Sau chiến tranh, ông Trãi có đoạn tranh cãi với Lương Đăng về lễ nhạc, éo mẹ, quân sư mà có khả năng viết sách Bình ngô, rồi làm thầy vua, mưu này chước nọ, thì éo bao giờ nó đi cãi nhau với 1 tay hoạn quan, rồi tức mà từ quan về vì việc đó.
Rồi Đại Việt sử ký toàn thư viết, Lê Sát và Phạm Vấn xử 7 tên ăn trộm ở lăng miếu hoàng gia, mấy đứa nhóc này còn nhỏ, giết thì tội, mà không giết thì ko còn phép nước. Thế là cãi nhau, hỏi ông Trãi thì ông bẩu nên nhân nghĩa. 2 cụ tổ kia mới hỏi: phiền ông dùng nhân nghĩa mà dạy chúng. N Trãi từ chối. Sau đó, họ xử mấy người còn lại bắt đi đày.
Xem đoạn đối thoại, éo bao giờ N Trãi là mưu công được. Kẻ có mưu chước, éo bao giờ cư xử như thế.
Có bảy tên ăn trộm can tội tái phạm, đều còn ít tuổi, hình quan chiếu luật đáng xử chém. Bọn
đại tư đồ Lê Sát thấy giết người nhiều quá, trong lòng ngần ngại. Vua đem việc ấy hỏi Thừa chỉ Nguyễn
Trãi. Trãi trả lời:
"Pháp lệnh không bằng nhân nghĩa cũng rõ lắm rồi. Nay một lúc giết bảy người, e không phải là
hành vi của bậc đại đức. Kinh Thư có câu: "An nhữ chỉ"
3
(hãy yên với chổ đứng của mình), sách truyện có
câu "Tri chỉ nhi hậu hữu định" (biết dừng rồi thì mới vững). Thần xin thuật lại nghĩa của chữ "chỉ" [26a]
để bệ hạ nghe:
"Chỉ" có nghĩa là yên với chổ đứng của mình, như trong cung là chổ đứng của bệ hạ, thỉnh
thoảng bệ hạ có ngự ra nơi khác, thì mới yên chổ đứng của mình được.
Người làm vua đối với nhân nghĩa cũng vậy, phải để lòng nơi nhân nghĩa, coi nhân nghĩa là chổ
đứng của mình. Tuy có lúc ra oai giận dữ, nhưng không thể như thế mãi được, xin bệ hạ lưu ý những lời
của thần".
Bấy giờ bọn Sát và Ngân nói:
"Ông có nhân nghĩa, có thể cảm hóa kẻ ác thành người thiện, xin giao chúng cho ông, phiền ông
cảm hóa cho".
Bèn bảo bọn Trãi và Thiên Tước nhận lấy những tên tù ấy. Trãi nói:
"Chúng là hạng trẻ con ương ngạnh, ranh mãnh, pháp chế của triều đình còn không trừng trị
được, huống hồ bọn chúng tôi đức mỏng, cảm hóa thế nào được".
Rồi sau xử chém 2 tên, còn lại thì xử đi đày.