Dịch bài thề cùng tướng sĩ của Lê Lợi, có thể thấy, lời văn trong cả 2 văn bản đều rất mộc mạc, không bay bướm, hoa lá, ta chưa thấy vai trò của quân sư văn thần nào viết giúp ông, có thể lúc này Nguyễn Trãi vẫn chưa xuất hiện.
Thái Tổ Cao hoàng đế ...Trẫm tính ( họ) Lê, húy Lợi, đại Thiên hành- hóa, phủ trị bang gia ( vỗ về cai trị quốc gia). Vì vậy, Trẫm nguyền chư tướng,hỏa-thủ ( một chức võ quan cấp cao đầu đời Lê) Thiết-đột ( một chức võ quan cao cấp đầu đời Lê) quân nhân đẳng:
Hễ kẻ làm công-thần ở cùng Trẫm mà được thiên hạ ! Chưng ( tiếng Việt cổ nghĩa là về sau này) sau thiên-hạ thái-bình, thì Trẫm nhỡ đến công-thần chư tướng hết lòng sức, danh truyền để muôn đời, vĩnh thùy trúc bạch ( ý nói để lại trên thẻ tre và lụa bạch, ghi lại công trạng muôn đời) ; cho chưng sau, con cháu Trẫm cùng con cháu chư tướng đều được hiển vinh, hưởng chưng ( không rõ chữ chưng đây là gì, có lẽ Lê Lợi ít tinh thông chữ nghĩa hay do viết nhầm) phúc lộc.
Dù bể kia hay cạn, núi nọ hay bằng, thì công ấy. Trẫm chẳng khá quên chư tướng. Dù Trẫm chẳng bằng ( theo đúng như) lời nguyền ấy vậy, thì truyền cho con cháu trẫm như lời ẩy.
Trẫm nguyền bằng: Thảo điện nên rừng, điện này nên nước, núi này nên băng ( lở, sụp), ấn nầy nên đồng, kiếm này nên sắt.
Bằng Trẫm được thiên hạ nhớ công chư tướng, nguyền hiển hách. Vả lại truyền cho con cháu nhà Trẫm muôn đời bằng như lời nguyên ấy, thi đề cho quốc gia trường trị, yên như bàn thạch ; Hoàng-hà như đái, Thái Sơn như lệ ( Sông Hoàng Hà còn hẹp như cái dải áo, núi Thái Sơn mòn như hòn đá mài nghĩa là thời gian rất là lâu, kiểu như sông cạn đá mòn); con cháu nhà Trẫm muôn đời quang đăng bảo điện ( vẻ vang đền quý, làm vua).
Vì vậy Trẫm phải hết lời cùng chư tướng : hễ đã đi làm công-thần ở cùng Trẫm, đồng tâm hiệp lực, chở ngại khó khôn ( khôn là tiếng Việt cổ, nghĩa là khó). Hòa ( tiếng Việt cổ nghĩa là và, mà) làm việc thiên hạ chẳng những thế ẩy ; Trẫm lại cậy ( tiếng Việt cổ có nghĩa là tin vào) lời này : Như trong binh-pháp rằng nhân nghĩa chi binh, hòa mục vi thượng (nghĩa là hòa thuận với nhau là thượng sách). Nếu có binh nhân nghĩa thì có hòa mục mới khá được hiệu lệnh cho tin. Chữ rẳng :"Pháp giả thiên hạ công cọng" ( nghĩa là pháp luật là quy định chung cho tất cả). Dù ai chẳng phải, đà có phép trời luật nước.
Ai nấy thì cho có hòa mục, cho tín hiệu lệnh, cho nghiêm sửa phép ( phép tắc đặt ra) ; hòa làm việc thiên-hạ đề công danh muôn đời, thực lộc thiên chung ( thiên chung là tiếng Hán, nghĩa là ăn lộc rất nhiều, chung là đơn vị đo lường ngũ cốc, thiên có nghĩa là vạn, triệu...)