Khu trục hạm của Hải quân Trung Quốc vươn tới đại dương
Quote:
Type 052C. Tháng 5 năm 2003, tạp chí Jane's Defense Weekly đã giới thiệu tầu khu trục kiểu mới của Trung quốc Type 052C (Luyang-II class), được nhiều thông tin nhắc đến như một sản phẩm mang nhiều bản copy công nghệ không có bản quyền của nước ngoai.
Cần phải thẳng thắn thừa nhận rằng, Type 052C là sản phẩm thật sự của công nghiệp đóng tầu hiện đại Trung Quốc phát triển với đặc điểm là có hệ thống phòng không rất mạnh. Tầu khu trục được trang bị hệ thống phóng tên lửa thẳng đứng và radar anten mạng pha, tên lửa phòng không HQ-9 với tầm bắn rất xa. Hải quân Trung Quốc dự kiến sẽ đóng nhiều tầu có hệ thống phòng không cực mạnh và có lượng giãn nước lớn.
Sự xuất hiện của Type 052C đã làm giảm đi đáng kể ưu thế Không Hải của lực lượng quân đội Mỹ trong khu vực Thái bình dương và Vịnh Thái lan.
Từ cuối những năm 1960, trên thế giới đã có xu hướng phát triển các tên lửa chống tầu có tầm bắn xa, tốc độ cao và trần bay thấp. Điều đó buộc các nhà đóng tầu quân sự phải tiến hành triển khai nghiên cứu thiết kế các chiến hạm có khả năng phòng ngự đánh chặn các đòn tấn công bằng tên lửa chống tầu với số lượng lớn trong đội hình hải chiến. Từ đó, xuất hiện những tầu chiến được trang bị các ống phóng tên lửa phòng không thẳng đứng, cho phép trong 1 thời gian ngắn có thể phóng các tên lửa phòng không đánh chặn tên lửa chống tầu có số lượng lớn, đồng thời sử dụng các radar tìm kiếm, bám dính và bắt mục tiêu dạng anten mạng pha, các radar dạng mạng pha có khả năng phát hiệt và theo dõi nhiều mục tiêu trên không cùng một lục, đồng thời có thể đảm bảo tấn công đánh chặn cả máy bay chiến đấu và tên lửa chống tầu. Từ đó, các hệ thống phóng tên lửa phòng không thẳng đứng đặt dưới sàn và khoang tầu đang làm một cuộc cách mạng trong công nghệ đóng tầu quân sự hiện nay.
Hệ thống SAM có thể bắn 1 lúc nhiều mục tiêu
Vào những năm 1980, Liên xô và Mỹ đã chế tạo thành công các hệ thống tên lửa phòng không trên biển. Người Mỹ đã chế tạo hệ thống AEGIS với radar anten mạng pha SPY-1 và hệ thống phóng tên lửa thẳng đứng Мк41. Liên bang Xô viết cũng thiết kế thành công hệ thống tên lửa phòng không Fort-M với hệ thống phóng đạn kiểu ổ xoay sử dụng tên lửa S-300( hệ thống tên lửa có ống phóng đạn kiểu revolve được thế giới biết đến với cái tên russian – revolve.
Vào năm 2002, theo thông tin trên mạng Internet Nga, người Trung Quốc đã bỏ 200 triệu USD để có được 2 hệ thống phóng tên lửa Fort-M của Nga nhằm trang bị cho 2 tầu khu trục type -051C. Vụ mua bán trên không gây ra tiếng vang ở trên thị trường vũ khí trên thế giới cho đến khi, sau một năm xuất hiện các thông tin về tầu khu trục hiện đại mẫu type 052C và giới truyền thông quân sự phương Tây bắt đầu xôn xao.
Năm 2004, một trạng mạng của Mỹ thông báo, người Trung quốc đã copy hệ thống tên lửa S-300, và hệ thống điều khiển tên lửa thì copy từ hệ thống điều khiển tên lửa đánh chặn Patriot-2. Đồng thời, một trang web của châu Âu cũng đưa tin, hệ thống radar của Trung Quốc có an ten giống hệt như hệ thống ăn ten của Mỹ SPY-1.Như vậy, Phương Tây đang cố gắng tưởng tượng thiết kế của tầu khu trục type 052C là sản phẩm của quá trình lắp ghép các bản copy công nghệ phi bản quyền của các cường quốc công nghệ quân sự nước ngoài.
Nhưng cùng với những công bố trên mạng và điều tra thực tế, các chuyên gia quân sự châu Âu đã phát hiện ra rằng, cấu tạo thiết kế của hệ thống ống phóng tên lửa Trung Quốc không phải là hệ thống phóng tên lửa revolve của Nga, người Trung Quốc đã lắp các ống chứa đạn tên lửa và đồng thời là ống phóng đạn tên lửa lên tầu. Mỗi thùng chứa là một ống phóng đạn. Hệ thống Fort-M của Nga chỉ có 1 cửa phóng, trống chứa đạn tên lửa quay quanh trục và đưa tên lửa đến ống phóng (tương tự như hệ thống nạp đạn của xe thiết giáp BMP-1. Đồng thời cũng thấy rằng, hệ thống an ten mạng pha của Trung Quốc là hệ thống phát xạ tích cực, chứ không hấp thụ sóng radar thụ động như của Spy-1 của Mỹ.
Từ những quan sát và nhận định đã nêu, các chuyên gia quân sự phương Tây đã cho rằng, Trung Quốc với mẫu tầu khu trục Type 052C đã bước lên nhóm nước chế tạo tầu chiến cấp II (Nga, Anh và Đức) , nhưng còn xa mới đạt được cấp I (Mỹ). Trước khi xuất hiện thế hệ tầu khu trục Type 052C, Trung Quốc đứng ở hàng thứ III, tương đương với Ấn Độ. Trên trang web militaryphotos.net
giới thiệu hình ảnh mô phỏng của tầu khu trục Type 052C (Luyang-II class), có rất nhiều điểm tương đồng với tầu khu trục Mỹ Arleigh Burke.
Ảnh đã được thu nhỏ. Vui lòng nhấn vào đây để xem kích thước thật 1024x707.
Hiện nay mới có 2 tầu khu trục lớp 052C được chế tạo, đó là tầu 170 Lanzhou ( Lan Châu), kết thúc vào cuối năm 2002. hạ thủy vào ngày 29.04.2003, được biên chế vào lực lượng Hải quân Trung Quốc vào tháng 7 năm 2004 thuộc hạm đội Nam Hải và tầu 171 Haikou (Hải Khẩu) hạ thủy vào ngày 30.10.2003, biên chế vào lực lượng Hải quân Trung Quốc, thuộc hạm đội Nam Hải vào năm 2005.
Tầu khu trục lớp type 052C được trang bị hệ thống điện toán điều khiển hỏa lực H/ZBJ-1 – hệ thống tương đương với hệ thống Aegis của Mỹ, hệ thống tự đồng số hóa xử lý, liên kết và truyền dữ liệu thông tin HN-900 (tương tự như hệ thống Link-11), hệ thống thiết bị kết nối vệ tinh truyền thông SNTI-240,
radar Type 438 (dải băng tần S-band, tầm phát hiện mục tiêu lên đến – 450 km) với 4 dàn anten mạng pha, phát triển bởi Viện nghiên cứu công nghệ điện tử viễn thông Nam Kinh (Nanjing Research Institute of Electronic Technology) trước đây là Viện nghiên cứu 14, hai radars phát hiện tọa độ mục tiêu trên không Type 571Н-1 Knife Rest, Radar điều khiển hỏa lực tên lửa chống tầu và pháo hạm МР-331 «Мinheral-МE» xuất xứ từ Nga , radar điều khiển hỏa lực МЗАК Type 347G Rice Lamp (EFR-1),
hệ thống tìm kiếm xác định mục tiêu bằng sonar – thủy âm gắn vào thân tầu ГАС SJD8/9 (nâng cấp của hệ thống DUBV-23) và hệ thống tìm kiếm xác định mục tiêu sonar-thủy âm kéo theo tầu ГАС ESS-1 (hoàn thiện từ hệ thống DUBV-43).
Hệ thống thiết bị quang điện tử : OFC-3. Hệ thống thiết bị chế áp quang điện tử: 4x18-ống Type 726-4 decoy RL.
Quote:
Tính năng kỹ chiến thuật của tầu khu trục
- Lượng gián nước - 6600 tấn
- Chiều dài – 153,0 m
- Chiều rộng lớn nhất– 16,5 m
- Mức ngấn nước – 6 m
- Động cơ – 2 trục truyền lực, 2 Động cơ tuốc bin DA80/DN80 (Ucraina, 48600 mã lực.), 2 động cơ điesen Shaanxi (bản copy MTU-20V956 TB92, 8840 mã lực.)
- Tốc độ – 29 knots
- Thủy thủ đoàn – 250 người. (bao gồm có. 40 sĩ quan)
Vũ khí trang bị
- 2х4 hệ thống phóng tên lửa hành trình chống tầu YJ-62
- 6х6 (phần mũi tầu) và 2х6 (phần đuôi tầu) Ống phóng tên lửa phòng không HQ-9 (S-300F)
- Pháo hạm 1х1 100-mm
- Pháo phòng không 2х7 30-mm МЗАК Type 730
- Hai bệ phóng ngư lôi 2х3 -324-mm (ngư lôi Yu-7)
- Ống phóng rocket chống ngầm 2х12 240-mm Loại Type 75
Ống phóng rôc két chống ngầm 4х18 РБУ
- Máy bay trực thăng hải quân: 1 Ка-28 hoặc Z-9C trong khoang tầu.
Ngoài ra còn thêm loại khinh hạm Type-053H3 (Jiangwei Class II) gọi tắt là F-22P (xuất khẩu cho Pakistan) đa năng có khả năng chống hạm, chống ngầm và phòng không
Tải trọng full load 2.400 tấn
Dài 112m, max speed 27kts = 50km/h, thuỷ thủ đoàn 168 người
Radar:
- Radar tầm thấp Type-360/SR-60, băng tần E/F
- Radar tìm kiếm trên không tầm cao 2D Type-517H-1, băng tần A
- Radar điều khiển hoả lực tên lửa đất đối không HQ-7 và pháo 100m Type-345/MR35, băng tần J
- Radar tìm kiếm mặt nước và điều khiển bắn tên lửa đối hạm Type-352, băng tần I
- 2 radar điều khiển hoả lực pháo phòng không nòng kép 37mm Type-347G băng tần I
- 2 radar nav Racal RM-1290, băng tần I
Hệ thống cảnh báo sớm:
- HN-900 Data link
- Liên lạc SNTI-240 SATCOM
- Hệ thống dữ liệu chiến đấu ZKJ-3C
- Nhận dạng bạn thù Type-651A IFF
- Gây nhiễu Type-981-3 EW jammer
- Hệ thống làm nhiễu Type-946 rocket decoy launcher x 2
Hỗ trợ: 1 máy bay trực thăng Z-9C trên boong
Vũ trang:
- 8 dàn phóng tên lửa đối hạm YJ-83 (2 x 4 cell)
- 8 ống phóng tên lửa đất đối không HQ-7
- 1 pháo tự động 100mm nòng kép PJ33A
- 4 pháo phòng không nòng kép 37mm Type-76A
- 12 ống phóng ngư lôi chống tàu ngầm Type-3200 (36 quả)
- Trong thớt có 3 con FFG:
- FFG-541 Huaibei (Type-052H2G) Jiangwei-Class I
- FFG-542 Tongling (Type-052H2G) Jiangwei-Class I
- FFG-528 Mianyang (Type-053H3) Jiangwei-Class II
Theo VDF, VOZ & military