[Funland] Sơ lược về lực lượng tên lửa thông thường của hàng xóm

Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
(Tiếp)

Một số nét lớn về chiến lược quân sự

Malaysia thực hiện chiến lược quân sự “phòng thủ” lấy “tự chủ” làm nòng cốt; thực hiện chính sách quốc phòng toàn dân, toàn diện, nhằm nâng cao khả năng bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia. Tuy nhiên, trước những diễn biến trên Biển Đông và khủng bố ở khu vực ngày càng gia tăng, Malaysia chuyển trọng tâm quân sự từ bảo vệ biên giới sang răn đe chiến lược, tập trung xây dựng lực lượng vũ trang mạnh, đủ sức ứng phó với các tình huống.
Để thực hiện chủ trương trên, Malaysia đưa hình thức tác chiến máy bay không người lái vào tác chiến của quân đội, coi đây là một bộ phận của hệ thống giám sát và được tích hợp vào hệ thống tác chiến mạng trung tâm, từ đó nâng cao khả năng kiểm soát trên đất liền, trên không và trên biển của Quân đội Malaysia; tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, hiện đại hóa quân đội; mua sắm vũ khí, trang bị hiện đại, ưu tiên lực lượng hải quân và không quân; tăng cường hợp tác quân sự trong khuôn khổ Hiệp định phòng thủ chung (FPDA), mở rộng hợp tác quốc phòng với các nước, nhất là với ASEAN; tăng cường diễn tập quân sự chung và tích cực tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc.

Phương hướng tới

Malaysia tiếp tục điều chỉnh tổ chức, biên chế, bố trí lực lượng quân sự; mua sắm vũ khí, trang bị để hiện đại hóa quân đội, tập trung nâng cao khả năng phòng thủ trên biển.
Hải quân Malaysia có kế hoạch tái cơ cấu hạm đội tác chiến; mua 06 máy bay trực thăng MD-530G của Mỹ, máy bay tiêm kích (SU-30SM, Su-35, MiG-35) của Nga, 04 máy bay tuần tiễu trên biển, 04 máy bay không người lái; tiếp nhận 04 tàu chiến đấu ven bờ của Pháp, tàu tuần tra lớp Keris của Trung Quốc.

1651545116415.png

1651545063049.png

1651545270099.png

1651545446802.png

1651545516844.png

1651545531111.png

1651545543332.png

Tàu hộ tống lớp Gowind của Pháp đóng cho hải quân Malaysia

Malaysia là khách hàng nước ngoài đầu tiên của họ tàu corvette và tàu tuần tra lớp Gowind do hãng đóng tàu Pháp DCNS (nay là Naval Group) của Pháp phát triển sau khi ký hợp đồng trị giá 2,8 tỷ USD đóng 6 tàu lớp Gowind 2500 cho Hải quân Malaysia vào cuối năm 2011. Toàn bộ 6 tàu của Malaysia đều được đóng với sự hỗ trợ của DCNS (Naval Group) tại xưởng đóng tàu Boustead Heavy Industries Corporation Berhad (BHIC) Lumut Shipyard ở Lumut. Các tàu lớp Gowind 2500 được Malaysia lựa chọn trong khuôn khổ chương trình Second-Generation Patrol Vessel - Littoral Combat Ship (SGPV-LCS) của Hải quân Malaysia và các kế hoạch đóng tàu theo chương trình này về lý thuyết lên tới 24 chiếc.
Các tàu lớp Gowind 2500 của Malaysia là các tàu chiến lớn với lượng giãn nước 3.078 tấn, chiều dài 111 m và chiều rộng 16 m. Hệ thống động lực 2 trục gồm 4 động cơ diesel MTU, bảo đảm tốc độ tối đa đến 28 hải lý/h, cự ly hành trình đến 5.000 hải lý ở tốc độ 15 hải lý/h, thủy thủ đoàn 118 (18 sĩ quan).
Vũ khí của tàu gồm 8 bệ phóng tên lửa chống hạm NSM của hãng Kongsberg, Đan Mạch, bệ phóng thẳng đứng 16 ngăn phóng của hệ thống tên lửa phòng không VL-MICA của hãng MBDA, 1 ụ pháo vạn năng 57 mm BAE Systems Bofors Mk 3, 2 ụ pháo điều khiển từ xa 30 mm MSI DS30M Mk 2, 2 cụm x 3 ống phòng lôi 324 mm. Hăng-ga trên tàu chứa được 1 trực thăng 12 tấn.
Trang bị vô tuyến điện tử gồm hệ thống chỉ huy chiến đấu tự động hóa SETIS của DCNS (tương tự hệ thống lắp trên frigate lớp FREMM của Pháp), cột tàu tích hợp PSIM lắp radar 3 D Thales SMART-S Mk 2, hệ thống tác chiến điện tử Thales Vigile 100, trạm thủy âm chống ngầm Thales Kingklip lắp dưới sống tàu và trạm thủy âm kéo Thales CAPTAS 2.



1651544726457.png

1651544825888.png

1651544743039.png

1651544773491.png

1651544796830.png

Trực thăng MD-530G

1651544429557.png

1651544448932.png

1651544523648.png

1651544497921.png

Tàu tuần tra lớp Keris

Hải quân Malaysia mới đây đã tổ chức lễ đón nhận chiếc tàu tuần tra ven bờ (LMS - littoral mission ship) lớp Keris đầu tiên có tên gọi KD Keris.
Buổi lễ tiếp nhận được tổ chức tại cơ sở sản xuất của hãng đóng tàu Wuchang Shipbuiding nằm ở tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Tàu KD Keris là chiếc thứ nhất thuộc hợp đồng chế tạo 4 tàu tuần tra ven bờ lớp Keris được ký kết năm 2017 giữa 2 hãng đóng tàu Boustead Naval Shipyard của Malaysia và CSOC của Trung Quốc.

Ban đầu, bản hợp đồng trị giá 289 triệu USD bao gồm điều khoản phía Malaysia sẽ tự chế tạo 2 chiếc tàu với sự chuyển giao công nghệ từ Trung Quốc. Tuy nhiên, tháng 5-2018, chính phủ mới được thành lập của quốc gia Đông Nam Á đã quyết định chỉnh sửa điều khoản trên, theo đó cả 4 tàu lớp Keris đều được đóng bởi CSOC và giá trị bản hợp đồng giảm còn 205 triệu USD. Trong tương lai, các tàu này sẽ hoạt động trong biên chế của Hạm đội phương Đông thuộc Hải quân Malaysia.
Các tàu tuần tra ven bờ lớp Keris có chiều dài 68,8m, độ giãn nước khoảng 780 tấn, tốc độ tiêu chuẩn 44km/h cùng phạm vi hoạt động đạt 3.700km. Về hệ thống vũ khí-trang thiết bị, theo những thông tin ban đầu, tàu sẽ được trang bị radar tìm kiếm SR-47AG, radar kiểm soát hỏa lực HEOS-100 và HEOS-300 cùng pháo vạn năng H/PJ-17 30mm.
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
13. Hải quân Singapore

a. Tổ chức biên chế

TT
Tổ chức
Biên chế
I
Quân số
9.000
II
Tổ chức lực lượng
1​
Bộ Tư lệnh Hạm đội
1​
2​
Bộ Tư lệnh Tuần tra ven biển
1​
3​
Bộ Tư lệnh Hỗ trợ hậu cần
1​
4​
Hải đội tàu tiến công
1​
5​
Hải đội tàu tuần tiễu
3​
6​
Hải đội tàu rải-quét mìn
1​
7​
Hải đội tàu đổ bộ
2​
8​
Đội tàu ngầm
1​
9​
Hải đội tàu hậu cần, phục vụ
1​




1651723541322.png

1651723565968.png

Tàu chiến hải quân Singapore

1651723596054.png

1651723638440.png

1651723657842.png

Tàu ngầm hải quân Singapore

1651723700578.png

1651723725524.png

1651723759020.png

Hải quân Singapore

1651723804938.png

1651723878514.png

1651723895565.png

1651723943715.png

Thủy quân lục chiến Singapore

1651723999767.png

1651724059106.png

1651724092352.png

1651724127576.png

Lực lượng seal Singapore
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
(Tiếp)

b. Trang bị chủ yếu
TT
Kiểu loại
Biên chế
1​
Tàu ngầm
4
- Challenger
2​
- Archer
2​
2​
Tàu chiến đấu
42
- Tàu chiến ven bờ Independence (RSS)
5​
- Tàu tuần tiễu
21​
- Tàu hộ vệ
6​
- Tàu hộ vệ tên lửa
6​
- Tàu quét mìn
4​
3​
Tàu đổ bộ
4
4​
Xuồng đổ bộ
134
5​
Tàu hậu cần
2
6​
Ngư lôi
4.640
- A-244S
1.400​
- Mark-48
1.800​
- Kamov Ka-50 Black Shark
1.440​


1651853891156.png

1651853922100.png

1651853983123.png

1651853908196.png

1651853940570.png

Tàu ngầm lớp Challenger

Lớp Challenger là một trong những lớp tàu ngầm của Hải quân Singapore . Chúng là phiên bản hiện đại hóa toàn diện của các tàu ngầm loại Sjöormen.

Lớp Sjöormen (rắn biển ) là một lớp tàu ngầm được chế tạo cho Hải quân Thụy Điển vào cuối những năm 1960. Chúng có hình dạng giọt nước và có khả năng lặn sâu tới 150 mét (490 ft). Vào thời điểm được triển khai, chúng được coi là một trong những lớp tàu ngầm phi hạt nhân tiên tiến nhất trên thế giới, tích hợp nhiều tính năng mới bao gồm bánh lái hình chữ X và gạch chống dội âm. Lúc đó, cả tốc độ và độ bền dưới nước đều vượt trội đối với một tàu ngầm thông thường. Các tàu ngầm này đã được Thụy Điển loại khỏi trang bị vào đầu những năm 1990. Năm 1995, Hải quân Cộng hòa Singapore - RSN mua lại một tàu hạng Challenger (trước đây được gọi là tàu ngầm hạng Sjöormen từ Hải quân Thụy Điển) và ba chiếc khác vào năm 1997, biến chúng thành lực lượng tác chiến dưới nước đầu tiên của Singapore. Người ta tin rằng lớp Challenger được mua để phát triển chuyên môn hoạt động của tàu ngầm trước khi lựa chọn một lớp tàu ngầm hiện đại để thay thế chúng, vì tất cả các tàu đều đã hơn 50 năm tuổi.
Các tàu ngầm lớp Challenger đã trải qua chương trình hiện đại hóa Riken phù hợp với các điều kiện hoạt động cụ thể của Hải quân Singapore. Do các tàu ngầm được thiết kế bởi người Thụy Điển cho các hoạt động ở Biển Baltic, nên các sửa đổi khác nhau đã được yêu cầu để chúng phù hợp với các vùng biển nhiệt đới. Một chương trình nhiệt đới hóa toàn diện đã được thực hiện cho cả bốn tàu ngầm, bao gồm việc lắp đặt hệ thống điều hòa không khí, hệ thống bảo vệ sinh tồn trên biển và chống ăn mòn.
Khi được chế tạo, lớp Sjöormen được trang bị radar tìm kiếm bề mặt và sonar. Tàu ngầm được trang bị bốn ống phóng ngư lôi 533 mm (21 in) đặt ở mũi tàu để tấn công mặt nước và hai ống phóng ngư lôi 408 mm (16 in) ở đuôi tàu cho tác chiến chống tàu ngầm hoặc rải thủy lôi.
 
Chỉnh sửa cuối:
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
(Tiếp)


1651854615110.png

1651854750228.png

1651854815110.png

1651854628256.png

1651854857560.png

1651854894819.png

1651854952843.png

Tàu ngầm lớp Archer

Các tàu ngầm lớp Archer là một lớp gồm hai tàu ngầm diesel-điện đang hoạt động trong Hải quân Cộng hòa Singapore (RSN). Ban đầu được đưa vào hoạt động với tên gọi tàu ngầm lớp Västergötland của Hải quân Thụy Điển: HSwMS Hälsingland và HSwMS Västergötland vào năm 1986 và 1987, hai chiếc tàu ngầm này đã được bán cho Singapore vào tháng 11 năm 2005 và được tái trang bị lần lượt vào tháng 6 năm 2009 và tháng 10 năm 2010 sau khi được Kockums hiện đại hóa toàn diện, lắp đặt hệ thống đẩy không khí độc lập, điều hòa nhiệt độ để sử dụng ở các vùng biển nhiệt đới.
Các tàu ngầm lớp Archer được thiết kế và chế tạo bởi Kockums AB dưới dạng tàu ngầm một thân, hai khoang được tối ưu hóa để giảm tiếng ồn và từ tính. Hai khoang kín áp cũng tăng cường sự an toàn và khả năng sống sót của kíp thủy thủ. Các tàu ngầm này được thiết kế để hoạt động ở vùng nước nông của Biển Baltic và do đó cũng được tối ưu hóa để hoạt động ở vùng biển Singapore, nơi có độ sâu tương tự. Các tàu ngầm lớp Archer cũng được trang bị động cơ Stirling AIP . Điều này giúp các tàu ngầm có khả năng lặn lâu hơn và tiếng ồn thấp hơn, nâng cao khả năng tàng hình của tàu ngầm. Hệ thống sonar tiên tiến cho phép tàu ngầm phát hiện các tàu đối phương ở khoảng cách xa hơn, trong khi hệ thống ngư lôi có khả năng phát hiện mục tiêu tốt hơn, cho phép tàu ngầm có thể tấn công từ cự ly xa hơn.

Chiều dài: 60,5 mét;
Chiều rộng: 6,1 mét;
Tải trọng: 1400 tấn (khi nổi); 1500 tấn (khi lặn);
Thủy thủ đoàn: 28 người;
Vũ khí:
Ống phóng ngư lôi 6 × 533 mm (21 in) cho ngư lôi hạng nặng TP-617
Ống phóng ngư lôi 3 × 400 mm (16 in) dùng chống tàu ngầm
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
(Tiếp)

1651976813412.png

Tàu ngầm Type 214 của hải quân Hàn Quốc

1651976882491.png

Tàu ngầm Type 214 của hải quân Đức

1651977043397.png

1651977057952.png

1651977086350.png

Tàu ngầm Type 214 của hải quân Hy Lạp

1651977215918.png

1651977143809.png

1651977161138.png

1651977263127.png

1651977357915.png

Tàu ngầm Kiểu 218SG

Tàu ngầm lớp Invincible, chính thức được gọi là tàu ngầm Kiểu 218SG, là một lớp tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng thông thường, do Hải quân Cộng hòa Singapore (RSN) đặt hàng từ tập đoàn hải quân ThyssenKrupp Marine Systems (TKMS) có trụ sở tại Đức. Kiểu 218SG là một dạng được tùy chỉnh rộng rãi của tàu ngầm Kiểu 214 định hướng xuất khẩu, với các đặc điểm thiết kế cụ thể được lấy từ tàu ngầm Kiểu 212.
Chúng có một số khả năng - bao gồm mức độ tự động hóa và khả năng chịu tải đáng kể, độ bền dưới nước được nâng cao.
Bộ Quốc phòng Singapore (MINDEF) đã đặt hàng 4 tàu ngầm Type-218SG - 2 chiếc vào năm 2013 và 2 chiếc vào năm 2017, để thay thế cho các tàu ngầm lớp Challenger và Archer hiện đang phục vụ của RSN . Chiếc tàu ngầm đầu tiên - RSS Invincible, được hạ thủy vào tháng 2 năm 2019 và dự kiến sẽ được đưa vào hoạt động vào năm 2022. RSN dự kiến sẽ có tất cả bốn tàu ngầm hoạt động vào năm 2024.
Type 218SG có chiều dài 70 mét (229 ft 8 in) và rộng 6,3 mét (20 ft 8 in), với tải trọng khoảng 2.000 tấn khi nổi và 2.200 tấn khi lặn. Nó có tốc độ ước tính khoảng 10 hải lý / giờ (19 km / h; 12 dặm / giờ) khi nổi trên mặt nước và 15 hải lý / giờ (28 km / h; 17 dặm / giờ) khi lặn.
Kiểu 218SG có một số đặc điểm độc đáo, chẳng hạn như:
Cấu hình bánh lái "hình chữ X" tương tự như trên tàu ngầm Type 212 và tàu ngầm lớp Dakar của Hải quân Israel, cho khả năng cơ động hiệu quả ở vùng biển ven bờ nông của Singapore và Biển Đông - trái ngược với cấu hình bánh lái hình chữ thập của Type 214.
Mô-đun động cơ đẩy không khí độc lập chạy bằng pin nhiên liệu (AIP), cho phép nó lặn trong nước lâu hơn khoảng 50% so với các tàu ngầm lớp Archer; một số ước tính cho thấy khả lặn dưới nước của Type 218SG vào khoảng 28–42 ngày (4-6 tuần), mà không cần lặn với ống thở.
Một hệ thống phóng đa năng nằm ngang (HMPL) - có thể được sử dụng để phóng ngư lôi, lực lượng tác chiến đặc biệt, thợ lặn và tên lửa hành trình phóng từ tàu ngầm (SLCM); các tàu ngầm cũng đi kèm với một tùy chọn để tích hợp một hệ thống VMPL để phóng tên lửa theo phương thẳng đứng.
Sử dụng các yếu tố hỗ trợ sinh hoạt và làm việc như điều hòa không khí , khu vực sinh hoạt mở rộng, vòi sen, giường tầng riêng biệt, buồng vệ sinh, không gian lưu trữ bổ sung và thiết bị phù hợp với các thủy thủ RSN.
Các tính năng mở rộng của tự động hóa - chẳng hạn như "Hệ thống quản lý chiến đấu" (CMS) do Atlas Elektronik và ST Electronics đồng phát triển và các động cơ hỗ trợ quyết định / phân tích dữ liệu do DSTA phát triển - cho phép thủy thủ đoàn vận hành tàu ngầm trong 3 giờ 4 phút/ca (thay vì hai ca kéo dài 6 giờ), do đó cho phép thời gian nghỉ ngơi nhiều hơn trong quá trình triển khai dưới nước kéo dài. Mức độ tự động hóa cao cũng giảm lượng thủy thủ đoàn xuống chỉ còn 28 người (ít hơn các tàu ngầm thông thường hiện đại khác).
Khả năng "chuyên chở trọng tải" cao hơn và hỏa lực lớn hơn các tàu ngầm lớp Challenger và lớp Archer.
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
1652096079905.png

1652096310024.png

1652096193961.png

1652096108610.png

1652096152241.png

1652096219225.png

Tàu khu trục lớp Formidable (La Fayette-class)

Lớp La Fayette (còn được gọi là FL -3000 cho " Frégate Légère de 3.000", hoặc FLF cho Frégate Légère Furtive ) là một lớp khinh hạm đa năng do DCNS chế tạo và được vận hành bởi Hải quân Pháp. Các tàu thuộc loại này đang được sử dụng trong hải quân của Ả Rập Xê Út, Singapore và Đài Loan.
Những con tàu này ban đầu được gọi là "khinh hạm tàng hình" do thiết kế tàng hình độc đáo của chúng vào thời điểm đó. Tiết diện radar giảm của chúng đạt được nhờ cấu trúc thượng tầng khác với các thiết kế thông thường, giảm các cạnh góc cạnh và sử dụng vật liệu hấp thụ sóng radar có khả năng chống cháy. Hầu hết các tàu chiến đấu hiện đại được chế tạo kể từ khi lớp La Fayette ra đời đều tuân theo nguyên tắc tàng hình tương tự.
Các tàu được thiết kế để chứa một máy bay trực thăng 10 tấn loại Panther hoặc NH90 (chúng cũng có khả năng vận hành Super Frelon và các máy bay trực thăng hạng nặng tương tự). Các trực thăng này có thể mang tên lửa chống hạm AM39 hoặc AS15. Pháp đã đặt hàng 5 chiếc thuộc lớp La Fayette vào năm 1988, chiếc cuối cùng đi vào hoạt động vào năm 2001.
Vào thời điểm được đưa vào hoạt động, các đơn vị lớp La Fayette là loại tàu chiến có khả năng tàng hình tối tân. Hình dạng của thân tàu và các cấu trúc thượng tầng được thiết kế để giảm thiểu tín hiệu radar một cách tối ưu.
Tiết diện radar của chúng tương đương với một tàu đánh cá lớn, có thể ngụy trang giữa các tàu dân sự; hoặc của một tàu hộ tống kém năng lực hơn nhiều, có thể khiến kẻ thù đánh giá thấp khả năng của con tàu. Trong trường hợp bị tấn công trực tiếp, dấu hiệu radar nhỏ giúp tránh tên lửa và hệ thống điều khiển hỏa lực của đối phương. Các tàu La Fayette cũng được trang bị thiết bị gây nhiễu có thể tạo ra hình ảnh radar giả, cũng như bệ phóng mồi nhử.
Nhờ sử dụng động cơ diesel công suất thấp và hệ thống tản nhiệt đặc biệt, tàu La Fayette có hiệu suất nhiệt thấp. Ống khói thông thường được thay thế bằng một bộ ống nhỏ phía sau tháp ra đa, giúp làm mát khí thoát ra trước khi thoát ra ngoài.
Những chiếc La Fayette được trang bị hệ thống ngụy trang âm học chủ động Prairie Masker, tạo ra những bong bóng nhỏ từ bên dưới thân tàu để gây nhiễu những chiếc sonars.

1652096361244.png

1652096242711.png

1652096262264.png

1652096281820.png

1652096338143.png

1652096385629.png

1652096405885.png

1652096426868.png

1652096456903.png

1652096473647.png

1652096554690.png

1652096496253.png


Sáu khinh hạm cỡ lớn của Hải quân Singapore có kích thước tương đương với lớp La Fayette, vũ khí được trang bị: thay cho tên lửa chống hạm Exocet là Boeing Harpoon. Pháo chính là loại Oto Melara 76 mm thay thế cho pháo tự động TR 100 mm. Lớp Mẫu hạm cũng sử dụng tổ hợp tên lửa Aster/bệ phóng SYLVER.
Con tàu đầu tiên, RSS Form domains , được chế tạo bởi DCN, trong khi các tàu còn lại do Singapore Technologies Marine đóng.
Khả năng chống tàu ngầm bao gồm trực thăng S-70B Seahawk .
Tốc độ tối đa là 27 kn (50 km / h; 31 dặm / giờ), khiến nó trở thành biến thể nhanh nhất. Các tàu có tầm hoạt động tối đa là 4.200 nmi (7.800 km; 4.800 mi).
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
(Tiếp)

1652232419249.png

1652232692954.png

1652232740513.png

1652232757148.png

Tàu hộ tống lớp Victory

Chiều dài: 62 mét (203 feet 5 inch)
Chiều rộng: 8,5 mét (27 ft 11 in)
Mớn nước: 2,6 mét (8 ft 6 in)
Trọng lượng choán nước: 595 tấn
Tốc độ tối đa: 37 hải lý / giờ (69 km / h). / 18 hải lý (33 km / h), hành trình
Phạm vi: 4000 NM (7400 km) ở tốc độ hành trình
Thủy thủ đoàn: 49

1652232780407.png

Vũ khí:
Hệ thống phóng thẳng đứng 2 x 8 ống (VLS) cho tên lửa IAI / Rafael Barak SAM
1 pháo Oto-Melara / OtoBreda 76/62 Super Rapid DP (3 "/ 76mm)
2 bệ phóng tên lửa 4 ống Mk-141 cho tối đa 8 RGM-84 Harpoon SSM
4 súng máy hạng nặng CIS50MG 12,7mm

Các tàu hộ tống lớp Victory là các tàu hộ tống đa năng dựa trên thiết kế MGB 62 của nhà máy đóng tàu Lürssen của Đức cho Hải quân Cộng hòa Singapore (RSN). Sáu con tàu được đưa vào hoạt động từ năm 1990 đến năm 1991.
Thương mại khu vực ngày càng tăng của Singapore đã dẫn đến việc đánh giá cấp cao về sứ mệnh của RSN, khi hải quân được giao vai trò bảo vệ các tuyến đường vận tải trên biển của Singapore (SLOC). Là một phần của chương trình mở rộng tiếp theo, RSN đã đặt hàng một hạm đội tàu hộ tống tên lửa từ Lürssen Werft vào năm 1983. Chiếc đầu tiên, RSS Victory, được chế tạo và hạ thủy ở Đức trong khi 5 chiếc còn lại được đóng tại địa phương bởi Công ty Đóng tàu & Kỹ thuật Singapore ( bây giờ là Singapore Technologies (ST) Marine). Các tàu hộ tống, được trang bị sonar và ngư lôi, là lớp tàu đầu tiên trong RSN có khả năng chống tàu ngầm.
Năm 1996, các tàu hộ tống được lắp hai bộ bệ phóng Barak I 8 ống, một radar điều khiển hỏa lực thứ hai trên bệ phía sau cột buồm và một hệ thống quang điện tử. Ổn định cuộn bánh lái cũng được trang bị thêm để cải thiện độ ổn định đi biển.
Năm 2009, có thông báo rằng các tàu hộ tống sẽ trải qua Chương trình kéo dài tuổi thọ. Ngày 23 tháng 8 năm 2011, RSS Valiant nâng cấp đã tiến hành một cuộc tập trận bắn đạn thật tên lửa Barak của nó, khi Tập trận CARAT với Hải quân Hoa Kỳ.
Năm 2012, lớp này được nâng cấp với một UAV ScanEagle, RSS Valiant là chiếc đầu tiên được trang bị như vậy. Tuy nhiên, lần nâng cấp này đã khiến khả năng chống tàu ngầm của chúng bị loại bỏ.
Năm 2018, Bộ Quốc phòng thông báo rằng tất cả sáu tàu hộ tống sẽ được thay thế bằng các tàu chiến đấu mới từ năm 2025 trở đi.
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
1652371950161.png

1652372162586.png

Tàu tuần tra lớp Independence

Tàu tuần tra, tác chiến ven biển Independence (LMV) là một lớp gồm 8 tàu mặt nước được dự kiến sẽ thay thế tàu tuần tra lớp Fearless của Hải quân Cộng hòa Singapore.
Ngày 30 tháng 1 năm 2013, MINDEF đã trao cho ST Engineering một hợp đồng thiết kế và đóng mới 8 tàu để thay thế các tàu tuần tra lớp Fearless. ST Engineering thông báo rằng chi nhánh hàng hải của tập đoàn, ST Marine sẽ là nhà tích hợp hệ thống chính và đóng 8 tàu tại Singapore Benoi Yard trong khi chi nhánh điện tử của tập đoàn, ST Electronics, sẽ cung cấp các hệ thống chiến đấu cốt lõi và các giải pháp tích hợp hệ thống chiến đấu.

1652372221784.png

1652372376318.png

Tàu Littoral (LMV)

Tàu Littoral (LMV) do Saab Kockums AB và ST Marine hợp tác thiết kế với Cơ quan Khoa học và Công nghệ Quốc phòng Singapore (DSTA) với tư cách là người quản lý tổng thể và tích hợp hệ thống và được bắt nguồn từ tàu tuần tra đa nhiệm vụ FLEXpatrol của Saab Kockum. Thiết kế của LMV được hướng dẫn bởi hai yêu cầu cụ thể. Do tỷ lệ sinh giảm, nhân lực là mối quan tâm hàng đầu đối với Lực lượng vũ trang Singaporevà thiết kế phản ánh những nỗ lực nhằm tăng hiệu quả của đội ngũ nhân viên giảm từ 30 xuống còn 23. Điều này đạt được thông qua việc tăng mức độ tự động hóa và giám sát từ xa. Một tính năng chính khác là Trung tâm Chỉ huy Tích hợp, trung tâm thông tin chiến đấu (CIC) và không gian điều khiển máy móc. Yêu cầu khác được phản ánh trong thiết kế của LMV là cần phải xử lý nhiều vai trò, từ xung đột cường độ thấp đến hoạt động hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa (HADR).

Thông số cơ bản:
Tải trọng: 1.200 tấn;
Chiều dài: 80 m;
Chiều rộng: 12 m;
Mớn nước: 3 m;
Động cơ: 4 động cơ MTU 20V4000M93L công suất 4.300 kw/chiếc;
Tổng công suất: 17.200 kw (23.100 hp);
Tốc độ tối đa: 27 hải lý/giờ (50 km/h);
Tốc độ hành trình: 18 hải lý/giờ (33,3 km/h);
Dự trữ hành trình: 3000 hải lý;
Thủy thủ đoàn: 23-30;

1652372409836.png

1652372679663.png

1652372714079.png

1652372764308.png

Vũ khí:
Pháo Oto Melara 76mm Super Rapid;
Súng 12,7 mm Hitrone: 02;
Pháo 25mm Mk48 Mod 2;
Tên lửa phòng không Mica: 12 quả;

1652372865643.png

1652373011938.png

1652372893101.png

1652373136434.png

Hệ thống ra đa và tác chiến điện tử của tàu

1652372905749.png

Phòng điều khiển tàu

1652372925079.png

Máng trượt đuôi tàu để thả và thu hồi xuồng tuần tra cao tốc

1652373152315.png

Sàn đáp trực thăng trên tàu
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
(Tiếp)

Một số nét lớn về chiến lược quân sự

Singapore duy trì chiến lược quân sự toàn diện, thực hiện chính sách quốc phòng dựa trên hai trụ cột là “răn đe” và “đối thoại”; coi trọng tăng cường sức mạnh quân sự và khả năng tác chiến của quân đội, đồng thời tăng cường đối thoại để giảm nguy cơ xung đột, bảo đảm an ninh và lợi ích quốc gia.
Để thực hiện chủ trương trên, Singapore đã xây dựng kế hoạch phát triển quốc phòng những năm tiếp theo, trong đó tập trung hiện đại hóa hải - lục - không quân, xây dựng lực lượng tác chiến đa nhiệm được trang bị các phương tiện không người lái, lắp đặt các hệ thống quang học và rađa dọc bờ biển, xây dựng lực lượng vũ trang hiện đại, đủ sức đối phó với hoạt động khủng bố và ngăn chặn các mối đe dọa quân sự từ bên ngoài. Bên cạnh đó, Singapore tiếp tục gia tăng tiềm lực quốc phòng, phát triển vũ khí trang bị trong nước kết hợp mua sắm vũ khí hiện đại từ nước ngoài; tăng cường huấn luyện, diễn tập quân sự nhằm nâng cao khả năng tác chiến của quân đội; coi trọng phát triển hợp tác quốc phòng với các nước đối tác, nhất là Mỹ.

1652496098906.png

1652496128485.png

1652496234579.png

F-35 không quân Singapore

1652496287951.png

1652496333201.png

1652496364073.png

F-15 không quân Singapore

1652496429539.png

1652496394211.png

1652496477284.png

F-16 không quân Singapore

1652496970281.png

1652497081119.png

1652497111525.png

1652497163909.png

Xe tăng chủ lực Leopard-2SG của Singapore

1652497274261.png

1652497341940.png

1652497395168.png

Xe thiết giáp Smart Hunter của Singapore

Trong giai đoạn tới, Singapore có kế hoạch mua và đưa vào biên chế 04 tàu ngầm tiến công Type-218SG của Đức, đóng 06 tàu chiến ven bờ Independence.

1652496601292.png

1652496650482.png

1652496663324.png

1652496700230.png

Tàu ngầm tiến công Type-218SG


1652496755974.png

1652496775538.png

Tàu chiến ven bờ Independence
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
14. Hải quân Brunei

a. Tổ chức biên chế


TT
Tổ chức
Biên chế
I
Quân số
1.400
II
Tổ chức lực lượng
1​
Hải đội tàu chiến
1​
2​
Đại đội đặc nhiệm hải quân
1​

b. Trang bị chủ yếu

TT
Kiểu loại
Biên chế
I
Tàu chiến
16
1​
Tàu đánh chặn
1​
2​
Tàu tiến công nhanh
3​
3​
Tàu tuần tiễu ven bờ (KH-27...)
8​
4​
Tàu tuần tiễu xa bờ
4​
II
Tàu đổ bộ
4


1652604345846.png

1652604468091.png

1652604998741.png

Hải quân Brunei

1652606898065.png

1652606940122.png

1652606658282.png

1652606764129.png

1652606782051.png

1652606828485.png

1652606732465.png

Tàu tuần tra lớp Darussalam

Tàu tuần tra xa bờ lớp Darussalam là một lớp gồm 4 tàu tuần tra xa bờ được đóng cho Hải quân Hoàng gia Brunei. Chúng là những tàu lớn nhất và có năng lực nhất của Hải quân Hoàng gia Brunei, và thường tham gia các cuộc tập trận hải quân quốc tế.
Brunei đã đặt hàng các tàu OPV lớp Darussalam từ Lürssen, cùng một công ty mà Brunei ký hợp đồng bán các tàu hộ tống lớp Nakhoda Ragam. Lô đầu tiên gồm hai tàu được giao vào tháng 1 năm 2011, còn lô thứ hai gồm hai tàu được giao vào năm 2014.

Tải trọng: 1650 tấn;
Chiều dài: 80m;
Chiều rộng: 13 m;
Động cơ: diesel 2 × MTU 11400hp;
Tốc độ tối đa: 41 km/h;
Cự ly tuần tra: 13.900 km;
Thời gian tuần tra: 21 ngày;
Thủy thủ đoàn: 55 người;
Xuồng tuần tra/đổ bộ đi cùng: 2 × Thuyền Boomeranger hoặc Boomeranger Patrol Craft (súng 1 × 7,62mm);

Vũ khí:
+ 2 Pháo Oerlikon 20mm / 85 KAA;
+ Pháo súng Bofors 57 mm Mk 3;
+ Pháo MLG 27;
+ 4 tên lửa Exocet MM40 Block3;
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
(Tiếp)


1652690944926.png

1652691016700.png

Tàu tuần tra lớp Ijtihad

Lớp Ijtihad bao gồm 4 tàu tuần tra nhanh do Lürssen Werft , Đức đóng và bàn giao cho Brunei vào năm 2009. Chúng tuần tra bờ biển Brunei và đôi khi tham gia các cuộc tập trận hải quân chung.
Tổng cộng bốn tàu tuần tra nhanh cấp Ijtihad đã được đưa vào trang bị cho Hải quân Hoàng gia Brunei (RBN), nơi hai trong số các tàu bắt đầu hoạt động từ tháng 3 năm 2010, tiếp theo là hai chiếc khác vào ngày 28 tháng 8 năm 2010.

Thông số kỹ thuật:
+ Tải trọng: 262 tấn;
+ Chiều dài: 41m;
+ Chiều rộng: 7,7m;
+ Mớn nước: 1,9m;
+ Công suất: 6.670 kw;
+ Động cơ: 02 động cơ diesel;
+ Tốc độ tối đa: 30 hải lý/giờ (56 km/h);
+ Thủy thủ đoàn: 16 (tối đa 21);

Vũ khí:
+ 01 pháo Rheinmetall MLG 27mm


1652691846200.png

1652691762096.png

1652691733245.png


Tàu tấn công nhanh KDB Mustaed

KDB Mustaed (21 tuổi) là con tàu duy nhất thuộc loại này của Hải quân Hoàng gia Brunei. Con tàu đang hoạt động trong Lực lượng Hải quân Hoàng gia Brunei (RBN).
KDB Mustaed được Nhà máy đóng tàu Marinteknik ở Singapore đóng theo thiết kế của Lürssen FIB25 và đưa vào hoạt động vào ngày 25 tháng 11 năm 2011. Nó có khả năng tuần tra biên giới, giám sát, bảo vệ ngư nghiệp và tấn công tốc độ cao.

Thông số kỹ thuật:
+ Tải trọng: 73 tấn;
+ Chiều dài: 27m;
+ Chiều rộng: 6,2m;
+ Mớn nước: 1,2 m;
+ Công suất: 3580kw;
+ Động cơ: 02 động cơ diesel;
+ Tốc độ tối đa: 40 hải lý/giờ (74 km/h);
+ Thời gian tuần tiễu: 21 ngày;
+ Thủy thủ đoàn: 11 người;

Vũ khí:
02 súng 12,7mm;
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
(tiếp)

Một số nét lớn về chiến lược quân sự

Brunei xác định 03 mục tiêu quân sự - quốc phòng:
(1) Duy trì khả năng phòng thủ mạnh, linh hoạt để ngăn chặn các cuộc tiến công quân sự từ bên ngoài;
(2) Bảo vệ lợi ích quốc gia;
(3) Tăng cường hiệu quả hệ thông chỉ huy tác chiến, phối hợp hành động giữa các cơ quan an ninh và hỗ trợ các cơ quan dân sự để xử trì tình huống khủng hoảng.

Để thực hiện mục tiêu trên, Brunei từng bước gia tăng tiềm lực quốc phòng, hiện đại hóa lực lượng vũ trang, trong đó ưu tiên phát triển, hiện đại hóa lực lượng không quân, hải quân, tiến hành mua sắm vũ khí, trang bị hiện đại, nâng cao năng lực phòng thủ, xây dựng quân đội đủ khả năng giải quyết, ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, bảo vệ lợi ích quốc gia trên biển; tăng cường hoạt động đối ngoại quốc phòng thông qua các thỏa thuận song phương và đa phương, diễn tập quân sự chung với các đối tác truyền thống và ASEAN; tích cực tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.

1652838385653.png

1652838415720.png

1652838449829.png

1652838494626.png

Quân đội Brunei

Phương hướng tới

Đẩy mạnh mua sắm vũ khí, trang bị của các nước Nga, Mỹ, Hàn Quốc, kết hợp với phát triển khoa học quân sự, công nghiệp quốc phòng trong nước để hiện đại hóa quân đội, đáp ứng nhiệm vụ tuần tra bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải, chống khủng bố, bảo vệ lợi ích quốc gia trên biển.
Có kế hoạch mua và đưa vào biên chế máy bay chiến đấu FA-50 của Hàn Quốc, máy bay trực thăng tiến công Ka-50, hệ thống tên lửa chống hạm Kh-35, hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển BAL-E, hệ thống tên lửa phòng không SA-17 Buk, xe tăng chiến đấu chủ lực T-90 của Nga; đẩy mạnh nâng cấp Căn cứ Hải quân Muara.

1652837642008.png

1652837669548.png

1652837691733.png

1652837629888.png

1652837657752.png

Máy bay chiến đấu FA-50

1652837718527.png

1652837752456.png

1652837775713.png

Trực thăng tiến công Ka-50

1652837813390.png

1652837836212.png

Tên lửa chống hạm Kh-35

1652837892772.png

1652838023798.png

1652837962539.png

1652838059371.png

1652838092142.png

Hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển BAL-E

1652838120781.png

1652838137973.png

1652838178814.png

Hệ thống tên lửa phòng không SA-17 Buk

1652838207131.png

1652838252634.png

1652838274471.png

Xe tăng T-90
 
Chỉnh sửa cuối:
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
15. Hải quân Myanmar
a. Tổ chức biên chế

TT
Tổ chức
Biên chế
I
Quân số
16.000
II
Tổ chức lực lượng
1​
Bộ Tư lệnh Hải quân
1​
2​
Bộ Tư lệnh Kiểm soát
1​
3​
Vùng hải quân
5​
4​
Lữ đoàn tàu chiến thuật
1​
5​
Lữ đoàn hải quân đánh bộ
1​

1653100444840.png

1653100517372.png

1653100549656.png

1653100577890.png

1653100687211.png

1653100736047.png

1653100854171.png

1653100940448.png

Hải quân Myanmar

1653101156768.png

1653100990817.png

1653101083946.png

1653101101684.png

Lực lượng Seal - Hải quân Myanmar
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
(Tiếp)

b. Trang bị chủ yếu

TT
Kiểu loại
Biên chế
1​
Tàu khu trục
5
- Kyansitthar
2​
- Aung Zeya
1​
- Mahar Bandoola (Type-053)
3​
2​
Tàu hộ vệ tên lửa
10
3​
Tàu tuần tiễu
77
- Tàu tuần tiễu trên biển
63​
- Tàu tuần tiễu trên sông
14​
4​
Tàu, xuồng đổ bộ
15
- Tàu đổ bộ (LMC, LCU)
12​
- Xuồng đổ bộ
3​
5​
Tàu hậu cần và vận tải
13


1653131633474.png

1653131692508.png

1653131767894.png

1653131800992.png

1653131976966.png

1653131869040.png

1653131919882.png

Tàu khu trục Kyansitthar

Khinh hạm lớp Kyan Sittha (hay Kyansitta hoặc Kyan-Sit-Thar) là một lớp khinh hạm tàng hình mang tên lửa dẫn đường do Hải quân Myanmar vận hành. UMS Kyansitta (F12) là khinh hạm đầu tiên của Hải quân Myanmar đã giảm bớt tiết diện radar trên thiết kế của nó. Con tàu được tích hợp nhiều bộ điện tử và hệ thống vũ khí khác nhau của Ấn Độ, Trung Quốc và Nga. Con tàu dẫn đầu của lớp được đặt tên cho Kyansittha, vua của Vương triều Pagan của Myanmar.
Thông số kỹ thuật:
+ Chiều dài: 108 m;
+ Tải trọng: 3.000 tấn;
+ Động cơ: 04 động cơ diesel 5.700 kw/máy;
+ Tốc độ tối đa: 56 km/h;
+ Cự ly hành trình: 6.100 km;
Vũ khí:
+ Tên lửa chống hạm C-802;
+ Pháo Oto Melara 76mm;
+ Pháo bắn nhanh Ak-630-6 30mm;
+ Trực thăng săn ngầm: 01;

1653132576795.png

1653132600808.png

1653132626557.png

1653132656137.png

1653132667207.png

Tàu khu trục lớp Aung Zeya

Khinh hạm lớp Aung Zeya là một tàu khu trục nhỏ do Hải quân Myanmar vận hành . Con tàu dẫn đầu của lớp này được đặt theo tên của Aung Zeya (Alaungpaya), người sáng lập ra Vương triều Konbaung của Myanmar. UMS Aung Zeya (F-11) là khinh hạm tên lửa dẫn đường bản địa đầu tiên của Hải quân Myanmar.
Tính đến năm 2021, tàu F-11 là tàu duy nhất trong lớp này.
Thông số kỹ thuật:
+ Tải trọng: 2.500 tấn;
+ Chiều dài: 108 m;
+ Chiều rộng: 13,5 m;
+ Mớn nước: 3,6 m;
+ Động cơ: 4 máy diesel Shaanxi công suất 5.700 kw/máy;
+ Tốc độ tối đa: 56 km/h;
+ Hành trình tối đa: 6.100 km;
Vũ khí:
+ Pháo Oto Melara 76mm;
+ Pháo bắn nhanh Ak-630-6 30mm: 04 khẩu;
+ 02 súng máy 14,5 mm;
+ Tên lửa chống hạm: 08 tên lửa Kum-song 3;
+ Tên lửa phòng không: 6 SA-N-5;
+ Ngư lôi: 02 cụm 3 ống phóng 324 mm, ngư lôi Yu-7;
+ 02 hệ thống tên lửa chống ngầm RBU-1200 (36 quả);
+ Trực thăng mang theo: Mi-17;

1653132846969.png

1653132924817.png

1653132949730.png

Tên lửa chống hạm Kum-song 3

1653133350938.png

1653133378413.png

Ngư lôi Yu-7


1653133051891.png

1653133076385.png

1653133134951.png

Tên lửa phòng không SA-N-5
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
(tiếp)

1653210242976.png

1653210277046.png

1653210305346.png

1653210346723.png

1653210496654.png

1653210556518.png

Tàu khu trục lớp Mahar Bandoola (Type-053)

Type 053H1 (tên gọi theo NATO: Jianghu-II)
Type 053 là một họ tàu khu trục nhỏ của Trung Quốc phục vụ cho Lực lượng Mặt nước của Quân Giải phóng Nhân dân và một số lượng nhỏ hải quân nước ngoài.
Năm 2012, hai khinh hạm Type 053H1 là Anshun (FFG 554) và Jishou (FFG 557) lần lượt được chuyển giao cho Hải quân Myanmar với tên gọi UMS Mahar Bandoola (F-21) và UMS Mahar Thiha Thura (F-23).
Thông số kỹ thuật:
+ Tải trọng: 1.700 – 2.000 tấn;
+ Chiều dài: 103-112 m;
+ Chiều rộng: 10-12 m;
+ Mớn nước: 3-4 m;
+ Động cơ: 2-4 máy diesel công suất 16.000 – 20.000 mã lực;
+ Tốc độ: 32 hải lý/giờ;
+ Hành trình tuần tra: 7.400 km;
+ Thủy thủ đoàn: 160-200;

Vũ khí:
+ Tên lửa chống hạm SY-1: 06 quả;
+ Pháo: 100mm 2 nòng;
+ Trực thăng: Harbin Z9-C;

1653212175119.png

1653211158094.png

1653211182145.png

1653211391765.png

1653211473077.png

1653211621369.png

1653211636293.png

1653211727414.png

Tàu ngầm lớp Ming Type 035B

Hải quân Myanmar đã đưa vào biên chế chiếc áo lớp Ming Type 035 trước đây của Hải quân Trung Quốc tại một buổi lễ được tổ chức kỷ niệm 74 năm thành lập lực lượng hải quân.
Tàu ngầm tấn công động cơ diesel lớp Ming của Trung Quốc được chế tạo thành 4 biến thể trong hơn 25 năm kể từ năm 1974. Biến thể Type 035B vừa gia nhập hạm đội Myanmar được trang bị để bắn tên lửa từ các ống phóng ngư lôi của nước này. . Bangladesh là khách hàng hiện tại của lớp này, đã mua hai chiếc Type 035G với giá 203 triệu USD. Cả hai đều được giao vào năm 2016.
Tàu ngầm diesel-điện Type 035 lớp Ming được thiết kế để phục vụ 2 chức năng, vừa là tàu ngầm tấn công, vừa là tàu huấn luyện. Trung Quốc là một trong những nhà cung cấp khí tài quân sự quan trọng cho các lực lượng vũ trang của Myanmar, bao gồm máy bay chiến đấu phản lực và tàu hải quân.
Tàu ngầm có chiều dài 76 mét, chiều rộng 7,6 mét, lượng choán nước 2.110 tấn. Tốc độ tối đa 18 hải lý / giờ, thủy thủ đoàn: 57 người, độ sâu tối đa khi lặn: 300 m. Vũ khí : 8 ống phóng ngư lôi 533 mm (6 phía trước, 02 phía sau tàu).
Chiếc đầu tiên của tàu ngầm lớp Ming bắt đầu đồng thời vào tháng 10 năm 1969 tại Nhà máy Đóng Vũ Xương và Nhà máy Đóng tàu Giang Nam. Các thử nghiệm được hoàn thành vào tháng 10 năm 1974 và chiếc đầu tiên được đóng tại Nhà máy Đóng Tàu Giang Nam đã đi vào hoạt động trong biên chế của hải quân Trung Quốc vào tháng sau đó.
Tàu được chế tạo theo 4 biến thể, trong đó Kiểu 35B là thiết kế biến thể hiện đại nhất.
 
Chỉnh sửa cuối:
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
(Tiếp)

1653363681178.png

1653363766023.png

1653364323352.png

1653363870226.png

1653363920380.png

1653363963425.png

Tàu ngầm lớp Kilo Sindhuvir của hải quân Ấn Độ chuyển giao cho hải quân Myanmar

Lớp Kilo , tên gọi của Liên Xô là Đề án 877 Paltus ( tiếng Nga : Па́лтус , nghĩa là " cá bơn "), tên gọi của NATO là Kilo, là một lớp tàu ngầm tấn công diesel-điện được thiết kế và chế tạo tại Liên Xô cho Hải quân Liên Xô . Lớp này được chế tạo cho đến giữa những năm 1990, khi việc sản xuất được chuyển sang Dự án 636 Varshavyanka tiên tiến hơn (tiếng Nga: Варшавянка) còn được gọi là lớp Kilo cải tiến ở phương Tây.
Các tàu ngầm tấn công này chủ yếu dành cho các hoạt động chống hàng hải và chống tàu ngầm ở những vùng nước tương đối nông. Các tàu Project 877 nguyên bản được trang bị hệ thống sonar Rubikon MGK-400 (với tên báo cáo của NATO là Shark Gill), bao gồm sonar phát hiện và tránh mìn MG-519 Arfa (với tên gọi của NATO là Mouse Roar).

Thông số kỹ thuật:
- Tải trọng khi nổi: 2.325 tấn
- Tải trọng khi lặn: 3.075 tấn;
- Chiều dài: 70-73,8m;
- Chiều rộng: 9,9 m;
- Chiều cao: 6,2 m;
- Năng lượng: diesel-điện;
- Động cơ:
+ 02 máy phát điện diesel 1.000 kw/chiếc;
+ 01 động cơ diesel 5.500 – 6.800 mã lực;
- Tốc độ:
+ Khi nổi: 31 km/h;
+ Khi lặn: 37 km/h;
- Hành trình:
+ Lặn có ống thở: 11.100 – 13.900 km với tốc độ 13 km/h;
+ Khi lặn hoàn toàn: 740 km với tốc độ 5,6 km/h;
+ Khi lặn với tốc độ cao: 23,5 km với tốc độ 39 km/h;
- Thời gian tuần tra liên tục trên biển: 45 ngày;
- Độ sâu khi lặn:
+ Bình thường: 240 m;
+ Tối đa: 300 m;
- Thủy thủ đoàn: 52 người;

Vũ khí:
- 6 ống phóng ngư lôi 533 mm;
- 18 ngư lôi;
- 04 tên lửa hành trình tấn công mặt đất Club;
- 24 thủy lôi;
- 08 tên lửa đối không Igla-1;

1653364193932.png

1653363988958.png

1653364062440.png

1653364118953.png

1653364230456.png

1653364085642.png

Tàu ngầm lớp Kilo của hải quân Myanmar

Vào giữa tháng 10 năm 2020, Lực lượng Hải quân Myanmar đã trở thành quốc gia thứ 9 sử dụng tàu ngầm lớp Kilo.
Tàu ngầm UMS Minye Theinkhathu (Min ye Thein Kha Thu) chính thức được giới thiệu trong cuộc tập trận Bandoola 2020 của Hạm đội.
Để chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực, Ấn Độ đã khởi xướng chính sách SAGAR (An ninh và Tăng trưởng cho Mọi người trong Khu vực) và nước này cam kết xây dựng năng lực với các nước láng giềng của mình. Ấn Độ và Myanmar có chung đường biên giới trên cạn dài 725 km và 1640 km trên biển.
Ấn Độ không chỉ đơn giản là bán tàu ngầm thông qua Line of Credit (LOC), mà Hải quân Ấn Độ sẽ cung cấp đào tạo và hỗ trợ hậu cần.
Tổng tư lệnh Bộ Quốc phòng Myanmar, Thượng tướng Min Aung Hlaing, xuất hiện trong bộ quân phục hải quân trong buổi giới thiệu tàu ngầm trước công chúng.
Ông nói: “Hôm nay là một cột mốc quan trọng trong lịch sử của hải quân Tatmadaw. “Mọi quốc gia đều đang nỗ lực phát huy sức mạnh hải quân của mình. Để đạt được mục tiêu này, chúng ta phải nâng cao sức mạnh hải quân bằng cách sở hữu các tàu hải quân mạnh mẽ, và tàu ngầm cũng nằm trong số đó. Một hải quân hiện đại hóa phải được trang bị tàu ngầm. Chúng tôi đã cố gắng và xem xét làm thế nào để sở hữu tàu ngầm trong nhiều thập kỷ. Những giấc mơ như vậy không thể được định hình một cách dễ dàng. Chúng tôi đã rất cố gắng để biến ước mơ này thành hiện thực ”.
Lực lượng Hải quân Myanmar sẽ sử dụng tàu ngầm Project 877 EKM lớp Kilo đầu tiên chủ yếu cho mục đích huấn luyện. Hiện tại vẫn chưa rõ loại vũ khí mà Hải quân Myanmar mua được để sử dụng trên tàu ngầm này và liệu Hải quân Ấn Độ có cung cấp tên lửa SS-N-27 cho nước láng giềng của mình hay không.
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
(Tiếp)

1653705881207.png

1653705921548.png

1653705957871.png

1653705992862.png

1653705841984.png

1653705855340.png

Tàu đổ bộ lớp Makassar

Lớp Makassar là một lớp Tàu đổ bộ do Hàn Quốc thiết kế và chế tạo, nó được đặt theo tên của thành phố Makassar ở Sulawesi. Các tàu này được thiết kế bởi Daesun Shipbuilding & Engineering Co. dựa trên thiết kế trước đó của họ là lớp Tanjung Dalpele đã được bán cho Hải quân Indonesia.
Năm 2019, Công ty đóng tàu Dae Sun của Hàn Quốc đã đóng một tàu LPD lớp Makassar mang tên UMS Moattama cho Hải quân Myanmar.

Thông số kỹ thuật:
- Tải trọng: 12.400 tấn;
- Tải trọng tối đa: 15.994 tấn;
- Chiều dài: 125 m;
- Chiều rộng: 22 m;
- Chiều cao: 56 m;
- Mớn nước: 4,9 m;
- Sàn chở xe tăng: 6,7 m;
- Sàn chở xe tải: 11,3 m;
- Động cơ: 02 động cơ diesel MAN B&W 8L28 / 32A công suất 2666 BHP / 1960 kW;
- Tốc độ tối đa: 16 hải lý/giờ;
- Tốc độ hành trình: 14 hải lý/giờ;
- Cự ly hành trình: 30 ngày/19.000 km;
- Thời gian hành trình trên biển: 45 ngày;
- Tàu/xuồng đi cùng: 2 xuồng đổ bộ;
- Sức chứa: 35 xe bộ binh; 354 quân;
- Thủy thủ đoàn: 126;
- 02 bãi đáp trực thăng;

Vũ khí:
- 1 pháo Bofors 40mm SAK40 / L70
- 02 pháo 20mm Oerlikon
- 02 tên lửa phòng không Mistral Simbad
- Máy bay trực thăng: tối đa 05 chiếc;


1653706767704.png

1653706783994.png

1653706802212.png

1653706817678.png

1653706885337.png

1653706940419.png

Tàu hộ tống lớp Anawrahta

Tàu hộ tống lớp Anawrahta là một lớp tàu hộ tống do Hải quân Myanmar vận hành. Tàu UMS Anawrahta (771) được đưa vào hoạt động năm 2001. Con tàu được đóng tại địa phương với sự hỗ trợ của Trung Quốc. Tàu hộ tống lớp Anawrahta được trang bị nhiều tổ hợp điện tử và hệ thống vũ khí khác nhau của Trung Quốc, Israel và Nga.Tàu đầu tiên của lớp này được đặt theo tên của Vua Anawrahta, người sáng lập ra Đế chế Pagan của Myanmar (Miến Điện).

Thông số kỹ thuật
Tàu khu trục hạng nhẹ (Tàu hộ tống tên lửa)
- Tải trọng: 1.105 tấn
- Chiều dài: 77 m (253 ft)
- Động cơ: dầu diesel
- Tốc độ: 26 hải lý/giờ;
- Ra đa:
1 x Radar loại 352 (Vuông)
1 x Radar giám sát không xác định
2 x Đài dẫn đường Furuno UMS Tabinshwehti (773)
1 x radar tìm kiếm 2D băng tần BEL RAWL-02 Mk II (222,2km)
1 x radar xác định mục tiêu tên lửa Kiểu 362 của Trung Quốc (120km)
1 x Rader điều khiển hỏa lực Kiểu 347G
2 x Đài dẫn đường Furuno
1 x cảm biến không xác định
1 x sonar gắn trên thân BEL HMS-X

Vũ khí:
01 pháo OTO Melara 76mm
01 pháo Type 69/AK-230 twin-barrel 30 mm CIWS hoặc 02 pháo NG-18 30 mm CIWS
02 pháo phòng không Type 58/ZPU 2
06 tên lửa phòng không SA-N-5 SAM (có thể nạp lại)
04 tên lửa chống hạm C-802
02 hệ thống đạn phản lực chống ngầm RBU-1200 hoặc Type 81 ASW
02 súng QJG-02G 14.5 mm AA guns hoặc 02 súng M2 Browning Heavy Machine Guns
02 bom chìm cỡ lớn Large Depth Charge (LDC)

Máy bay:
01 Schiebel Camcopter S-100 UAV
01 Mi-2 Helicopter


1653707240994.png

1653707279636.png

1653707337612.png

Schiebel Camcopter S-100 UAV

1653707515540.png

1653707555119.png

1653707465099.png

Trực thăng Mi-2
 
Chỉnh sửa cuối:
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
(Tiếp)

Tàu tấn công nhanh


1653878987049.png

1653879254496.png

1653879270196.png

1653879286387.png

Tàu tấn công nhanh lớp 5-Series

Lớp 5-Series là một lớp tàu tấn công nhanh được Hải quân Myanmar đóng từ năm 1996 đến năm 2012. Lớp này có 20 tàu và thiết kế cũng như vũ khí trang bị của các tàu khác nhau tùy theo số lượng và loại tàu. Các tàu thuộc lớp 5-series được chia thành Tàu tên lửa và Tàu pháo.
Lô đầu tiên với 5 tàu pháo ( 551.552.553.554 và 555 ) được đưa vào trang bị vào năm 1996. Lô thứ hai với 03 tàu tên lửa ( 556.557 và 558 ) được đưa vào hoạt động năm 2004.
Lô thứ ba với 02 tàu pháo ( 559 và 560 ) được đưa vào hoạt động năm 2005. Lô thứ tư với 02 tàu tên lửa (561 và 562) được đưa vào hoạt động năm 2008 và lô cuối cùng với 07 tàu pháo ( 563.564.565.566.567.568.569 và 570 ) đã được đưa vào hoạt động từ năm 2012 đến năm 2013.
Năm 2013, Hải quân Myanmar cũng bắt đầu hiện đại hóa các tàu tấn công nhanh loạt thứ 5 với nhiều vũ khí tiên tiến hơn, chẳng hạn như lắp tên lửa phòng không Igla (SA-24) cho lớp tàu pháo và thay thế pháo phòng không của tàu tên lửa bằng hệ thống vũ khí tầm gần 30mm NG-18.

Thông số kỹ thuật:
- Tải trọng: 300-350 tấn;
- Chiều dài: 47 - 56 m;
- Chiều rộng: 10 m;
- Tốc độ: 46 – 56 km/h;
- Cự ly hoạt động: 2.900 km ở tốc độ 56 km/h;

Vũ khí:
- 1 pháo phòng không 2 nòng AA Type-66 57 mm của Trung Quốc
01 súng máy phòng không 2M-3M 26 mm;
02 súng máy ZPU-1 súng 14,5 mm
Hoặc
02 Pháo hải quân 2 nòng Type 76 - 37 mm;
01 súng 2 nòng 2M-3M 25mm;
02 súng ZPU-1 súng 14,5 mm;
Hoặc
02 súng CIWS 30 mm NG-18;
2 pháo điều khiển từ xa Type-91 quad sản xuất trong nước;
- 04 tên lửa chống tàu C-802;
- 04 tên lửa phòng không Igla;


1653879758447.png

1653879897476.png

1653879934966.png

1653879782171.png

1653879804494.png

1653879815799.png

1653879826426.png

Tàu tấn công nhanh lớp 49M

Tàu tấn công nhanh tàng hình 49M (Project-PB-049) là một lớp tàu tấn công nhanh sản xuất trong nước của Hải quân Myanmar . Không giống như lớp tàu tấn công nhanh 5-series trước đây, thiết kế của tàu tấn công nhanh tàng hình 49m sử dụng công nghệ tàng hình.
Chiếc số hiệu 491 là chiếc đầu tiên của lớp này, nó được hoàn thành vào năm 2013. Chiếc thứ hai só hiệu 492 được hoàn thành vào năm 2019 và được đưa vào hoạt động vào ngày 24 tháng 12 năm 2020.

Thông số kỹ thuật:
- Chiều dài: 49 m;
- Chiều rộng: 7,4 m;
- Mớn nước: 1,89 m;
- Động cơ: 04 động cơ diesel phản lực;
- Tốc độ: 56 km/h;

Vũ khí:
01 pháo tầm gần NG-18 6 nòng 30 mm CIWS;
02 súng phòng không 4 nòng điều khiển từ xa Kiểu-91 sản xuất trong nước
04 tên lửa chống hạm C-802 (trang bị trên tàu 491);
04 tên lửa chống hạm C-802A (trang bị trên tàu 492);
02 bệ phóng Igla SAM;
02 súng máy hạng nặng MA-16 sản xuất trong nước;
 

SH Nguyen

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-516681
Ngày cấp bằng
18/6/17
Số km
410
Động cơ
183,881 Mã lực
Tuổi
27
Nơi ở
Hà Nội
1654349274019.png

Không nhắc tới con này là một thiếu sót lớn !
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top