[Funland] Sơ lược về lực lượng tên lửa thông thường của hàng xóm

Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Trung Quốc hạ thủy hai tàu khu trục Type 052D mới

1694339495709.png

Tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường Thái Nguyên (Hull 131) thuộc đội tàu khu trục cùng hải quân thuộc Bộ Tư lệnh Chiến khu miền Đông PLA di chuyển trong vùng biển Hoa Đông trong cuộc tập trận huấn luyện chiến đấu thực tế vào đầu tháng 11 năm 2021. Ảnh: China Military

Trung Quốc được cho là đã hạ thủy hai tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường Type 052D mới ở Đại Liên, tỉnh Liêu Ninh, Đông Bắc Trung Quốc hôm thứ Sáu, một động thái mà các nhà phân tích cho rằng sẽ góp phần thúc đẩy mục tiêu trở thành lực lượng hải quân biển xanh của Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA).

Trang web tin tức Wenweipo.com đưa tin, hai tàu chiến, được cho là chiếc Type 052D thứ 27 và 28 do Hải quân PLA đặt hàng, đã được hạ thủy từ Nhà máy đóng tàu Đại Liên, cùng với ba thân tàu bổ sung cùng loại vẫn đang được chế tạo tại xưởng.

Wenweipo.com cho biết lô tàu khu trục Type 052D mới này có thể nhận được những nâng cấp lớn cho hệ thống radar của chúng.

Vào tháng 8 năm 2022, truyền thông nước ngoài đưa tin Nhà máy đóng tàu Đại Liên và Nhà máy đóng tàu Trường Hưng Giang Nam có trụ sở tại Thượng Hải đã khởi động lại sản xuất hàng loạt.của tàu khu trục Type 052D, sau khi 25 tàu cùng loại được đưa vào biên chế trong Hải quân PLA.

1694339762042.png

Type 052D thứ 27

Wei Dongxu, chuyên gia quân sự ở Bắc Kinh, nói với Global Times rằng Type 052D đã chứng tỏ là tàu khu trục đáng tin cậy với công nghệ hoàn thiện nên là lựa chọn tốt để sản xuất hàng loạt.

Theo các báo cáo công khai, Type 052D được trang bị hệ thống radar quét mảng pha điện tử chủ động (AESA) tiên tiến được mệnh danh là "Aegis của Trung Quốc" và hệ thống phóng tên lửa thẳng đứng 64 ô có khả năng bắn các loại đạn bao gồm tên lửa đất đối không và tên lửa phòng không. tên lửa chống hạm.

Một chuyên gia quân sự Trung Quốc khác nói với Global Times hôm Chủ nhật rằng điều bình thường là trong quá trình sản xuất hàng loạt một loại tàu chiến, những thân tàu mới hơn có thể được nâng cấp do tiến bộ công nghệ và yêu cầu của người sử dụng.

1694339798228.png

Type 052D thứ 28

Một số tàu Type 052D trước đây đã được chế tạo với radar chống tàng hình mới, sàn đáp trực thăng mở rộng và hệ thống động cơ đẩy được nâng cấp, cùng những thay đổi khác so với các tàu đầu tiên , các phương tiện truyền thông cho biết.

Các nhà phân tích cho biết, việc tiếp tục sản xuất Type 052D cho thấy Hải quân PLA hài lòng với hiệu suất của nó và cần nhiều tàu này hơn để xây dựng khả năng hoạt động ở biển xa và bảo vệ chủ quyền, an ninh và lợi ích phát triển của TQ.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Triển vọng về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông

Ngày 13/7/2023, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN-Trung Quốc trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) lần thứ 56 được tổ chức ở Jakarta (Indonesia), Trung Quốc và các quốc gia thành viên ASEAN đã nhất trí về các hướng dẫn nhằm đẩy nhanh đàm phán về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) trong vòng 3 năm tới. Đại diện phía Trung Quốc tại hội nghị lần này là tân Ngoại trưởng Vương Nghị (Wang Yi), người vừa được bổ nhiệm thay thế Tần Cương (Qin Gang). Điều này thể hiện cam kết của Bắc Kinh về việc hoàn tất đàm phán COC. (Ngày 25/7/2023, Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc đã bỏ phiếu bãi nhiệm Tần Cương và bổ nhiệm Vương Nghị làm ngoại trưởng). Tuy nhiên, những quan điểm trái ngược nhau về bản chất của COC và các hành động của Trung Quốc trong vùng biển tranh chấp đặt ra những trở ngại đáng kể, để lại những nghi ngờ về tiến triển thực chất trong khung thời gian đã định.

1694490545851.png


Tiến bộ gây hoang mang

ASEAN đã mong muốn hoàn tất tiến trình đàm phán COC từ những năm 1990. Mong muốn này xuất hiện khi căng thẳng leo thang do 2 cuộc xung đột - giữa Trung Quốc với Việt Nam về đá Gạc Ma năm 1988 và giữa Trung Quốc với Philippines về đá Vành Khăn năm 1995. COC hướng tới mục tiêu giảm thiểu căng thẳng đang gia tăng trong khu vực và ngăn chặn căng thẳng leo thang thành xung đột vũ trang. Tuy nhiên, ASEAN không thể thuyết phục Trung Quốc ký vào một văn bản có tính ràng buộc. Năm 2002, ASEAN và Trung Quốc đã ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), vốn chỉ được xem là một “văn kiện chính trị mang tính nguyên tắc”. DOC không có tính ràng buộc và không ngăn chặn leo thang ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông).

1694490630880.png


Theo Ian Storey, chuyên gia Viện nghiên cứu Đông Nam Á (Singapore), quá trình đàm phán COC không đạt được tiến bộ nào kể từ năm 2002. Mãi đến tháng 1/2013, khi Philippines kiện Trung Quốc ra Tòa Trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) 1982, Bắc Kinh mới đột ngột chú ý trở lại đến việc đàm phán COC. Tuy nhiên, cũng trong năm 2013, Trung Quốc đã bắt đầu các hoạt động cải tạo và xây dựng trên 7 rạn san hô mà nước này kiểm soát ở quần đảo Trường Sa, với ý định biến những rạn san hô đó thành các căn cứ quân sự quan trọng. Lê Thu Hương, chuyên gia phân tích cao cấp Viện chính sách chiến lược Australia, cho biết: “COC đã trở thành mục tiêu được mong muốn nhưng khó đạt được. Mối quan ngại lớn là mục tiêu này có thể trở thành công cụ để Trung Quốc hợp pháp hóa các hành động của mình ở biển Nam Trung Hoa bằng cách tham gia quá trình này trong khi vẫn tìm cách phá hoại nó”.

1694490687621.png


Trung Quốc không thể hiện cam kết thực sự đối với COC cho đến khi Tòa Trọng tài ra phán quyết năm 2016, tuyên bố các yêu sách của Bắc Kinh dựa trên “đường 9 đoạn” - bao trọn 80% diện tích biển Nam Trung Hoa - là không hợp lệ và thiếu cơ sở pháp lý. Một mặt, Trung Quốc từ chối công nhận phán quyết này và cho rằng đó chỉ là một tờ giấy. Mặt khác, vì muốn tỏ ra là một cường quốc có trách nhiệm và tuân thủ luật pháp quốc tế, Trung Quốc ra sức thúc đẩy đàm phán COC nhằm cải thiện hình ảnh của mình trên trường quốc tế, đồng thời đổ lỗi cho Mỹ gây căng thẳng ở biển Nam Trung Hoa. Vì vậy, tháng 8/2017, ASEAN và Trung Quốc đã đi đến thống nhất về khuôn khổ cho các cuộc đàm phán COC tiếp theo.

Năm 2018, ASEAN và Trung Quốc đã nhất trí về dự thảo khung đàm phán cho COC. Trong bài phát biểu tại Singapore cuối năm 2018, Thủ tướng Trung Quốc khi đó là Lý Khắc Cường (Li Keqiang) đã kêu gọi hoàn tất quá trình đàm phán COC vào năm 2021, cũng với thời hạn 3 năm. Trọng tâm của Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 37 năm 2020 là hướng tới một COC “hiệu quả và thực chất”. Tuy nhiên, căng thẳng giữa Trung Quốc với các quốc gia ASEAN ở biển Nam Trung Hoa đã gia tăng khi tàu Trung Quốc tiếp tục xâm phạm Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của các nước Đông Nam Á như Việt Nam, Malaysia, Philippines và Indonesia.

1694490741494.png


Đại dịch COVID-19 cũng khiến đàm phán COC bị trì hoãn: Các bên không thể thực hiện các cuộc đàm phán trực tiếp; hội nghị được tổ chức dưới hình thức trực tuyến không đủ sức thuyết phục những người tham gia thảo luận về nhiều vấn đề nan giải và tế nhị. Ngoài ra, dù tiếp nhận vai trò điều phối quan hệ ASEAN-Trung Quốc trong giai đoạn 2021-2024, nhưng Myanmar lại chìm trong nội chiến kể từ cuộc đảo chính quân sự năm 2021. Trong bối cảnh Myanmar không có đại diện tại các hội nghị cấp cao ASEAN, việc tạo điều kiện thuận lợi cho đối thoại ASEAN-Trung Quốc trở nên khó khăn. Vì những lý do này mà thời hạn 3 năm đã trôi qua nhưng Trung Quốc và các nước ASEAN vẫn chưa đạt được bất kỳ tiến bộ đáng kể nào về COC.

......
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Những trở ngại ở Biển Đông

Tất cả các bên liên quan đều thừa nhận tầm quan trọng của hòa bình và sự ổn định ở biển Nam Trung Hoa. Họ cũng chia sẻ nhận thức chung về tầm quan trọng của việc duy trì an toàn, an ninh và quyền tự do trên biển theo luật pháp quốc tế. Hơn nữa, có một thỏa thuận tích cực thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực khác nhau, chẳng hạn như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học, đảm bảo an toàn trên biển, chống tội phạm xuyên quốc gia và bảo tồn tài nguyên biển.

Tuy nhiên, vẫn có bất đồng nghiêm trọng trong các lĩnh vực khác. Dường như mục tiêu cuối cùng của Trung Quốc là nắm giữ toàn bộ chủ quyền và quyền kiểm soát đối với biển Nam Trung Hoa. Trong khi đó, Indonesia, Malaysia, Việt Nam và Philippines cũng tuyên bố chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ tranh chấp ở vùng biển này. Tuy nhiên, họ nhấn mạnh sự cần thiết phải đảm bảo trên hết quyền tự do đi lại trên biển. Một vấn đề hóc búa khác là Trung Quốc không công nhận phán quyết của Tòa Trọng tài năm 2016, và điều này gây bất lợi cho cơ chế quản trị gắn liền với UNCLOS. Việc không tuân thủ các quy định của UNCLOS và phán quyết của Tòa Trọng tài là nút thắt đầu tiên cản trở việc giải quyết tranh chấp hiệu quả ở biển Nam Trung Hoa. Việt Nam và Philippines là các bên ủng hộ tích cực nhất việc thực hiện COC theo UNCLOS.

1694490839046.png


Trung Quốc nỗ lực tìm cách thuyết phục các nước khác công nhận các yêu sách của họ bên trong “đường 9 đoạn”. Chẳng hạn, Bắc Kinh đề xuất rằng các dự án khai thác dầu khí ở biển Nam Trung Hoa chỉ nên có sự tham gia của các quốc gia tiếp giáp vùng biển này. Động thái này phù hợp với lập trường lâu nay của Bắc Kinh, kêu gọi các nước có tuyên bố chủ quyền ở biển Nam Trung Hoa hợp tác với Trung Quốc trong việc khai thác các nguồn năng lượng ở các khu vực tranh chấp. Tuy nhiên, các khu vực tranh chấp mà Trung Quốc đề cập đến bao gồm cả EEZ của một số quốc gia Đông Nam Á.

1694490909333.png


Một vấn đề khác gây bất đồng liên quan đến các hành động bị cấm theo COC. Trung Quốc không muốn các nước Đông Nam Á tiến hành tập trận chung ở biển Nam Trung Hoa với hải quân các nước ngoài khu vực. Hầu hết các quốc gia thành viên ASEAN phản đối điều khoản này và nhấn mạnh quyền trên biển của họ theo UNCLOS, bao gồm cả quyền tiến hành hoạt động với các công ty nước ngoài. Ngoài ra, Việt Nam mong muốn các bên tự kiềm chế bằng cách không xây dựng đảo nhân tạo, không quân sự hóa các đảo san hô mà họ chiếm giữ, cũng như không quấy rối ngư dân, công ty dầu khí và tàu tiếp tế. Việt Nam cũng kêu gọi cấm thiết lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên biển Nam Trung Hoa - điều mà Trung Quốc đã ngầm đe dọa thực hiện. Việt Nam muốn COC được áp dụng đối với tất cả các cấu trúc địa hình có tranh chấp ở biển Nam Trung Hoa, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa - vốn bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép vào năm 1974 nhưng vẫn nằm trong tuyên bố chủ quyền của Việt Nam. Trung Quốc không công nhận rằng họ có tranh chấp với Việt Nam về quần đảo này. Bất đồng này khiến tiến trình COC khó đạt được sự đồng thuận trong tương lai.

Sự đồng thuận trong tương lai?

Việc hóa giải bất đồng về quan điểm giữa các bên trong khu vực theo khuôn khổ COC là một thách thức lớn. Các cột mốc COC được đề xuất phản ánh mong muốn của cả Trung Quốc lẫn các quốc gia thành viên ASEAN, nhưng vẫn chưa thành hiện thực. Năm 2018, Trung Quốc tự đặt ra mốc 3 năm hoàn tất tiến trình đàm phán COC, nhưng điều này vẫn chưa thực hiện được. Lần này, ASEAN và Trung Quốc kiên trì thiết lập một khung thời gian 3 năm khác để hoàn tất tiến trình, nhưng khả năng đạt được mục tiêu này vẫn là điều đáng nghi ngại.

1694490997952.png


Đàm phán COC bị bế tắc vì 2 trở ngại lớn. Rào cản lớn thứ nhất là sự bất đồng về việc liệu COC có nên là văn bản mang tính ràng buộc về mặt pháp lý hay không. Một số quốc gia ASEAN, như Việt Nam, ủng hộ một COC mang tính ràng buộc về mặt pháp lý để buộc Trung Quốc phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi vi phạm và tìm kiếm giải pháp thông qua các tòa án quốc tế. Tuy nhiên, Trung Quốc hết lần này đến lần khác phản đối cách tiếp cận này, bằng chứng là họ đã phủ nhận phán quyết của Tòa Trọng tài năm 2016. Trở ngại thứ hai nằm ở việc Trung Quốc sử dụng chiến thuật “vùng xám” trong khu vực, đặc biệt là ở các EEZ của Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam. Năm 2022, Philippines đã gửi 193 công hàm phản đối việc tàu Trung Quốc vi phạm EEZ của họ. Các vụ việc gần đây, chẳng hạn như việc 48 tàu đánh cá Trung Quốc tập trung tại EEZ của Philippines và việc Việt Nam yêu cầu một tàu nghiên cứu của Trung Quốc rời khỏi EEZ của mình sau 28 ngày quấy rối, nêu bật tình trạng căng thẳng và những thách thức mà các nước ASEAN phải đối mặt trong việc thực thi các quyền trên biển.

1694491037895.png


Trước thực tế và bất đồng này, nhiều người nghi ngờ khả năng đạt được những tiến bộ đáng kể về COC trong khung thời gian 3 năm đã định. Lập trường khác nhau về bản chất pháp lý của COC và các hành động quyết đoán của Trung Quốc ở vùng biển tranh chấp gây ra những trở ngại đáng kể cho việc đạt được một thỏa thuận thực chất và toàn diện. Nếu không có giải pháp cho những vấn đề cơ bản này, thì triển vọng đạt được một COC có ý nghĩa và khả thi vẫn không chắc chắn.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Bắc Kinh mở rộng khả năng giám sát trên không trên Biển Hoa Đông

1694491181767.png


Lực lượng Không quân Hải quân của Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLANAF) có thể sẽ tăng số lượng máy bay cảnh báo sớm cánh cố định, tình báo điện tử (ELINT) và máy bay tuần tra hàng hải có thể hoạt động từ Căn cứ Không quân Lai Dương ở Đông Bắc Trung Quốc.

Căn cứ không quân Lai Dương là nơi đặt trụ sở của Trung đoàn không quân số 4 của PLANAF và là một trong hai cơ sở quan trọng mà lực lượng này triển khai phi đội máy bay tình báo, giám sát và trinh sát (ISR).

Chúng bao gồm máy bay cảnh báo và kiểm soát sớm trên không (AEW&C) của Tập đoàn Máy bay Thiểm Tây (SAC) và nền tảng giám sát hàng hải Y-8J.

1694491214887.png

Hình ảnh của Maxar Technologies cho thấy việc mở rộng cơ sở hạ tầng tại Căn cứ Không quân Laiyang ở Trung Quốc. Lai Dương là nơi đặt Trung đoàn Không quân số 4 của PLANAF, vận hành nhiều loại máy bay giám sát.

Cơ sở chính khác nơi những chiếc máy bay này được vận hành là Căn cứ Không quân Lingshui trên đảo Hải Nam, nơi có Sư đoàn 9 của PLANAF.

Hình ảnh vệ tinh cho thấy PLANAF đã mở rộng giới hạn phía tây bắc của Căn cứ Không quân Lai Dương kể từ đầu năm 2022. PLANAF cũng đã bắt đầu xây dựng ít nhất 11 nhà chứa máy bay lớn trong không gian mới giành được.

Mỗi nhà chứa máy bay này có kích thước khoảng 32×60 m và có thể chứa nhiều khung máy bay ISR khác nhau bao gồm KJ-200 và Y-8J. Các nhà chứa máy bay mới sẽ bổ sung cho sáu nhà chứa máy bay có kích thước 40×58 m hiện có tại căn cứ không quân.

1694491319518.png

Y-8J.

KJ-200 chạy bằng động cơ cánh quạt được trang bị radar mảng pha tuyến tính phía sau, tương tự như radar Saab Erieye AEW&C, và radar này được gắn trên các thanh chống phía trên thân sau của nó. Nếu tính năng của nó tương tự như Erieye thì máy bay có phạm vi cảm biến khoảng 450 km.

Y-8J là một biến thể của khung máy bay Y-8 bốn động cơ của Trung Quốc, được lấy từ Antonov An-12 của Nga. Y-8J được trang bị radar giám sát hàng hải Racal Skymaster và biến thể phụ của nó, Y-8JB, được cho là được cấu hình cho các nhiệm vụ ELINT.

Một khi việc mở rộng này hoàn thành, PLANAF sẽ có thể tăng tần suất các nhiệm vụ tuần tra hàng hải mà chúng thực hiện từ Căn cứ Không quân Lai Dương. Điều này sẽ cải thiện khả năng của Trung Quốc trong việc giám sát hoạt động của máy bay và tàu hoạt động ở Hoàng Hải (Biển Tây) và Biển Hoa Đông.

Do vị trí địa lý, Trung Quốc từ lâu đã nhận thấy các cơ sở quân sự ven biển của mình đặc biệt dễ bị tổn thương trước các hoạt động giám sát của máy bay Mỹ hoạt động ngoài lãnh thổ Nhật Bản và Hàn Quốc, cả hai quốc gia này đều có mối quan hệ quân sự chặt chẽ với Washington.

1694491392362.png

KJ-200

Lỗ hổng được nhận thấy này sẽ càng trầm trọng hơn do sự gia tăng số lượng máy bay Mỹ sẽ sớm hoạt động trong khu vực. Vào tháng 1 năm 2023, chính phủ Nhật Bản tuyên bố đã bắt đầu xây dựng một căn cứ không quân mới trên Đảo Mage ở tỉnh Kagoshima phía tây nam. Căn cứ không quân sẽ được sử dụng bởi các máy bay chiến đấu trên tàu sân bay của Mỹ.

Là một phần trong nỗ lực giám sát hoạt động trên không ở các vùng tiếp cận ven biển của mình, Bắc Kinh đã tuyên bố vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên Biển Hoa Đông vào năm 2013. Tuy nhiên, ADIZ này không có tính ràng buộc về mặt pháp lý, chồng chéo với các vùng nhận dạng của Nhật Bản và Hàn Quốc và không được Mỹ và các nước láng giềng công nhận. Với việc mở rộng Căn cứ Không quân Lai Dương, PLANAF cũng sẽ được trang bị tốt hơn để thực thi ADIZ này thông qua các hoạt động đánh chặn, và Bắc Kinh có thể sẽ có lập trường táo bạo hơn trước những máy bay được cho là đang xâm phạm không phận của họ ở đây.

1694491454005.png

TQ tuyên bố vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên Biển Hoa Đông
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Israel chuyển giao công nghệ sang Trung Quốc, biến J-10 thành F-16 của 'Trung Quốc'

Nguyên mẫu đầu tiên của J-10 được hoàn thành vào tháng 6 năm 1997. Lần bay đầu tiên của nó, một sự kiện quan trọng trong lịch sử hàng không, diễn ra vào ngày 23 tháng 3 năm 1998. Bất chấp vị thế của máy bay chiến đấu J-10 là điểm nhấn trong chương trình máy bay chiến đấu bản địa của Trung Quốc, các báo cáo cho thấy có thể có mối liên hệ giữa Công nghiệp Hàng không Vũ trụ Israel và Hiệp hội Xây dựng Hàng không Trung Quốc trong giai đoạn thiết kế của J-10.

1694508338510.png

J-10

Các báo cáo tiết lộ rằng người Israel đã bí mật chia sẻ thông tin mật với CAC về LAVI, một loại máy bay chiến đấu do Mỹ tài trợ vào những năm 1980 của Israel. Quá trình phát triển máy bay này đã bị dừng lại ở giai đoạn đầu khi Mỹ ngừng tài trợ cho nó.

LAVI bao gồm rất nhiều công nghệ có trụ sở tại Hoa Kỳ. Một số đặc điểm giống với máy bay chiến đấu F-16 của Lockheed Martin, cho thấy sức mạnh công nghệ của Mỹ. Có khả năng J-10 sử dụng công nghệ của Mỹ, bao gồm hệ thống điện tử hàng không tiên tiến, vật liệu composite và hệ thống điều khiển bay cụ thể, làm nổi bật những ảnh hưởng quốc tế trong thiết kế của nó.

1694508405834.png

LAVI

Hạn chế về công nghệ

Ảnh hưởng của Israel đối với thiết kế của J-10 là đáng chú ý, đặc biệt là ở cấu hình cánh mũi-tam giác độc đáo của nó. Tuy nhiên, những khác biệt như kích thước tăng lên, hình dạng cánh được sửa đổi và khoảng cách giữa cánh mũi và cánh tăng lên khiến nó khác biệt với LAVI.

Do những hạn chế về công nghệ, Trung Quốc không thể sử dụng động cơ Pratt & Whitney PW1120 nhỏ gọn của LAVI. Điều này là do không có khả năng sản xuất các bộ phận composite nhẹ ở quy mô lớn. Do đó, thiết kế của J-10 đã được thay đổi và mở rộng để phù hợp với động cơ phản lực cánh quạt AL-31F của Liên Xô, tạo ra một chiếc máy bay phản lực nặng 11,75 tấn.

1694508488710.png


J-10A và J-10AH được mở rộng bằng loại J-10AS hoặc J-10ASH hai chỗ ngồi. Mẫu này được thiết kế để sử dụng trên biển và được đưa vào PLAAF vào năm 2005, đánh dấu sự cống hiến của Trung Quốc trong việc phát triển hàng không quân sự. Với cấu hình hai chỗ ngồi, J-10 là một tiến bộ quan trọng trong ngành hàng không. Cột sống lưng lớn hơn của nó chứa các thiết bị điện tử thiết yếu.

Vào tháng 3 năm 2009, thông tin chi tiết về J-10B, phiên bản tiếp theo của J-10 đã được tiết lộ. Tính năng chính của nó là động cơ Saturn-Lyuika AL-3FN Series 3, tạo ra lực đẩy lớn hơn các động cơ trước đó.

1694508592798.png

J-10B

J-10B có công nghệ quân sự tiên tiến bao gồm tìm kiếm và theo dõi hồng ngoại [IRST], quả cầu đo khoảng cách bằng laser và buồng lái kính kỹ thuật số với ba màn hình màu có độ phân giải cao. Nó cũng có màn hình gắn trên mũ bảo hiểm và màn hình ba chiều trên kính chắn gió trong buồng lái.

PESA và AESA

Máy bay sử dụng radar mảng quét điện tử thụ động [PESA] băng tần X tiên tiến của Viện số 607 uy tín. Đây là lần đầu tiên công nghệ như vậy được lắp đặt trên máy bay chiến đấu của Trung Quốc.

Rupprecht cho rằng J-10B được thiết kế để trang bị radar quét mảng điện tử chủ động [AESA] do Viện 14 nổi tiếng phát triển. Tuy nhiên, do sự chậm trễ đáng tiếc nên nó chỉ được đưa vào sản xuất vào giữa năm 2013. Mẫu J-10B bắt đầu được sản xuất hàng loạt và ngay sau đó, biến thể J-10C mới nhất được phát hiện vào cuối tháng 12 năm 2013. J-10C được trang bị radar AESA cải tiến và kể từ năm 2019, có bản nâng cấp của động cơ Thẩm Dương WS-10 . Đây là động cơ phản lực cánh quạt đầu tiên được Trung Quốc sản xuất thành công dành riêng cho máy bay chiến đấu.

1694508684541.png


Công nghệ máy bay của Trung Quốc tụt hậu so với nền tảng F-16 khoảng 15 năm và thậm chí còn chậm hơn so với các máy bay chiến đấu tiên tiến như F-35. Tuy nhiên, mẫu J-10 hiện tại có một tính năng mà F-16 thiếu: điều khiển vectơ lực đẩy. Tính năng này cải thiện khả năng cơ động của máy bay bằng cách kiểm soát hướng xả của động cơ phản lực, cho phép nó di chuyển theo những cách không ngờ tới.

Động cơ vectơ lực đẩy của J-10

Được giới thiệu lần đầu tiên tại Hoa Kỳ vào đầu những năm 1990, điều khiển vectơ lực đẩy thay đổi cách máy bay điều hướng bằng cách điều khiển hướng xả của động cơ. Điều này giúp máy bay có thể di chuyển theo hướng ngược lại với đường đi trước mắt của nó.

Sử dụng công nghệ này, máy bay có thể thay đổi hướng đột ngột, tăng độ cao, giảm tốc độ đáng kể hoặc thực hiện các thao tác bất thường khác. Điều này có thể thực hiện được nhờ hệ thống điều khiển bằng máy tính nhanh chóng biến đầu vào điều khiển của phi công thành hành động, loại bỏ nhu cầu tính toán phức tạp. Phi công chỉ ra lệnh và máy bay thực hiện các bước cần thiết để hoàn thành thao tác.

1694508812722.png


Trong các thiết kế máy bay thời kỳ đầu, cánh lái được sử dụng để thay đổi lực đẩy của động cơ và đổi hướng. Nó tương tự như việc thay đổi hướng dòng chảy của vòi tưới vườn bằng ngón tay cái của bạn. Công nghệ vectơ lực đẩy hiện đại, chẳng hạn như vòi phun lực đẩy có thể di chuyển, hiện đã thay thế các cánh khuấy này. Công nghệ này được thấy rõ nhất ở F-22 Raptor, có thể thay đổi góc đẩy lên tới 24 độ theo bất kỳ hướng nào.

Tương tự, Nga đã tích hợp công nghệ này vào các máy bay chiến đấu Sukhoi Su-30 , Su-35Su-57 của họ , chứng tỏ tính hiệu quả của nó. Điều này làm tăng hiệu suất của máy bay và đặt ra tiêu chuẩn cao hơn về công nghệ máy bay. Năm 2017, một triển lãm hàng không ở Nga đã trình diễn những thao tác ấn tượng của Su-35, được ghi nhận là Hệ thống Kiểm soát Véc tơ Lực đẩy [TVC]. Ngày nay, J-10 của Trung Quốc cũng đã áp dụng công nghệ này, gia nhập nhóm máy bay chiến đấu ưu tú nổi tiếng với khả năng cơ động vượt trội.

1694508928443.png
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Tâm điểm của cuộc chiến công nghệ Trung-Mỹ

Mỹ và Trung Quốc đang tiến hành cuộc chiến quyết liệt trong lĩnh vực then chốt là công nghệ cao, đặc biệt là chip bán dẫn, tâm điểm của cuộc cách mạng công nghiệp mới. Cuộc chiến này làm nổi bật mong muốn của Mỹ là kiềm chế bằng mọi giá sự trỗi dậy của Trung Quốc, điều mà cho đến gần đây dường như không thể cưỡng lại được.

Sở dĩ vấn đề Đài Loan chi phối căng thẳng Trung-Mỹ là vì nơi đây sản xuất các chip bán dẫn quan trọng nhất thế giới. Chỉ riêng gã khổng lồ TSMC đã chiếm tới 58% doanh số bán chip điện tử trên toàn cầu. Chip bán dẫn có giá trị chiến lược quan trọng bởi chúng có mặt ở khắp mọi nơi: trí tuệ nhân tạo (AI), mạng 5G, xe cộ, điện thoại thông minh, máy tính, hệ thống máy chủ, bệnh viện, ứng dụng quân sự, vật thể kết nối hay đơn giản hơn là Internet, kỹ thuật số nói chung.

Nhận thức được lợi ích địa chiến lược của chất bán dẫn, trong những năm gần đây, Chính quyền Washington đã nỗ lực thuyết phục các đồng minh của Mỹ áp dụng lệnh cấm vận đối với việc cung cấp các con chip tiên tiến nhất cho Trung Quốc. Và Mỹ đã thực hiện thành công điều này.

Nhật Bản và Hàn Quốc, những quốc gia đi đầu trong sản xuất chip, cũng như hầu hết các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu (EU) đã hưởng ứng lời kêu gọi của Mỹ. Mới đây nhất, tập đoàn ASML của Hà Lan, nhà cung cấp hàng đầu thế giới về máy quang khắc cho ngành công nghiệp bán dẫn, thông báo rằng họ không thể tiếp tục xuất khẩu những công cụ quý giá này cho Trung Quốc. Ngày 30/6, Hà Lan chính thức quyết định liên kết với Mỹ.

Quyền phát triển của Trung Quốc

Quyết định của Hà Lan ngay lập tức gây nên sự tức giận của Chính quyền Bắc Kinh. Theo người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mao Ninh (Mao Ning), biện pháp này là “mối đe dọa” đối với “quyền phát triển của Trung Quốc”. Dexter Roberts, chuyên gia phân tích từ Hội đồng Đại Tây Dương của Mỹ được BBC trích dẫn, cho rằng quyết định của Hà Lan là “bước tiến thực sự, chiến thắng thực sự đối với Mỹ và cũng là tin xấu đối với Trung Quốc”.

Nhưng Bắc Kinh không dừng lại ở đó. Trung Quốc thực sự có vũ khí trả đũa đáng gờm: đất hiếm, được dùng để sản xuất các chip điện tử tinh xảo, cần thiết trong lĩnh vực quốc phòng cũng như trong mạng 5G, sản xuất tấm quang điện và các mạch tích hợp. Tại Bắc Kinh, ngày 3/7, Bộ Thương mại và Cục Hải quan Trung Quốc đã thông báo kể từ ngày 1/8, việc xuất khẩu gali và germani, các kim loại hiếm quan trọng để sản xuất vật liệu bán dẫn, sẽ phải được cấp thị thực “để bảo vệ an ninh và lợi ích quốc gia”. Hôm sau, Bắc Kinh tuyên bố các biện pháp này “chỉ là khởi đầu” cho khả năng trả đũa của Trung Quốc.

Tờ Thời báo Hoàn Cầu cho biết: “Trung Quốc đã nhiều lần bày tỏ thái độ không hài lòng với quyết định của Hà Lan. Khi Mỹ và đồng minh tiếp tục mở rộng cuộc chiến về chất bán dẫn và các biện pháp đàn áp về công nghệ, việc Trung Quốc thực hiện các biện pháp chủ động để bảo vệ sự phát triển công nghệ cũng như an ninh và các lợi ích quốc gia là điều bình thường và thậm chí là rất quan trọng”.

Vương Lập Tư (Wang Jisi), Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược và quốc tế thuộc Đại học Bắc Kinh, nhận định: “Mỹ coi Trung Quốc là mối đe dọa chính trong trung hạn và dài hạn, và Trung Quốc cũng coi Mỹ là mối đe dọa chính đối với chế độ Trung Quốc”. Việc siết chặt xuất khẩu đất hiếm của Trung Quốc chỉ là “món khai vị” của tình trạng căng thẳng sắp tới. Gali là kim loại được thấy trong mạch tích hợp, tấm quang điện, và là kim loại quý giúp tăng khả năng chống chịu của chip, đặc biệt là trong không gian vũ trụ. Germani rất cần thiết cho sợi quang và tia hồng ngoại. Gali thô được tìm thấy ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Nga. Riêng về nguồn cung germani, các nhà phân tích cho rằng có quá ít lựa chọn thay thế. Với trữ lượng lớn về kim loại hiếm này, Mỹ phải gấp rút xây dựng các nhà máy chế biến.

Kể từ tháng 8/2023, các nhà xuất khẩu Trung Quốc sẽ phải xin cấp phép của Bộ Thương mại nếu họ muốn bắt đầu hoặc tiếp tục xuất khẩu 2 loại kim loại hiếm này ra nước ngoài. Họ cũng sẽ phải khai báo chi tiết về người mua ở nước ngoài và nhu cầu của người mua. Những hạn chế này là sự tiếp tục đầy logic chiến lược của Bắc Kinh nhằm tăng cường quyền tự chủ trong việc chế tạo chip bán dẫn.

....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Theo phân tích đầu tiên, mối đe dọa đối với đất hiếm có thể là nguy cơ thấp. Theo The Wall Street Journal, giá trị xuất khẩu germani và gali thô và tinh chế của Trung Quốc năm 2022 lần lượt đạt 36 triệu USD và 54 triệu USD. Tuy nhiên, tác động có thể là đáng kể bởi ngay cả khi thị trường cho những kim loại này vẫn còn tương đối khiêm tốn, chúng vẫn mang tính chiến lược. Theo báo cáo của Ủy ban châu Âu được công bố 3 năm trước, ít nhất 80% khoáng sản tinh chế đến từ Trung Quốc. Những kim loại hiếm này được sử dụng để sản xuất chip điện tử được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực quốc phòng.

Đó là lời cảnh báo, chứ không phải đòn trí mạng. Các nhà xuất khẩu Trung Quốc phải được cấp phép và không có dấu hiệu nào cho thấy các kim loại hiếm sẽ bị cấm xuất khẩu một cách có hệ thống tới một số quốc gia. Theo báo cáo tháng 1/2023 của Viện nghiên cứu địa chất Mỹ, trong giai đoạn 2018-2021, Mỹ đã nhập khẩu 100% lượng gali của họ, cho dù thị phần gali của Trung Quốc đã giảm xuống còn 53%.

“Thiệt hại khổng lồ”

Cuộc chiến chip bán dẫn đang diễn ra giữa Washington và Bắc Kinh có nguy cơ gây “thiệt hại khổng lồ” cho các công ty Mỹ. Những biện pháp của Washington nhằm hạn chế xuất khẩu chip tới Trung Quốc đã khiến các công ty ở Thung lũng Silicon bị “trói tay”. Chúng có thể dẫn đến việc Trung Quốc đẩy nhanh nỗ lực thoát khỏi công nghệ phương Tây trong lĩnh vực này và do đó có thể trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp một ngày nào đó. Jensen Huang, Giám đốc điều hành (CEO) của Tập đoàn công nghệ Nvidia, cảnh báo : “Nếu Trung Quốc không thể tiếp tục mua của Mỹ, thì họ sẽ tự sản xuất chip bán dẫn. Do vậy, Mỹ cần thận trọng. Trung Quốc là thị trường quan trọng đối với các ngành công nghiệp công nghệ cao”.

Tuy nhiên, các chuyên gia trong lĩnh vực này tin rằng Trung Quốc sẽ phải nỗ lực rất nhiều trong đầu tư và nghiên cứu để có thể bắt kịp Mỹ trong lĩnh vực này trong khoảng 15 năm nữa.

Trung Quốc chỉ trích Chính quyền Biden không rút lại các biện pháp trừng phạt thương mại mà Chính quyền Trump đã áp đặt đối với họ và “bổ sung” cuộc chiến công nghệ vào cuộc chiến thương mại. Tại Diễn đàn hòa bình thế giới, hội nghị quốc tế do Đại học Thanh Hoa ở Bắc Kinh tổ chức vào mùa Hè hằng năm, Ngô Tâm Bá (Wu Xinbo), giáo sư ngành quan hệ quốc tế Đại học Phúc Đán ở Thượng Hải, nhấn mạnh: “Các lệnh trừng phạt hải quan vẫn vượt quá 300 tỷ USD và hơn 1.300 công ty Trung Quốc nằm trong danh sách trừng phạt của Mỹ. Đây là mối quan ngại chính của chúng tôi”.

Cuộc chiến tranh tàn khốc mà Nga tiến hành ở Ukraine từ ngày 20/2/2022 đã củng cố thêm quyết tâm của Mỹ, bởi nhiều nước phương Tây lo ngại rằng Trung Quốc sẽ cung cấp vũ khí cho Nga để giành lại lợi thế ở Ukraine. Tháng 10/2022, Mỹ đã áp đặt các biện pháp hạn chế xuất khẩu các thiết bị sản xuất chip của Mỹ tới Trung Quốc.

Washington biện minh rằng những biện minh hạn chế này nhằm bảo vệ các công nghệ chiến lược quốc gia cũng như kìm hãm sự phát triển của Trung Quốc, đặc biệt trong lĩnh vực vũ khí công nghệ cao như tên lửa siêu thanh. Mỹ có thể trông cậy vào Nhật Bản, quốc gia đã thông qua các quy tắc (có hiệu lực từ ngày 23/7) nhằm hạn chế xuất khẩu 23 loại thiết bị sản xuất chất bán dẫn. Nhật Bản thực sự là quê hương của những tập đoàn “nặng ký” khác về công nghệ cao như Nikon và Tokyo Electron. Tháng 12/2022, Washington đã bổ sung nhà sản xuất bộ nhớ điện tử YMTC cùng hàng chục công ty khác của Trung Quốc vào danh sách đen.

....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Các đặc phái viên Mỹ tại Bắc Kinh

Tuy nhiên, những sự kiện mới nhất này không ngăn cản được chuyến thăm đầu tháng 7 của Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen tới Bắc Kinh. Trước khi trở về Washington, bà đã lưu ý về “sự tiến triển” trong quan hệ giữa hai siêu cường toàn cầu. Bà nói: “Tôi tin rằng các cuộc đàm phán song phương kéo dài 10 giờ trong 2 ngày qua đã thể hiện bước tiến trong nỗ lực của chúng tôi nhằm đưa quan hệ Mỹ-Trung lên một nền tảng vững chắc hơn”.

Cũng như Ngoại trưởng Antony Blinken, bà mong muốn xoa dịu mối quan hệ Trung-Mỹ đang “căng như dây đàn” và ở mức xấu nhất kể từ năm 1979, ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Washington và Bắc Kinh. Bà khẳng định: “Tổng thống Joe Biden và tôi không cho rằng mối quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc bị đặt trong khuôn khổ một cuộc xung đột giữa các siêu cường. Chúng tôi tin rằng thế giới đủ lớn để cả hai nước cùng thịnh vượng”. Đồng thời, bà cáo buộc Trung Quốc có những hành vi thương mại không trung thực đối với các công ty Mỹ.

Rõ ràng, Chính quyền Bắc Kinh cũng đã thể hiện thiện chí ở mức độ nhất định, cũng như mong muốn cải thiện bầu không khí giữa Bắc Kinh và Washington. Một số quan chức cấp cao của Trung Quốc, cụ thể là Thủ tướng Lý Cường (Li Qiang), Phó Thủ tướng Hà Lập Phong (He Lifeng) và Bộ trưởng Tài Chính Lưu Côn (Liu Kun) đã gặp riêng Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen. Mặc dù Bắc Kinh đã nhân cơ hội này để tái khẳng định những chỉ trích của họ đối với các biện pháp trừng phạt thương mại của Mỹ mà cựu Tổng thống Donald Trump đã thông qua và được người kế nhiệm của ông duy trì, nhưng ngày 10/7, người phát ngôn của Bộ Tài chính Mỹ vẫn tuyên bố hai nước đã chấp thuận “tiếp tục các trao đổi cấp cao”.

Vương Nghị (Wang Yi) và Anthony Blinken đã gặp lại nhau hôm 13/7 tại Jakarta bên lề Hội nghị cấp cao ASEAN trong 90 phút đàm phán được phía Mỹ mô tả là “thẳng thắn và hiệu quả”. Theo thông tin từ các phương tiện truyền thông Mỹ, Ngoại trưởng Mỹ đã nhân cơ hội này phàn nàn về việc các cơ quan gián điệp Trung Quốc luôn tìm cách đột nhập hộp thư điện tử của quan chức Chính quyền Washington,.

Việc nối lại đối thoại Trung-Mỹ được tiếp tục vào ngày 16/7 với chuyến thăm của John Kerry, Đặc phái viên của Tổng thống Mỹ Joe Biden về biến đổi khí hậu, tới Trung Quốc. Cùng với các chuyến thăm liên tiếp này, Bắc Kinh thể hiện rõ ràng mong muốn nối lại đối thoại với Mỹ vào lúc đồng minh Nga đang liên tiếp thất bại ở Ukraine cũng như trên trường quốc tế và nền kinh tế Trung Quốc đang có những dấu hiệu đáng lo ngại.

Một văn phòng NATO ở Tokyo?

Nhưng Bắc Kinh có lý do để lo lắng về giọng điệu chỉ trích rõ ràng đối với họ tại Hội nghị thượng đỉnh NATO diễn ra trong ngày 11-12/7 tại Vilnius. Đây là lần thứ hai 4 quốc gia châu Á-Thái Bình Dương là Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand đều góp mặt.

Sau cuộc hội đàm tại Vilnius với Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida, Thủ tướng Australia Anthony Albanese, Thủ tướng New Zealand Chris Hipkins và Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk Yeol, trước sự hiện diện của Chủ tịch Ủy ban châu Âu Ursula von der Leyen và Chủ tịch Hội đồng châu Âu Charles Michel, NATO đã ra thông cáo tuyên bố Trung Quốc đã “thể hiện tham vọng và theo đuổi các chính sách ép buộc trái với lợi ích, an ninh và giá trị của chúng ta”.

Trong thông cáo này, các nhà lãnh đạo NATO cũng nhận định Trung Quốc đã “sử dụng một loạt công cụ chính trị, kinh tế và quân sự để tăng cường sự hiện diện trên thế giới và phô trương sức mạnh. Đồng thời, Trung Quốc duy trì chính sách mơ hồ về chiến lược, các ý đồ và việc củng cố lực lượng quân sự. Các hoạt động hỗn hợp, các mạng độc hại và các phát biểu của họ mang tính thù địch và bóp méo thông tin nhằm vào các đồng minh và xâm phạm an ninh của liên minh”. Giọng điệu này mạnh mẽ hơn nhiều so với giọng điệu tại hội nghị thượng đỉnh gần đây nhất ở Madrid năm 2022, khi 31 quốc gia thành viên chỉ nêu ra “thách thức Trung Quốc”.

Tuy nhiên, một lần nữa, Pháp dường như muốn đi lối riêng trong việc đối phó với Trung Quốc. Emmanuel Macron đã phủ quyết việc mở văn phòng NATO tại Tokyo, dự án đã được thảo luận từ nhiều tháng qua tại NATO nhưng không được đề cập đến trong thông cáo cuối cùng của hội nghị thượng đỉnh tại Vilnius. Ngày 12/7, một quan chức của Điện Elysée đã trả lời tờ báo mạng Politico (Mỹ) rằng “về nguyên tắc, chúng tôi không ủng hộ điều đó” vì Tokyo nằm ngoài khu vực địa lý do NATO kiểm soát. “Bản thân các nhà chức trách Nhật Bản đã nói với chúng tôi rằng họ không mấy quan tâm đến vấn đề này”.

Cũng trong buổi phỏng vấn của tờ báo mạng này, một quan chức Nhật Bản giấu tên cho biết cách giải thích của Pháp là “không đúng” và khẳng định Chính phủ Nhật Bản “rất hợp tác” với NATO. Chính quyền Kishida “luôn nhắc nhở các nhà lãnh đạo châu Âu rằng Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và châu Âu-Đại Tây Dương là những khu vực phụ thuộc lẫn nhau”.

Một quan chức NATO nhận định lập trường của Pháp là “đạo đức giả” vì NATO đã mở một văn phòng như vậy ở Trung Á và không thành viên nào của NATO phản đối cho dù Trung Á nằm ngoài khu vực địa lý tự nhiên của NATO. Mới đây, cựu Tổng thư ký NATO Anders Fogh Rasmussen đã đến thăm Đài Loan và sau đó kêu gọi các nước phương Tây tuyên bố công khai rằng họ sẽ không cho phép sử dụng vũ lực chống lại Đài Loan.

Ngày 8/7, tờ The Wall Street Journal viết: “NATO được thành lập để ngăn cản xe tăng và tên lửa ở châu Âu”. Giờ đây, tổ chức này còn đóng vai trò ngăn chặn tham vọng toàn cầu của Trung Quốc. Một số quốc gia thành viên lo lắng về một sự chệch hướng của NATO, còn Bắc Kinh cáo buộc NATO tìm cách đối đầu với Trung Quốc. Tờ báo này nhắc lại rằng NATO rõ ràng đang tìm cách “xây dựng mối quan hệ chặt chẽ hơn với các quốc gia có chung mối quan ngại về vấn đề Trung Quốc”. Trong bối cảnh trên, hàng chục quan chức quân sự NATO đã bí mật tới Đài Loan để thảo luận với quan chức hòn đảo về những mối đe dọa này.

Tranh cãi về việc thành lập văn phòng NATO ở Tokyo không ngăn cản được EU và Nhật Bản quyết định cùng khởi động một chương trình mới về an ninh. Theo đó, những chuyến thăm thường xuyên ở cấp cao nhất, cũng như sự hợp tác trong các lĩnh vực biển, vũ trụ và tội phạm mạng, sẽ diễn ra trong bối cảnh có những mối quan ngại chung về hoạt động quân sự hóa do Trung Quốc tiến hành trong khu vực.

Về phần mình, Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg đã không quên “bắn vài mũi tên” về phía Bắc Kinh trong một cuộc họp báo ngày 11/7. Ông nói: “Trung Quốc ngày càng thách thức trật tự quốc tế khi không chịu lên án cuộc chiến tranh của Nga chống lại Ukraine, đe dọa Đài Loan và tiến hành quân sự hóa đáng kể. Việc Trung Quốc xây dựng kho vũ khí hạt nhân là điều “chưa từng có nếu xét về tốc độ và phạm vi, đồng thời được tiến hành một cách thiếu minh bạch. Các đồng minh đã nhất trí tiếp tục hợp tác nhằm tự vệ trước thái độ cưỡng ép của Trung Quốc”./.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Năng lực liên hợp, thông tin hóa và khả năng vũ trụ, chống vũ trụ và hạt nhân của Quân đội Trung Quốc

  • Quân đội Trung Quốc đang tích cực phát triển các khả năng để cung cấp các lựa chọn cho Bắc Kinh nhằm răn đe, ngăn chặn hoặc đánh bại sự can thiệp của bên thứ ba vào khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, nếu được ra lệnh.
  • PLA cũng đang phát triển các khả năng tiến hành các hoạt động quân sự sâu hơn vào khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và trong một số trường hợp là trên toàn cầu.
  • Mặc dù PLA đã tiến hành các cải cách cơ cấu quan trọng để thúc đẩy tác chiến liên hợp, nhưng khả năng của PLA trong việc thực hiện tác chiến liên hợp để hỗ trợ chống can thiệp hoặc các chiến dịch liên hợp bên ngoài Chuỗi đảo thứ nhất vẫn còn sơ khai.
Năng lực liên hợp để chống can thiệp

Chiến lược chống can thiệp của CHND Trung Hoa nhằm mục đích hạn chế Mỹ hiện diện ở vùng ngoại vi tiếp giáp Trung Quốc và giảm sự tiếp cận của Mỹ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương rộng lớn hơn. Cho đến nay, khả năng chống tiếp cận/ ngăn chặn khu vực (A2/AD) của PLA là mạnh nhất trong Chuỗi đảo thứ nhất, mặc dù PLA ngày càng có khả năng triển khai sức mạnh ra biển Philippine và Bắc Kinh tìm cách tăng cường khả năng vươn xa hơn ra Thái Bình Dương.

1694574368303.png


Các lực lượng lục quân, hải quân, không quân và tên lửa của PLA ngày càng có khả năng phô diễn sức mạnh ở khoảng cách xa Trung Quốc hơn. Tuy nhiên, hoạt động huấn luyện liên hợp vẫn còn ở giai đoạn sơ khai và PLA đã thể hiện khả năng tác chiến liên hợp hạn chế ngoài Chuỗi đảo thứ Nhất. Thay vào đó, các hoạt động ở nước ngoài chủ yếu được thực hiện bởi các quân chủng đơn lẻ và không liên quan đến chiến đấu.

Bắc Kinh nhận ra tầm quan trọng của việc tăng cường khả năng quân sự để đạt được các mục tiêu an ninh toàn cầu và đã khuyến khích PLA tăng cường hoạt động bên ngoài Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Như được trình bày chi tiết trong Sách trắng Quốc phòng Trung Quốc năm 2015 và 2019, Bắc Kinh chủ yếu quan tâm đến việc phát triển các khả năng này để bảo vệ các quyền hàng hải và lợi ích thương mại của Trung Quốc. Tuy nhiên, phần lớn các hoạt động hiện đại hóa và các cuộc tập trận gần đây của PLA vẫn tập trung vào việc chiến đấu và giành chiến thắng trong một cuộc xung đột khu vực. Khi các lợi ích kinh tế của Bắc Kinh mở rộng ở các khu vực như Châu Phi, Châu Mỹ Latinh, Trung Á và Trung Đông, chúng ta sẽ thấy sự tập trung ngày càng tăng vào việc mở rộng các hoạt động triển khai sức mạnh trên toàn cầu.

1694574437173.png


Tấn công chính xác tầm xa và hỗ trợ ISR. Các bài viết về học thuyết của PLA tuyên bố rằng tấn công chính xác trong tất cả các lĩnh vực chiến tranh là rất quan trọng trong chiến tranh hiện đại. PLA lưu ý thêm rằng các lực lượng tinh nhuệ nhỏ sử dụng vũ khí hoặc khả năng tiên tiến có thể đạt được hiệu quả quân sự mà trước đây đòi hỏi đội quân lớn hơn và mức độ phá hủy và chi phí cao hơn nhiều. Do đó, các bài viết của PLA tuyên bố rằng vũ khí chính xác không chỉ là tác nhân nhân bội lực lượng, mà còn là một công cụ “kiểm soát chiến tranh” để ngăn chặn leo thang. Các tài liệu của PLA nêu rõ thêm rằng phạm vi các mục tiêu chính trị, kinh tế và quân sự quan trọng đã tăng lên khi nền kinh tế toàn cầu hóa tiên tiến phát triển, ngụ ý rằng các khả năng tấn công ngày càng tăng của PLA sẽ tấn công một loạt mục tiêu, và do đó đạt được các hiệu ứng chiến lược quốc tế bằng cách tấn công các nút quan trọng của nền kinh tế toàn cầu trong một cuộc xung đột trong tương lai. Những nỗ lực hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc đã nhanh chóng biến đổi lực lượng tên lửa của PLA. Các bài viết của PLA coi các tài sản hậu cần và tung phóng sức mạnh là những lỗ hổng tiềm ẩn trong chiến tranh hiện đại, phù hợp với khả năng ngày càng mở rộng của PLA trong việc tiến hành các cuộc tấn công nhằm vào các căn cứ không quân, cơ sở hậu cần và cảng, thông tin liên lạc và cơ sở hạ tầng trên mặt đất khác trong khu vực.

1694574531144.png

Máy bay ném bom H-6K

Các căn cứ của Mỹ ở Guam nằm trong tầm bắn của ngày càng nhiều tên lửa hành trình và đạn đạo của PLA. Trong tương lai, LACM cũng có thể sẽ được triển khai trên các nền tảng nổi như tàu tuần dương tên lửa dẫn đường lớp RENHAI. Các chuyến bay của máy bay ném bom H-6K vào Biển Philippine chứng tỏ khả năng của CHND Trung Hoa trong phạm vi hoạt động của Guam bằng các LACM phóng từ trên không. Tên lửa đạn đạo tầm trung DF-26 có khả năng vươn tới đảo Guam và có khả năng tiến hành các cuộc tấn công hạt nhân, thông thường chính xác và trên biển.

Trung Quốc coi khả năng có được thông tin kịp thời, với độ chính xác cao là rất quan trọng đối với khả năng tiến hành các cuộc tấn công chính xác. Hệ thống hỗ trợ thông tin của PLA cho các cuộc tấn công chính xác phụ thuộc rất nhiều vào các tài sản của Lực lượng Chi viện Chiến lược (SSF) để phát hiện, xác định, chị thị mục tiêu và tiến hành đánh giá thiệt hại trên chiến trường. Trung Quốc nhấn mạnh tầm quan trọng của khả năng giám sát trên vũ trụ trong việc hỗ trợ các cuộc tấn công chính xác. Vào năm 2021, CHND Trung Hoa tiếp tục phát triển chùm vệ tinh trinh sát quân sự có thể hỗ trợ giám sát, theo dõi và chỉ thị mục tiêu các lực lượng Mỹ và đồng minh, đồng thời đầu tư vào các hệ thống trinh sát, giám sát, chỉ huy, kiểm soát và liên lạc tại các cơ quan cấp chiến lược, chiến dịch, và chiến thuật để cung cấp thông tin chỉ thị mục tiêu OTH có độ chính xác cao cho các nền tảng tấn công của nước này.

1694574617422.png

Tên lửa đạn đạo tầm trung DF-26

...
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Hệ thống phòng không tích hợp (IADS).Trung Quốc có cấu trúc IADS mạnh mẽ và dự phòng trên các khu vực đất liền và trong phạm vi 300 hải lý (556 km) tính từ bờ biển của nước này, dựa vào mạng lưới radar cảnh báo sớm rộng khắp, máy bay chiến đấu và nhiều hệ thống SAM. Trung Quốc cũng đã đặt các radar và vũ khí phòng không trên các tiền đồn ở Biển Đông, tiếp tục mở rộng tầm hoạt động của IADS, đồng thời cũng sử dụng hệ thống phòng thủ điểm, chủ yếu để bảo vệ các mục tiêu chiến lược trước các tên lửa hành trình tầm xa và các nền tảng tấn công trên không của đối phương.

1694602862929.png


PLA ngày càng có nhiều tên lửa SAM tầm xa tiên tiến, bao gồm CSA-9 (HQ-9) và HQ-9B bản địa, SA-10 của Nga (S-300PMU) và SA-20 (S-300PMU1)/ PMU2), tất cả đều được quảng cáo là có khả năng bảo vệ chống lại cả máy bay và tên lửa hành trình bay thấp. Để cải thiện khả năng phòng không chiến lược của mình, PLA sở hữu các hệ thống SAM SA-21 (S-400) Triumf do Nga chế tạo như một sản phẩm tiếp theo của SA-20. So với các hệ thống khác, các hệ thống SA-21 sở hữu tầm bắn tối đa xa hơn, đầu dò tên lửa được cải tiến và các radar hiện đại hơn.

1694602911126.png

HQ-9B

Trung Quốc sản xuất nhiều loại radar giám sát đường không tầm xa, bao gồm các mẫu tuyên bố hỗ trợ phòng thủ tên lửa đạn đạo (BMD) và các mẫu khác khẳng định khả năng phát hiện máy bay tàng hình. Các tài liệu tiếp thị cũng nhấn mạnh khả năng của các hệ thống này trong việc chống lại các máy bay hỗ trợ chiến đấu và tấn công đường không tầm xa. Các máy bay AEW&C của PLAAF như KJ-2000 và KJ-500 có thể mở rộng hơn nữa phạm vi phủ sóng radar của PRC vượt xa phạm vi của các radar trên mặt đất.

1694602958090.png

KJ-2000

Phòng thủ tên lửa đạn đạo và hành trình.


Kho SAM tầm xa của PLA cũng cung cấp khả năng hạn chế chống lại tên lửa đạn đạo. Hệ thống SAM tầm xa CSA-9 (HQ-9) nội địa của Trung Quốc có khả năng hạn chế trong việc cung cấp khả năng phòng thủ điểm trước các tên lửa đạn đạo chiến thuật. PLA có SAM SA-20 (S-300 PMU2) và SA-21 (S-400) có thể có một số khả năng tấn công tên lửa đạn đạo, tùy thuộc vào các tên lửa đánh chặn và cơ sở hạ tầng hỗ trợ.

1694603059085.png

S-400

Trung Quốc đang nỗ lực để phát triển các hệ thống BMD bao gồm các tên lửa đánh chặn động năng ngoài bầu khí quyển và trong bầu khí quyển. Trung Quốc đang theo đuổi một tên lửa đánh chặn tầm trung có khả năng chống lại IRBM và có thể cả ICBM. Tàu tuần dương RENHAI được xác định là một nền tảng cho khả năng đánh chặn giữa hành trình cho thấy Trung Quốc sẽ triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa trong tương lai gần. Ngoài ra, tên lửa đánh chặn HQ-19 đã trải qua các cuộc thử nghiệm để xác minh khả năng chống lại tên lửa đạn đạo có tầm bắn 3.000 km. Khả năng phòng thủ tên lửa hành trình của PLA mạnh mẽ hơn khả năng phòng thủ tên lửa đạn đạo, với các SAM tầm ngắn đến tầm trung, chẳng hạn như HQ-22, tăng cường các SAM tầm xa của PLA trong vai trò này.

1694603097942.png

HQ-22

...
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Vũ khí siêu vượt âm.

Theo truyền thông Trung Quốc, việc Trung Quốc triển khai MRBM trang bị HGV DF-17 sẽ tiếp tục làm thay đổi lực lượng tên lửa của PLA. Hệ thống này, được đưa vào sử dụng vào năm 2020, có thể nhằm thay thế một số đơn vị SRBM cũ hơn, và nhằm tấn công các căn cứ quân sự và hạm đội nước ngoài ở Tây Thái Bình Dương, theo một chuyên gia quân sự tại Trung Quốc.

1694659084421.png

DF-17

Lực lượng đường không (Không quân, Không quân Lục quân, Không quân Hải quân).

Các lực lượng đường không của PLA đang triển khai các nền tảng tiên tiến có khả năng hỗ trợ các hoạt động tầm xa trong tương lai, khi nhiệm vụ của họ phát triển từ bảo vệ không gian lãnh thổ của Trung Quốc sang phát động các chiến dịch tấn công ở khoảng cách xa hơn Chuỗi đảo thứ nhất.

1694659152045.png


Mặc dù khả năng tương tác là một ưu tiên như đã được đề cập, nhưng các cuộc tập trận chung giữa các lực lượng đường không bị hạn chế. Về mặt cá nhân, Không quân, Không quân Lục quân, Không quân Hải quân Trung Quốc tiếp tục cải thiện khả năng của họ để tiến hành các chiến dịch tấn công và phòng thủ ngoài khơi, bao gồm tấn công, phòng không và phòng thủ tên lửa, cơ động chiến lược, các nhiệm vụ trinh sát và cảnh báo sớm, và xâm nhập. Đặc biệt, Không quân Trung Quốc đã liên tục được các lãnh đạo nước này kêu gọi trở thành một lực lượng không quân “chiến lược” thực sự, có khả năng triển khai sức mạnh ở khoảng cách xa để thúc đẩy và bảo vệ lợi ích toàn cầu của Bắc Kinh.

  • Năm 2021, máy bay tiếp dầu Y-20U đi vào hoạt động, hỗ trợ PLAAF tiếp tục mở rộng phạm vi hoạt động cho các máy bay chiến đấu, máy bay ném bom và máy bay nhiệm vụ đặc biệt có thể tiếp nhiên liệu trên không như máy bay KJ-500 AEW&C. Những máy bay tiếp nhiên liệu trên không mới này sẽ mở rộng đáng kể khả năng của Trung Quốc trong việc tiến hành các hoạt động tấn công trên không tầm xa.
1694659242795.png

Y-20U

  • Trung Quốc đang phát triển một thế hệ máy bay ném bom tầm xa mới, có khả năng được đặt tên là H-20, theo nhiều báo cáo và một tuyên bố công khai năm 2016 của Tư lệnh Không quân Trung Quốc khi đó là Thượng tướng Ma Xiaotian (Mã Hiểu Thiên). H-20, có thể ra mắt trong thập kỷ tới, sẽ có tầm hoạt động hơn 10.000km, cho phép PLAAF bao phủ Chuỗi đảo thứ hai và vào khu vực phía tây Thái Bình Dương. Phạm vi của máy bay ném bom H-20 có thể được mở rộng để bao phủ toàn cầu bằng cách tiếp nhiên liệu trên không. Nó cũng dự kiến sẽ sử dụng cả vũ khí thông thường và hạt nhân và có thiết kế tàng hình.
1694659318906.png

Máy bay ném bom tầm xa mới H-20 đang phát triển

  • Các đơn vị tấn công trên không và hàng không của Lục quân Trung Quốc đang tạo điều kiện cho lực lượng đặc nhiệm mặt đất theo mô-đun, cơ động cao có khả năng thực hiện các chiến dịch viễn chinh. Vào năm 2021, PLAA đã bổ sung ít nhất 6 trực thăng vận tải hạng nặng Z-8 và 12 trực thăng vận tải hạng trung Z-20. Theo truyền thông Trung Quốc, ba tiểu đoàn máy bay vận tải Z-8 có thể thả dù cho một tiểu đoàn chiến đấu trong một lần cất cánh. Các máy bay Z-20 cũng được cho là sẽ thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau, bao gồm triển khai lực lượng tác chiến đặc biệt và tác chiến chống tàu ngầm.
  • Các tiền đồn của Trung Quốc ở Biển Đông mở rộng phạm vi hoạt động của lực lượng không quân PLA.
1694659395178.png

Z-8

....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Hướng tới một quân đội thông tin hóa

  • Quân đội Trung Quốc coi tác chiến thông tin (IO) là một công cụ để đạt được ưu thế thông tin sớm trong một cuộc xung đột, và tiếp tục mở rộng qui mô và tần suất của IO trong các cuộc tập trận quân sự.
  • Bắc Kinh là mối đe dọa gián điệp mạng và tiến công liên tục, đáng kể đối với các hệ thống cơ sở hạ tầng quan trọng và quân đội của đối thủ.
  • QĐTQ đang theo đuổi các khả năng chiến đấu thế hệ tiếp theo dựa trên tầm nhìn về cuộc xung đột trong tương lai, mà họ gọi là "chiến tranh thông minh", được xác định bằng việc sử dụng mở rộng AI và các công nghệ tiên tiến khác ở mọi cấp độ chiến tranh.
Chủ tịch Tập Cận Bình đã kêu gọi Quân đội Trung Quốc xây dựng một lực lượng thông tin hóa cao có khả năng thống trị tất cả các mạng lưới và mở rộng lợi ích an ninh và phát triển của đất nước. Các bài viết về quân sự của Trung Quốc mô tả chiến tranh được thông tin hóa là việc sử dụng công nghệ thông tin để tạo ra một hệ thống của các hệ thống tác chiến, cho phép quân đội nước này thu thập, truyền, xử lý và sử dụng thông tin trong một cuộc xung đột để tiến hành các hoạt động quân sự chung trong các môi trường trên bộ, trên biển, trên không, trên vũ trụ, trong không gian mạng và trong phổ điện từ. Những cải cách quân sự đang diễn ra thúc đẩy việc kết hợp các hệ thống thông tin chỉ huy cho phép các lực lượng và chỉ huy thực hiện các sứ mệnh và nhiệm vụ hiệu quả hơn để giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh cục bộ trong điều kiện thông tin hóa. Quân đội Trung Quốc tiếp tục mở rộng phạm vi và tính thường xuyên của các cuộc tập trận quân sự mô phỏng các chiến dịch được thông tin hóa và có khả năng coi các chiến dịch thông thường và không gian mạng như một công cụ để đạt được ưu thế thông tin sớm trong trường hợp xảy ra biến cố hoặc xung đột.

1694829334374.png


Hiện đại hóa Chỉ huy, Điều khiển, Thông tin liên lạc, Máy tính và Tình báo (C4I).

Trung Quốc tiếp tục ưu tiên hiện đại hóa C4I như một phản ứng đối với các xu hướng chiến tranh hiện đại, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chia sẻ, xử lý và ra quyết định thông tin nhanh chóng. Quân đội Trung Quốc đang tìm cách hiện đại hóa, cả về công nghệ và tổ chức, để chỉ huy các chiến dịch liên quân phức tạp trên tất cả các môi trường tác chiến và có thể ở nhiều chiến trường.

Quân đội Trung Quốc coi các hệ thống C4I được nối mạng, có công nghệ tiên tiến là điều cần thiết để cung cấp thông tin đáng tin cậy, an toàn tới các bộ chỉ huy cố định và di động, do đó cho phép ra quyết định nhanh chóng, hiệu quả, đa cấp. Các hệ thống này được thiết kế để phân phối dữ liệu bao gồm thông tin tình báo, thông tin chiến trường, thông tin hậu cần và thông tin thời tiết thông qua các mạng thông tin liên lạc bền vững và đa dạng, có khả năng phục hồi nhằm nâng cao ý thức tình hình của các chỉ huy. Quân đội Trung Quốc coi việc cung cấp dữ liệu ISR gần thời gian thực cho các chỉ huy hiện trường là đặc biệt có giá trị giúp hợp lý hóa các quy trình ra quyết định của họ. Trung Quốc đã mở rộng khả năng liên lạc và thu thập thông tin tình báo ở các khu vực quan trọng như Biển Đông, nơi họ đã nhanh chóng xây dựng các căn cứ và ăng-ten mới có khả năng hỗ trợ liên lạc vệ tinh và thu thập kỹ thuật từ năm 2018 đến năm 2021.Trung Quốc đang cung cấp Nền tảng Chỉ huy Tích hợp cho các đơn vị ở nhiều cấp trong lực lượng để cho phép thông tin liên lạc theo chiều ngang cần thiết cho các chiến dịch liên quân. Cơ sở dữ liệu kỹ thuật số và các công cụ tự động hóa chỉ huy cho phép các chỉ huy đồng thời ra lệnh cho nhiều đơn vị khi đang di chuyển và cho phép các đơn vị nhanh chóng điều chỉnh hành động của mình với các điều kiện thay đổi trong không gian chiến trường.

1694829412572.png


Khi lực lượng này tiếp tục tập trung vào khả năng chiến đấu và giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh thông tin hóa, thì các hệ thống thông tin trong tương lai có thể sẽ áp dụng các công nghệ mới nổi như dữ liệu lớn, internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo (AI) và điện toán đám mây để cung cấp các nền tảng tự động, đáng tin cậy, mang lại hiệu quả quy trình hơn nữa. Quân đội Trung Quốc đã bắt đầu quá trình này bằng cách áp dụng phân tích dữ liệu lớn kết hợp nhiều loại dữ liệu khác nhau để cải thiện tự động hóa và tạo ra một bức tranh toàn diện, theo thời gian thực cho các chiến binh.

.....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Tác chiến điện tử (EW). Quân đội Trung Quốc coi tác chiến điện tử (EW) là một thành phần không thể thiếu của chiến tranh hiện đạivà tìm cách đạt được sự thống trị thông tin trong một cuộc xung đột thông qua việc phối hợp sử dụng không gian mạng và chiến tranh điện tử để bảo vệ các mạng thông tin của chính mình và ngăn chặn kẻ thù sử dụng phổ điện từ. Chiến lược EW của Trung Quốc nhấn mạnh việc trấn áp, làm suy giảm, phá vỡ hoặc đánh lừa thiết bị điện tử của đối phương trong suốt một cuộc xung đột. PLA có thể sẽ sớm sử dụng chiến tranh điện tử trong một cuộc xung đột như một cơ chế phát tín hiệu để cảnh báo và ngăn chặn hành động tấn công của đối phương.

1694829510240.png


Các mục tiêu EW tiềm năng bao gồm các hệ thống của đối phương hoạt động trong dải tần số vô tuyến, radar, sóng vi ba, hồng ngoại và quang học, cũng như các hệ thống máy tính và thông tin của đối phương. Các đơn vị EW của Trung Quốc thường xuyên huấn luyện để tiến hành các hoạt động gây nhiễu và chống nhiễu nhằm vào nhiều hệ thống thông tin liên lạc và radar và hệ thống vệ tinh Hệ thống Định vị Toàn cầu (GPS) trong các cuộc tập trận. Các bài tập này kiểm tra sự hiểu biết của các đơn vị tác chiến về vũ khí, thiết bị và hiệu suất của EW nhưng chúng cũng cho phép người vận hành nâng cao sự tự tin về khả năng hoạt động hiệu quả của họ trong môi trường điện từ phức tạp. Ngoài ra, Quân đội Trung Quốc được cho là đã thử nghiệm và xác nhận những tiến bộ trong R&D vũ khí EW trong các cuộc tập trận này.

1694829538837.png


Tác chiến mạng. Sự phát triển của các khả năng tác chiến mạng phù hợp với các bài viết của Quân đội Trung Quốc, trong đó xác định IO - bao gồm tác chiến mạng, điện tử và tâm lý - là một phần không thể thiếu để đạt được ưu thế về thông tin và là công cụ hiệu quả để chống lại kẻ thù mạnh hơn. Trung Quốc đã công khai xác định không gian mạng là một lĩnh vực quan trọng đối với an ninh quốc gia và tuyên bố ý định thúc đẩy sự phát triển của các lực lượng mạng của mình.

Trung Quốc là mối đe dọa gián điệp mạng và tiến công liên tục, đáng kể đối với quân đội và các hệ thống cơ sở hạ tầng quan trọng. Trung Quốc tìm cách tạo ra các tác động gây rối và phá hoại - từ các cuộc tiến công từ chối dịch vụ đến gây gián đoạn vật lý cơ sở hạ tầng quan trọng - để định hình việc ra quyết định và làm gián đoạn các hoạt động quân sự trong giai đoạn đầu của một cuộc xung đột bằng cách chỉ thị mục tiêu và khai thác những điểm yếu nhận thấy của các đối thủ vượt trội về mặt quân sự. Trung Quốc đang cải thiện năng lực tiến công mạng và có khả năng tiến hành các cuộc tiến công mạng- chẳng hạn như làm gián đoạn đường ống dẫn khí đốt tự nhiên trong nhiều ngày tới vài tuần — tại Mỹ.

1694829567715.png


Các nguồn có thẩm quyền của lực lượng này kêu gọi sử dụng kết hợp tác chiến vũ trụ, mạng và EW làm vũ khí chiến lược để “làm tê liệt hệ thống tác chiến của kẻ thù” và “phá hoại hệ thống chỉ huy chiến tranh của kẻ thù” ngay trong một cuộc xung đột. Quân đội Trung Quốc càng ngày càng ý thức tầm quan trọng của các năng lực mạng với tư cách là một thành tố quan trọng trong vị thế răn đe chiến lược tổng thể tích hợp của mình, bên cạnh khả năng răn đe hạt nhân và vũ trụ. Các nghiên cứu của Bắc Kinh thảo luận về việc sử dụng các cuộc tiến công cảnh cáo hoặc thể hiện năng lực - các cuộc tiến công nhằm vào các mục tiêu quân sự, chính trị và kinh tế được lựa chọn với “tác động đáng sợ” rõ ràng - như một phần của hành động răn đe. Theo đó, Quân đội Trung Quốc có thể tìm cách sử dụng khả năng tác chiến mạng của mình để thu thập dữ liệu cho các mục đích tình báo và tiến công mạng; hạn chế hành động của đối thủ bằng cách nhắm mục tiêu vào hậu cần, C2, thông tin liên lạc, hoạt động thương mại và cơ sở hạ tầng quan trọng về dân sự và quốc phòng dựa vào mạng; hoặc, để đóng vai trò như một hệ số nhân lực khi kết hợp với các cuộc tiến công động năng trong xung đột vũ trang.

1694829595432.png


Các cải cách cơ cấu đang diễn ra của Quân đội Trung Quốc có thể làm thay đổi hơn nữa cách lực lượng này tổ chức và chỉ huy IO, đặc biệt là khi SSF phát triển theo thời gian. Bằng cách hợp nhất không gian mạng và các yếu tố liên quan đến IO khác, SSF có khả năng đang tạo ra sức mạnh tổng hợp bằng cách kết hợp khả năng trinh sát, tiến công và phòng thủ không gian mạng cấp quốc gia trong tổ chức của mình.

....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Các hoạt động trực tiếp chống lại BQP Mỹ

Trong suốt năm 2020, các cuộc xâm nhập bắt nguồn từ Trung Quốc tiếp tục nhắm mục tiêu vào các hệ thống máy tính trên khắp thế giới bao gồm cả những hệ thống thuộc sở hữu của Chính phủ Mỹ. Những cuộc xâm nhập này và các cuộc xâm nhập trước đây tập trung vào việc truy cập mạng và trích xuất thông tin. Trung Quốc sử dụng khả năng không gian mạng của mình để không chỉ hỗ trợ thu thập thông tin tình báo về các lĩnh vực ngoại giao, kinh tế, học thuật và cơ sở công nghiệp quốc phòng của Mỹ mà còn để lấy thông tin nhạy cảm từ cơ sở công nghiệp quốc phòng để đạt được lợi thế quân sự.

1694861203501.png


Thông tin được nhắm mục tiêu có thể mang lại lợi ích cho các ngành công nghệ cao quốc phòng của Trung Quốc, hỗ trợ hiện đại hóa quân sự, cung cấp cho Đ..C..S TQ những hiểu biết sâu sắc về quan điểm lãnh đạo của Mỹ và hỗ trợ các cuộc đàm phán ngoại giao, chẳng hạn như các cuộc đàm phán ủng hộ sáng kiến Một vành đai, Một con đường (OBOR). Ngoài ra, thông tin mục tiêu có thể cho phép các lực lượng mạng của Quân đội Trung Quốc xây dựng bức tranh hoạt động của các mạng lưới quốc phòng, bố trí quân sự, hậu cần và các khả năng quân sự liên quan của Mỹ có thể bị khai thác trước hoặc trong khi xảy ra khủng hoảng. Các quyền truy cập và kỹ năng cần thiết cho những cuộc xâm nhập này tương tự như những kỹ năng cần thiết để tiến hành các hoạt động mạng nhằm ngăn chặn, trì hoãn, làm gián đoạn và làm suy giảm các hoạt động của BQP Mỹ trước hoặc trong khi xảy ra xung đột. Nói chung, các chiến dịch hỗ trợ không gian mạng này đe dọa làm xói mòn các lợi thế quân sự của Mỹ và ảnh hưởng đến cơ sở hạ tầng và sự thịnh vượng mà những lợi thế đó dựa vào.

1694861274322.png


Chiến tranh thông minh hóa. Vào tháng 10/2020, Đ..C..S TQ tuyên bố rằng chiến tranh hiện đại đang phát triển để bao gồm sự thông minh hóa và đưa khái niệm này vào Kế hoạch 5 năm lần thứ 14 của mình. Bắc Kinh dự đoán rằng AI và các công nghệ tiên tiến khác, chẳng hạn như điện toán đám mây và phân tích dữ liệu lớn, đang thay đổi tương lai chiến tranh nhanh hơn dự kiến. Do đó, Trung Quốc đang điều chỉnh các kế hoạch hiện đại hóa quốc phòng của mình để tập trung vào tích hợp “phát triển cơ giới hóa, thông tin hóa và thông minh hóa”, cho thấy QĐTQ sẽ triển khai một số khả năng thông minh hóa khi hoàn thành cơ giới hóa và thông tin hóa trong thập kỷ tới.

1694861357293.png


Các chiến lược gia của QĐTQ đã tuyên bố các công nghệ mới sẽ làm tăng tốc độ và nhịp độ của chiến tranh trong tương lai và việc vận hành AI sẽ là cần thiết để cải thiện tốc độ và chất lượng xử lý thông tin bằng cách giảm sự không chắc chắn trên chiến trường và mang lại lợi thế ra quyết định trước các đối thủ tiềm tàng. QĐTQ cũng đang khám phá các khái niệm hoạt động thế hệ tiếp theo cho chiến tranh thông minh hóa, chẳng hạn như chiến tranh tiêu hao bằng bầy đàn thông minh, tác chiến cơ động xuyên môi trường, đối đầu trên vũ trụ dựa trên AI và các hoạt động kiểm soát nhận thức. QĐTQ coi các hệ thống không người lái là công nghệ thông minh quan trọng và đang theo đuổi sự tự hoạt lớn hơn đối với các phương tiện bay, tàu nổi và tàu ngầm không người lái để cho phép các đội hình lai ghép có người lái và không người lái, tiến công theo bầy đàn, hỗ trợ hậu cần được tối ưu hóa và ISR tách biệt, cùng các khả năng khác.

1694861392232.png


Năng lực vũ trụ và chống vũ trụ của Trung Quốc

  • PLA coi ưu thế vũ trụ, khả năng kiểm soát lĩnh vực thông tin được hỗ trợ từ vũ trụ và ngăn chặn đối thủ về khả năng thu thập và liên lạc thông tin dựa trên vũ trụ của chính họ, là những thành phần quan trọng để tiến hành “chiến tranh thông tin hóa” hiện đại.
  • PLA tiếp tục đầu tư vào việc cải thiện khả năng của mình trong lĩnh vực tình báo, giám sát và trinh sát (ISR), thông tin liên lạc vệ tinh, định vị vệ tinh và khí tượng học, cũng như các chuyến thám hiểm vũ trụ bằng tàu vũ trụ có người lái và thám hiểm vũ trụ bằng robot.
  • PLA tiếp tục thu nhận và phát triển một loạt khả năng chống vũ trụ và các công nghệ liên quan, bao gồm tên lửa tiêu diệt động năng, tia laser trên mặt đất và rô bốt vũ trụ quay quanh quỹ đạo, cũng như mở rộng khả năng giám sát vũ trụ, có thể giám sát các vật thể trong vũ trụ trong lĩnh vực của họ của chế độ xem và kích hoạt các hành động truy cập vũ trụ.
Chiến lược và học thuyết vũ trụ.

CHND Trung Hoa chính thức ủng hộ việc sử dụng vũ trụ một cách hòa bình và đang theo đuổi các thỏa thuận tại Liên Hợp Quốc về việc “không vũ khí hóa” vũ trụ. Trung Quốc tiếp tục cải thiện khả năng vũ khí chống vũ trụ của mình và đã ban hành các cải cách quân sự để tích hợp tốt hơn không gian mạng, vũ trụ và EW vào các hoạt động quân sự chung. Chiến lược vũ trụ của Trung Quốc dự kiến sẽ phát triển theo thời gian, bắt kịp với việc áp dụng công nghệ vũ trụ mới. Những thay đổi này có thể sẽ được phản ánh trong các tài liệu chiến lược vũ trụ quốc gia đã xuất bản, thông qua các hành động chính sách vũ trụ và trong các chương trình do lãnh đạo chính trị và quân sự ban hành.

1694861488765.png


Vào tháng 9 năm 2021, Chủ tịch Tập Cận Bình tuyên bố rằng “vũ trụ là tài sản chiến lược quan trọng của quốc gia, phải được quản lý và sử dụng tốt, và quan trọng hơn là phải được bảo vệ”, đồng thời kêu gọi tăng cường quản lý giao thông vũ trụ và hợp tác quốc tế về các vấn đề an ninh để nâng cao hiệu quả trong việc quản lý các cuộc khủng hoảng trong vũ trụ.PLA coi ưu thế vũ trụ, khả năng kiểm soát lĩnh vực thông tin hỗ trợ vũ trụ và ngăn chặn các đối thủ về khả năng thu thập và liên lạc thông tin dựa trên vũ trụ của chính họ, là một thành phần quan trọng để tiến hành “chiến tranh thông tin hóa” hiện đại. Lần đầu tiên Trung Quốc đề cập công khai đến các năng lực vũ trụ và phản công xuất hiện vào đầu năm 1971, phần lớn là do các học giả xem xét các ấn phẩm nước ngoài về công nghệ ASAT. Tuy nhiên, các nỗ lực khoa học và công nghệ về vũ trụ của Trung Quốcbắt đầu tăng tốc vào những năm 1980, rất có thể là kết quả của Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược tập trung vào vũ trụ của Mỹ để bảo vệ chống lại vũ khí hạt nhân của Liên Xô cũ. Sau đó, sau khi quan sát hoạt động của quân đội Mỹ trong Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, Kosovo, Afghanistan và Chiến tranh Iraq lần thứ hai, PLA đã bắt tay vào nỗ lực hiện đại hóa các hệ thống vũ khí, trên tất cả các lĩnh vực bao gồm cả vũ trụ và cập nhật học thuyết của mình để tập trung vào việc sử dụng và chống lại chiến tranh dựa vào thông tin của kẻ thù.

1694861619255.png


....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiép)

Nhận thức của Trung Quốc về tầm quan trọng của các hoạt động sử dụng vũ trụ đối với Mỹ và các đồng minh của họ đã định hình các thành phần không thể thiếu trong các chiến dịch và kế hoạch quân sự của PLA. Ngoài ra, vũ trụ là một yếu tố quan trọng hỗ trợ các hoạt động ngoài tầm nhìn cho các lực lượng PRC được triển khai và PLA coi các hoạt động phản công trong vũ trụ là một công cụ để ngăn chặn và chống lại sự can thiệp của Mỹ trong một cuộc xung đột quân sự khu vực. Trung Quốc đã tuyên bố rằng việc “phá hủy hoặc thu giữ vệ tinh và các cảm biến khác” sẽ gây khó khăn cho quân đội Mỹ và đồng minh trong việc sử dụng vũ khí dẫn đường chính xác. Hơn nữa, các học giả quốc phòng của CHND Trung Hoa cho rằng các vệ tinh do thám, liên lạc, điều hướng và cảnh báo sớm có thể nằm trong số các mục tiêu của các cuộc tấn công được thiết kế để “làm mù và điếc kẻ thù”.

1694922457270.png


Khả năng vũ trụ và chống vũ trụ.

Doanh nghiệp vũ trụ của CHND Trung Hoa tiếp tục phát triển nhanh chóng và Bắc Kinh đã dành các nguồn lực kinh tế và chính trị quan trọng để phát triển tất cả các khía cạnh của chương trình vũ trụ, từ các ứng dụng vũ trụ quân sự đến các ứng dụng dân sự như các vụ phóng tạo ra lợi nhuận, nỗ lực khoa học và thám hiểm vũ trụ. Doanh nghiệp vũ trụ của CHND Trung Hoa bao gồm SSF và cũng bao gồm các tổ chức quân sự, chính phủ và dân sự khác, bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức học thuật và tổ chức thương mại. PLA có lịch sử quản lý chương trình vũ trụ của PRC và Cục Hệ thống Vũ trụ SSF chịu trách nhiệm về gần như tất cả các hoạt động vũ trụ của PLA. Trung Quốc tiếp tục tăng cường năng lực quân sự trong vũ trụ, bất chấp lập trường công khai chống lại việc vũ khí hóa vũ trụ.

1694922504371.png


PLA tiếp tục đầu tư vào việc cải thiện khả năng của mình trong lĩnh vực tình báo, giám sát và trinh sát (ISR), thông tin liên lạc vệ tinh, định vị vệ tinh và khí tượng học, cũng như các chuyến thám hiểm vũ trụ và thám hiểm vũ trụ của con người. Vào năm 2022, CHND Trung Hoa có kế hoạch xây dựng một trạm vũ trụ hoạt động lâu dài, nơi sẽ tiếp đón các phi hành gia và phi hành gia của chính họ và nước ngoài. PRC đã xây dựng một cơ sở hạ tầng hỗ trợ mặt đất mở rộng để hỗ trợ hạm đội bay trên quỹ đạo đang phát triển của mình và các chức năng liên quan bao gồm sản xuất, phóng, C2 và phương tiện phóng tàu vũ trụ và phương tiện phóng vũ trụ (SLV), C2 và đường truyền dữ liệu xuống. Ngoài ra, CHND Trung Hoa tiếp tục phát triển các khả năng chống lại vũ trụ—bao gồm khả năng đi lên trực tiếp, đồng quỹ đạo, tác chiến điện tử và năng lượng định hướng—có thể tranh chấp hoặc từ chối quyền tiếp cận và hoạt động của kẻ thù trong miền vũ trụ trong một cuộc khủng hoảng hoặc xung đột.

1694922546847.png


Trung Quốc đã dành các nguồn lực kinh tế và công nghệ đáng kể để phát triển tất cả các khía cạnh của chương trình không gian, cải thiện các ứng dụng vũ trụ quân sự, phát triển các chuyến bay vũ trụ của con người và thực hiện các sứ mệnh thám hiểm mặt trăng và sao Hỏa. Trong 10 năm qua, Trung Quốc đã tăng gấp đôi số lần phóng mỗi năm và số lượng vệ tinh trên quỹ đạo. Trung Quốc đã đặt ba trạm vũ trụ trên quỹ đạo, hai trong số đó đã được đưa vào quỹ đạo và trạm thứ ba được phóng vào năm 2021. Hơn nữa, Trung Quốc đã phóng một tàu đổ bộ và xe tự hành đến phía xa của Mặt trăng; một tàu đổ bộ và nhiệm vụ đưa mẫu trở lại Mặt trăng; và một tàu quỹ đạo, tàu đổ bộ và tàu tự hành trong một nhiệm vụ tới sao Hỏa. Trung Quốc cũng đã phóng nhiều tên lửa chống vệ tinh (ASAT) có khả năng phá hủy các vệ tinh và phát triển các thiết bị gây nhiễu di động để từ chối SATCOM và GPS.

1694922579030.png


....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(TIếp)

Mục tiêu của Bắc Kinh là trở thành một cường quốc vũ trụ trên diện rộng, có đầy đủ năng lực. Chương trình vũ trụ đang phát triển nhanh chóng của nước này - chỉ đứng sau Mỹ về số lượng vệ tinh hoạt động - là nguồn tự hào quốc gia và là một phần trong “Giấc mộng Trung Hoa” của Chủ tịch Tập Cận Bình nhằm thiết lập một Trung Quốc hùng mạnh và thịnh vượng. Chương trình vũ trụ, do PLA quản lý, hỗ trợ cả lợi ích dân sự và quân sự, bao gồm tăng cường lĩnh vực khoa học và công nghệ, phát triển quan hệ quốc tế và hiện đại hóa quân đội. Trung Quốc tìm cách nhanh chóng đạt được những mục tiêu này thông qua những tiến bộ trong nghiên cứu và phát triển các hệ thống vũ trụ và công nghệ liên quan đến vũ trụ.

Trung Quốc sẽ tiếp tục phóng một loạt các vệ tinh giúp tăng cường đáng kể khả năng ISR của mình; lĩnh vực vệ tinh liên lạc tiên tiến có thể truyền một lượng lớn dữ liệu; tăng khả năng Xác định vị trí, Điều hướng và xác định thời gian (PNT); và triển khai các vệ tinh thời tiết và hải dương học mới. Trung Quốc đã phát triển và sẽ tiếp tục phát triển vũ khí để sử dụng chống lại các vệ tinh trên quỹ đạo nhằm làm suy yếu và ngăn chặn khả năng vũ trụ của đối thủ.

1695036747494.png


PLA tiếp tục sở hữu và phát triển một loạt các khả năng chống vũ trụ và các công nghệ liên quan, bao gồm tên lửa tiêu diệt động năng, laser trên mặt đất và rô bốt vũ trụ quay quanh quỹ đạo, cũng như mở rộng khả năng giám sát vũ trụ, có thể giám sát các vật thể trong vũ trụ trong phạm vi hoạt động của chúng, và kích hoạt các hành động chống vũ trụ. Cùng với những cải tiến rõ rệt trong điều hướng vệ tinh, khả năng phóng, giám sát và nhận dạng đối tượng vũ trụ, Bắc Kinh đang phát triển các khả năng chiến tranh điện tử như thiết bị gây nhiễu vệ tinh; khả năng tấn công vũ trụ mạng; và vũ khí năng lượng định hướng. Hơn nữa, Trung Quốc đã thể hiện hành vi phức tạp, có khả năng gây tổn hại trên quỹ đạo với các công nghệ dựa vào vũ trụ. Trung Quốc có một tên lửa chống vệ tinh (ASAT) trên mặt đất đang hoạt động nhằm vào các vệ tinh ở quỹ đạo thấp của Trái đất và Trung Quốc có thể dự định theo đuổi các vũ khí ASAT bổ sung có khả năng phá hủy các vệ tinh ở quỹ đạo Trái đất không đồng bộ. Bắc Kinh đang sử dụng các hoạt động vệ tinh phức tạp hơn và có lẽ đang thử nghiệm các công nghệ lưỡng dụng trong vũ trụ có thể được áp dụng cho các sứ mệnh chống vũ trụ.

1695036793638.png


Năng lực vệ tinh ISR.

Trung Quốc sử dụng khả năng ISR dựa trên vũ trụ mạnh mẽ được thiết kế để nâng cao nhận thức tình huống trên toàn thế giới. Được sử dụng cho viễn thám và lập bản đồ quân sự và dân sự, giám sát trên mặt đất và trên biển, cũng như thu thập thông tin tình báo, các vệ tinh ISR của Trung Quốc có khả năng cung cấp hình ảnh radar khẩu độ tổng hợp và quang điện tử (SAR) cũng như dữ liệu tình báo điện tử và tín hiệu. Trung Quốc cũng xuất khẩu công nghệ vệ tinh của mình ra toàn cầu, bao gồm cả các vệ tinh viễn thám do nước này phát triển.

1695036872195.png


Tính đến cuối năm 2021, phi đội vệ tinh ISR của Trung Quốc có hơn 260 hệ thống - số lượng chỉ đứng sau Mỹ và tăng gần gấp đôi số lượng hệ thống trên quỹ đạo của Trung Quốc kể từ năm 2018.

PLA sở hữu và vận hành khoảng một nửa số hệ thống ISR trên thế giới, hầu hết trong số đó có thể hỗ trợ giám sát, theo dõi và nhắm mục tiêu vào các lực lượng của Mỹ và đồng minh trên toàn thế giới, đặc biệt là trên khắp khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Các vệ tinh này cũng cho phép PLA giám sát các điểm nóng tiềm ẩn trong khu vực, bao gồm Bán đảo Triều Tiên, Đài Loan, Ấn Độ Dương và Biển Đông.

Những cải tiến gần đây đối với khả năng ISR trên vũ trụ của Trung Quốc nhấn mạnh đến việc phát triển, mua sắm và sử dụng các vệ tinh có khả năng ngày càng cao với công nghệ máy ảnh kỹ thuật số cũng như radar trên vũ trụ để phủ sóng 24 giờ trong mọi điều kiện thời tiết. Những cải tiến này làm tăng khả năng giám sát của Trung Quốc - bao gồm cả việc giám sát các tàu sân bay của Mỹ, các nhóm tấn công viễn chinh và các lực lượng không quân được triển khai. Khả năng vũ trụ sẽ tăng cường các hoạt động quân sự tiềm năng của PLA ở xa bờ biển Trung Quốc. Những khả năng này đang được tăng cường với các vệ tinh trinh sát điện tử giám sát việc truyền sóng ra-đa và vô tuyến.

1695036931538.png


.....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Thông tin liên lạc vệ tinh.

Trung Quốc sở hữu và vận hành hơn 60 vệ tinh liên lạc, ít nhất 4 trong số đó được dành riêng cho mục đích quân sự. Trung Quốc sản xuất các vệ tinh chuyên dụng cho quân sự trong nước. Các vệ tinh liên lạc dân sự của nó kết hợp các bộ phận được sản xuất thương mại sẵn có. Trung Quốc đang trang bị các vệ tinh liên lạc tiên tiến có khả năng truyền một lượng lớn dữ liệu. Các vệ tinh chuyển tiếp dữ liệu hiện tại và trong tương lai và các hệ thống liên lạc ngoài tầm nhìn khác có thể truyền dữ liệu nhắm mục tiêu quan trọng tới các trung tâm điều hành quân sự của Trung Quốc.

1695037036165.png


Ngoài ra, Trung Quốc đang đạt được tiến bộ trong các kế hoạch đầy tham vọng của mình để đưa nước này lên vị trí hàng đầu trong ngành SATCOM toàn cầu. Trung Quốc đang tiếp tục thử nghiệm các khả năng thế hệ tiếp theo như vệ tinh thông tin liên lạc lượng tử đặt trên vũ trụ Thử nghiệm lượng tử ở quy mô vũ trụ (QUESS), có thể cung cấp công cụ cho các hệ thống truyền thông bảo mật cao. Năm 2016, Trung Quốc phóng vệ tinh liên lạc lượng tử đầu tiên trên thế giới (Micius) vào quỹ đạo thấp của Trái đất. Từ năm 2017 đến 2019, các nhà khoa học PRC đã sử dụng Micius để gửi các khóa lượng tử đến các trạm mặt đất với khoảng cách lên tới 1.200 km và như một rơle đáng tin cậy để truyền các khóa lượng tử giữa các trạm mặt đất ở Trung Quốc và Áo, tạo điều kiện thuận lợi cho liên lạc bảo mật lượng tử xuyên lục địa. Vào tháng 6 năm 2020, một nhóm các nhà khoa học Trung Quốc tuyên bố đạt được ưu thế lượng tử - sự kiện một thiết bị lượng tử thực hiện một nhiệm vụ tính toán mà không thiết bị cổ điển hiện có hoặc dễ dàng dự đoán nào có thể thực hiện được - sử dụng máy tính lượng tử quang tử (Jiuzhang), tiếp theo là máy tính lượng tử siêu dẫn của Trung Quốc (Zuchongzhi), cũng đã đạt được ưu thế về lượng tử vào năm 2021.

1695037076551.png


Việc thử nghiệm liên đới lượng tử dựa trên vệ tinh là một cột mốc quan trọng trong việc xây dựng một mạng lượng tử thực tế, toàn cầu, cực kỳ an toàn, nhưng việc triển khai và áp dụng rộng rãi công nghệ này vẫn gặp phải những trở ngại.

Trung Quốc cũng dự định cung cấp hỗ trợ SATCOM cho người dùng trên toàn thế giới và có kế hoạch phát triển ít nhất bảy chòm sao SATCOM mới trong LEO. Tuy nhiên, vì những chòm sao này vẫn đang trong giai đoạn phát triển ban đầu nên hiệu quả của chúng vẫn chưa chắc chắn.

Chức năng Định vị, Dẫn đường và xác định Thời gian (PNT)

.
Hệ thống định vị vệ tinh của Trung Quốc, được gọi là BeiDou (Bắc Đẩu), là một dịch vụ PNT được xây dựng, phát triển và độc quyền do Trung Quốc vận hành. Các ưu tiên của Trung Quốc đối với BeiDou là hỗ trợ an ninh quốc gia và phát triển kinh tế xã hội bằng cách áp dụng PNT của Trung Quốc vào nông nghiệp chính xác, giám sát phương tiện và tàu thuyền, đồng thời hỗ trợ các dịch vụ tập trung vào dân sự trên hơn 100 quốc gia ở Châu Phi, Châu Á và Châu Âu. BeiDou cung cấp dịch vụ PNT mọi lúc, mọi thời tiết và có độ chính xác cao cho người dùng trong nước, trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, cũng như trên toàn cầu và bao gồm 49 vệ tinh hoạt động. Ban đầu được triển khai để hỗ trợ các dịch vụ PNT trong khu vực, BeiDou đã đạt được khả năng hoạt động ban đầu trên toàn thế giới vào năm 2018. Vào tháng 6 năm 2020, Trung Quốc đã phóng thành công vệ tinh cuối cùng trong chòm sao vệ tinh BeiDou, hoàn thiện hệ thống định vị toàn cầu của nước này. Quân đội Trung Quốc sử dụng các dịch vụ PNT có độ chính xác cao của BeiDou để cho phép di chuyển lực lượng và dẫn đường cho các đạn dẫn đường chính xác.

1695037168778.png


BeiDou có tiêu chuẩn độ chính xác về vị trí trên toàn thế giới là 10 mét; độ chính xác trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương là trong vòng 5 mét. Ngoài việc cung cấp PNT, chòm sao BeiDou còn cung cấp các khả năng độc đáo, bao gồm nhắn tin văn bản và theo dõi người dùng thông qua dịch vụ Liên lạc tin nhắn ngắn khu vực để cho phép liên lạc hàng loạt giữa những người dùng BeiDou. Hệ thống này cũng cung cấp khả năng C2 quân sự bổ sung cho PLA.

Trung Quốc dự định sử dụng chòm sao Bắc Đẩu của mình để cung cấp các dịch vụ và ưu đãi bổ sung cho các quốc gia tham gia Sáng kiến Vành đai và Con đường, nhấn mạnh việc xây dựng mối quan hệ kinh tế mạnh mẽ với các quốc gia khác để gắn kết các quốc gia đối tác với lợi ích của Trung Quốc. Kể từ tháng 5 năm 2021, Trung Quốc dự đoán các sản phẩm và dịch vụ của BeiDou sẽ trị giá 156 tỷ USD vào năm 2025 và có khả năng xuất khẩu các sản phẩm của BeiDou cho hơn 100 triệu người dùng ở 120 quốc gia.

1695037202833.png


.......
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Chuyến bay vào vũ trụ trên tàu có người và những nỗ lực thám hiểm vũ trụ.

Sau các sứ mệnh không có người lái bắt đầu vào năm 1999, Trung Quốc đã trở thành quốc gia thứ ba đạt được chuyến bay vào vũ trụ độc lập có con người khi họ đã thành công trong việc phóng tàu vũ trụ Thần Châu-5 có người lái vào năm 2003. Năm 2011, Trung Quốc sau đó phóng trạm vũ trụ đầu tiên của mình, Tiangong-1, và vào năm 2016, nó đã phóng trạm vũ trụ thứ hai, Tiangong-2. Vào năm 2020, Trung Quốc đã tiến hành thử nghiệm quỹ đạo đầu tiên đối với Tàu vũ trụ có người lái thế hệ mới, dự kiến sẽ thay thế loạt tàu vũ trụ có người lái Thần Châu. Vào ngày 29 tháng 4 năm 2021, Trung Quốc đã phóng thành phần đầu tiên, Thiên Hà, của trạm vũ trụ Thiên Cung mới. Bắc Kinh đã phóng tàu tiếp tế đầu tiên, Tianzhou, và đã phóng hai phi hành đoàn của Trung Quốc kể từ đó.

1695123331513.png

Tàu tiếp tế Tianzhou

Trung Quốc cũng đã đảm nhận một vai trò lớn hơn trong lĩnh vực thám hiểm vũ trụ sâu và khoa học vũ trụ và đã đạt được những thành tựu đáng chú ý trong vài năm qua. Trung Quốc đã thể hiện sự quan tâm của mình trong việc hợp tác với Nga và Cơ quan Vũ trụ Châu Âu (ESA) để tiến hành thăm dò vũ trụ sâu. Trung Quốc là quốc gia thứ ba đưa xe tự hành lên Mặt trăng và là quốc gia đầu tiên hạ cánh xe tự hành ở phía xa của Mặt trăng vào năm 2019, đang liên lạc qua vệ tinh chuyển tiếp Queqiao mà Trung Quốc đã phóng vào năm trước lên quỹ đạo ổn định quanh điểm Lagrange Trái đất -Mặt trăng. Vào tháng 5 năm 2021, Trung Quốc đã hạ cánh xe tự hành Zhurong lên Sao Hỏa, xe tự hành đầu tiên của Trung Quốc hoạt động trên Sao Hỏa.

1695123377143.png

Xe tự hành Zhurong

Khả năng phóng vũ trụ.


Trung Quốc đang cải thiện khả năng phóng vào vũ trụ của mình để đảm bảo họ có công cụ độc lập, đáng tin cậy để tiếp cận vũ trụ và cạnh tranh trên thị trường phóng vào vũ trụ quốc tế. Trung Quốc tiếp tục nâng cao hiệu quả sản xuất và khả năng phóng nói chung, hỗ trợ các chuyến bay vào vũ trụ của con người và các sứ mệnh thám hiểm vũ trụ sâu - bao gồm cả Mặt trăng và Sao Hỏa. Các phương tiện phóng vũ trụ mô-đun mới (SLV) cho phép Trung Quốc điều chỉnh SLV theo cấu hình cụ thể cần thiết cho từng khách hàng đang bắt đầu đi vào hoạt động, giúp tăng độ tin cậy của phương tiện phóng và tiết kiệm chi phí tổng thể cho các chiến dịch phóng. Trung Quốc cũng đang trong giai đoạn đầu phát triển SLV siêu nặng tương tự như Saturn V của Mỹ hoặc Hệ thống Phóng Vũ trụ mới hơn của Mỹ để hỗ trợ các sứ mệnh thám hiểm Mặt Trăng và Sao Hỏa có người lái được đề xuất.

1695123445106.png

Trường Chinh-11

Ngoài các vụ phóng trên đất liền, vào năm 2020, Trung Quốc đã chứng minh khả năng phóng Trường Chinh-11 (LM-11) từ một bệ phóng trên biển. Khả năng này, nếu được triển khai đúng cách, sẽ cho phép Trung Quốc phóng gần xích đạo hơn so với các địa điểm phóng trên đất liền, tăng khả năng mang tên lửa và có khả năng giúp giảm chi phí phóng.

Trung Quốc đã phát triển các SLV phản ứng nhanh để tăng sức hấp dẫn với tư cách là nhà cung cấp dịch vụ phóng vệ tinh thương mại nhỏ và nhanh chóng khôi phục năng lực vũ trụ LEO, có thể hỗ trợ các hoạt động quân sự của Trung Quốc trong một cuộc xung đột hoặc ứng phó với thảm họadân sự. So với các SLV hạng trung và hạng nặng, những SLV phản ứng nhanh này có thể xúc tiến các chiến dịch phóng vì chúng có thể vận chuyển bằng đường bộ hoặc đường sắt và có thể được cất giữ sẵn sàng phóng với nhiên liệu rắn trong thời gian dài hơn so với SLV chạy bằng nhiên liệu lỏng. Do kích thước của chúng bị hạn chế nên các SLV phản ứng nhanh như Kuaizhou-1 (KZ-1), LM-6 và LM-11 chỉ có thể phóng các trọng tải tương đối nhỏ lên tới khoảng 2 tấn vào LEO. Vào tháng 6 năm 2020, Trung Quốc công bố ý định nâng cấp khả năng tải trọng của LM-11 thành LM-11A mới, được thiết kế để phóng trên bộ hoặc trên biển, bắt đầu từ năm 2022.

1695123523988.png

Trường Chinh-11A

Việc mở rộng các công ty vận hành vệ tinh và phương tiện phóng không thuộc sở hữu nhà nước của Trung Quốc tại thị trường nội địa Trung Quốc kể từ năm 2015 cho thấy Trung Quốc đang thúc đẩy thành công các nỗ lực hòa hợp quân sự-dân sự. Sự hòa hợp quân sự-dân sự làm mờ đi ranh giới giữa các thực thể này và gây khó biết về những người sử dụng cuối cùng các sản phẩm công nghệ và chuyên môn mua từ nước ngoài.


....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Nhận thức tình hình vũ trụ.

Trung Quốc có một mạng lưới cảm biến giám sát vũ trụ mạnh mẽ có khả năng tìm kiếm, theo dõi và xác định tính năng của các vệ tinh trong tất cả các quỹ đạo của Trái đất. Mạng lưới này bao gồm nhiều loại kính viễn vọng, radar và các cảm biến khác cho phép Trung Quốc hỗ trợ các nhiệm vụ của mình bao gồm thu thập thông tin tình báo, nhắm mục tiêu vào vũ trụ, cảnh báo sớm tên lửa đạn đạo (BMEW), an toàn chuyến bay vũ trụ, giải quyết dị thường vệ tinh và giám sát các mảnh vỡ vũ trụ.

1695176934549.png


Năng lực tác chiến điện tử chống vũ trụ.

PLA coi khả năng tác chiến điện tử là tài sản quan trọng cho chiến tranh hiện đại, và học thuyết của họ nhấn mạnh việc sử dụng tác chiến điện tử để trấn áp hoặc đánh lừa thiết bị của đối phương. PLA thường xuyên kết hợp các kỹ thuật gây nhiễu và chống gây nhiễu trong các cuộc diễn tập của mình mà có lẽ nhằm mục đích ngăn chặn nhiều hệ thống radar, thông tinh liên lạc và hỗ trợ định vị GPS dựa vàovũ trụ cho hoạt động di chuyển quân sự và sử dụng đạn dược dẫn đường chính xác. Trung Quốc có lẽ đang phát triển các thiết bị gây nhiễu dành riêng cho mục tiêu SAR, bao gồm cả các nền tảng trinh sát quân sự. Can thiệp vào các vệ tinh SAR giúp bảo vệ tài sản trên mặt đất bằng cách ngăn chặn việc chụp hình và nhắm mục tiêu trong bất kỳ cuộc xung đột tiềm ẩn nào liên quan đến Mỹ hoặc các đồng minh của Mỹ. Ngoài ra, Trung Quốc có thể đang phát triển các thiết bị gây nhiễu để nhắm mục tiêu vào SATCOM trên một dải tần số, bao gồm cả liên lạc tần số cực cao được quân đội bảo vệ.

1695176967471.png


Vũ khí Năng lượng Định hướng (DEW).

Trong hai thập kỷ qua, nghiên cứu quốc phòng của CHND Trung Hoa đã đề xuất phát triển một số DEW có thể đảo ngược trong vũ trụ không thể đảo ngược để làm lóa mắt các cảm biến quang điện và thậm chí có khả năng phá hủy các thành phần vệ tinh. Trung Quốc có nhiều vũ khí laze trên mặt đất với các mức công suất khác nhau để phá vỡ, làm suy giảm hoặc làm hỏng các vệ tinh bao gồm khả năng hạn chế hiện tại trong việc sử dụng các hệ thống laze chống lại các cảm biến của vệ tinh. Vào giữa đến cuối những năm 2020, Trung Quốc có thể triển khai các hệ thống năng lượng cao hơn, mở rộng mối đe dọa đối với cấu trúc của các vệ tinh phi quang học.

1695177070551.png


Các mối đe dọa tên lửa ASAT.

Năm 2007, Trung Quốc đã phá hủy một trong những vệ tinh thời tiết không còn hoạt động của mình cách Trái đất hơn 800 km bằng một tên lửa ASAT. Tác động của cuộc thử nghiệm hủy diệt này đã tạo ra hơn 3.000 mảnh vụn vũ trụ có thể theo dõi được, trong đó hơn 2.700 mảnh vẫn còn trên quỹ đạo và hầu hết sẽ tiếp tục quay quanh Trái đất trong nhiều thập kỷ. Hệ thống tên lửa ASAT đặt trên mặt đất đang hoạt động của PLA nhằm vào các vệ tinh LEO. Các đơn vị quân đội của Trung Quốc đã tiếp tục huấn luyện với tên lửa ASAT.

1695177198999.png


Trung Quốc có kế hoạch theo đuổi các vũ khí ASAT bổ sung có khả năng phá hủy các vệ tinh lên đến GEO. Vào năm 2013, Trung Quốc đã phóng một vật thể vào vũ trụ theo quỹ đạo đạn đạo với bán kính quỹ đạo cực đại trên 30.000 km, gần độ cao GEO. Không có vệ tinh mới nào được phóng ra khỏi vật thể và cấu hình phóng không phù hợp với SLV truyền thống, tên lửa đạn đạo hoặc các vụ phóng tên lửa cho nghiên cứu khoa học, cho thấy có thể có một khả năng cơ bản để sử dụng công nghệ ASAT chống lại các vệ tinh ở khoảng cách xa chứ không chỉ LEO.

......
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Các mối đe dọa trên quỹ đạo.

Trung Quốc đang phát triển các khả năng tinh vi khác trên vũ trụ, chẳng hạn như kiểm tra và sửa chữa vệ tinh. Ít nhất một số khả năng này cũng có thể hoạt động như một vũ khí. Trung Quốc đã phóng nhiều vệ tinh để tiến hành các thí nghiệm khoa học về công nghệ bảo trì vũ trụ và đang tiến hành nghiên cứu về dọn dẹp mảnh vỡ vũ trụ; lần phóng gần đây nhất là Shijian-21 được phóng vào GEO vào tháng 10 năm 2021. Vào tháng 1 năm 2022, Shijian-21 đã di chuyển một vệ tinh định vị BeiDou vô chủ lên quỹ đạo nghĩa địa cao phía trên GEO. Shijian-17 là vệ tinh có cánh tay robot của Trung Quốc. Công nghệ cánh tay rô-bốt trên vũ trụ có thể được sử dụng trong một hệ thống tương lai để thu các vệ tinh khác.

1695270642984.png

Shijian-20

Kể từ ít nhất là năm 2006, cộng đồng học thuật trực thuộc chính phủ ở Trung Quốc đã bắt đầu nghiên cứu các khía cạnh kỹ thuật hàng không vũ trụ liên quan đến vũ khí động học trên vũ trụ— nói chung là một loại vũ khí được sử dụng để tấn công các mục tiêu trên mặt đất, trên biển hoặc trên không từ quỹ đạo. Nghiên cứu vũ khí động năng trên vũ trụ bao gồm các phương pháp trở về bầu khí quyển, tách tải trọng, phương tiện mang và thay đổi quỹ đạo cho mục đích nhắm mục tiêu. Trung Quốc đã tiến hành vụ phóng ICBM theo quỹ đạo phân đoạn đầu tiên bằng phương tiện lượn siêu vượt âm từ Trung Quốc vào ngày 27 tháng 7 năm 2021. Đây là khoảng cách bay lớn nhất (~40.000 km) và thời gian bay dài nhất (~ hơn 100 phút) của bất kỳ hệ thống vũ khí tấn công mặt đất nào của Trung Quốc cho đến nay.

Năng lực hạt nhân

  • Trong thập kỷ tới, CHND Trung Hoa đặt mục tiêu hiện đại hóa, đa dạng hóa và mở rộng lực lượng hạt nhân của mình. So sánh với các nỗ lực hiện đại hóa hạt nhân của PLA cách đây một thập niên, những nỗ lực hiện tại vượt xa cả về quy mô và độ phức tạp.
  • Trung Quốc đang đầu tư và mở rộng số lượng các phương tiện phóng vũ khí hạt nhân trên bộ, trên biển và trên không cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết để hỗ trợ sự mở rộng quy mô lớn của lực lượng hạt nhân này. Bắc Kinh cũng hỗ trợ việc mở rộng này bằng cách tăng năng lực nhằm giảm và phân tách plutonium bằng cách xây dựng các lò phản ứng tái sinh nhanh (fast breeder reactor) và các cơ sở tái xử lý.
  • Trung Quốc cũng đang hỗ trợ việc mở rộng này bằng cách tăng năng lực sản xuất và phân tách plutonium, xây dựng các lò phản ứng tạo giống nhanh và các cơ sở tái chế.
  • Năm 2021, Bắc Kinh có lẽ đã thúc đẩy việc mở rộng hạt nhân: BQP Mỹ đánh giá kho đầu đạn hạt nhân tác chiến của Trung Quốc đã vượt qua con số 400 đầu đạn.
  • Quân đội Trung Quốc có kế hoạch “cơ bản hoàn thành việc hiện đại hóa” lực lượng vũ trang và quốc phòng vào năm 2035. Nếu Trung Quốc tiếp tục tốc độ phát triển hạt nhân của mình, thì nước này nhiều khả năng sẽ có kho đầu đạn hạt nhân gồm 1.500 đầu đạn vào năm 2035.
  • Trung Quốc đang triển khai DF-41 - ICBM di động trên bộ và đặt trong hầm chứa đầu tiên của Trung Quốc có khả năng mang phương tiện có khả năng trở về bầu khí quyển, mang nhiều đạn con(MIRV). Hệ thống này có khả năng mang không quá ba đầu đạn trên mỗi tên lửa và đã cải thiện tầm bắn và độ chính xác so với ICBM lớp DF-31. Trung Quốc đang tiến hành các cuộc tuần tra răn đe trên biển liên tục với sáu tàu ngầm (SSBN) lớp JIN (Type 094), được trang bị để mang tới 12 SLBM JL-2 hoặc JL-3.
  • Trung Quốc đang nhanh chóng trang bị các giếng phóng tên lửa nhiên liệu rắn có khả năng bao gồm tổng cộng hơn 300 giếng phóng, có khả năng phóng cả ICBM lớp DF-31 và DF-41. Dự án này và việc mở rộng lực lượng giếng phóng tên lửa sử dụng nhiên liệu lỏng của Trung Quốc cho thấy rằng Bắc Kinh dự định tăng cường khả năng sẵn sàng trong thời bình của lực lượng hạt nhân bằng cách chuyển sang vị thế phóng khi cảnh báo (LOW).
Chiến lược.

Cách tiếp cận của Trung Quốc đối với việc sử dụng lực lượng hạt nhân dựa vào “răn đe” của PLA khi kẻ thù tấn công trước và “phản công” khi răn đe thất bại, đe dọa trả đũa chống lại khả năng quân sự, dân chungs và nền kinh tế của kẻ thù.Chính sách vũ khí hạt nhân của Trung Quốc hiện ưu tiên duy trì một lực lượng hạt nhân có thể sống còn sau cuộc tiến công đầu tiên và phản ứng với đủ mạnh để tiến hành nhiều đợt phản công, răn đe bằng việc đe dọa sẽ gây thiệt hại ở mức không thể chấp nhận được đối với khả năng quân sự, dân chúng và nền kinh tế của kẻ thù. QĐTQ hiện có thể lựa chọn các mục tiêu tiến công hạt nhân để giảm leo thang xung đột và quay trở lại một cuộc xung đột thông thường với một lực lượng còn lại đủ để răn đe đối thủ của họ. Các nhà hoạch định kế hoạch của QĐTQ có thể sẽ tránh một loạt các cuộc đối đầu hạt nhân kéo dài chống lại một đối thủ vượt trội, và tuyên bố rằng quy mô và cường độ của lực lượng trả đũa cần phải được kiểm soát cẩn thận.Không rõ liệu việc xây dựng kho vũ khí hạt nhân của PLA có thể ảnh hưởng hoặc thay đổi chiến lược hạt nhân của Trung Quốc trong tương lai hay không; PLA khẳng định chính sách hạt nhân của họ vẫn rõ ràng và nhất quán.

1695270760462.png


Cách tiếp cận hiện tại của CHND Trung Hoa đối với lực lượng hạt nhân bao gồm chính sách tuyên bố công khai “không sử dụng trước” (NFU). Chính sách đó nêu rõ CHND Trung Hoa sẽ không bao giờ sử dụng vũ khí hạt nhân trước bất kỳ lúc nào cũng như trong bất kỳ hoàn cảnh nào và CHND Trung Hoa cam kết không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại bất kỳ quốc gia không có vũ khí hạt nhân nào hoặc trong các khu vực không có vũ khí hạt nhân. Bất chấp chính sách này, chiến lược hạt nhân của Trung Quốc có thể bao gồm việc cân nhắc tấn công hạt nhân để đáp trả một cuộc tấn công phi hạt nhân đe dọa khả năng tồn tại của các lực lượng hạt nhân hoặc C2 của Trung Quốc, hoặc điều đó gần đúng với tác động chiến lược của một cuộc tấn công hạt nhân. Bắc Kinh có lẽ cũng sẽ xem xét sử dụng hạt nhân để khôi phục khả năng răn đe nếu một thất bại quân sự thông thường đe dọa nghiêm trọng đến sự sống còn của CHND Trung Hoa.

1695270804204.png


.......
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top