[Funland] 50 năm trước đây, ngày 27 tháng 1 năm 1973, ký Hiệp định hoà bình Paris về Việt Nam

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Hội nghi Paris 1972_9_11 (1).jpg

11-9-1972, ông Lê Đức Thọ từ Hà Nội trở lại Paris để đàm phán với Henry Kissinger. Đây là thời điểm cả hai bên có những bước nhân nhương cơ bản
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Việt Nam 1972_10_18 (1).jpg

Kissinger tới Sài Gòn ngày 18-10-1972.
Việt Nam 1972_10_18 (1a).jpg

18-10-1972 – Henry A. Kissinger, Cố vấn An ninh của Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon, cười đùa với Trần Kim Phượng, Đại sứ Nam Việt Nam tại Washington, sau khi đến Sài Gòn vào Thứ Tư, ngày 18 tháng 10 năm 1972. Kissinger đến Sài Gòn để gặp Nguyễn Văn Thiệu thảo luận Bản dự thảo hoà bình Việt Nam dự kiến sẽ ký tắt ở Hà Nội hôm 24 tháng 10 năm 1972. Phương được gọi về Sài Gòn để hội ý khẩn cấp với Tổng thống Việt Nam Nguyễn Văn Thiệu
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Kissinger tới Sài Gòn ngày 18-10-1972.
Sáng hôm sau, ông tới ngay Dinh Độc Lập với đoàn tùy tùng đông đảo gồm cả nhân viên an ninh, trông giống phái đoàn đi tháp tùng vị quốc trưởng hơn đặc sứ. Không ngạc nhiên trước cảnh tượng đó, Thiệu còn lộ sự hờn giận của mình bằng cách để Kissinger cùng đoàn tùy tùng ngồi đợi mười lăm phút trong phòng tiếp khách, ngay trước mặt nhóm ký giả và nhiếp ảnh đã tụ họp ở đó từ trước để theo dõi cuộc viếng thăm. Thiệu tiếp Kissinger không biểu lộ sự vồn vã, thân mật nào hết mà tỏ ra cách biệt lạnh lùng. Vừa gặp mặt, Kissinger liền trao tay Thiệu lá thư của Nixon đề ngày 16-10-1972 như với dụng ý khai mào cuộc gặp gỡ và để cho biết là mình được Nixon hoàn toàn tín nhiệm. Lá thư đầy xúc động:

Thân gửi Tổng thống Thiệu!
Tôi yêu cầu Tiến sĩ Kissinger chuyển đến Ngài lá thư riêng này liên quan đến những cuộc đàm phán hiện thời với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dường như đang tới giai đoạn chót. Như Ngài biết, suốt bốn năm dưới quyền tôi, Hoa Kỳ đứng vững đằng sau chính phủ Ngài cùng nhân dân Việt Nam Cộng hoà và ủng hộ sự đấu tranh dũng cảm của họ nhằm chống xâm lăngvà bảo tồn quyền tự quyết về tương lai chính trị của mình.
Những biện pháp quân sự chúng tôi đã sử dụng, chương trình Việt Nam hoá, những hành động kịch liệt thi hành năm 1970 nhằm tiêu diệt sào huyệt Việt Cộng tại Campuchia, những cuộc hành quân tại Lào năm 1971 và biện pháp chống Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tháng 5 mới đây hoàn toàn minh chứng cho sự ủng hộ vững chắc của chúng tôi. Tôi không cần nhấn mạnh, trong số những biện pháp vừa kể có nhiều biện pháp không được nhiều người ủng hộ tại Hoa Kỳ nhưng chúng lại cần thiết.
Tại bàn thương thuyết, chúng tôi luôn luôn bám chặt lấy nguyên tắc không bao giờ thương lượng với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà một giải pháp nào có thể định đoạt trước tương lai chính trị của miền Nam. Chúng tôi trước sau vẫn triệt để tôn trọng lập trường duy trì chính phủ dân cử và bảo đảm cho nhân dân tự do Việt Nam cơ hội quyết định tương lai mình.
Cho tới gần đây, phe thương thuyết Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vẫn còn bám chặt lập trường cố hữu của họ là, bất cứ cuộc dàn xếp nào về chiến tranh cũng phải bao gồm sự từ chức của Ngài và sự giải tán của chính phủ Việt Nam Cộng hoà cùng những định chế dân chủ liên hệ.
Tuy nhiên, lúc này dường như chính vì sự kết hợp của lòng kiên trì, sự dũng cảm của chính phủ Ngài cũng như các lực lượng chiến đấu của Việt Nam Cộng hoà, những biện pháp mạnh mà Hoa Kỳ đã áp dụng ngày 8-5-1972, thêm với lòng kiên tâm của riêng chúng tôi tại bàn hội nghị nên nó chuyển hướng sâu xa căn bản tại Hà Nội. Qua những cuộc gặp gỡ mới đây giữa Tiến sĩ Kissinger và phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Paris, mỗi ngày người ta càng thấy rõ cấp lãnh đạo tại Hà Nội sẵn sàng chấp thuận ngưng bắn trước khi đòi giải quyết vấn đề chính trị tại miền Nam Việt Nam. Đây quả là một sự đảo ngược quan trọng trong chủ trương của họ và chắc nó phải tiêu biểu quyết định về phía họ, quyết định mà ta không nên coi nhẹ. Vì họ biết rõ nhược điểm của các lực lượng chính trị của họ tại miền Nam nên đối với họ, mục tiêu chính trị của họ tất phải mang nhiều rủi ro lớn.
Hậu quả của sự thay đổi chiến lược này đưa tới một tình huống trong đó, chúng tôi và phe thương thuyết Hà Nội thoả thuận về bản văn quy định một cuộc đình chiến, sự triệt thoái những lực lượng đồng minh còn lại, sự trao đổi tù binh và sự tiếp tục tồn tại của chính phủ
Ngài cùng những định chế dân chủ (của miền Nam) sau khi cuộc ngưng bắn có hiệu lực. Thêm vào chính văn kiện ấy, chúng tôi còn đạt được một số cam kết riêng tư với Hà Nội nhằm mục đích thoả mãn những mối quan tâm về an ninh của xứ sở Ngài mà việc thực thi những cam kết ấy chúng tôi coi như một phần chủ yếu của hiệp định này.
Tiến sĩ Kissinger sẽ giải thích cho Ngài đầy đủ mọi chi tiết những điều khoản trong hiệp định đề nghị ông ta mang theo. Vì thế, tôi không bàn gì thêm trong bức điệp văn này. Tuy nhiên, tôi rất muốn ngài hiểu, tôi tin chúng ta không còn lựa chọn hợp lý nào khác hơn là chấp nhận hiệp định ấy. Nó tiêu biểu cho sự chuyển hướng lớn về phe bên kia và tôi tin chắc sự thực thi (hiệp định ấy) sẽ cho phép Ngài, dân tộc Ngài có thể tự bảo vệ và quyết định vận mạng chính trị của miền Nam Việt Nam.

Riêng đối với tôi thì điều khoản quan trọng nhất của hiệp định, ngoài những khía cạnh quân sự của nó là chính phủ Ngài cùng quân lực và những định chế chính trị của Việt Nam Cộng hoà sẽ còn nguyên vẹn sau khi cuộc ngưng bắn được tôn trọng. Trong thời kỳ tiếp sau đình chiến, Ngài có thể hoàn toàn an tâm là chúng tôi sẽ tiếp tục cung cấp cho chính phủ Ngài sự yểm trợ đầy đủ nhất, kể cả viện trợ kinh tế và bất cứ viện trợ quân sự nào phù hợp với những điều khoản đình chiến của Hiệp định này.
Tôi công nhận, sau bao nhiêu năm chiến tranh, một cuộc hoà giải sẽ mang đến cho sự nghiệp lãnh đạo của Ngài, nhân dân Ngài thử thách vô cùng lớn lao. Tất cả chúng ta đều công nhận, cuộc xung đột giờ đây sẽ chuyển sang hình thức khác, hình thức đấu tranh chính trị trái với tranh chấp quân sự công khai. Nhưng tôi tin chắc, với khôn ngoan và kiên trì, chính phủ Ngài cũng như nhân dân Nam Việt Nam sẽ đáp ứng được thử thách mới đó. Trong nỗ lực ấy, Ngài có được sự ủng hộ tuyệt đối của tôi. Tôi xin Ngài biết rằng, tôi tin tưởng trong giai đoạn mới này sự lãnh đạo liên tục ngài dành cho vận mạng miền Nam Việt Nam thật vô cùng cần thiết.
Sau hết, tôi phải nói, nếu như ta có thể mạo hiểm trong chiến tranh thì cũng phải mạo hiểm trong hoà bình. Ý định của chúng tôi quyết tâm tôn trọng những điều khoản trong các hiệp định và thoả thuận ký kết với Hà Nội. Tôi biết, đó cũng là thái độ của chính phủ Ngài. Chúng tôi đòi phải có qua có lại và đã cảnh báo cho cả họ lẫn các đồng minh lớn của họ biết rõ như thế. Tôi xin cam kết với Ngài rằng, bất cứ một sự bội tín nào về phía họ cũng sẽ bị chúng tôi lên án khắt khe nhất và nó có những hậu quả trầm trọng nhất.
Nhân dịp này, tôi xin phép Ngài cho tôi được nhắc lại những tình cảm kính trọng sâu xa nhất của cá nhân tôi, lòng ngưỡng mộ đối với Ngài và những người bạn chiến đấu của Ngài.
Kính thư
Richard Nixon

Nixon (1).jpg

Dưới chữ ký, Nixon còn thêm một đoạn viết tay:
“Tiến sĩ Kissinger, Đại tướng Haig và tôi đã thảo luận rất lâu về đề nghị này. Cá nhân tôi tin đó là đề nghị thuận lợi nhất mà ta có thể đạt được và nó thoả mãn được điều kiện tuyệt đối của tôi là, Việt Nam Cộng hoà phải tồn tại như một quố gi tự do. Những bình luận của Tiến sĩ Kissinger hoàn toàn được sự hậu thuẫn của tôi”.
 
Chỉnh sửa cuối:

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Việt Nam 1972_10_20 (1).jpg

20-10-1972 - đường Phùng Khắc Khoan, nhìn từ ngã tư Phùng Khắc Khoan -Tự Đức
Đoàn xe hộ tống của cố vấn tổng thống Mỹ Henry Kissinger rời khỏi nơi ở của Đại sứ Hoa Kỳ Ellsworth Bunker tại Sài Gòn, ngày 20 tháng 10 năm 1972, trên đường đến Đại sứ quán Mỹ, nơi ông gặp gỡ các quan chức hàng đầu của Hoa Kỳ. Kissinger đã gặp Tổng thống Thiệu hai lần vào thứ Năm và các quan chức không đưa ra dấu hiệu nào về cuộc gặp nào vào thứ Sáu. Ảnh: Koichiro Morita
Việt Nam 1972_10_21 (1).jpg
Việt Nam 1972_10_21 (2).jpg
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Ông Thiệu đọc hết lá thư nhưng không một lời bình luận. Rồi ông mời Kissinger sang phòng ước đoán tình hình có cửa thông sang văn phòng ông để gặp Hội đồng An ninh quốc gia (6). Kissinger yêu cầu có ba mươi phút trình bày bản hiệp định. Kissinger nhấn mạnh các phần chính trị của hiệp định mà ông tin có lợi cho Việt Nam Cộng hoà. Ông cam đoan Hoa Kỳ sẽ duy trì các căn cứ không quân tại Thái Lan và giữ Hạm đội 7 ngoài khơi để ngăn chặn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tấn công. Kissinger hứa tiếp tục kinh viện và quân viện cho Việt Nam Cộng hoà. Trong khi đó, ông tin những thoả thuận ngầm giữa Liên Xô và Trung Quốc sẽ giảm bớt xuống nhiều nguồn tiếp liệu chiến cụ cho quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Theo ông, đây là lúc thuận lợi đi tới một hiệp ước với CS vì dù sao chăng nữa, Việt Nam Cộng hoà cũng đã có quân lực trên một triệu người và kiểm soát được 85% dân số. Ông tin tưởng Việt Nam Cộng hoà sẽ phát triển thịnh vượng trong thời kỳ hậu chiến. Kissinger không đi vào các chi tiết về những gì còn phải giải quyết với Hà Nội, cũng không cho Thiệu biết thời khoá biểu mật mà ông ta đã đồng ý với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ ký tắt vào bản hiệp định tại Hà Nội chỉ một tuần lễ sau đó, ngày 24-10-1972.
Trình bày xong, Kissinger trao Thiệu một phó bản duy nhất của hiệp định bằng Anh ngữ.
Thiệu ra hiệu Nhã tới đứng sau ghế đọc bản văn trong lúc Kissinger trình bày các điều khoản của hiệp định. Nhã ghé tai Thiệu nói thầm: “Đây đâu phải những điều mình trông đợi! Hãy cứ nói vài điều vớ vẩn nào đó để thêm thời giờ suy nghĩ”.
Về sau Nhã nhớ lại: “Tôi kinh ngạc hết sức! Tất cả những điểm Việt Nam Cộng hoà đề nghị, phản đề nghị đều bị gạt ra ngoài… Tôi khựng lại vì ngạc nhiên, nhưng cố không để lộ ra mặt”.
Thiệu kinh ngạc và cũng cố giữ trong lòng. Sau ông nói với Hưng, ông căm phẫn Kissinger đến độ muốn “đấm cho anh ta một quả vào miệng”. Thế nhưng, ông cố tự kiềm chế và yêu cầu Kissinger cho một bản tiếng Việt của hiệp định. Kissinger nói không có nhưng sẽ kiếm trong hồ sơ một bản. Thiệu cảm ơn Kissinger về “phần trình bày hay” và nói thêm: “Cho tôi thời giờ suy nghĩ. Ta sẽ hội lại lúc năm giờ chiều”. Thiệu hứa nghiên cứu cẩn thận bản tiếng Anh trước khi đó.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Buổi họp chấm dứt trong tinh thần thân hữu, Kissinger có đôi chút phấn khởi. Phần Thiệu, ông lập tức chỉ thị Nhã phân tích toàn bộ đề án và phải xong lúc ba giờ chiều để có thể thảo luận trước phiên họp năm giờ. Sau này Nhã kể: “Tôi vội cho in thành nhiều bản và mời Ngoại trưởng Lắm, cố vấn Nguyễn Phú Đức, Đại sứ Phượng đến dùng cơm trưa với tôi tại nhà hàng La Cave. Ngồi vào bàn, tôi hỏi ngay: “Quí vị nghĩ thế nào?”. Họ nói: “Không đến nỗi nào. Chúng tôi tưởng còn tệ hơn nữa”. “Thế nào là không đến nỗi nào? Quí vị đọc kỹ chưa?”.
Nhã để ý không có khoản nào nói đến việc rút quân Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngoài ra, hiệp định chỉ nói tới “ba quốc gia Đông Dương”, ý muốn chỉ một nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vẫn cho Việt Nam Cộng hoà là quốc gia thứ tư với thủ đô ở Sài Gòn và không được coi như một chính phủ hợp pháp.
Nhã hỏi tiếp: “Quí vị có thấy chữ National Council of Reconciliation trong đó không? Tôi sẽ hỏi họ xem cái này là cái gì trong bản Việt ngữ”.
Không có bản tiếng Việt, mọi người đều phải nghiên cứu bản tiếng Anh trước khi đến dự phiên họp khẩn của Hội đồng An ninh quốc gia lúc ba giờ như dự liệu. Hội đồng quyết định, có năm điểm chính cần minh xác.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Năm giờ chiều hôm đó, Kissinger, Bunker trở lại Dinh Độc Lập gặp Thiệu.
Kissinger có vẻ rất “hăng”. Thiệu lịch sự nhưng nhất định cứ hỏi bằng tiếng Việt cho Nhã thông ngôn để giữ buổi họp ở cấp lễ nghi hình thức. Ông nói: “Chúng tôi đã phân tích sơ qua thấy muốn hỏi một vài điểm cần minh xác và có thêm thời giờ để nghiên cứu bản văn, cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh”. Rồi ông hỏi thêm: “À, còn ba quốc gia Đông Dương là những quốc gia nào vậy?”, Kissinger, không để lỡ một giây, đáp liền: “Thưa ngài, chắc thư ký đánh máy sai đấy”.
Bản tiếng Anh nói đến “ba dân tộc Đông Dương” (ám chỉ Lào, Campuchia và một nước Việt Nam), Thiệu nhất định không chấp nhận công thức ấy. Hội nghị Genève thừa nhận bốn quốc gia, trong đó có hai Việt Nam. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Việt Nam Cộng hoà, sự việc này đâu thể thay đổi. Thiệu còn cương quyết không chịu cho Mặt trận Giải phóng xưng là đại diện cho miền Nam Việt Nam.
Kissinger giải thích, nói “ba dân tộc Đông Dương” do sơ ý, lỗi đánh máy! Ông dám nói vậy dù bản dự thảo nhắc đến hai, ba lần và được viết vừa bằng chữ (three) vừa bằng con số 3.
Thiệu còn quan tâm đặc biệt đến định nghĩa của Hội đồng hoà hợp và hoà giải dân tộc. Nhiều lần trong bản văn, danh xưng này được gọi “cơ cấu hành chính”. Nếu đứng về ngôn ngữ Việt Nam thì “cơ cấu hành chính” và “cơ cấu chính quyền” rất giống nhau, ý nghĩa của nó rất dễ hiểu lầm thành chính phủ liên hiệp.
Kissinger giải thích, Hội đồng không có quyền hành của chính phủ mà chỉ có nhiệm vụ “cố vấn”, thi hành những gì đã được các phe phái đồng ý. Nó không phải chính phủ liên hiệp. Kissinger khăng khăng: “Nó chỉ là một hội đồng bé nhỏ tí ti, không có quyền hành. Nó chỉ là một cơ quan tư vấn thôi”.
- Còn quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì ra sao khi hiệp định Paris được ký kết?
Kissinger đáp, không có sự thâm nhập thêm nữa của quân đội từ miền Bắc và quân lực Việt Nam Cộng hoà với quân số 1 triệu 100 ngàn người chẳng việc gì phải sợ sự hiện diện của 140 ngàn quân Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Được hỏi tại sao không có đoạn nào nói rõ về sự rút quân Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì Kissinger giải thích: “Ờ, như quí ông biết, chúng tôi đã thảo luận điều đó với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và họ không chấp nhận nên chúng tôi nghĩ không cần ghi nó vào (bản văn) để khỏi làm hỏng bầu không khí!”.
Điều đó khiến Thiệu giận nhất trong phần trình bày của Kissinger, ông cứ khăng khăng cho hiệp định là “một thắng lợi to lớn nhất có thể đạt được và là sự sụp đổ của lập trường Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”. Nhã kể lại câu nói của Kissinger: “Lê Đức Thọ đến nói với tôi rằng, đó là nhượng bộ đau đớn nhất ông ta phải chịu nhưng vì lợi ích hoà bình nên đã phải nhường tôi và ông ta còn khóc nữa”.
Đến đây, Thiệu đề nghị một buổi họp ở cấp tiểu nhóm với Ngoại trưởng Lắm sáng hôm sau để thảo luận vào chi tiết bản hiệp định. Kissinger đồng ý. Dường như để “đấm mõm”, Kissinger và Bunker lại xin họp riêng với Thiệu, Cao Văn Viên, Đại tướng Creighton Abrams, người đứng đầu cơ quan viện trợ quân sự Mỹ (MAV-V) để thảo luận về việc gấp rút tăng cường tiếp liệu quân cụ cho Sài Gòn trước khi có ngưng bắn. Các loại trang bị được gửi qua Sài Gòn trước ngày ký kết hiệp định thay thế căn bản một đổi một theo các điều kiện quy định trong hiệp ước.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Trước khi khảo sát đề nghị Kissinger mang từ Paris qua, điều hệ trọng nhất phải xét xem giữa ông này và Nixon có những khác biệt nào về cách giải quyết chiến tranh Việt Nam. Kissinger dự định đi Hà Nội bí mật để ký tắt vào bản hiệp định ngày 24-10 trước khi Nixon công bố. Ông cho rằng, bầu cử tổng thống là giai đoạn chót của một chu kỳ chính trị, là lúc để Hoa Kỳ hồi sinh. Chấp nhận những nhượng bộ chính trị để chấm dứt chiến tranh sẽ dễ dàng hơn nếu được thi hành trước nhiệm kỳ hai của Nixon. Cái phong cách cá nhân của Kissinger bị nhiều người trong chính Nhà Trắng chỉ trích. Halderman, Đổng lý văn phòng của Nixon đang phát động chiến dịch nhằm ép Kissinger trở về cương vị “cố vấn” của mình đồng thời nâng cao vai trò chủ yếu của Nixon trong các cuộc thương thuyết. Halderman e ngại, Kissinger qua mặt Nixon làm mờ đi hình ảnh chủ chốt của vị tổng thống trong những quyết định về chính sách đối ngoại. Còn Kissinger thì rất “nhạy cảm” về những chỉ trích ấy và mang nhiều kỳ vọng cho chính vai trò của mình trong nhiệm kỳ hai. Ông muốn tạo thêm ảnh hưởng bằng cách tuyên bố cho cả thế giới biết, ông mang lại hoà bình cho Việt Nam.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Kissinger còn có một nghị trình riêng tư cho nhiệm kỳ hai nữa. Nào giảm mức độ căng thẳng với Liên Xô, bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Việt Nam ngáng trở những mục tiêu dài hạn của ông ta, chừng nào Việt Nam còn vấn đề thì khó tiến tới được.
Kissinger cho cá nhân ông đang bước vào một giai đoạn lịch sử. “Chính khách phải hành động như thể là trực giác của mình đã thành kinh nghiệm, như thể khát vọng của mình đã thành chân lý”. Ông viết như thế trong A World Restored (Một thế giới được phục hồi), tập nghiên cứu về Metternich. Nhận định đó là nguyên tắc chỉ đạo cho chính ông trong thời gian ngồi ở một văn phòng nhỏ góc “Cánh Tây” Nhà Trắng. Trong cuộc phỏng vấn do nữ ký giả người Ý, Oriana Fallaci thực hiện, Kissinger giải thích, sở dĩ ông có sức mạnh là nhờ lối hành động theo riêng ý mình. Ông tự hãnh diện: “Điểm chính là lúc nào tôi cũng hành động một mình. Người Mỹ thích cái đó vô cùng. Người Mỹ thích hình ảnh gã chăn bò dẫn đầu toán di dân, một mình trên lưng ngựa đi đầu, thủng thẳng tiến vào tỉnh lỵ, thị xã, chỉ mình với ngựa thôi không có gì khác. Có thể không có cả súng vì gã không cần bắn. Gã hành động bằng cách ở đúng chỗ, vào đúng lúc, thế thôi. Nói gọn hơn, gã là một cowboy (Western)”.
Đơn thân độc mã là một phần tạo nên phong cách của Kissinger nhưng ông cũng phải khó nhọc để chiêu phục cảm tình của những kẻ có thể chống đối mình. Ông quyết tâm dẫn đường cho đoàn xe ngựa Mỹ ra được khỏi Việt Nam vì chỉ khi nào từ giã nơi này thì ông mới có thể tiến đến việc thực hiện mưu đồ lớn của mình.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Trong bữa ăn với nhóm chủ bút của tạp chí TimeFortune tại thủ đô Washington ngày 29-9-1972, Schecter ngạc nhiên về việc Kissinger bác bỏ cả Bắc lẫn Nam Việt. Ông nói: “Vấn đề của chúng ta với người Việt Nam là, bên nào cũng cho mình đang thắng và khoan hồng chẳng hề phải đặc tính của họ”. Rồi ông đánh giá Thiệu và Thọ ngang nhau, cùng Việt Nam như nhau về lối suy tưởng cũng như cách xử sự. Đó là lần đầu tiên Kissinger nói đến hai phe bằng cùng một lập luận. Dấu hiệu rõ ràng Hoa Kỳ đang áp dụng thái độ xa lánh Thiệu và tìm cách triệt thoái quân đội khỏi miền Nam. Kissinger tiếp: “Thực chất, chiến tranh tàn rồi. Chẳng ai thắng cả. Người Mỹ không còn quyền lợi gì ngoại trừ ra đi với phẩm cách”.
Kissinger khẳng định người Việt rất khác, “óc của họ làm việc khác với óc chúng ta”. Tiến sĩ Eric Wulff, người đứng đầu phân khu Tâm bệnh tại Đại học Freiburg tây Đức và là người lập ra chương trình Tâm bệnh học tại Đại học Huế tin rằng trí óc người Việt tạo dựng được những hiện thực ngay ở trong những tình huống huyền thoại, hoang đường. Kissinger nói, Wulff có lần bảo ông, đối với người Việt, những sự việc có thật trong đời sống thường ngày không tương ứng với thực tế như ta nhận thức mà tương ứng với một chuỗi thần thoại. “Vấn đề chính bây giờ phải tìm ra, đâu là những huyền thoại mà người Việt cảm thấy có liên hệ trong một tình huống nào đó”. Riêng Kissinger cần tìm xem cái gì miền Nam Việt Nam chấp nhận thực tế, bởi lẽ, đối với Hoa Kỳ thì thực tế là chiến tranh phải chấm dứt.
Như thế, với ông ta, tâm trạng và phong thái rõ rệt. Hoa Kỳ đã làm những gì có thể làm tại Việt Nam, bây giờ là lúc giải kết trong danh dự. Kissinger giải thích: “Người Việt Nam khó tính, bướng bỉnh và đa nghi”.
Vào lúc khác cũng trong bữa ăn trưa ấy Kissinger nói, giải pháp lý tưởng là thoả thuận với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trước bầu cử nhưng đợi xong mới tuyên bố kết quả điều đình. Hedley Donovan, chủ biên tạp chí Time, người thường cảm phục Kissinger nghe đến đây không chịu nổi nữa. Ông thuyết cho Kissinger một hồi về tầm quan trọng của sự chính trực trong tiến trình bầu cử và về những tai hại có thể xảy ra nếu điều đình chỉ vì cuộc bầu cử. Kissinger miễn cưỡng đồng ý.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Thế rồi Kissinger bay sang Paris cố xoay cho được một hiệp định trước ngày bầu cử, hy vọng có thể tái lập ảnh hưởng của mình trong Nhà Trắng bằng cách đóng góp vào sự thắng cử của Nixon. Kissinger nghĩ rằng, Nixon dự định đưa Đại sứ Hoa Kỳ tại Tây Đức, Kenneth Rush lên thay thế William Rogers với chức ngoại trưởng (chức vụ mà ông rất ham muốn) bởi Nixon vẫn ngưỡng mộ Rush về vai trò của ông này trong cuộc thương thuyết Berlin.
Mặt khác, nếu phân tích kỹ, Nixon lập thời khoá biểu căn cứ vào sức mạnh chính trị còn thời khoá biểu của Kissinger thì dựa vào tham vọng cá nhân với trí thức riêng của ông ta. Cả hai đều hay nói đến hoà bình trong danh dự và tầm quan trọng của việc chấm dứt chiến tranh một cách danh dự. Trong bài viết trên tạp chí Foreign Affairs số ra tháng 1-1969, bàn về thương thuyết Việt Nam, Kissinger nói: “Bất kể lý do tại sao ta dính líu vào Việt Nam, bất kể những phán đoán về hành động của ta, chấm dứt cuộc chiến tranh một cách danh dự là một điều tối cần thiết cho hoà bình thế giới”. Nói một đàng làm một nẻo. Thực ra, Kissinger chỉ muốn có một cuộc đình chiến trong danh dự, một “decent interval”, một khoảng cách thời gian giữa lúc Mỹ rút lui và lúc sụp đổ của Việt Nam Cộng hoà làm sao cho phải chăng, coi được là được mà thôi. Còn Nixon không công khai chấp nhận quan điểm đó. Ông chỉ đề cập đến “Thắng lợi hoà bình”, có nghĩa, tiếp tục yểm trợ cho Việt Nam Cộng hoà và mong miền Nam Việt Nam được tồn tại lâu hơn. Kissinger luôn lo ngại nhóm bạn bè trong giới đại học sẽ nhìn ông như đang thủ vai xu nịnh, o bế những quan điểm chính trị cứng rắn của Nixon, tựa vú em trí thức, một hàng thần Do Thái trong triều đình Đức là Bộ Tham mưu tại Nhà Trắng hồi bấy giờ. Kissinger có cái tài dùng ngôn ngữ lịch thiệp, tài hùng biện kênh kiệu. Trước mặt nhóm bằng hữu có khuynh hướng tự do và ký giả, ông đóng vai trò thiện nhân giữa bọn hung thần của Nixon. Ông còn cố tránh xa bọn này nữa. Điều làm H.R. Halderman rất bực tức vì Halderman muốn Kissinger xử sự giống mọi nhân viên khác, có nghĩa, phải chịu ép mình trong kỷ luật của mình ở chức vụ đổng lý. Dưới mắt đám bầy tôi trung của Nixon, dường như Kissinger quan tâm đến hình ảnh chính mình hơn Tổng thống, điều này đã bị Halderman ra mặt công kích trong Nhà Trắng.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Kissinger từng làm việc cho Nelson Rockefeller trong kỳ bầu cử tổng thống năm 1968 và được Rockefeller trả lương kể từ giữa thập niên 50. Hồi còn làm cho Rockefeller, trước khi Nixon được đề cử năm 1968, Kissinger có nói: “Nội tất cả những người ra tranh cử, Richard Nixon là kẻ nguy hiểm nhất nếu trở thành Tổng thống”.
Dưới mắt Kissinger, Nixon là kẻ lạ mặt lạnh lùng, xa cách và tự bản chất thể hiện một con người không hấp dẫn. Trước mặt Nixon, Kissinger mang dáng dấp kẻ nịnh thần, luôn luôn thận trọng, không bao giờ dám công khai chống đối Tổng thống. Ông áp dụng nhiều mánh khóe để đoạt được sự tín cẩn của Nixon.
Trong hầu hết mọi trường hợp, thực chất của vấn đề không quan trọng bằng sự kiện, chính Kissinger kiểm soát được vấn đề ấy qua sự ủng hộ của Nixon. Đôi khi, Kissinger yêu cầu người khác lấy lập trường mà ông biết có thể đối lập với quan điểm của Tổng thống nhằm mục đích làm cho lập trường của họ bị yếu đi dưới mắt Nixon. Ông không ngần ngại bóp méo lập trường của mình để hạ đối thủ.
Điển hình, vụ Nixon quyết định thả mìn Hải Phòng hồi tháng 5-1972. Ngoại trưởng William Rogers được triệu hồi từ châu Âu về họp với Hội đồng An ninh quốc gia. Kissinger điện thoại cho Thứ trưởng ngoại giao Alexis Johnson nói ông đang cố ngăn trở Tổng thống không nên thả mìn, viện lý có thể làm lỡ cơ hội họp Thượng đỉnh với Moscow mà ông tin đã hơn 90% thuận lợi. Ông cho, chính John Mitchell và John Connally bày mưu ra vụ thả mìn và “chúng mình phải trông cậy ở ngoại trưởng Rogers để thay đổi ý kiến Tổng thống trong phiên họp với Hội đồng An ninh quốc gia dự liệu vào sáng thứ hai tới. Laird không làm được việc đó bởi ông luôn luôn đứng về mọi phe trong mọi mọi vấn đề”.
Khi Rogers và Johnson gặp nhau, viên ngoại trưởng nói, ông không tin Kissinger chống việc thả mìn.
Johnson điện thoại với Kissinger lần nữa và được ông xác nhận lại thực sự chống thả mìn. Theo Johnson, Kissinger có vẻ nản chí về đường lối của Nixon.
Kissinger dịp này cũng giục Johnson thuyết phục ngoại trưởng Rogers nên nói thẳng ý kiến chống đối việc thả mìn trong phiên họp tới. Johnson sau này thuật lại: “Henry nói ông không có ý định nói thẳng ý kiến mình vì là phụ tá ông ta không muốn chống đối Tổng thống trong một buổi họp công khai”.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Vậy mà trong tập hồi ký của mình, Kissinger kể lại, ông đồng ý với việc thả mìn Hải Phòng, có được sự ủng hộ của Connallt. Tại phiên họp An ninh, Rogers trước định ủng hộ Nixon bây giờ lại không có lập trường vững chắc và Kissinger thuật rằng, Rogers “Dùng dằng nước đôi”! Hiển nhiên, ông thành công trong việc vô hiệu hoá Rogers. Như vậy, ông không ngay thẳng với vị ngoại trưởng - nhân viên chuyên nghiệp cao nhất của ngành ngoại giao. Kissinger không ngay thẳng cả với Nixon về mật đàm tại Paris. Trong thâm tâm, ông muốn tìm đến giải pháp khiến Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam và lấy tù binh về trong khi Nixon luôn luôn nói đến nhu cầu “Chiến thắng được hoà bình”. Trong cuốn sách nghiên cứu về hoà đàm Việt Nam, Allan Goodman trích dẫn lời một nhân viên trong nhóm thương thuyết của Kissinger tiết lộ mục đích của Kissinger: “Ông chỉ muốn một cuộc hoà giải điều đình “mà Hà Nội sẽ ký kết để trả lại tù binh và chấm dứt sự can thiệp của Hoa Kỳ là đủ” còn Nixon thì “tin con đường duy nhất để chấm dứt chiến tranh bằng thương thuyết là chứng tỏ cho cả Hà Nội lẫn Sài Gòn biết, Sài Gòn có thể thắng được cuộc chiến này”.
Nixon nhấn mạnh công cuộc Việt Nam hoá và sự yểm trợ của Hoa Kỳ. Ông chứng minh lời nói bằng việc làm… việc tăng cường khả năng quân sự Sài Gòn tiến hành không gián đoạn. Vụ đột kích Campuchia tháng 5-1970, vụ thả bom bí mật miền Bắc năm 1971, cuộc hành quân phá trung tâm tiếp liệu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Tchepone - Lào năm 1971. Tất những sự việc này đều gia tăng cơ hội sống còn của Sài Gòn. Trong lúc những biện pháp trên được thực hiện thì cuộc mật đàm đi ngược hẳn. Nó có tác dụng trói tay, trói chân quân đội Việt Nam Cộng hoà và làm tiêu tan cơ hội sống còn của miền Nam. Bởi vậy, chương trình Việt Nam hoá và công cuộc điều chỉnh không bổ sung cho nhau như Nixon đề ra trình cho Quốc hội năm 1970.
Trên lý thuyết, Nixon và Kissinger cùng đi với nhau nhưng thay vì cùng hướng đến một mục tiêu thì họ thường theo hai ngả khác nhau. Nixon nhấn mạnh chương trình Việt hoá, Kissinger nhấn mạnh điều đình.
Kissinger đặt kỳ vọng nhiều ở thương thuyết, Nixon thì không. Như Kissinger sau này than phiền: “Thảo nào Nixon luôn luôn hoài nghi thương thuyết. Trong chuyến công du vòng quanh thế giới của tôi, ông ta cứ dồn đến tôi những bức công văn đòi phải có lập trường cứng rắn hơn tại Paris, cái đó đã đưa đẩy sự việc sớm đến giai đoạn khủng hoảng”.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Trái với điều tin tưởng của Kissinger, ông có thể thuyết phục được Hà Nội đi tới thoả hiệp, Nixon coi điều đình chỉ là cách để Hà Nội nới rộng cuộc tranh đấu giành thắng lợi cho CS. Kissinger nhìn thương thuyết theo khuôn khổ ngoại giao cổ truyền nên nghĩ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng đáp ứng áp lực ngoại giao từ Bắc Kinh và Moscow. Nixon đặt nhẹ thương thuyết, nặng sức mạnh quân sự. Trong bản phúc trình gửi Quốc hội về chính sách đối ngoại Hoa Kỳ năm 1972, Nixon nói: “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà coi thương thuyết như ngả đường khác đưa đến thắng lợi chứ không phải sự thoả hiệp với đối thủ. Đối với họ, thương thuyết là sự mở rộng thêm cuộc đấu tranh quân sự bằng những phương tiện khác thay vì nỗ lực nhằm dung hoà lập trường của hai bên”.
Tổng thống Hoa Kỳ coi chương trình Việt hoá như con đường lựa chọn khác, không lệ thuộc vào Hà Nội. Khi ông kêu gọi “Đa số người Mỹ thầm lặng” ủng hộ ông ngày 3-11-1969. Nixon giải thích, ông cần sự ủng hộ của họ để đi tìm “một nền hoà bình công khai chính bằng cách hoà giải thương thuyết nếu có thể hoặc bằng cách tiếp tục thi hành kế hoạch Việt Nam hoá nếu cần thiết”.
Nixon muốn kế hoạch của ông sẽ “chấm dứt chiến tranh và phục vụ chính nghĩa hoà bình chẳng những tại Việt Nam mà còn ở Thái Bình Dương và trên thế giới nữa”. Trong lá thư riêng gửi Thiệu trước hôm đi Trung Hoa, Nixon lặp lại sự ủng hộ của ông đối với ước muốn điều đình trực tiếp cùng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà của Việt Nam Cộng hoà cũng như yểm trợ khả năng tự vệ đang tăng trưởng của Quân lực Việt Nam Cộng hoà.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Ông Thiệu tìm cách đối phó với Kissinger sau buổi họp mặt ban đầu ngày 19-10-1972, yêu cầu Kissinger đến họp cùng các thành viên Hội đồng an ninh quốc gia tại nhà riêng Ngoại trưởng Trần Văn Lắm ở đường Hồng Thập Tự vào sáng thứ sáu ngày 20-10 lúc 10 giờ.
Đến đó phía Việt Nam có dịp nghiên cứu bản văn hiệp định bằng tiếng Việt do John Negroponte, phụ tá của Kissinger trao hôm trước. Đọc bản tiếng Việt (do CS thảo), phía Việt Nam Cộng hoà thấy rõ ràng những mối lo âu của mình là có căn cứ.
Kissinger chấp nhận bản dự thảo tiếng Việt với tất cả thuật ngữ của CS và nó khác hẳn bản Anh ngữ. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà quả đã dùng chữ “cơ cấu chính quyền” để mô tả Hội đồng hoà hợp và hoà giải Dân tộc, các lực lượng Mỹ được gọi bằng “quân Mỹ”. Một đoạn khác trong bản tiếng Việt kêu gọi Mỹ và các “chư hầu” phải rút lui.
Trước khi phiên họp bắt đầu, quanh bàn ăn dài bằng gỗ mun, Ngoại trưởng Lắm, người Công Giáo, đọc lời cầu nguyện: “Xin Chúa ban ơn cho những người đang có mặt tại đây làm việc đắc lực đem lại hoà bình cho Việt Nam”. Phía Việt Nam Cộng hoà phản đối, đòi minh xác tổng cộng 23 điểm. Một cuộc đấu khẩu sôi nổi diễn ra. Trong số 23 điểm, Kissinger nói, chỉ có 8 điểm đáng minh xác thôi. Buổi họp kết thúc giữa trưa.
Tới Dinh, Nhã vào gặp Thiệu đúng lúc ăn trưa. Ông bảo Nhã ngồi xuống cùng ăn. Nhã nói:
- Em không có thời giờ ăn đâu. Việc này nghiêm trọng lắm.
Thiệu hỏi cái gì nghiêm trọng, Nhã liền đọc một danh sách dài những khác biệt giữa Việt Nam và Kissinger. Sau này, Nhã kể lại: “Càng đọc thêm mình càng thấy ông hết muốn ăn luôn”. Nhã giục Thiệu đòi thêm thời giờ nghiên cứu bản hiệp định và đề nghị:
- Xin anh bỏ buổi họp năm giờ đi”.
Thiệu đáp:
- Nhưng mình đã lỡ hứa rồi!.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Cùng một lúc, Thiệu lại nhận được những báo cáo khẩn từ các Bộ Tư lệnh quân đoàn cho biết Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đang tập trung theo đúng những chỉ thị ghi trên tài liệu tịch thu. Nếu Thiệu cứ tiếp tục tiến hành ký tắt vào bản hiệp định thì chắc có ngay cuộc tấn công của họ trên toàn lãnh thổ trước khi ký kết chính thức tại Paris. Sự việc này hình như đã được dàn xếp tháng trước với Kissinger tại Paris rồi. Nhã nói:
- Mình phải triệu tập tất cả các tỉnh trưởng về Sài Gòn sáng ngày mai và em sẽ lấy đó làm cớ để hoãn cuộc họp với Kissinger.
Thiệu quyết định không cho Kissinger biết về những tài liệu tịch thu vì ông muốn xem Kissinger nói gì về những điều kiện ông ta đã thoả thuận với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngoài ra, Thiệu không muốn Kissinger có dịp cãi, đó chỉ là chiến dịch phản tuyên truyền của CS. Thiệu nghĩ, đối chất Kissinger với những tài liệu tịch thu chỉ gây thêm căng thẳng mà thôi.
Bốn giờ chiều, Nhã gọi điện thoại cho Đại sứ Bunker nói, buổi họp với Thiệu phải hủy bỏ:
- Tôi rất tiếc, nhưng một số biến cố bất ngờ vừa xảy đến, địch đang tập trung quân. Chúng tôi phải gọi tất cả các tỉnh trưởng và Tư lệnh quân đoàn về Sài Gòn để họp vào sáng mai.
Bunker hỏi điềm nhiên:
- Thế bao giờ họp vào ngày mai?.
Nhã đáp:
- Tôi sẽ tìm cách thông báo cho ngài sau.
Bunker yêu cầu được nói chuyện với Thiệu nhưng Nhã trả lời:
- Xin Ngài tha lỗi, vì tình hình khẩn cấp, Tổng thống ra chỉ thị cắt hết mọi liên lạc. Ông không muốn nói chuyện điện thoại với bất cứ ai. Tôi sẽ gọi lại Ngài chừng nào được biết thời giờ Tổng thống có thể gặp được.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Sau đó mấy tiếng đồng hồ, lúc Nhã đang ở tư thất Phó Tổng thống Trần Văn Hương, anh nhận được điện thoại của Bunker. Bunker hỏi:
- Chúng tôi có thể tới gặp Tổng thống lúc này được không? Chúng tôi sắp rời toà Đại sứ ngay bây giờ đây.
Nhã nói:
- Trong Dinh chưa chuẩn bị. Chúng tôi có một số việc khác khẩn cấp, Ngài chưa thể gặp Tổng thống lúc này! Tôi thực sự không muốn quí vị lên xe rồi tới cổng Dinh lại không thể vào vì Tổng thống chỉ thị không muốn gặp ai chiều nay hết.
Đại sứ Bunker nổi giận vì bị Kissinger áp đảo tinh thần, lắp bắp:
- Anh đâu có thể làm như vậy được.
Kissinger bèn giật lấy ống nghe, nói:
- Đây là Tiến sĩ Kissinger.
Nhã đáp:
- Thưa ông mạnh giỏi?
Kissinger gặng hỏi:
- Tại sao chúng tôi không được gặp Tổng thống?
Nhã đáp:
- Như tôi vừa mới giải thích cho Đại sứ Bunker, tôi rất tiếc Tổng thống không thể gặp quí vị lúc này. Ông ta sẽ gặp quí vị ngày mai!
Kissinger nói:
- Tôi là Đặc sứ của Tổng thống Hoa Kỳ. Anh thừa biết tôi không thể bị đối xử như một nhân viên chạy vặt.
Nhã trả lời:
- Chúng tôi không bao giờ coi ông như vậy nhưng nếu ông nghĩ thế thì tôi đâu có thể làm gì được.
- Tôi yêu cầu được gặp Tổng thống!
- Xin ông cho phép tôi nhắc lại lần nữa điều vừa thưa với ông. Tôi xin lỗi!
Kissinger trao ống nghe cho Bunker. Ông này dằn mặt:
- Khôn hồn thì anh nên gọi lại cho tôi.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Sau này người ta mới hiểu tại sao Kissinger phải vội vã vào Dinh. Vì ông muốn Thiệu đồng ý để còn kịp đi Hà Nội ký tắt vào bản thảo hiệp định với Phạm Văn Đồng như ngày giờ đã định (24-10-1972).
Lúc đó, Kissinger lại có thêm vấn đề khó khăn nữa muốn thanh minh cho Thiệu. Phóng viên Arnaud de Borchgrave vừa thực hiện cuộc phỏng vấn với Phạm Văn Đồng dành riêng cho tạp chí Newsweek và vừa rời Hà Nội bay qua Viêng Chăn. Cuộc phỏng vấn khẳng định Việt Nam Dân chủ Cộng hoà coi Hội đồng hoà hợp và hoà giải tân tộc là một chính phủ liên hiệp. Muốn gửi bài về New York kịp hạn, De Borchgrave yêu cầu G. Mc Murtie Godley, Đại sứ Hoa Kỳ ở Viêng Chăn cho phép sử dụng đường giây liên lạc của Sứ quán. Có đi có lại, ông chuyển cho Đại sứ Gordley một bản văn ghi đầy đủ tại chỗ cuộc phỏng vấn cũng như các phần nói chuyện ứng khẩu của Phạm Văn Đồng. Nội hai giờ sau, Kissinger đọc bài phỏng vấn đó tại Sài Gòn và rất bực mình vì âm mưu bại lộ!
Trong bài phỏng vấn, Đồng được hỏi về vai trò của Thiệu trong chính phủ liên hiệp ba bên. Đồng đáp:
- Thiệu đã bị những biến cố mới đây bỏ xa rồi. Và những biến cố thì có hướng đi riêng của chúng. Sau ngưng bắn, có hai quân đội và hai cơ cấu hành chính. Trong tình trạng mới ấy, họ phải tự dàn xếp lấy một chính phủ liên hiệp chuyển tiếp ba bên và ổn định tình hình sau khi Mỹ rút quân.
Về sau, Kissinger tiết lộ cho báo chí rằng, ông bực tức chỉ vì ông tin chính phủ liên hiệp không phải giải pháp ông đã “thương lượng” ở Paris?
Sự thực, tuy ông không “thương lượng” nhưng ông để mặc Hà Nội tự giải thích Hội đồng đó với nghĩa chính phủ liên hiệp.
Sau đánh điện gửi bài về Mỹ, De Borchgrave bay qua Sài Gòn và điện thoại cho tướng Trần Văn Đôn nhờ dàn xếp một cuộc phỏng vấn Thiệu:
- Quả là một điều ngạc nhiên đối với chúng tôi nếu Thiệu đồng ý ký bản hiệp định ông Phạm Văn Đồng tiết lộ nội dung khi tôi phỏng vấn ông ta ngày 18-10.
Đôn liền gọi Nhã nhờ thu xếp cho De Borchgrave phỏng vấn. Đôn cũng nói sơ qua về cuộc phỏng vấn Phạm Văn Đồng của Newsweek nhưng ông không có bản văn trong tay.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Xế trưa thứ sáu (20/10), Kissinger lại điện thoại vào Dinh đòi gặp Thiệu vì ông Thiệu xem bài phỏng vấn Đồng và giải thích với Thiệu, ở Paris ông không hề thương lượng về một chính phủ liên hiệp. Qua điện thoại, Kissinger bảo Nhã là vừa có “một biến chuyển mới và tôi cần phải thưa chuyện với Tổng thống” nhưng Nhã không đổi ý, yêu cầu Kissinger nán chờ thêm.
Mười giờ sáng hôm sau, thứ bảy, 21-10-1972, Kissinger và Bunker được mời đến gặp Thiệu. Trong hai tiếng đồng hồ họp, Kissinger không nói gì đến bài phỏng vấn của De Borchgrave. Thiệu không biết Kissinger đã có bài phỏng vấn nên chỉ duyệt kết quả buổi họp sáng thứ sáu với Ngoại trưởng Lắm và Hội đồng An ninh quốc gia. Trong số 23 yêu cầu thay đổi của Việt Nam Cộng hoà, Kissinger quả quyết chỉ có thể giải quyết được 16 còn lại phải để nguyên vì chúng đưa ra “những đòi hỏi quá đáng, không thể thoả mãn được”.
Các điểm chính gồm, sự hiện diện của quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại miền Nam và cương vị của Hội đồng hoà hợp và hoà giải dân tộc trong tư cách cơ quan chính quyền. Tới đây, nhân viên văn phòng Tổng thống bước vào đưa một mật điện từ toà Đại sứ Hoa Kỳ chuyển sang. Đó là thông điệp của Nixon gửi Thiệu qua Kissinger. Kissinger đọc cho Thiệu nghe thông điệp vừa nhận được. Bức điện tín của Nixon giục Thiệu ký hiệp định nếu không sẽ cắt viện trợ:
“Nếu Ngài thấy hiệp định không thể chấp nhận được vào lúc này và phe bên kia quả thực cố gắng hết sức để thoả mãn những đòi hỏi (của chúng ta) thì theo ý kiến tôi, quyết định của Ngài sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng nhất đối với khả năng của tôi tiếp tục yểm trợ Ngài và chính phủ miền Nam Việt Nam”.
Thật khéo dàn cảnh. Kissinger trao bức điện văn cho Thiệu nhưng Thiệu chỉ mỉm cười không đọc. Nhã cầm lên một bản, đọc qua rồi trả lại Bunker và nói “cảm ơn”. Buổi họp không tiến triển, Kissinger đứng dậy ra về vẫn hí hửng tưởng Thiệu chắc chắn sẽ chấp nhận bản hiệp định. Một phiên họp khác được định vào sáng nhủ nhật lúc 8 giờ.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Sáu giờ sáng chủ nhật (22/10), từ toà Đại sứ Washington thông báo có đầy đủ bản văn phỏng vấn Phạm Văn Đồng của De Borchgrave.
Đọc xong bài phỏng vấn, Thiệu giận tím ruột. Ông bảo Kissinger nhiều lần Hà Nội coi Hội đồng ấy như một chính phủ liên hiệp thực sự. Giờ đây, ông đã có bằng chứng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đòi Mặt trận Giải phóng quyền có một cơ cấu hành chính riêng tại miền Nam để rồi đi đến một chính phủ liên hiệp với sự hậu thuẫn của lực lượng quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hiện tại. Cuộc ngưng bắn “da beo” làm căn bản cho một chính quyền đối nghịch. Hội đồng chính là cơ cấu thực hiện chiến lược đó. Và đây là bằng chứng công khai.
Nhưng Thiệu quyết định không đưa “bằng chứng” ấy cho Kissinger mà muốn xem ông này có nêu lên không:
- Chúng tôi chơi trò mèo rình chuột với Kissinger, đợi xem ông ta sẽ nói sao, ông không hề đả động gì hết (về bài phỏng vấn Đồng).
Sau 45 phút họp không kết quả, Thiệu nói với Kissinger không thể ký các hiệp ước theo những điều kiện hiện hữu.
Kissinger lại có cảm tưởng Thiệu đang tìm cách dàn xếp theo ý mình muốn, lúc ra về cảm thấy phấn khởi. Ông đánh điện ngay cho Nixon, rất lạc quan: “Tôi nghĩ chúng tôi đã tìm được lối thoát”. Khi Kissinger bay qua Phnôm-Pênh, Bunker tiếp tục hội họp với phía Việt Nam Cộng hoà và thông báo tới Nhà Trắng, cả ông lẫn Kissinger đều lạc quan sau khi họp với Thiệu. Bunker còn quả quyết, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã thất bại trong nỗ lực giành đất trước ngưng chiến.
Việt Nam 1972_10_22 (1).jpg

Cố vấn tổng thống Henry Kissinger (phải) được hộ tống bởi Đại sứ Hoa Kỳ Ellsworth Bunker (trái) và một viên chức không rõ danh tính đi bộ đến chỗ chờ xe tại căn cứ không quân Tân Sơn Nhất hôm Chủ nhật, ngày 22 tháng 10 năm 1972 sau khi đến từ Phnom Penh, nơi ông gặp với Quốc trưởng Campuchia Lon Nol về một công thức hòa bình. Các cuộc họp của Kissinger với các nhà lãnh đạo châu Á củng cố suy đoán rằng một giải pháp cho chiến tranh Việt Nam có thể gần kề. Ảnh: Neal Ulevich
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top