hệ thống radar "Monolith” đang trong quá trình thiết kế chế tạo, cuối cùng các nhà thiết kế đã lựa chọn Monolit vì hệ thống có đặc điểm khác hơn so với Gravel-M, có chế độ dẫn đường đạn tấn công tầm xa và các kênh nhận thông tin chỉ thị mục tiêu từ hệ thống "Uspec-U'.
Tàu hộ tống tên lửa sẽ được trang bị hệ thống tên lửa phòng không Osa – M, nhưng sau này, để đảm bảo độ ổn định, lượng giãn nước tiêu chuẩn và và tốc độ 40 hải lý/ giờ, hệ thống tên lửa phòng không không được lắp đặt.
Nhiệm vụ yểm trợ trên không đối với các lực lượng phòng thủ bờ biển, chống lại các phương tiện bay tầm thấp được giao cho không quân Hải quân. Do không đặt nhiệm vụ phòng không cho tàu hộ tống, mẫu thiết kế tàu hộ tống tên lửa chuyển từ tàu mang tên lửa hạng nhẹ sang tàu hộ tống tấn công tên lửa hạng nhẹ.

Tàu hộ tống tên lửa Molniya 1241.1M.​

Vào năm 1973 theo nghị định của Chính phủ Liên bang Xô viết, đặt ra nhiệm vụ chế tạo tàu tên lửa với hệ thống tên lửa chống tàu tốt nhất thế giới " Moskit”, tăng cường năng lực tác chiến của tàu, khả năng phòng thủ và bảo vệ tốt, được trang bị các thiết bị đấu tranh điện tử hiện đại, đồng thời làm điều kiện hoạt động trên tàu tốt hơn và tăng cường khả năng hoạt động độc lập trên biển.
Mẫu thiết kế 1241 đưa vào thực tế hệ thống các tàu hộ tống hạng nhẹ và nhờ có giải pháp thiết kế tổ hợp, tích hợp trên thân tàu các thiết kế của tàu phóng tên lửa, khinh hạm chống ngầm và tàu tuần tiễu vùng bờ biển dành cho lực lượng hải quân Xô viết và xuất khẩu cho các nước bạn bè và các nước thuộc khối XHCN.
Tính toán đến môi trường tác chiến khác nhau, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng khác nhau, các tổ hợp thiết bị (tên lửa chống tàu, hệ thống thiết bị điện tử, hệ thống trạm nguồn, năng lượng) đã dẫn đến hàng loạt các mẫu tàu hộ tống khác nhau của thiết kế 1241 với thân tàu và cùng một nguồn động lực.
Ý tưởng một tàu hộ tống với thân tàu và động lực trạm nguồn cố định, nhưng có nhiều kiểu loại thiết kế trang bị cho nhiều mục đích sử dụng chưa hề được đặt ra khi đặt mục tiêu thiết kế ban đầu.

Tàu hộ tống tên lửa Molniya 1241.8.​

"Dự án 12411 tàu hộ tống tên lửa và dự án 12412 tàu chống ngầm nhận được không chỉ là các loại vũ khí trang thiết bị khác nhau mà khi đưa vào thực hiện với điều kiện mua bản quyền sản xuất, cũng có nhiều khung sườn khác nhau và nguồn động lực khác nhau (có thể từ Nga, Belarusia, Ucraina..)
Có nơi gọi là khinh hạm hạng nhẹ, có nơi gọi là chiến hạm…Nhưng theo thực tế sử dụng chủ yếu với mục đích bảo vệ biên giới và lãnh hải- tên được sử dụng nhiều nhất vẫn là khinh hạm hạng nhẹ chống tàu".
Lịch sử đóng tàu
Những tàu hộ tống tên lửa 2 mẫu thiết kế chủ yếu được giao cho tổ hợp đóng tàu Almaz. Mẫu thiết kế 1241.1-T và 1241-M được đóng hàng loạt cùng một lúc trên 3 xưởng đóng tàu từ năm1979 của Liên bang Xô viết.
Đến cuối năm 1991 đối với Hải quân Xô viết đã đóng được 41 tàu hộ tống mang tên lửa bao gồm: 12 tàu hộ tống lớp 12411-T (4 chiếc do các xưởng Primorye, Khabarovsk và Mid-Neva đóng) 31 tàu hộ tống mang tên lửa lớp 12411 trong đó Khabarovsk đóng 17, Mid-Neva đóng 13 chiếc và 1 chiếc 12417.
Đến cuối năm 1991, trong quá trình đóng tàu hàng loạt đã có thêm 6 tàu hộ tống tên lửa với độ sẵn sàng từ 28% đến 93%, dự kiến sẽ xuất xưởng năm 1996. Một tàu hộ tống mẫu thiết kế 1241Т ngay trong quá trình đóng tàu đã theo mẫu 12417 (pháo 30mm được thay thế bằng hệ thống tên lửa phòng không "Kortik" và radar phát hiện mục tiêu trên không "Positive" để phục vụ cho điều khiển hỏa lực phòng không thân tàu.
Lực lượng biên phòng của Liên bang Xô viết cũng nhận được 12 tàu tuần tiễu tên lửa mẫu 1241.2 có một số những thay đổi về thiết kế kỹ thuật nếu so sánh với mẫu tiêu chuẩn 1241.
Các nhà máy tại Rybinsk và Yaroslavl triển khai đóng các mẫu thiết kế tàu 1241 RE, đây là mẫu tàu phục vụ cho nhiệm vụ xuất khẩu cho các nước trong khối XHCN. Trong thời gian này, đã đóng được 22 tàu hộ tống tên lửa mẫu 1241RE ) 5 chiếc dành cho Cộng hòa dân chủ Đức và Ấn độ, 3 chiếc Rumania, 4 chiếc cho Balan, 2 chiếc cho Bungaria và Iemen, 1 chiếc cho Việt Nam, đồng thời có 3 chiếc mẫu thiết kế 1241 RE được sử dụng trong biên chế của Hải quân Xô viết với nhiệm vụ làm giáo cụ huấn luyện cho các học viên quân sự nước ngoài.
Ngoài ra, Ấn độ đã được nhận bản quyền sản xuất tàu hộ tống tên lửa lớp Monliya cho hai nhà máy đóng tàu ở Bombay và Goa.
Thân tàu và các buồng công tác trên boong
Thân tàu hoàn toàn nhẵn bóng và trơn, được ghép bằng thép tấm đóng tàu biển, có những đường ghép nối nhỏ thắng.
8 vách ngăn không thấm nước chia thân tàu ra làm 9 khoang. Các buồng khoang được làm bằng vật liệu kim loại nhẹ (hợp kim nhôm) ngoại trừ ống xả khí gas. Các hệ thống động lực quan trọng nằm trong 2 khoang liền kề phía đuôi tàu..
Các kích thước tiêu chuẩn của tàu; Chiều dài thân: 56,1m, chiều rộng nhất của tàu là: 10,2m. Mức ngấn nước thân tàu là: 2,5m (2,3m đối với thiết kế 1241RE). Mực ngấn nước đối với chân vịt khi đủ tải trọng là 4,15m. Mức ngấn nước khi sử dụng là 2,65m ( đối với thiết kế 12411). Lượng dãn nước các mẫu thiết kế theo model có khác nhau, nhưng nằm trong giới hạn cho phép của 500 tấn. Chiều cao boong tàu ở khoảng chính giữa thân tàu là 5,31m.
Động cơ và trạm nguồn
Do chậm trễ trong quá trình chế tạo động cơ diesel gasturbin cho hệ thống động lực, các tàu hộ tống tên lửa đầu tiền sử dụng hệ thống động cơ gas-turbin M-15, đây là hệ thống động cơ bao gồm 2 động cơ tuốc bin tăng tốc M-70 công suất 12000 sức ngựa mỗi động cơ, và 2 động cơ tuốc bin hành trình công suất 5000 sức ngựa mỗi động cơ, với 4 bộ phận giảm tốc.
Hệ thống động cơ tuốc bin có những ưu điểm quan trọng, bao gồm cả yếu tố tiết kiệm nhưng với động cơ tuốc bin gặp khó khăn trong điều khiển tàu khi chạy tốc độ thấp với vòng quay nhỏ, đặc biệt khi cập cảng.
Các động cơ chính được nối liền với chân vịt bằng trục quay 3 bậc tự do, tốc độ tối đa của tàu là: 42 hải lý, tốc độ tiết kiệm là 13 hải lý. Tầm hoạt động xa bờ liên tục với tốc độ cao là 760 dặm, tầm hoạt động tiết kiệm là 1400 dặm.
Đông cơ trạm nguồn các tàu hộ tống tên lửa thiết kế 1241M- là động cơ diesel – gas tuốc bin 2 trục khuỷu. Hệ thống động lực bao gồm 2 động cơ tuốc bin tăng áp M-70 có công suất 12000 mã lực và 2 động cơ diesel M-510 có công suất 4000 mã lực (mỗi tổ hợp động cơ diesel có động cơ M-504 với hộp giảm tốc 2 tốc độ và ly hợp thủy lực.
Các động cơ chính hoạt động với một trục chân vịt và chân vịt. Tốc độ cực đại của tàu là 41 hải lý/giờ, tốc độ tiết kiệm là 14 hải lý/giờ. Tầm hoạt động với tốc độ hải trình là 36 hải lý/giờ sẽ là 400 dặm, tốc độ tiết kiệm là 1600 dặm, với tốc độ 12 hải lý/giờ tầm hoạt động là 2400 dặm.
Trên mỗi tàu chiến lắp đặt 2 động cơ trạm nguồn DG-200 công suất 200kWh và một động cơ trạm nguồn diesel DGR-75 công suất 100kWh.
Các bộ phận trang thiết bị chính của tàu.
Hệ thống truyển động và điều khiển lái: Thầu hộ tống tên lửa 1241 được lắp 2 chân vịt trục cứng 3 bậc tự do.
Bộ phận neo buộc tàu, Neo tàu và kéo tàu: Trong thùng sắt phía trước tàu có lắp hệ thống điện- thủy lực để thả xích neo và thu neo, đồng thới có trống quấn dây cáp buộc tàu phía mũi. Trên boong tàu phía sau có động cơ điện và bộ phận cơ khí giảm tốc với bánh răng vô tận để quấn cáp buộc neo tàu ở phía sau, trên boong có tất cả 4 trống quấn dây cáp buộc neo tàu.
Phương tiện cứu hộ: Phương tiện cứu hộ trên các tàu hộ tống tên lửa 1241 có 5 xuồng cứu hộ, 3 trong số đó được đặt trên tầng thứ nhất của boong chính ( phía đằng đuôi tàu, giữa bệ pháo AK-630) và hai chiếc được đặt ở phía mũi của buồng chuyển động.
Khả năng hải hành.
Tính năng kỹ thuật của tàu cho phép các tàu lớp Monliya có thể hoạt động trên biển với vận tốc thấp khi biển động đến cấp 7-8.
Điều kiện làm việc và thủy thủ đoàn
Thủy thủ đoàn của tàu hộ tống 12411T biên chế là 41 người ( trên tàu 12411-M quân số giảm xuống còn 40 người. trong đó có 5 sĩ quan, bao gồm cả thuyền trưởng. Thuyền trưởng được sử dụng buồng riêng hai người, bố trí trên tầng thứ nhất của boong tàu, dưới buồng cơ động phía bên trái mạng tàu.
Các sĩ quan còn lại được bố trí trong các buồng 2 người dọc theo thành tàu. Thủy thủ nghỉ ngơi trong 3 buồng tập trung, bố trí ở khoang chính phần mũi tàu. Buồng phía mũi tàu (7 gường đôi) bố trí ở phần mũi tàu cạnh buồng đạn của pháo AK-176, hai buồng ngủ còn lại nằm ở phía sau cạnh sườn của pháo AK-176. Phòng ăn rộng 5x4m được bố trí trong khoang chính của thân tàu.
Lương thực, thực phẩm, nước uống dự trữ cho 10 ngày. Để lưu trữ cơ sở vật chất trên tàu bố trí kho dự trữ thực phẩm khu vực mũi tàu, cạnh khoang ngủ của thủy thủ, dưới tầng khoang đạn của tháp pháo AK-176 là thùng đựng nước uống.
Vũ khí trang bị
- Vũ khí chống tàu
Vũ khí cơ bản được biên chế cho mẫu thiết kế đầu tiên: P-15, 3M-80 Moskit




Tên lửa chống tàu X-41 Moski.
Trong hệ thống vũ khí của tàu hộ tống tên lửa 12411 được biên chế 4 tên lửa chống tàu R-15 Termit, tàu hộ tống 12411 M được biên chế 4 tên lửa chống tàu loại 3M-80 Moskit (R-270), các tên lửa chống tàu được lắp trong 2 bộ ống phóng tên lửa KT-152. Tên lửa được bố trí trên hai bệ phóng cố định gắn gắn 2 bên sườn boong tàu. Bệ phóng tên lửa được gắn với một góc phòng cố định so với sàn tàu.
- Vũ khí phòng không
Để phòng thủ trên khống, về lý thuyết kỹ chiến thuật nhiều hơn là thực tế tác chiến, chống lại các đòn tấn công từ trên không, trên các tàu hộ tống được trang bị các tên lửa phòng không tầm thấp (Strela-3) cơ số biên chế là 16 tên lửa, hoặc Igla với cơ số biên chế tương đương. Tên lửa phòng không được bố trí bệ phóng trên boong phía đuôi tàu, giá đứng bắn có bệ tỳ hướng ra 4 hướng bắn.
- Pháo hạm

Pháo hạm cơ bản : АК-176, АК-630М.​

Pháo hạm của tàu hộ tống tên lửa 1241 là pháo hạm một nòng tự động 76/59 АU kiểu tháp pháo АК-176, tháp pháo được bố trí trên phần mũi tàu của boong tàu. Cơ số đạn pháo là 316 viên.
Tháp pháo được chế tạo từ hợp kim nhôm và magnesium Amr-61 với độ dày 4mm. Kíp trắc thủ - 2 người ( nạp đạn bằng tay – kíp trắc thủ là 4 người). Khối lượng của pháo là: 10,45 tấn.
Trên boong tàu phía đuôi tàu của thiết kế 1241 để chống lại các tên lửa hành trình chống tàu, được lắp đặt hai súng máy 6 nòng 30/54 AK-630M, với hai dây băng đạn 2000 viên đạn – 1000 viên cho mỗi băng đạn.
Khối lượng của toàn bộ ụ súng không có đạn và phụ tùng là 1,85 tấn. Toàn bộ ụ súng máy với hệ thống điều khiển là 9114kg. Tầm bắn của súng là 4000m. Chế độ bắn thông thường 4-5 loạt bắn với mỗi loạt từ 20 – 25 viên đạn từ tầm bắn max, trên tầm bắn hiệu quả, loạt bắn có thể kéo dài với số lượng lên đến 400 viên ngắt đoạn ngắn từ 3-5 giây.
Hệ thống radar và thiết bị tác chiến điện tử
- Radar truy tìm, phát hiện, bắt và bám mục tiêu.
Rà quét, kiểm soát và phát hiện mục tiêu chủ động hoặc thụ động, xử lý tín hiệu thông tin và chuyển thông số chỉ thị mục tiêu cho ban chỉ huy trưởng và các kíp trắc thủ trên tàu, giải quyết các bài toàn về dẫn đường, định vị tàu, điều hành các hoạt động tác chiến liên kết phỗi hợp với các hàm tàu khác trong phân đội tàu 1241 được thực hiện bởi hệ thống radar Monolit (hệ thống radar này là nâng cấp của hệ thống Titanit, hệ thống radar được bố trí trên nóc của boong chính của tàu dười chụp radar chủ động hình bán cầu.
Những tàu hộ tống đầu tiên được sản xuất kể cả tàu chỉ huy P-5 và những tàu hộ tống tên lửa xuất khẩu không được lắp hệ thống Monolit mà lắp hệ thống radar bám, dẫn bắn Garpun. ( Hệ thống radar xuất khẩu: Garpun-E).
Các tàu hộ tống tên lửa thiết kế 1241T được lắp radar Monolit với thiết bị điều khiển tên lửa Korral từ hệ thống phóng tên lửa Termit. Hệ thống radar điều khiển hỏa lực pháo binh MP-123/176 Vimpel được bố trí trong khoang trên boong tàu, bên dưới cột ăn ten.
- Hệ thống thiết bị trinh sát và tác chiến điện tử
Tàu hộ tống tên lửa thiết kế 1241 được trang bị hệ thống tác chiến điện tử Vimpel –P2 , đảm bảo cho các thiết bị điện tử trên ầu có khả năng ngăn chặn và chống gây nhiễu điện từ.
Đối với những mục tiêu cần gây nhiễu điện tử trên tàu được bố trí hai bệ phóng đạn gây nhiễu, mỗi bệ phóng gồm có ống phóng lựu 16 nòng có điều khiển từ xa PK-16 để gây nhiễu thụ động, ống phóng lựu phóng đạn phản xạ lưỡng cực hoặt mồi bẫy hồng ngoại. Cơ số đạn biên chế là 128 quả đạn 82mm.
Bệ phóng được đặt ở phía đuôi tàu, trên mặt boong tàu. các tàu thế hệ sau có thể lắp tới 4 bệ phóng đạn mồi bẫy hoặc phản xạ đa cực PK-10 các bệ phóng này cũng được lắp ở trên các giá đỡ phía đuôi tàu, khu vực khoang quạt gió làm mát buồng máy giữa boong tàu và súng máy 6 nóng AK 630. và trên các giá đỡ nằm giữa buồng cơ động trên boong tàu và tháp pháo AK 176.
Trên các tầng trên boong tàu từ quá trình sửa chữa vừa và các tàu mới đóng thế hệ mới được lắp các cảm biến chiếu xạ lases, nhằm phát hiện tàu bị chiếu xạ laser từ các thiết bị dẫn đường cho tên lửa chống tàu dẫn động bằng laser.


1 – Khoang phía trước mũi tàu; 2 – Buồng kho tàng đựng cơ sở vật chất khác nhau; 3 – Thùng chứa xích mỏ neo; 4 – Buồng ngủ của thủy thủ đoàn; 5 – Pháo hạm 76-mm АУ АК-176; 6 – Trống chuyển nạp đạn 76-mm AU; 7 –Vị trí chiến đấu đa chức năng; 8 – Thùng đựng nước ngọt ; 9 –Thùng đựng dầu diesel nhiên liệu; 10 – Hệ thống radar Monolit «Монолит»; 11 – Khoang cơ động lên boong tàu; 12 –Phòng nghỉ sỹ quan chỉ huy; 13 –Hành lang р; 14 – Phòng nhỏ lắp các thiết bị điện - điện tử; 15 – Phòng trung tâm điều khiển các thiết bị động lực, trạm nguồn và bảng mạch phân phối cho các khoang phía mũi tàu.; 16 –Khoang máy tàu phía đằng mũi tàu МО; 17 – Ống xả khói tàu ; 18 – Ống thông khí và quạt thông gió khoang máy tàu; 19 – Khoang chứa thùng dầu; 20 – Động cơ đẩy của tàu ; 21 – Buồng điều khiển điện thân tàu và phòng buồng bảng điện đuôi tàu; 22 – Khoang máy phía đuôi tàu МО; 23 – Phòng ăn của tàu; 24 – Súng máy chống tên lửa АК-630М; 25 – Khoang xả khí thải đuôi tàu; 26 – khoang máy cuối đuôi tàu; 27 –Khoang bánh lái đuôi tàu.
Mẫu thiết kế 12417


Lượng giãn nước tiêu chuẩn , Tấn: 436 (tiêu chuẩn), 493 (đầy đủ)Tốc độ cực đại, hải lý/giờ. 41 (max), 12 (tiết kiệm)Tầm xa hải hành max, dặm 1600 (Ve 12 hải lý)Lượng dự trữ hành trình. 10 ngàyVũ khí trang bị:
Tên lửa chống tàu 2х2 Ống phóng tên lửa chống tàu "Моskit"; 1х4 ống phóng tên lửa vác vai Igla "Игла"; Pháo hạm 1х1 76-mm АК-176; Súng máy chống tên lửa 2х6 30-мм АК-630radar điều khiển hỏa lực Vimpel , radar chỉ thị kiểm soát và dẫn bắn mục tiêu Monolit, Radar hàng hải dẫn đường trên hải đồ và định vị vệ tinh.
Hệ thống tác chiến điện tử và cảnh báo sớm. Động lực của tàu là hệ thống tổ hợp động cơ diesel – tuốc bin khí ga 2х GTD М-70 và 2хМ510Kích thước, m 56,1х10,2х2,5Nguồn điện: Đông cơ phát điện 3 pha diesel theo thiết kế. Công suất động cơ kW 4000 sức ngựa.х 2 М510; 12000 sức ngựa .х 2 GTD
Mẫu thiết kế Monliya 1241.8


Chiều dài thân tàu 56.1 m
Chiều rộng nhất thân tàu 10.2 m
Chiều cao của sàn tàu (trung bình) 5.31 m
Mức ngấn nước đủ tải trọng 2.38 m
Lượng giãn nước 510 T
Thông số chiến thuật tàu hộ tống tên lửa Tốc độ cực đại; 39-40 kn
Tốc độ tiết kiệm 12-13 kn với khoảng cách xa hoạt động xa nhất 2300 dặm
Lượng dự trữ lương thực thực phẩm hành trình 10 ngày Thủy thủ đoàn: 42
Động lực thân tàu:
Động cơ tổ hợp diesel-gas turbine M15: Với nhiệt độ khoảng 15oC. 23530 kW
Với nhiệt độ lớn hơn 34o C 17430 kW
Nguồn điện thân tàu: kWh máy phát điện diesel 2x200. và một máy phát điện diesel 1X100.
Vũ khí trang bị: 16 tên lửa chống tàu X-35 Uran 3M24 Tên lửa phòng không vác vai Igla: 12 Hỏa lực pháo binh:1xAK-176M 76.2 mm với cơ số 316 viên đạn pháo. 2xAK-630M1-2 30 mm với cơ số 4000 viên đạn
Hệ thống tác chiến điện tử Hệ thống radar GARPUN-BAL Radar bao gồm: Radar điều khiển hỏa lực MR-123-02. Radar truy tìm, phát hiện mục tiêu trên không và trên biển POZITIV-E MP-405 ESM
Hệ thống radar cảnh báo sơm Radar ID system: Hệ thống radar xác định chủ quyền Radar hàng hải định vị và dẫn đường điều khiển tàu
Hệ thống súng phóng lựu gây nhiễu điện từ và quang hồng ngoại PK-10

Tên lửa Uran X-35 (Mô phỏng 3D).​


Ống phóng tên lửa Uran (Mô phỏng 3D).​



Tên lửa chống tàu X-35 Uran 3M24
Tốc độ bay, km/h 1100
Tầm bắn xa nhất, km 130
Tầm bắn gần nhất, km 5
Trần bay trên mực nước biển, m 5-10
Trần bay tiếp cận mục tiêu (giai đoạn cuối), m 3-5
Chiều dài tên lửa, mm: 3750
Đường kính của tên lửa,mm: 420
Sải cánh tên lửa: mm 930
Khối lượng đầu đạn, kg 145
Tải trọng phóng kg 630


http://soha.vn/quan-su/tau-tia-chop-vn-va-chien-thuat-bay-soi-bien-dong-20130311174806387.htm
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,331
Động cơ
390,417 Mã lực
Chiến hạm Type 055 TQ mạnh gấp đôi tuần dương hạm Mỹ?



Hỏa lực chiến hạm thế hệ mới của Trung Quốc Type 055 sẽ mạnh gấp 3-5 lần khu trục lớp Arleigh Burke, gấp 2 lần tuần dương hạm Ticonderoga (Mỹ).

Theo Thời báo Hoàn Cầu, cuối năm 2012, các trang mạng quân sự Trung Quốc đã xôn xao bàn luận về khu trục hạm tên lửa thế hệ mới Type 055. Theo nguồn tin từ trang mạng top161.cn, bản thiết kế tàu khu trục đã được hoàn thiện. Con tàu được thiết kế với tính tàng hình mạnh, giảm tín hiệu âm thanh, hồng ngoại, điện từ.
Type 055 có lượng giãn nước toàn tải 12.000 tấn, dài 183m, rộng 22m. Dự kiến, 8 con tàu đầu tiên trang bị hệ thống động lực truyền thống (diesel, tuốc bin khí) và 8 chiếc khác sẽ chạy bằng năng lượng hạt nhân.
Type 055 được trang bị hệ thống radar mạng pha chủ động đa chế độ thế hệ mới có tầm hoạt động 600km. Nó có thể giám sát và kiểm soát hàng trăm mục tiêu và tự động điều phối mục tiêu tới các đơn vị bạn. Tàu còn có hệ thống truyền tải dữ liệu chiến đấu tương tự chuẩn Link-16 của Hải quân Mỹ.

Pháo phòng không siêu tốc 11 nòng cỡ 30mm sẽ là một trong những loại vũ khí trên Type 055.​

Khu trục hạm Type 055 trang bị hệ thống vũ khí đồ sộ gồm:
- Tháp pháo tầm xa 155mm cho những chiếc đầu tiên, và những chiếc sau có thể sẽ được thay thế bằng pháo điện từ hoặc pháo laze.
- Hai hệ thống ống phóng thẳng đứng (64 ống/hệ thống) chứa các loại tên lửa đối không tầm xa HQ-10, tên lửa hành trình đối đất, tên lửa chống tàu ngầm và tên lửa chống tàu mặt nước YJ-83 (hoặc YJ-62).
- Hệ thống phóng WHH004 dùng để bắn ngư lôi chống tàu mặt nước và ngư lôi chống ngầm thế hệ mới.
- Hệ thống pháo phòng không siêu tốc Type 1130 trang bị 11 nòng pháo cỡ 30mm, đạt tốc độ bắn 10.000 phát/phút. Hiện nay, pháo Type 1130 đã được trang bị cho tàu sân bay Liêu Ninh.
Ngoài ra, tàu khu trục Type 055 có thể chở được tới 2 trực thăng săn tàu ngầm.
Thời báo Hoàn Cầu nhận định, hỏa lực của Type 055 gấp 3-5 lần so với tàu khu trục Aegis Arleigh Burke và gấp 2 lần hỏa lực tuần dương hạm Aegis Ticonderoga của Hải quân Mỹ.



http://soha.vn/quan-su/chien-ham-type-055-tq-manh-gap-doi-tuan-duong-ham-my-20130217160625447.htm

Khám phá tuần dương hạm lớp Slava của Nga

Tuần dương hạm lớp Slava Project 1164 Atlant, được trang bị hệ thống vũ khí cực mạnh, có thể đảm đương nhiều nhiệm vụ trong tác chiến phòng thủ và tiến công.

Tuần dương hạm lớp Slava Project 1164 Atlant hiện là lớp tàu mới nhất của Hải quân Nga. Hiện có 3 tuần dương hạm lớp Slava trong biên chế Hải quân Nga: chiếc tuần dương hạm Moskva hiện tại là soái hạm của Hạm đội Biển Đen; tuần dương hạm Varyag là soái hạm của Hạm đội Thái Bình Dương, chiếc tuần dương hạm còn lại mang tên Marshal Ustinov hoạt động trong Hạm đội Biển Bắc.

Tuần dương hạm Moskva.
Nổi bật trong hệ thống vũ khí của tuần dương hạm lớp Slava Project 1164 Atlant là 16 bệ phóng tên lửa chống hạm siêu thanh tầm xa P-500 Bazalt cải tiến (NATO gọi là SS-N-12 Sandbox), tầm bắn lên đến 550km (700km đối với biến thể cải tiến P.1000).

Tuần dương hạm lớp Slava Project 1164 Atlant được trang bị tên lửa chống hạm siêu thanh tầm xa P-500 Bazalt cải tiến.
Lớp tuần dương “đàn anh” - Kirov trước đây thuộc Lực lượng Hải quân Liên Xô, gồm những tàu tuần dương hạng nặng, vũ trang mạnh, chạy bằng năng lượng nguyên tử. Lớp này gồm những tàu tuần dương lớn nhất thế giới và hiện vẫn đang hoạt động, thuộc Hải quân Nga. Kirov là đặt theo tên chiếc đầu tiên và cũng là tên của Sergei Mironovich Kirov, nhà cách mạng cộng sản Liên Xô.

Tên lửa P-500 có khả năng mang đầu đạn thông thường nặng 1 tấn hoặc đầu đạn hạt nhân 350 kiloton, tốc độ bay mach 2,5, được coi là một trong những vũ khí chống tàu ngầm và tàu sân bay hiệu quả nhất thế giới hiện nay.
Trong suốt quá trình bay đến mục tiêu, tên lửa P-500 được dẫn đường kết hợp quán tính và radar chủ động; các tham số về mục tiêu được hiệu chỉnh tự động thông qua hệ thống điều khiển được liên kết dữ liệu với máy bay Tu-95D hoặc trực thăng Ka-27B.

Khai hỏa tên lửa đối không tầm xa S-300 trên tuần dương hạm.
Bên cạnh hệ thống vũ khí chống hạm, các tuần dương hạm này còn được trang bị hệ thống tên lửa đối không tầm xa hiện đại. Trong đó, 8 bệ phóng tên lửa đối không tầm xa S-300F (NATO gọi là SA-N-6 Grumble), tầm tác chiến chống máy bay là 150km và 30km chống tên lửa đạn đạo. Hai hệ thống tên lửa đối không (phản ứng nhanh) OSA-MA, một hệ thống ở phía trước và một ở phía sau, tầm bắn tối đa là 15km, tầm cao tối đa là 12km.

Hệ thống pháo AK-130 của tuần dương hạm.
Tuần dương hạm lớp Slava Project 1164 Atlant còn được trang bị một pháo hạm đa năng nòng kép AK-130-130mm, tầm bắn tối đa 23km chống lại các mục tiêu mặc nước, 15km chống máy bay, tốc độ bắn trung bình là 40 viên/phút. 6 pháo bắn siêu nhanh AK-630, có thể được thay thế bằng hệ thống phòng thủ tầm cực gần Kashtan, 5 ống phóng ngư lôi kép 533mm, 2 hệ thống phóng rocket chống ngầm RBU-6000.

Tuần dương hạm Varyag.
Đuôi tàu tuần dương hạm có bãi đáp và nhà chứa cho trực thăng chống ngầm Ka-27. Ngoài ra, nó cũng được trang bị hệ thống điều khiển điện tử tiến tiến gồm: radar tìm kiếm mục tiêu tầm xa đa chức năng 3D MR-800 Voshkod; radar tìm kiếm mục tiêu trên không MR-710 Fregat-MA; hệ thống điều khiển hỏa lực Volna/Top Dome, MPZ-301; các sonar tần số cao và siêu cao, có thể phát hiện và định vị vị trí, cũng như các thông tin về kỹ, chiến thuật các loại tàu ngầm, tầu nổi của đối phương trong phạm vi lên đến vài trăm hải lý…

Tuần dương hạm Ustinov hoạt động trong Hạm đội Biển Bắc.
Thông số cơ bản của tuần dương hạm lớp Slava Project 1164 Atlant: Dài 186,4m, rộng 20,8m, mớn nước 8,4m, tải trọng tiêu chuẩn 10.000 tấn, đầy tải 12.500 tấn, thủy thủ đoàn từ 476-529 người.

Đặc biệt, tuần dương hạm được trang bị hệ thống động cơ đẩy kết hợp tuabin khí COGOG, tổng công suất 120.000 mã lực. Tốc độ tối đa đạt 32 hải lý/giờ, tầm hoạt động 6500 dặm (10400km).
Nhiều quan chức NATO cho rằng, tàu chiến lớp Slava của Nga là “Đệ nhất tuần dương hạm”, xứng đáng là biểu tượng về uy lực sức mạnh của cường quốc biển xanh của Nga.





http://soha.vn/quan-su/kham-pha-tuan-duong-ham-lop-slava-cua-nga-2013042314514478.htm
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,331
Động cơ
390,417 Mã lực
Phân biệt Molniya và Tarantul


Molniya và Tarantul là hai loại tàu chiến có trong Hải quân Nhân dân Việt Nam có nhiều điểm tương đồng, vậy nhận biết 2 loại tàu chiến này như thế nào?
Cả Molniya và Tarantul đều thuộc Project 1241 (NATO định danh chung là Tarantul) thuộc loại tàu tên lửa cao tốc, được thiết kế cho nhiệm vụ chiến đấu ở các vùng ven biển, những vùng biển nông, tốc độ cao, hỏa lực mạnh là những ưu điểm của loại tàu tên lửa này.

Project 1241 được Liên Xô khởi xướng vào cuối những năm 1970, nhằm thay thế cho loại tàu tên lửa cao tốc Osa đã lỗi thời.

Năm 1978, chiếc đầu tiên của dự án được hoàn thành và chuyển giao cho Hải quân Liên Xô đánh giá.

Biến thể này được trang bị 4 tên lửa chống hạm P-15 Termit tầm bắn 40km, 1 pháo hạm AK-176 76,2mm ở phía trước và 2 pháo bắn nhanh AK-630 ở phía sau.

Việc định danh các biến thể của Project 1241 khá phức tạp. Với Nga, cứ mỗi lần có cải tiến nhỏ lại được đặt cho một định danh khác trong khi hình dáng bên ngoài không thay đổi nhiều. Điều này chính là lý do khiến nhiều người khó phân biệt được Molniya và Tarantul.

Tàu tên lửa Project 1241 Tarantul của Hải quân Nga, điểm dễ dàng nhận thấy là radar Monolith ở phía trên buồng chỉ huy. Các biến thể khác được phát triển của Project 1241 gồm có 1241.1M/MR (NATO định danh là Tarantul III) trang bị radar tìm kiếm mục tiêu Monolith, radar này có phạm vi tìm kiếm mục tiêu 120km ở chế độ chủ động, lên đến 500km với chế độ thụ động.

Biến thể mới thay thế tên lửa P-15 bằng tên lửa chống hạm siêu âm P-270 Moskit, tầm bắn 120km, thay thế động cơ CODOG (kết hợp động cơ diesel tuabin khí) bằng động cơ CODAG (kết hợp động cơ diesel gas)

Project 1241 RE là biến thể xuất khẩu của Project 1241, (NATO định danh là Tarantul-II), có điểm khác biệt so với biến thể dùng cho Hải quân Liên Xô là đã loại bỏ radar tìm kiếm mục tiêu Monolith lắp đặt phía trên buồng chỉ huy, thay vào đó là radar tìm kiếm mục tiêu Garpun-Bal (NATO định danh Plank Shave) ở trên đỉnh cột buồm.

Vị trí radar lắp đặt radar Monolith được thay thế bằng radar điều khiển hỏa lực MR-123 Vympel cho pháo hạm AK-176 và pháo bắn nhanh AK-630.

Về vũ khí Project 1241 RE được trang bị 4 tên lửa chống hạm P-15 Termit ít năng lực hơn cơ cấu bố trí cụm phóng tên lửa chống hạm tương tư như của Nga, 1 pháo hạm AK-176 76,2mm, 2 pháo bắn nhanh AK-630, tên lửa đối không tầm thấp Igla.

Project 1241.8 Molniya, NATO không đặt định danh riêng cho biến thể này, vẫn được gọi là Tarantul. Đây là biến thể được thiết kế dành riêng cho xuất khẩu. Trong ảnh, Project 1241.8 Molniya xuất khẩu cho Ấn Độ, pháo hạm AK-176 phía trước thay bằng OTO 76mm SRGM của Pháp. Hải quân Nhân dân Việt Nam đặt mua loại tàu này từ năm 1999, 4 tàu đã được chuyển giao đầu những năm 2000. Hiện tại, Việt Nam tự đóng loại tàu này với sự trợ giúp chuyển giao công nghệ từ Nga. Ít nhất 6 chiếc tàu tên lửa Tarantul đang phục vụ trong biên chế Hải quân Nhân dân Việt Nam.

Molniya là tên Nga đặt riêng cho biến thể này, nó cũng được gọi là Lightning. Biến thể này cũng được gọi là Project 1241.1 Molniya, 1241.1/1241.8 thực ra là cùng một dự án, sở dĩ có định danh khác nhau là do được xuất khẩu cho các quốc gia khác nhau.

Project 1241.1 là biến thể dùng cho Hải quân Nga chỉ có 1 chiếc được đưa vào sử dụng.

Project 1241.8 là biến thể dành riêng cho xuất khẩu. Trong đó, biến thể xuất khẩu cho Ấn Độ pháo hạm AK-176 được thay bằng pháo hạm OTO 76mm SRGM của Pháp, radar tìm kiếm mục tiêu được đặt trong mái vòm phía trên đỉnh cột buồm. Còn Project 1241.8 xuất khẩu cho Việt Nam sử dụng hoàn toàn vũ khí và các hệ thống điện tử của Nga.

Tàu tên lửa Project 1241 RE Tarantul phía trên và Project 1241.8 Molniya phía dưới của Hải quân Nhân dân Việt Nam, sự khác biệt giữa 2 biến thể này là rất rõ ràng Ảnh: VNdefence, Hoangsa.org Giữa Molniya và Tarantul có rất nhiều điểm khác biệt dễ dàng nhận thấy bằng mắt thường, cấu trúc thượng tầng của Molniya được chia làm 3 cấp, lắp đặt 3 loại radar khác nhau.

Đầu tiên, phía trên buồng chỉ huy được lắp đặt radar điều khiển hỏa lực cho tên lửa chống hạm Garpun-Bal-E (ở Project 1241 RE Tarantul, radar này nằm trên đỉnh cột buồm), tiếp đến là radar điều khiển hỏa lực MR-123 Vympel cho pháo hạm AK-176 và pháo bắn nhanh AK-630, trên đỉnh của cột buồm lắp đặt radar tìm kiếm mục tiêu MR 352 Positiv-E (lưu ý tàu tên lửa Project 1241 RE Tarantul không có loại radar này).

Cột buồm của Project 1241 RE Tarantul hình tròn hơi nghiêng về phía sau còn cột buồm của Molniya hình hộp thẳng đứng và thấp hơn, 2 bên cột buồn được lắp đặt 2 hệ thống chiến tranh điện tử.

Về vũ khí của Molniya mạnh hơn nhiều so với Tarantul, Molniya được trang bị tới 16 tên lửa chống hạm cận âm Kh-35 Uran-E (NATO định danh là SS-N-25 Switchblade tầm bắn 130km, được bố trí thành 4 cụm phóng 2 bên mạn với 4 tên lửa mỗi cụm phóng.

Project 1241.8 Molniya được trang bị pháo hạm AK-176M 76,2 mm, 2 pháo bắn nhanh AK-630M, tên lửa đối không tầm thấp Igla-1M, (với vũ khí Nga, chữ M được sử dụng cho các biến thể đã trải qua quá trình hiện đại hóa).

Hệ thống động lực của 2 loại tàu này là giống nhau đều sử dụng động cơ CODOG (kết hợp động cơ diesel tuabin khí). Lượng giãn nước của Molniya nhỉnh hơn một chút so với Tarantul do mang nhiều tên lửa hơn( 550 tấn so với 490 tấn).

Nhìn chung, khả năng tác chiến của Molniya cao hơn nhiều so với Tarantul. Hải quân Nhân dân Việt Nam hiện có 2 chiếc tàu tên lửa Molniya trong biên chế, ngoài ra 10 chiếc đang được đóng theo hợp đồng chuyển giao công nghệ từ Nga tại Việt Nam.

Đối với Việt Nam tên gọi Tarantul chỉ dành cho Project 1241 RE, còn với Project 1241.8 Nga đã đặt định danh riêng là Molniya, việc sử dụng tên gọi riêng cho từng biến thể có ý nghĩa rất quan trọng giúp độc giả nhận biết được sự khác biệt giữa 2 loại tàu chiến này.

Phân biệt một số biến thể của Project 1241.
Nguồn Baodatviet
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,331
Động cơ
390,417 Mã lực
Nga khoe siêu tàu tên lửa 'độc cô cầu bại'
Với tốc độ lên tới 55 hải lý/h và mang theo tới 8 tên lửa chống hạm siêu âm Moskit, tàu tên lửa đệm khi Bora có thể hạ gục bất cứ tàu sân bay nào. Vì thế không có gì ngạc nhiên khi Bora tạo sự chú ý tại triển lãm quân sự IDEF – 2013.


Tàu đệm khí mang tên lửa Project 1239 Bora được thiết kế để tiêu diệt các tàu nổi, tàu tiến công cao tốc và tàu vận tải đối phương trong mọi khu vực biển gần và trong bán kính tác chiến gần trên khu vực biển mở một cách độc lập hay như một tàu flagship của biên đội tàu.
Project 1239 được ngành thiết kế chiến hạm Liên xô (cũ) kỳ vọng sẽ tạo bước đột phá thực sự trong ngành đóng tàu chiến. Lần đầu tiên trên thế giới, người ta đã đưa được 8 tên lửa chống hạm hạng năng lên một con tàu hộ vệ có độ choán nước chỉ 1.050 tấn nhưng lại có tốc độ như một chiếc thủy phi cơ. Về nguyên tắc, điều này là không thể vì con tàu rất nhỏ và không ổn định.
Tuy nhiên, cục thiết kế Almaz ở Leningrad (nay là St.Peterburg) đã thiết kế Bora là con tàu hai thân hẹp có chiều dài 64 m, rộng 17,2m với vật liệu hợp kim nhôm nhẹ và rất bền và áp dụng nguyên tắc thiết kế của tàu đệm khí. Chính hai ý tưởng này đã tạo nên con tàu chiến có một không hai trên thế giới.
Nhờ sự kết hợp hoàn hảo giữa các loại vũ khí và hệ thống định vị tốt, Bora có khả năng phát hiện và tiêu diệt các mục tiêu nổi, mục tiêu bay bằng tên lửa hoặc pháo ở tầm bắn hiệu quả xa nhất trong điều kiện nhiễu nặng và biển động mạnh (tới cấp 5). Các thiết bị tác chiến điện tử chủ động và thụ động giúp tàu tự bảo vệ hiệu quả trước đòn tấn công tên lửa của đối phương.
Vũ khí chính trên Bora là 8 tên lửa siêu âm chống tàu hạng nặng Moskit P-270 (tên NATO SS-N-22 Sunburn). Moskit có thể đạt vận tốc cao nhất là 3 mach và vận tốc tối thiểu để duy trì độ cân bằng là 2,2 mach nhanh gấp ba lần tên lửa hành trình Harpoon của Mỹ.
Với các tên lửa có tốc độ thấp như Harpoon hay Exocet của Pháp thì theo lý thuyết tên lửa sẽ mất khoảng 120-150 giây để có thể đâm vào tàu chiến đối phương. Với thời gian này các tàu chiến có thể phát hiện và vận hành hệ thống phòng thủ đánh chặn như phát sóng làm nhiễu, vận hành động cơ phóng tên lửa đánh chặn hay vận hành pháo tự động chỉnh với tốc độ cao bắn vào tên lửa.
Nhưng với Moskit thì khác, tốc độ cực cao nó chỉ cho các tàu chiến khoảng 25-30 giây để có thể phát hiện và vận hành hệ thống phòng thủ, hệ thống làm nhiễu sẽ không hiệu quả khi tên lửa đến quá gần, không đủ thời gian để vận hành động cơ phóng tên lửa đánh chặn và tên lửa bay quá nhanh để có thể bắn vào nó với pháo tự động một cách chính xác.
Ngoài ra, Bora còn có hệ thống tên lửa phòng không tầm thấp Osa-MA và hai sáu súng gatling sáu nòng AK-6-30M 30mm, pháo hạm AK-176 cỡ nòng 76,2 mm. Cho đến khi Liên xô sụp đổ, mới có hai chiếc Bora thuộc dự án 1239 được đóng, hiện nay một chiếc được trang bị cho Hạm đội Baltic, chiếc còn lại thuộc Ham đội biển Đen.
Mặc dù chỉ có một chiếc nhưng theo các chuyên gia quân sự phương Tây, sự ra đời của Bora đã làm thay đổi cán cấn lực lượng trên biển Đen. Cho đến nay, trong kho vũ khí của hải quân NATO không có loại nào đủ sức để năng chặn mục tiêu di động với vận tốc khoảng gần 100 km/h như Bora. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi "Bora" là trọng tâm của tất cả các chuyên gia hải quân tập trung tại triển lãm IDEF-2013 ở Istanbul.

http://www.nguoiduatin.vn/nga-khoe-sieu-tau-ten-lua-doc-co-cau-bai-a80378.html

Nhanh hơn cả Canô mà vác chừng đó chống hạm thì đúng là độc cô cầu bại rồi 8->
 

buicongchuc

Xe ba gác
Biển số
OF-146822
Ngày cấp bằng
23/6/12
Số km
23,567
Động cơ
626,949 Mã lực
Nơi ở
Bắc Từ Liêm, Hà Nội
Đinh nhay thế này không biết có bị xxx bắn tốc độ không nhỉ?
 

springsea

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-44950
Ngày cấp bằng
29/8/09
Số km
9,681
Động cơ
536,693 Mã lực
Hỏa lực mạnh nhưng thiết kế hơi cũ ko chú trọng đến giảm thiểu tín hiệu rada, hồng ngoại. Nga nên học tập e Houbei của Tàu phù
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,331
Động cơ
390,417 Mã lực
Hỏa lực mạnh nhưng thiết kế hơi cũ ko chú trọng đến giảm thiểu tín hiệu rada, hồng ngoại. Nga nên học tập e Houbei của Tàu phù
2 tàu thuộc class hoàn toàn khác nhau bác ạ 1 cái là missile hovercraft 1 cái là chỉ là missile boat. Time buid cũng # nhau 1 cái TK 20, 1 cái TK 21. Thông tin con Houbei phần lớn chỉ là phỏng đoán, Bora to hơn nhưng tốc độ và phạm vi cũng cao hơn hẳn, về thiết kế giảm RCS thì Nga đi trước TQ, như Kirov vào thập niên 1980 đã giảm rcs chỉ = tàu hộ vệ, ngoài ra Ashm Nga cũng tin cậy, tốt hơn TQ, động cơ tàu, radar, cảm biến cũng vậy. Tuy nhiên Houbei mang được nhiều hơn 8 quả C-802 so với 4 quả P-270 của Bora. Mặc dù P-270 phạm vi thấp hơn chỉ có 120km, nhưng trang bị ramjet sẽ duy trì phạm vi và tốc độ cao đúng theo chỉ số nhà sx đưa ra (Mach 3, 120km), so với C-803 300km (sử dụng động cơ thường turbofan nên sẽ ko đạt mach 2 suốt hành trình, phạm vi giảm xuống rất nhiều nên ko đạt được 300km) cũng chưa chắc đã thấy và bắn trước Bora (chưa kể decoy, ECM, jamming, CIWS, IGLA các loại)
 
Chỉnh sửa cuối:

springsea

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-44950
Ngày cấp bằng
29/8/09
Số km
9,681
Động cơ
536,693 Mã lực
2 tàu thuộc class hoàn toàn khác nhau bác ạ 1 cái là missile hovercraft 1 cái là chỉ là missile boat. Time buid cũng # nhau 1 cái TK 20, 1 cái TK 21. Thông tin con Houbei phần lớn chỉ là phỏng đoán, Bora to hơn nhưng tốc độ và phạm vi cũng cao hơn hẳn, về thiết kế giảm RCS thì Nga đi trước TQ, như Kirov vào thập niên 1980 đã giảm rcs chỉ = tàu hộ vệ, ngoài ra Ashm Nga cũng tin cậy, tốt hơn TQ, động cơ tàu, radar, cảm biến cũng vậy. Tuy nhiên Houbei mang được nhiều hơn 8 quả C-802 so với 4 quả P-270 của Bora. Mặc dù P-270 phạm vi thấp hơn chỉ có 120km, nhưng trang bị ramjet sẽ duy trì phạm vi và tốc độ cao đúng theo chỉ số nhà sx đưa ra (Mach 3, 120km), so với C-803 300km (sử dụng động cơ thường turbofan nên sẽ ko đạt mach 2 suốt hành trình, phạm vi giảm xuống rất nhiều nên ko đạt được 300km) cũng chưa chắc đã thấy và bắn trước Bora (chưa kể decoy, ECM, jamming, CIWS, IGLA các loại)
Nhìn Bora như tàu cánh ngầm 2 thân ko giống hover tẹo nào. Công nghệ gì đi nữa thì Houbei hay Bora cũng đều xếp vào hạng fast attack craft cả thôi.
Vụ RCS của Kirov nghe cũng lạ. kiến trúc thượng tầng nhằng nhịt rada cảm biến, súng pháo linh tinh xòe. Vật liệu RAM, sơn tàng hình thời đó lại càng mới thì giảm RCS bằng niềm tin ah.
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,331
Động cơ
390,417 Mã lực
Nhìn Bora như tàu cánh ngầm 2 thân ko giống hover tẹo nào. Công nghệ gì đi nữa thì Houbei hay Bora cũng đều xếp vào hạng fast attack craft cả thôi.
Vụ RCS của Kirov nghe cũng lạ. kiến trúc thượng tầng nhằng nhịt rada cảm biến, súng pháo linh tinh xòe. Vật liệu RAM, sơn tàng hình thời đó lại càng mới thì giảm RCS bằng niềm tin ah.
Khác nhau chứ ?, nó đã ghi rõ là hovercraft rồi mà bác ?, vả lại về giảm RCS và radar, vũ trang thì Nga tin cậy hơn là cái chắc. Kirov từ thập niên 80 đã thiết kế lại giảm RCS rồi ạ http://archive.heinessen.com/k/thread/12472576

The Kirov-class battlecruisers – with a 22° "tumblehome" angle imposed on normally vertical bulkheads, screens, and skirts to shield high-RCS components from radar, along with extensive use of radar-absorbent material (RAM) – were remarkably stealthy despite their size. "If you saw a big wake with nothing in front of it," British marine LO expert Peter Varnish has said, "you knew you'd found the Kirov."


Tàu chiến to hơn máy bay nên RAM lên ko có vấn đề gì về tải trọng vũ khí, ngay cả J-20 với canard lồ lộ TQ cũng chém gió RCS = 0,01m2 đấy =)), các CIWS, pháo thiết kế kín, tên lửa gắn trong ống VLS từ thập niên 70 rồi cụ ạ. F-117 ra đời năm 1981 đấy ạ, khái niệm RAM, thiết kế giảm RCS thì Nga đi đầu nhé. Nhưng quan niệm quốc phòng # biệt nên chưa ứng dụng vào KQ
 
Chỉnh sửa cuối:

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,331
Động cơ
390,417 Mã lực
Vũ khí mới chế ngự bờ biển Á châu của Hải quân Mỹ

5:29 PM, 12/05/2013, Views: 3423 | By Nam Xương

VietnamDefence - Siêu tàu chiến Mỹ LCS danh không phù thực.
Chiến hạm USS Freedom đã rời California đi Singapore vào đầu tháng 3/2013 trong lần triển khai quốc tế đầu tiên. Loại tàu này được goi là “Tàu chiến vùng nước nông” (Littoral Combat Ship - LCS) bị chỉ trích là loại tàu hão huyền và cái lỗ đen ngốn tiền. Dưới đây là đánh giá LCS ở một số khía cạnh.

Giá cả: Với đơn giá 700 triệu USD, LCS là chiến hạm rẻ so với các tàu lớn hơn của Hải quân Mỹ. Nhưng cái giá này đắt gấp 3 lần dự kiến của Hải quân Mỹ, còn chi phí duy trì cả vòng đời của 2 tàu LCS đầu tiên đang tăng nhanh hơn dự kiến.

Thủy thủ đoàn: LCS lẽ ra chỉ có thủy thủ đoàn cơ bản gồm 40 người. Nhưng, việc thử nghiệm ngoài khơi đã tăng nhu cầu thủy thủ đoàn lên đến 60. Như vậy vẫn là ít, bởi vì một frigate của Hải quân Mỹ có thủy thủ đoàn hơn 200 người.
(A) Sống tàu ngắn cho phép LCS hoạt động dọc bờ biển nơi các tàu chiến lớn hơn không thể.
(B) Hăng-ga rộng chứa được các loại máy bay không người lái khác nhau.
(C) Khả năng đổ bộ: LCS mang theo các robot lặn hoặc các đội đặc nhiệm trên các xuồng đổ bộ.

Vũ khí: Người ta đã định trang bị cho LCS các tên lửa NLOS-LS của Lục quân Mỹ có thể đánh đắm tàu địch ở xa 21 hải lý, nhưng dự án tên lửa này đã bị Lục quân Mỹ hủy bỏ. Vũ khí thay thế (sớm nhất là năm 2016) là AGM-176 Griffin chỉ có tầm 3 hải lý.

Phòng thủ: Một báo cáo của Lầu Năm góc cho biết, LCS sẽ không thể sống sót “trong môi trường tác chiến thù địch” vì chỉ cần bị bắn trúng một quả tên lửa cũng đủ tiêu diệt chiếc tàu được bọc giáp nhẹ này. Hải quân Mỹ thì khẳng định, tốc độ hơn 40 hải lý/h của LCS sẽ làm cho kẻ địch không thể ngắm bắn nó.


Nguồn: The Navy's New Tool for Dominating the Coast / Joe Pappalardo // PM, 22.4.2013.
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,331
Động cơ
390,417 Mã lực
Bora là cái tàu catamaran mà cụ. Loại tương tự thì bon Na uy có chiếc Skjold. Các bạn lều báo lá cải bưng về phong cho nó là hovercraft. Tội nghiệp các bạn lều báo.
Bora-class guided missile hovercraft


http://www.rg.ru/2013/05/07/korabl-site.html
http://en.wikipedia.org/wiki/Bora-class_guided_missile_hovercraft
http://russianmilitaryphotos.wordpress.com/2012/02/19/bora-class-missile-hovercraft-firing-its-missiles/
http://wikimapia.org/16366988/Bora-Bora-class-Catamaran-Hovercraft

Chú em lạ lẫm
catamaran + hovercraft à ?





 
Chỉnh sửa cuối:
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top