- Biển số
- OF-400161
- Ngày cấp bằng
- 8/1/16
- Số km
- 2,898
- Động cơ
- 249,130 Mã lực
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=1992377771042591&id=100008111627906
Tâm Minh Nguyễn đã thêm 12 ảnh mới.
19 Tháng 12 lúc 23:35 ·
MƯỜI HAI NGÀY ĐÊM ĐỌ SỨC VÀ ĐẤU TRÍ TRÊN BẦU TRỜI HÀ NỘI
(Kỷ niệm 45 năm Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”)
LỜI PHI LỘ:
Nếu nói về đọ sức thì người Việt Nam không dám đâu ạ. Bởi một đất nước còn đang tiến hành cuộc chiến chống ngoại xâm để thống nhất Tổ Quốc, với thu nhập quốc dân chỉ chưa đầy 10 tỷ USD/năm mà đọ sức với một cường quốc hàng đầu thế giới với thu nhập quốc dân hàng chục nghìn tỷ USD/năm thì quả là “châu chấu đá xe”. Ấy thế mà như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận xét về cuộc Kháng chiến trường kỳ 9 năm ròng rã của người Việt Nam đánh đuổi thực dân Pháp trước đó:
“Sự đời châu chấu đá xe.
Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe lăn.”
Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không của quân và dân Việt Nam tại Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên và một số địa phương khác đã minh chứng điều mà ít ai nghĩ tới. Đó là chiến thắng của chính nghĩa, của ý chí giành độc lập tự do cho dân tộc và thống nhất Tổ Quốc, của lý tưởng xã hội chủ nghĩa, giải phóng người lao động Việt Nam khỏi tất cả các sự bóc lột của ngoại bang.
Mười hai ngày đêm Tháng Chạp năm Nhâm Tý 1972 ghi dấu ấn không thể quên trong lịch sử chống ngoại xâm của người Việt Nam. Cho đến nay, không hề có một cuốn nhật ký chiến sự nào về Chiến dịch phòng không 12 ngày đêm Tháng Chạp năm 1972 được viết ra. Tuy nhiên, từ nhiều nguồn tài liệu của cả phía ta, đồng mình của ta và phía Mỹ được công bố, chúng ta vẫn có thể mô tả lại từng chi tiết, từng giờ chiến đấu ủa các lực lượng phòng không – không quân bảo vệ Thủ đô Hà Nội và miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong những ngày tháng hào hùng ấy.
Tư liệu trong loạt bài này được rút từ cuốn sách “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” do Đại tá Nguyễn Minh Tâm làm chủ biên vơi sự tham gia của Đại tá Nguyễn Đức Hậu, Chủ nhiệm Chính trị - Bộ Tư lệnh Thủ đô, Đại tá Nguyễn Kim Phòng, Chủ nhiệm Dân quân tự vệ - Bộ Tư lệnh Thủ đô, Thượng tá Chu Xuân Trang, Giám đốc Bảo tàng Chiến thắng B-52 và Trung tá Trịnh Thị Khuyến Lương, Trưởng ban Sưu tập tư liệu Bảo tàng Chiến thắng B-52. Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. Hà Nội. 2008
KỲ 1: NGÀY 18-12-1972 – ĐÊM “VƯỢT VŨ MÔN” ĐẦU TIÊN ĐẦY KHÓ KHĂN.
Trời rét đậm, đầy mây và đen sẫm từ chập tối. Gió bấc hun hút thổi. Mưa phùn giăng phủ. Giá buốt thấu xương. Các phương tiện giao thông trên đường phố đã thưa thớt hẳn . Chỉ còn lại các loại xe quân sự, xe của lực lượng Công an, xe cứu thương, xe vận tải đặc biệt đang hoạt động. Đâu đây vọng lại tiếng cười lanh lảnh của mấy cô gái tự vệ trêu đùa nhau, tiếng róc rách từ một vòi nước công cộng không khóa chặt. Mặt Hồ Gươm thỉnh thoảng bị xao động bởi làn gió bấc quét ngang mặt nước.
Bầu trời Hà Nội, Hải Phòng và cả nước cũng yên tĩnh hơn mọi ngày. Trừ một vài tốp máy bay Mỹ làm nhiệm vụ trinh sát khí tượng hoạt động trên biện giới Việt – Lào, một chiếc C-130 và dăm ba chiếc trinh sát A-6 bay tuần tra ven biển, toàn chiến trường Đông Dương không có B-52 và các loại máy bay chiến đấu của không quân địch hoạt động. Các màn hình radar cảnh giới quốc gia của ta đều trong vắt, không một gợn nhiễu.
Giữa cái tĩnh lặng có vẻ bình yên ấy, Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam nhận định: Địch sắp đánh lớn. Kinh nghiệm này được rút ra từ thực tế chiến tranh cũng như từ các lý thuyết quân sự: Những khi tưởng chừng như hòa bình sẽ đến lại chính là lúc chiến sự nổ ra ác liệt nhất.
Lúc 18 giờ tối, những dải nhiễu đầu tiên xuất hiện trên các màn hiện song của bộ đội radar. Thông tin từ các đoàn radar Sông Mã, Phủ Đổng, Ba Bể và Tô Hiệu lần lượt báo cáo về Bộ Tổng tham mưu về nhiễu sóng xuất hiện và tăng dần trên góc phương vị từ 120 đến 270. Toàn Quân chủng Phòng không – Không quân được lệnh chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cấp cao nhất.
Tư lệnh Sư đoàn phòng không Hà Nội (F361) Trần Quang Hùng, Chính ủy Sư đoàn Trần Văn Giang, Phó Tư lệnh sư đoàn Trần Nhẫn, Phó Chính ủy Sư đoàn Nguyễn Đắc Thái đều xuống các đơn vị kiểm tra tình trạng sẵn sang chiến đấu. Tham mưu trưởng Sư đoàn Nguyễn Đình Sơn, Phó Tư lệnh Sư đoàn Phạm Văn Bời trực chỉ huy chiến đấu tại Sở chỉ huy K2 ngay cạnh sân bay Bạch Mai. Các đài radar nhìn vòng P-12 của các tiểu đoàn hỏa lực tên lửa SA-2 vừa mở máy đã thu được những dải nhiễu đậm đặc, có lúc làm trắng xóa cả màn hình.
Hồi 18 giờ 15 phút, Đoàn radar Sông Mã phát hiện nhiễu dải mật độ lớn ở phương vị 270. Chính ủy Binh chủng radar, Thượng tá Đặng Tuất ra lệnh cho tất cả các trung đoàn radar cảnh giới quốc gia đồng loạt mở máy phát sóng, chuyển trạng thái tập trung phát hiện địch ở cường độ cao; đặc biệt chú ý hai hướng Đông-Đông Nam và Tây-Tây Nam.
Hồi 18 giờ 20 phút, Đại đội 37 và các đài bắt thấp của Đoàn Phù Đổng đã quét, chặn bắt tín hiệu và quản lý các tốp F-111A từ Takhly (Thái Lan) vượt qua Lào đột nhập Thanh Hóa và Tây Bắc. Cùng lúc, đài radar đo cao thuộc Đại đội 16 của Đoàn Sông Mã đóng tại Đèo Ngang phát hiện một vệt sáng đậm và dài in hằn trên màn hiện sóng ở độ cao 11 km trên lưới tọa độ hình gối đang loang lổ chỗ tối, chỗ sáng do các loại nhiễu tiêu cực và nhiễu địa hình tự nhiên gây ra.
Đường chỉ thị tia quét dọc của radar đo cao trên màn hình có lúc đứt đoạn, có lúc lấp lóa, lúc giảm hẳn độ sáng. Dải nhiễu tuy hẹp nhưng có lúc gợn đục, có lúc mịn màng, khác hẳn với các loại nhiễu của máy bay chiến thuật Mỹ. Bằng kinh nghiệm nhiều năm phát hiện địch tại vùng tuyến lửa khu 4, Trung úy Tô Trọng Huy, Đài trưởng Đại đội 16, Đoàn Phù Đổng báo cáo về Trung tâm chỉ huy Binh chủng radar, cũng là Trung tâm cảnh giới không phận quốc gia thông tin quan trọng đầu tiên: B-52 xuất hiện.
Ngay lập tức, Đại tá Bùi Đình Cường, Tư lệnh binh chủng Radar hạ lệnh cho tất cả các tiểu đoàn thuộc binh chủng tăng công suất phát sóng để kiểm tra bằng phương pháp giao hội sóng. Cùng lúc đài radar của Đại đội 16 do sĩ quan điều khiển Tô Trọng Huy phát hiện nhiễu B-52 thì thượng sĩ Phạm Quốc Hùng trực đài radar của Đại đội 45 thuộc Đoàn Sông Mã đặt tại núi Hồng Lĩnh, Bắc Hà Tĩnh cũng phát hiện một cung sáng khá dày thấp thoáng dưới nền nhiễu tuy đã nhạt bớt nhưng vẫn rất nhòe nhoẹt từ tâm điểm ra đến rìa màn hiện sóng cũng tại phương vị 270.
Hai phút sau đó, Sở chỉ huy binh chủng Radar nhận được báo cáo tiếp theo của Đại đội 45, Đoàn Phù Đổng. Báo cáo của Đại đội trưởng Đinh Hữu Thuần rất ngắn gọn về việc đã nhìn thấy ba chấm sáng nhỏ như trứng sâu lúc ẩn, lúc hiện trên dải nhiễu đang từ máu da cam sẫm chuyển sang máu vàng nhạt ở cự ly 120 km trong khu vực phương vị 275 đến 277. Thế là các tốp B-52 đầu tiên vượt qua Vĩ tuyến 20 đã bị bộ đội radar Việt Nam tóm gọn. Tại sở chỉ huy tiền phương của Binh chủng Radar tại Nghệ An, Chiến sĩ tiêu đồ Hồ Thị Sinh đã ghi nhận tất cả 21 chiếc B-52 và đánh dấu trên tấm bản đồ miền Bắc bằng mica khổ lớn tất cả đường bay của toàn bộ 7 tốp B-52 đang vượt lên phía Bắc Đông Dương lúc 18 giờ 25 phút.
Trước đó 5 phút, các đài đo cao và đo xa của Đoàn Tô Hiệu và Tiểu đoàn 8 cũng báo cáo về sự xuất hiện của các mục tiêu cỡ lớn trên Biển Đông, có độ cao và tốc độ như B-52. Bộ Tổng tham mưu lệnh cho các đon vị của Đoàn Tô Hiệu và Tiểu đoàn 8 xác minh ngay vì cũng trên đường bay này, B-52 địch đã tấn công Hải Phòng vào đêm 16 rạng ngày 17-4-1972. Đây là sự lựa chọn rất quan trọng để xác định hường tấn công chính của địch. Nếu xác định không đúng, các tiểu đoàn hỏa lực tên lửa và cao xạ sẽ gặp khó khăn lớn khiu “xoay bản lề”.
Ít phút sau, các đại đội của Đoàn Tô Hiệu và Tiểu đoàn 8 đã có câu trả lời: Các mục tiêu luôn chao đảo, đường bay không ổn định về độ cao, tín hiệu luôn nhấp nháy. Từ những thông tin này, Bộ Tỏng tham mưu nhận định: Trên Biển Đông là các tốp F (máy bay chiến thuật) giả B-52 để đánh lừa ta. Còn các tốp B-52 thật đã vượt qua Sầm Nưa. Đại tá Nguyễn Quang Bích, Phó tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân trực tiếp nhận báo cáo từ Bộ tư lệnh Radar về việc các tốp B-52 Mỹ đã vượt Vĩ tuyến 20. Thiếu tướng Phùng Thế Tài, Phó tổng tham mưu trưởng phụ trách Phòng không – Không quân hạ lệnh: “Báo động”. Cũng vào thời điểm đó, Bộ Tư lệnh binh chủng Radar đã truyền đạt đầy đủ thông tin tình báo của các tốp B-52 đầu tiên xâm nhập bầu trời miền Bắc cho các đơn vị tên lửa, không quân và cao xạ xử lý.
Tại Sở chỉ huy dự bị 1 của Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội dự bị đặt tại hầm trú ẩn số nhà 4B – phố Yersain, Chính ủy kiêm tư lệnh Đoàn Phụng, Phó tư lệnh tác chiến kiêm Tham mưu trưởng Ngô Ngọc Dương đã quyết định phát lệnh báo động chiến đấu cấp 1 cho toàn thành phố. Các biện pháp sơ tán khẩn cấp, thậm chí là cưỡng bức được thi hành rất khẩn trương.
Các đại đội cao xạ 100 mm của dân quân tự vệ thuộc Bộ Tư lệnh Thủ đô thu sóng phân tán của các đài radar cảnh giới quốc gia, phát hiện các tốp máy bay địch bay vào vùng trời Hà Nội và truyền thông tin đến Sở chỉ huy phòng không Hà Nội. Căn cứ những thông tin đó và phối hợp với Bộ tư lệnh Sư đoàn phòng không Hà Nội 361, Bộ Tư lệnh Thủ đô phân công nhiệm vụ tiêu diệt dịch, bả vê mục tiêu cho các đơn vị thuộc quyền. Vào thời điểm 18 giờ 30 ngày 18-12-1972, tất cả các tiểu đoàn hỏa lực tên lửa của Sư đoàn 361 được lệnh đón đánh địch ở các hướng Tây Bắc, Tây và Tây Nam.
Lúc 18 giờ 48 phút ngày 18-12-1972, tiếng còi báo động phòng không nhẩn cấp rúc lên từng hồi trên khắp lãnh thổ miền Bắc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ Hà Nội đến Hải Phòng, từ Việt Trì đến Lạng Sơn, từ Hà Tây, Nam Hà đến Hà Bắc, Bắc Thái. Hệ thống cảnh giới phòng không quốc gia Việt Nam trong ngày 18-12-1072 đã xác định máy bay địch xâm nhập trước 45 phút, báo động sớm 35 phút, đủ để nhân dân, cán bộ có thời gian phòng tránh kỹ càng, để các đơn vị chiến đấu có thời gian chuẩn bị tốt hơn và giành thé chủ động ngay từ trận đầu.
Trận chiến đối đấu với B-52 của quân và dân Thủ đô Hà Nội thực sự bắt đầu lúc lúc 18 giờ 44 phút khi các trắc thủ của tiểu đoàn tên lửa 78 thuộc Trung đoàn 257 (Đoàn Cờ Đỏ) đòng tại trận địa Phố Gốt – Đồi Chè (Chương Mỹ, Hà Tây) bắt đúng dải nhiễu của tốp B-52 số hiệu 566 vào đánh sân bay Hòa Lạc.. Thượng úy, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Chấn, sĩ quan điều khiển Nguyễn Văn Luyến và kíp trắc thủ chiến đấu đã sử dụng phương pháp 3 điểm, phóng 2 đạn có điều khiển vào tốp B-52 số hiệu 566. Vì bị dãy núi Ba Vì che khuất, trắc thủ cự ly Nguyễn Đăng Áp báo cáo mất tín hiệu ngay sau khi phóng đạn. Nửa phút sau đó, vào thời điểm dự kiến đạn chạm mục tiêu, trắc thủ phương vị Phạm Mạnh Hiền cũng báo cáo mất tín hiệu. Duy nhất chỉ có trắc thủ góc tà Đinh Trọng Đức báo cáo đạn đã bay trúng mục tiêu.
Khi kể lại về trận đánh này, sĩ quan điều khiển, thiếu úy Nguyễn Văn Luyến cứ nuối tiếc mãi vào lúc đạn sắp chạm mục tiêu (thực ra là khoảng cách hàng chục km), cả ba trắc thủ của ta đều thấy tín hiệp B-52 nổi rõ trên nền nhiễu của màn hiện sóng; nhưng chỉ chậm một giây do quá hồi hộp nên đã không kịp chuyển chế độ điều khiển từ phương pháp T sang phương pháp Y, do đó đã bỏ lỡ cơ hội đánh rơi B-52 ngay từ quả đạn đầu của trận đầu.
19 giờ 45 phút ngày 18-12-1972, các tốp B-52 tiếp tục đánh phá ác liệt vào sân bay Nội Bài, Ga Đông Anh, Ga Yên Viên, Ga Cổ Loa. Mục đích tấn công của địch rất rõ. Đó là phá hủy dự trữ của ta và ngăn chặn sự chi viện của các nước XHCN đối với ta mà lớn nhất là Liên Xô bằng đường bộ sau khi đường hàng hải đã bị phong tỏa. Trên hướng Bắc Hà Nội, các tiểu đoàn 57, 59,, 93 và 94 của Trung đoàn 261 đã liên tiếp phóng đạn vào các tốp B-52 mang số hiệu 557, 568 và 569 từ hướng núi Tam Đảo bay xuống. Trong đợt đánh phá này, trận địa của Tiểu đoàn hỏa lực tên lửa 59 thuộc Trung đoàn 261 (Đoàn Thành Loa) nằm ngay trên vệt bom B-52. Đất đá tung rào rào lên các nóc xe trong mỗi đợt bom. Tuy nhiên, chưa có quả bom nào đánh trúng xe điều khiển.
Trong 9 trận đánh cấp tiểu đoàn từ 19 giờ 44 phút đến 20 giờ 5 phút ngày 18-12-1972, với 15 quả dạn tên lửa SAM-2 được phóng lên những chư hạ được máy bay địch. Sự băn khoăn, lo lắng bắt đầu xuất hiện ở các chỉ huy các cấp Tuy nhiên, Bộ Tư lệnh quân chủng phòng không – không quân vẫn đủ bình tĩnh và tỉnh táo để nhận xét tình hình và đư ẩ các quyết tâm tác chiến. Phương án đã tác chiến đã được điều chỉnh. Theo phương án ban đầu, hướng Tây được giao cho các tiểu đoàn tên lửa 77 và 78 thuộc Trung đoàn 257 (Đoàn Cờ Đỏ) do Trung tá, Trung đoàn trưởng Nguyễn Ngọc Điển chỉ huy được lệnh chuyển hướng sang Tây Bắc. Hướng Tây Hà Nội do Tiểu đoàn 76 (đóng tại Dương Nội, Hoài Đức) và Tiểu đoàn 78 (đóng tại Yên Nghĩa, Hà Đông) phụ trách. Hướng Tây Nam do Tiểu đoàn 86 (thuộc Trung đoàn 274 – Hùng Vương) mới dược điều từ Nam Khu 4 ra phụ trách.
Hồi 20 giờ 13 phút, các tiểu đoàn 57 (đóng tại trận địa Đại Đồng), 59, (đóng tại trận địa Cổ Loa) và 94 (đóng tại trận địa Việt Hưng) đều thuộc Đoàn Thành Loa (Trung đoàn 261) được lệnh đánh tập trung vào tốp B-52 số hiệu 671 đang từ dãy núi Tam Đảo bay xuống đánh phá các chân hàng của ta ở các ga Đông Anh, Cổ Loa và xã Uy Nỗ. Tiểu đoàn hỏa lực 59 do Thượng úy Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Thăng và Chính trị viên Vũ Văn Đương chỉ huy, Sĩ quan điều khiển Dương Văn Thuận cùng kíp trắc thủ Nguyễn Văn linh (cự ly), Lê Xuân Tứ (góc tà), Nguyễn Văn Độ (phương vị) đã chọn đúng dải nhiễu mịn nhất, trôi đều nhất để phóng 2 đạn SAM-2 theo phương pháp 3 điểm. Các quả đạ này đã làm cho chiếc B-52G xuất phát từ căn cứ Andersen, số hiệu 58-0201, mật danh liên lạc “Charcoal 1” bị bắn rơi tại chỗ. Ba phi công Mỹ sống sót nhảy dù đã bị bắt sống gồm Đại úy hoa tiêu Robert Glenn Certain, Thiếu tá hoa tiêu ném bom Richard Edghard Johnson (số lính 561-54-4696) và Đại úy tác chiến điện tử Richard Thomas Simpson. Các quân nhân Mỹ còn lại trên chiếc B-52G số hiệu 58-0201 gồm Trung tá Donald Rissi (Lái chính), Trung úy Robert Thomas (Lái phụ), Thượng sĩ nhất Walter Ferguson (Xạ thủ súng máy đuôi) đều tử nạn. Đây là chiếc B-52 đầu tiên bị hạ trong “Chiến dịch Linebacker II”. Xác của nó rơi trên Cánh đồng Chuôm, xã Phủ Lỗ, huyện Kim Anh, Hà Nội.
Lúc 20 giờ 16 phút ngày 18-12-1972, chiếc B-52G số hiệu 58-0246, mật danh liên lạc “Peach 2”) bị trúng tên lửa SAM-2 tại vùng trời Hà Nội đã bị thương và bay về miền Nam Việt Nam. Đến vùng trời Nghệ An, nó đã bị Tiểu đoàn tên lửa 52 do Tiểu đoàn trưởng Trần Ngọc Vĩnh và kíp chiến đấu do sĩ quan điều khiển Hoàng Văn Nam chỉ huy thuộc Đoàn Điện Biên đóng tại trận địa Đất Thịt (Diễn Châu) bắn bồi thêm 2 đạn. Bị hỏng 4/8 động cơ, chiếc máy bay này buộc phải hạ cánh xuống sân bay Đà Nẵng trong tình trạng không thể bay tiếp và bị tháo dỡ như một thứ đồng nát để đưa về Mỹ trước ngày 1-4-1973.
Xen giữa các đợt đánh phá bằn B-52, các loại máy bay cường kích của không quân và hải quân Mỹ luân phiên đánh phá các trận địa phòng không của Việt Nam. Tiểu đoàn tên lửa 78 đóng tại Phố Gót – Đồi Chè bị đánh phá ác liệt, phải rút về trận địa dự bị ở Mai Lĩnh. Các tiểu đoàn 59 (đóng ở Cổ Loa), 57 (đóng ở Đại Đồng), 94 (đóng ở Tam Sơn) cũng bị máy bay cường kích của <ỹ đánh hư hỏng nhẹ về khí tài. Trước nửa đêm 18-12-1972, Bộ Tư lệnh quân chủng Phòng không – không quân ra lệnh cho các binh chủng tên lửa và không quân củng cố lại khí tài, Các lực lượng cao xạ và dân quân tự vệ tập trung đánh máy bay tầm thấp của không quân Mỹ.
Lúc 23 giờ 35 phút đêm 18-12-1972, Không quân chiến lược Mỹ tiếp tục tung các tốp B-52 mang số hiệu 406, 407, 594, 598 và 753, mỗi tốp 3 chiếc vào đánh phá Hà Nội đợt thứ 2. trong đêm 18 rạng ngày 19-12-1972. Các tiểu đoàn tên lửa 77 (Đoàn Cờ Đỏ), 57 và 93 (Đoàn Thành Loa) đã phóng lên 14 quả đạn nhưng không tiêu diệt được mục tiêu. Các tốp máy bay này đã ném hơn 500 quả bom từ 150 kg trở lên xuống các xã Uy Nỗ và Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) khiến hơn 200 dân thường ở hai xã này chết và bị thương.
Hồi 4 giờ 10 phút rạng sang ngày 19-12-1972, đợt tấn công thứ ba trong đêm của không quân Mỹ bắt đầu bằng các tốp B-52D xuất phát từ căn cứ Utapao (Thái Lan) đột nhập qua Sầm Nưa (Lào) vào đánh phá Hà Nội từ hướng Tây Na,. Lúc 4 giờ 35 phút, các tốp, B-52 số hiệu 524 và 525 đã rải mọt vệt bom vào các klhu vực dân cư ở Nhân Chính, Hòa Mục và Mễ Trì Thượng. Các tiểu đoàn hoa lực tên lửa 47, 59, 86 đã phóng hơn 20 đạn nhưng không bắn hạ được chiếc nào.
Lúc 4 giờ 39 phút, Sĩ quan điều khiển Nguyễn Văn Đức cùng các trắc thủ Phạm Hồng Hà (cự ly), Lưu Văn Mộc (góc tà), Nguyễn Đình Tân (phương vị dưới sự chỉ huy của Thượng úy Tiểu đoàn trưởng Đinh Thế Văn đã “trói gọn” tốp B-52 số hiệu 954 đang từ hướng núi Ba Vì bay vào. Do trận địa Chèm được bố trí nằm ben sườn cả hai đường bay cơ bản của B-52 vào Hà Nội từ Tây Bắc xuống Và Tây Nam lên nên ngay từ cự ly ngoài 40 km, các trắc thủ của Tiểu đoàn 77 đã nhìn rõ 3 tín hiệu B-52 cùng lúc xuất hiện trên màn hiện song. Chớp thời cơ, Thượng úy Đinh Thế Văn hạ lệnh phóng đạn ngay khi mục tiêu ở cự ly 36 km, sát rìa vùng xạ kích có hiệu lực bằng phương pháp vượt trước nửa góc hai đạn, bám sát tự động, kích nổ có điều khiển (để chống nhiễu thụ động). Đòn đánh đối diện của Tiểu doàn 77 đã bắn rơi tại chỗ chiếc B-52D số hiệu 56-0608, mật danh liên lạc “Rose 1” tại xã Tam Hưng, Thanh Oai, Hà Tây. Các quân nhân Mỹ trên chiếc máy bay này gồm Đại úy Hal Wilson, lái chính, Trung úy Charles Brown, lái phụ, Thiếu tá Fernando Alexander, Hoa tiêu ném bom và đại úy tác chiến điện tử Henry Barrows phải nhảy dù và bị bắt sống. Các quân nhân Mỹ còn lại trên máy bay gồm Đại úy hoa tiêu Richard Cooper và thượng sĩ xạ thủ súng máy Charlie Poole đã không thể thoát nạn.
Chiến thắng của Tiểu đoàn 77 mở ra một triển vọng mới cho phép lực lượng Phòng không-Không quân Nhân dân Việt Nam có thể đánh tiêu diệt lớn trước đối thủ B-52 hiện đại của Không lực Hoa Kỳ.. Bởi B-52D là loại máy bay cũ hơn B-52G nhưng lại được nang cáp hoàn toàn mới về tác chiến điện tử., được trang bị 15 máy gây nhiễu tích cực kiểu ALQ-101 và ALQ-107 có phổ tần rộng, công suất lớn, cường độ mạnh, có thể gây nhiễu radar ở cá 3 chế độ nhiễu nắn, nhiễu chặn và nhiễu quét; kèm theo 2 máy gây nhiễu thụ động bằng các dải băng kim loại để kích nổ đầu đạn tên lửa đối không có chế độn ngòi nổ radar tự động và còn kem theo 4 tên lửa mồi bẫy “Quayle” phát tín hiệu giả B-52.
Trong số 87 lần chiếc B-52 được R. Nixon giao nhiệm vụ tấn công Thủ đô Hà Nội đêm 18-12-1972, đã có 3 chiếc B-52 có đi không về, Ngoài a, Bộ chỉ huy không quân chiến lược Mỹ (SAC) còn thừa nhận 2 chiếc B-52D số hiệu 56-0678 và 56-0583 bị thương (mật danh liên lạc “Lilac 3” và “Rainbow 1”), trong đó chiếc 56-0678 bị thương rất nặng; tổn thất sửa chữa và phục hồi lên đến hơn 175.000 USD nhưng chiếc máy bay này vẫn không thể cất cánh.
Trong đêm đọ sức đầu tiên với Không quân chiến lược Mỹ, lực lượng Phòng không-Không quân Nhân dân Việt Nam đã đánh 33 trận, tiêu thụ 62 đạn tên lửa B-750B, hàng trăm viên đạn pháo cao xạ các loại, hàng nghì biên đạn súng phòng không tầm thấp, bắn hạ 3 chiếc B-52, 2 chiếc F-105F. 1 chiếc F-4E, 1 chiếc A-7C. Tỷ lệ thắng đạt 9,09%. Một bước khởi đầu hứa hẹn cho chiến thắng của toàn bộ chiến dịch.
Ảnh 1: Đại tướng Võ Nguyên Giáp kiểm tra các phương án đánh B-52 tại hầm nhà “Con Rồng” ngày 15-12-1972.
Ảnh 2: Sơ đồ bố trí lực lượng phòng không Việt Nam tại Hà Nội và Hải Phòng tháng 12-1972.
Ảnh 3: Đội hình lực lượng phòng không bảo vệ Hà Nội cuối tháng 12-1072.
Ảnh 4: Các trận đánh B-52 đêm 18 rạng ngày 19-12-1972 tại Hà Nội
Ảnh 5: Xác chiếc B-52G số hiệu 58-0201, mật danh liên lạc “Charcoal 1” rơi tại Cách đồng Chuôm, Phù Lỗ, Sóc Sơn, Hà Nội.
Ảnh 6: Đường bay cơ bản của B-52 tấn công miền Bắc Việt Nam trong Chiến dịch Linebacker II.
Ảnh 7: Phân tích của chuyên gia Liên Xô về đội hình tấn công của B-52
Ảnh 8: Sơ đồ chiến thuật gây nhiễu thụ động của không quân Mỹ bảo vệ cho B-52.
Ảnh 9: Hình sóng nhiễu B-52 trong đội hình có F-4 bảo vệ.
Ảnh 10: Hình sóng nhiễu B-52 ở cự ly 25-28km trên màn hiện sóng của radar đo cao.
Ảnh 11: Hình sóng nhiễu B-52 trên màn hiện sóng của đài radar nhìn vòng P-12.
Ảnh 12: Mạng radar cảnh giới quốc gia Việt Nam tháng 12-1972.
KỲ II: NGÀY 19-12-1972, RÚT KINH NGHIỆM ĐỂ ĐÁNH TRẬN TIÊU DIỆT LỚN.




Tâm Minh Nguyễn đã thêm 12 ảnh mới.
19 Tháng 12 lúc 23:35 ·
MƯỜI HAI NGÀY ĐÊM ĐỌ SỨC VÀ ĐẤU TRÍ TRÊN BẦU TRỜI HÀ NỘI
(Kỷ niệm 45 năm Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”)
LỜI PHI LỘ:
Nếu nói về đọ sức thì người Việt Nam không dám đâu ạ. Bởi một đất nước còn đang tiến hành cuộc chiến chống ngoại xâm để thống nhất Tổ Quốc, với thu nhập quốc dân chỉ chưa đầy 10 tỷ USD/năm mà đọ sức với một cường quốc hàng đầu thế giới với thu nhập quốc dân hàng chục nghìn tỷ USD/năm thì quả là “châu chấu đá xe”. Ấy thế mà như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận xét về cuộc Kháng chiến trường kỳ 9 năm ròng rã của người Việt Nam đánh đuổi thực dân Pháp trước đó:
“Sự đời châu chấu đá xe.
Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe lăn.”
Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không của quân và dân Việt Nam tại Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên và một số địa phương khác đã minh chứng điều mà ít ai nghĩ tới. Đó là chiến thắng của chính nghĩa, của ý chí giành độc lập tự do cho dân tộc và thống nhất Tổ Quốc, của lý tưởng xã hội chủ nghĩa, giải phóng người lao động Việt Nam khỏi tất cả các sự bóc lột của ngoại bang.
Mười hai ngày đêm Tháng Chạp năm Nhâm Tý 1972 ghi dấu ấn không thể quên trong lịch sử chống ngoại xâm của người Việt Nam. Cho đến nay, không hề có một cuốn nhật ký chiến sự nào về Chiến dịch phòng không 12 ngày đêm Tháng Chạp năm 1972 được viết ra. Tuy nhiên, từ nhiều nguồn tài liệu của cả phía ta, đồng mình của ta và phía Mỹ được công bố, chúng ta vẫn có thể mô tả lại từng chi tiết, từng giờ chiến đấu ủa các lực lượng phòng không – không quân bảo vệ Thủ đô Hà Nội và miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong những ngày tháng hào hùng ấy.
Tư liệu trong loạt bài này được rút từ cuốn sách “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” do Đại tá Nguyễn Minh Tâm làm chủ biên vơi sự tham gia của Đại tá Nguyễn Đức Hậu, Chủ nhiệm Chính trị - Bộ Tư lệnh Thủ đô, Đại tá Nguyễn Kim Phòng, Chủ nhiệm Dân quân tự vệ - Bộ Tư lệnh Thủ đô, Thượng tá Chu Xuân Trang, Giám đốc Bảo tàng Chiến thắng B-52 và Trung tá Trịnh Thị Khuyến Lương, Trưởng ban Sưu tập tư liệu Bảo tàng Chiến thắng B-52. Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. Hà Nội. 2008
KỲ 1: NGÀY 18-12-1972 – ĐÊM “VƯỢT VŨ MÔN” ĐẦU TIÊN ĐẦY KHÓ KHĂN.
Trời rét đậm, đầy mây và đen sẫm từ chập tối. Gió bấc hun hút thổi. Mưa phùn giăng phủ. Giá buốt thấu xương. Các phương tiện giao thông trên đường phố đã thưa thớt hẳn . Chỉ còn lại các loại xe quân sự, xe của lực lượng Công an, xe cứu thương, xe vận tải đặc biệt đang hoạt động. Đâu đây vọng lại tiếng cười lanh lảnh của mấy cô gái tự vệ trêu đùa nhau, tiếng róc rách từ một vòi nước công cộng không khóa chặt. Mặt Hồ Gươm thỉnh thoảng bị xao động bởi làn gió bấc quét ngang mặt nước.
Bầu trời Hà Nội, Hải Phòng và cả nước cũng yên tĩnh hơn mọi ngày. Trừ một vài tốp máy bay Mỹ làm nhiệm vụ trinh sát khí tượng hoạt động trên biện giới Việt – Lào, một chiếc C-130 và dăm ba chiếc trinh sát A-6 bay tuần tra ven biển, toàn chiến trường Đông Dương không có B-52 và các loại máy bay chiến đấu của không quân địch hoạt động. Các màn hình radar cảnh giới quốc gia của ta đều trong vắt, không một gợn nhiễu.
Giữa cái tĩnh lặng có vẻ bình yên ấy, Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam nhận định: Địch sắp đánh lớn. Kinh nghiệm này được rút ra từ thực tế chiến tranh cũng như từ các lý thuyết quân sự: Những khi tưởng chừng như hòa bình sẽ đến lại chính là lúc chiến sự nổ ra ác liệt nhất.
Lúc 18 giờ tối, những dải nhiễu đầu tiên xuất hiện trên các màn hiện song của bộ đội radar. Thông tin từ các đoàn radar Sông Mã, Phủ Đổng, Ba Bể và Tô Hiệu lần lượt báo cáo về Bộ Tổng tham mưu về nhiễu sóng xuất hiện và tăng dần trên góc phương vị từ 120 đến 270. Toàn Quân chủng Phòng không – Không quân được lệnh chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cấp cao nhất.
Tư lệnh Sư đoàn phòng không Hà Nội (F361) Trần Quang Hùng, Chính ủy Sư đoàn Trần Văn Giang, Phó Tư lệnh sư đoàn Trần Nhẫn, Phó Chính ủy Sư đoàn Nguyễn Đắc Thái đều xuống các đơn vị kiểm tra tình trạng sẵn sang chiến đấu. Tham mưu trưởng Sư đoàn Nguyễn Đình Sơn, Phó Tư lệnh Sư đoàn Phạm Văn Bời trực chỉ huy chiến đấu tại Sở chỉ huy K2 ngay cạnh sân bay Bạch Mai. Các đài radar nhìn vòng P-12 của các tiểu đoàn hỏa lực tên lửa SA-2 vừa mở máy đã thu được những dải nhiễu đậm đặc, có lúc làm trắng xóa cả màn hình.
Hồi 18 giờ 15 phút, Đoàn radar Sông Mã phát hiện nhiễu dải mật độ lớn ở phương vị 270. Chính ủy Binh chủng radar, Thượng tá Đặng Tuất ra lệnh cho tất cả các trung đoàn radar cảnh giới quốc gia đồng loạt mở máy phát sóng, chuyển trạng thái tập trung phát hiện địch ở cường độ cao; đặc biệt chú ý hai hướng Đông-Đông Nam và Tây-Tây Nam.
Hồi 18 giờ 20 phút, Đại đội 37 và các đài bắt thấp của Đoàn Phù Đổng đã quét, chặn bắt tín hiệu và quản lý các tốp F-111A từ Takhly (Thái Lan) vượt qua Lào đột nhập Thanh Hóa và Tây Bắc. Cùng lúc, đài radar đo cao thuộc Đại đội 16 của Đoàn Sông Mã đóng tại Đèo Ngang phát hiện một vệt sáng đậm và dài in hằn trên màn hiện sóng ở độ cao 11 km trên lưới tọa độ hình gối đang loang lổ chỗ tối, chỗ sáng do các loại nhiễu tiêu cực và nhiễu địa hình tự nhiên gây ra.
Đường chỉ thị tia quét dọc của radar đo cao trên màn hình có lúc đứt đoạn, có lúc lấp lóa, lúc giảm hẳn độ sáng. Dải nhiễu tuy hẹp nhưng có lúc gợn đục, có lúc mịn màng, khác hẳn với các loại nhiễu của máy bay chiến thuật Mỹ. Bằng kinh nghiệm nhiều năm phát hiện địch tại vùng tuyến lửa khu 4, Trung úy Tô Trọng Huy, Đài trưởng Đại đội 16, Đoàn Phù Đổng báo cáo về Trung tâm chỉ huy Binh chủng radar, cũng là Trung tâm cảnh giới không phận quốc gia thông tin quan trọng đầu tiên: B-52 xuất hiện.
Ngay lập tức, Đại tá Bùi Đình Cường, Tư lệnh binh chủng Radar hạ lệnh cho tất cả các tiểu đoàn thuộc binh chủng tăng công suất phát sóng để kiểm tra bằng phương pháp giao hội sóng. Cùng lúc đài radar của Đại đội 16 do sĩ quan điều khiển Tô Trọng Huy phát hiện nhiễu B-52 thì thượng sĩ Phạm Quốc Hùng trực đài radar của Đại đội 45 thuộc Đoàn Sông Mã đặt tại núi Hồng Lĩnh, Bắc Hà Tĩnh cũng phát hiện một cung sáng khá dày thấp thoáng dưới nền nhiễu tuy đã nhạt bớt nhưng vẫn rất nhòe nhoẹt từ tâm điểm ra đến rìa màn hiện sóng cũng tại phương vị 270.
Hai phút sau đó, Sở chỉ huy binh chủng Radar nhận được báo cáo tiếp theo của Đại đội 45, Đoàn Phù Đổng. Báo cáo của Đại đội trưởng Đinh Hữu Thuần rất ngắn gọn về việc đã nhìn thấy ba chấm sáng nhỏ như trứng sâu lúc ẩn, lúc hiện trên dải nhiễu đang từ máu da cam sẫm chuyển sang máu vàng nhạt ở cự ly 120 km trong khu vực phương vị 275 đến 277. Thế là các tốp B-52 đầu tiên vượt qua Vĩ tuyến 20 đã bị bộ đội radar Việt Nam tóm gọn. Tại sở chỉ huy tiền phương của Binh chủng Radar tại Nghệ An, Chiến sĩ tiêu đồ Hồ Thị Sinh đã ghi nhận tất cả 21 chiếc B-52 và đánh dấu trên tấm bản đồ miền Bắc bằng mica khổ lớn tất cả đường bay của toàn bộ 7 tốp B-52 đang vượt lên phía Bắc Đông Dương lúc 18 giờ 25 phút.
Trước đó 5 phút, các đài đo cao và đo xa của Đoàn Tô Hiệu và Tiểu đoàn 8 cũng báo cáo về sự xuất hiện của các mục tiêu cỡ lớn trên Biển Đông, có độ cao và tốc độ như B-52. Bộ Tổng tham mưu lệnh cho các đon vị của Đoàn Tô Hiệu và Tiểu đoàn 8 xác minh ngay vì cũng trên đường bay này, B-52 địch đã tấn công Hải Phòng vào đêm 16 rạng ngày 17-4-1972. Đây là sự lựa chọn rất quan trọng để xác định hường tấn công chính của địch. Nếu xác định không đúng, các tiểu đoàn hỏa lực tên lửa và cao xạ sẽ gặp khó khăn lớn khiu “xoay bản lề”.
Ít phút sau, các đại đội của Đoàn Tô Hiệu và Tiểu đoàn 8 đã có câu trả lời: Các mục tiêu luôn chao đảo, đường bay không ổn định về độ cao, tín hiệu luôn nhấp nháy. Từ những thông tin này, Bộ Tỏng tham mưu nhận định: Trên Biển Đông là các tốp F (máy bay chiến thuật) giả B-52 để đánh lừa ta. Còn các tốp B-52 thật đã vượt qua Sầm Nưa. Đại tá Nguyễn Quang Bích, Phó tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân trực tiếp nhận báo cáo từ Bộ tư lệnh Radar về việc các tốp B-52 Mỹ đã vượt Vĩ tuyến 20. Thiếu tướng Phùng Thế Tài, Phó tổng tham mưu trưởng phụ trách Phòng không – Không quân hạ lệnh: “Báo động”. Cũng vào thời điểm đó, Bộ Tư lệnh binh chủng Radar đã truyền đạt đầy đủ thông tin tình báo của các tốp B-52 đầu tiên xâm nhập bầu trời miền Bắc cho các đơn vị tên lửa, không quân và cao xạ xử lý.
Tại Sở chỉ huy dự bị 1 của Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội dự bị đặt tại hầm trú ẩn số nhà 4B – phố Yersain, Chính ủy kiêm tư lệnh Đoàn Phụng, Phó tư lệnh tác chiến kiêm Tham mưu trưởng Ngô Ngọc Dương đã quyết định phát lệnh báo động chiến đấu cấp 1 cho toàn thành phố. Các biện pháp sơ tán khẩn cấp, thậm chí là cưỡng bức được thi hành rất khẩn trương.
Các đại đội cao xạ 100 mm của dân quân tự vệ thuộc Bộ Tư lệnh Thủ đô thu sóng phân tán của các đài radar cảnh giới quốc gia, phát hiện các tốp máy bay địch bay vào vùng trời Hà Nội và truyền thông tin đến Sở chỉ huy phòng không Hà Nội. Căn cứ những thông tin đó và phối hợp với Bộ tư lệnh Sư đoàn phòng không Hà Nội 361, Bộ Tư lệnh Thủ đô phân công nhiệm vụ tiêu diệt dịch, bả vê mục tiêu cho các đơn vị thuộc quyền. Vào thời điểm 18 giờ 30 ngày 18-12-1972, tất cả các tiểu đoàn hỏa lực tên lửa của Sư đoàn 361 được lệnh đón đánh địch ở các hướng Tây Bắc, Tây và Tây Nam.
Lúc 18 giờ 48 phút ngày 18-12-1972, tiếng còi báo động phòng không nhẩn cấp rúc lên từng hồi trên khắp lãnh thổ miền Bắc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ Hà Nội đến Hải Phòng, từ Việt Trì đến Lạng Sơn, từ Hà Tây, Nam Hà đến Hà Bắc, Bắc Thái. Hệ thống cảnh giới phòng không quốc gia Việt Nam trong ngày 18-12-1072 đã xác định máy bay địch xâm nhập trước 45 phút, báo động sớm 35 phút, đủ để nhân dân, cán bộ có thời gian phòng tránh kỹ càng, để các đơn vị chiến đấu có thời gian chuẩn bị tốt hơn và giành thé chủ động ngay từ trận đầu.
Trận chiến đối đấu với B-52 của quân và dân Thủ đô Hà Nội thực sự bắt đầu lúc lúc 18 giờ 44 phút khi các trắc thủ của tiểu đoàn tên lửa 78 thuộc Trung đoàn 257 (Đoàn Cờ Đỏ) đòng tại trận địa Phố Gốt – Đồi Chè (Chương Mỹ, Hà Tây) bắt đúng dải nhiễu của tốp B-52 số hiệu 566 vào đánh sân bay Hòa Lạc.. Thượng úy, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Chấn, sĩ quan điều khiển Nguyễn Văn Luyến và kíp trắc thủ chiến đấu đã sử dụng phương pháp 3 điểm, phóng 2 đạn có điều khiển vào tốp B-52 số hiệu 566. Vì bị dãy núi Ba Vì che khuất, trắc thủ cự ly Nguyễn Đăng Áp báo cáo mất tín hiệu ngay sau khi phóng đạn. Nửa phút sau đó, vào thời điểm dự kiến đạn chạm mục tiêu, trắc thủ phương vị Phạm Mạnh Hiền cũng báo cáo mất tín hiệu. Duy nhất chỉ có trắc thủ góc tà Đinh Trọng Đức báo cáo đạn đã bay trúng mục tiêu.
Khi kể lại về trận đánh này, sĩ quan điều khiển, thiếu úy Nguyễn Văn Luyến cứ nuối tiếc mãi vào lúc đạn sắp chạm mục tiêu (thực ra là khoảng cách hàng chục km), cả ba trắc thủ của ta đều thấy tín hiệp B-52 nổi rõ trên nền nhiễu của màn hiện sóng; nhưng chỉ chậm một giây do quá hồi hộp nên đã không kịp chuyển chế độ điều khiển từ phương pháp T sang phương pháp Y, do đó đã bỏ lỡ cơ hội đánh rơi B-52 ngay từ quả đạn đầu của trận đầu.
19 giờ 45 phút ngày 18-12-1972, các tốp B-52 tiếp tục đánh phá ác liệt vào sân bay Nội Bài, Ga Đông Anh, Ga Yên Viên, Ga Cổ Loa. Mục đích tấn công của địch rất rõ. Đó là phá hủy dự trữ của ta và ngăn chặn sự chi viện của các nước XHCN đối với ta mà lớn nhất là Liên Xô bằng đường bộ sau khi đường hàng hải đã bị phong tỏa. Trên hướng Bắc Hà Nội, các tiểu đoàn 57, 59,, 93 và 94 của Trung đoàn 261 đã liên tiếp phóng đạn vào các tốp B-52 mang số hiệu 557, 568 và 569 từ hướng núi Tam Đảo bay xuống. Trong đợt đánh phá này, trận địa của Tiểu đoàn hỏa lực tên lửa 59 thuộc Trung đoàn 261 (Đoàn Thành Loa) nằm ngay trên vệt bom B-52. Đất đá tung rào rào lên các nóc xe trong mỗi đợt bom. Tuy nhiên, chưa có quả bom nào đánh trúng xe điều khiển.
Trong 9 trận đánh cấp tiểu đoàn từ 19 giờ 44 phút đến 20 giờ 5 phút ngày 18-12-1972, với 15 quả dạn tên lửa SAM-2 được phóng lên những chư hạ được máy bay địch. Sự băn khoăn, lo lắng bắt đầu xuất hiện ở các chỉ huy các cấp Tuy nhiên, Bộ Tư lệnh quân chủng phòng không – không quân vẫn đủ bình tĩnh và tỉnh táo để nhận xét tình hình và đư ẩ các quyết tâm tác chiến. Phương án đã tác chiến đã được điều chỉnh. Theo phương án ban đầu, hướng Tây được giao cho các tiểu đoàn tên lửa 77 và 78 thuộc Trung đoàn 257 (Đoàn Cờ Đỏ) do Trung tá, Trung đoàn trưởng Nguyễn Ngọc Điển chỉ huy được lệnh chuyển hướng sang Tây Bắc. Hướng Tây Hà Nội do Tiểu đoàn 76 (đóng tại Dương Nội, Hoài Đức) và Tiểu đoàn 78 (đóng tại Yên Nghĩa, Hà Đông) phụ trách. Hướng Tây Nam do Tiểu đoàn 86 (thuộc Trung đoàn 274 – Hùng Vương) mới dược điều từ Nam Khu 4 ra phụ trách.
Hồi 20 giờ 13 phút, các tiểu đoàn 57 (đóng tại trận địa Đại Đồng), 59, (đóng tại trận địa Cổ Loa) và 94 (đóng tại trận địa Việt Hưng) đều thuộc Đoàn Thành Loa (Trung đoàn 261) được lệnh đánh tập trung vào tốp B-52 số hiệu 671 đang từ dãy núi Tam Đảo bay xuống đánh phá các chân hàng của ta ở các ga Đông Anh, Cổ Loa và xã Uy Nỗ. Tiểu đoàn hỏa lực 59 do Thượng úy Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Thăng và Chính trị viên Vũ Văn Đương chỉ huy, Sĩ quan điều khiển Dương Văn Thuận cùng kíp trắc thủ Nguyễn Văn linh (cự ly), Lê Xuân Tứ (góc tà), Nguyễn Văn Độ (phương vị) đã chọn đúng dải nhiễu mịn nhất, trôi đều nhất để phóng 2 đạn SAM-2 theo phương pháp 3 điểm. Các quả đạ này đã làm cho chiếc B-52G xuất phát từ căn cứ Andersen, số hiệu 58-0201, mật danh liên lạc “Charcoal 1” bị bắn rơi tại chỗ. Ba phi công Mỹ sống sót nhảy dù đã bị bắt sống gồm Đại úy hoa tiêu Robert Glenn Certain, Thiếu tá hoa tiêu ném bom Richard Edghard Johnson (số lính 561-54-4696) và Đại úy tác chiến điện tử Richard Thomas Simpson. Các quân nhân Mỹ còn lại trên chiếc B-52G số hiệu 58-0201 gồm Trung tá Donald Rissi (Lái chính), Trung úy Robert Thomas (Lái phụ), Thượng sĩ nhất Walter Ferguson (Xạ thủ súng máy đuôi) đều tử nạn. Đây là chiếc B-52 đầu tiên bị hạ trong “Chiến dịch Linebacker II”. Xác của nó rơi trên Cánh đồng Chuôm, xã Phủ Lỗ, huyện Kim Anh, Hà Nội.
Lúc 20 giờ 16 phút ngày 18-12-1972, chiếc B-52G số hiệu 58-0246, mật danh liên lạc “Peach 2”) bị trúng tên lửa SAM-2 tại vùng trời Hà Nội đã bị thương và bay về miền Nam Việt Nam. Đến vùng trời Nghệ An, nó đã bị Tiểu đoàn tên lửa 52 do Tiểu đoàn trưởng Trần Ngọc Vĩnh và kíp chiến đấu do sĩ quan điều khiển Hoàng Văn Nam chỉ huy thuộc Đoàn Điện Biên đóng tại trận địa Đất Thịt (Diễn Châu) bắn bồi thêm 2 đạn. Bị hỏng 4/8 động cơ, chiếc máy bay này buộc phải hạ cánh xuống sân bay Đà Nẵng trong tình trạng không thể bay tiếp và bị tháo dỡ như một thứ đồng nát để đưa về Mỹ trước ngày 1-4-1973.
Xen giữa các đợt đánh phá bằn B-52, các loại máy bay cường kích của không quân và hải quân Mỹ luân phiên đánh phá các trận địa phòng không của Việt Nam. Tiểu đoàn tên lửa 78 đóng tại Phố Gót – Đồi Chè bị đánh phá ác liệt, phải rút về trận địa dự bị ở Mai Lĩnh. Các tiểu đoàn 59 (đóng ở Cổ Loa), 57 (đóng ở Đại Đồng), 94 (đóng ở Tam Sơn) cũng bị máy bay cường kích của <ỹ đánh hư hỏng nhẹ về khí tài. Trước nửa đêm 18-12-1972, Bộ Tư lệnh quân chủng Phòng không – không quân ra lệnh cho các binh chủng tên lửa và không quân củng cố lại khí tài, Các lực lượng cao xạ và dân quân tự vệ tập trung đánh máy bay tầm thấp của không quân Mỹ.
Lúc 23 giờ 35 phút đêm 18-12-1972, Không quân chiến lược Mỹ tiếp tục tung các tốp B-52 mang số hiệu 406, 407, 594, 598 và 753, mỗi tốp 3 chiếc vào đánh phá Hà Nội đợt thứ 2. trong đêm 18 rạng ngày 19-12-1972. Các tiểu đoàn tên lửa 77 (Đoàn Cờ Đỏ), 57 và 93 (Đoàn Thành Loa) đã phóng lên 14 quả đạn nhưng không tiêu diệt được mục tiêu. Các tốp máy bay này đã ném hơn 500 quả bom từ 150 kg trở lên xuống các xã Uy Nỗ và Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) khiến hơn 200 dân thường ở hai xã này chết và bị thương.
Hồi 4 giờ 10 phút rạng sang ngày 19-12-1972, đợt tấn công thứ ba trong đêm của không quân Mỹ bắt đầu bằng các tốp B-52D xuất phát từ căn cứ Utapao (Thái Lan) đột nhập qua Sầm Nưa (Lào) vào đánh phá Hà Nội từ hướng Tây Na,. Lúc 4 giờ 35 phút, các tốp, B-52 số hiệu 524 và 525 đã rải mọt vệt bom vào các klhu vực dân cư ở Nhân Chính, Hòa Mục và Mễ Trì Thượng. Các tiểu đoàn hoa lực tên lửa 47, 59, 86 đã phóng hơn 20 đạn nhưng không bắn hạ được chiếc nào.
Lúc 4 giờ 39 phút, Sĩ quan điều khiển Nguyễn Văn Đức cùng các trắc thủ Phạm Hồng Hà (cự ly), Lưu Văn Mộc (góc tà), Nguyễn Đình Tân (phương vị dưới sự chỉ huy của Thượng úy Tiểu đoàn trưởng Đinh Thế Văn đã “trói gọn” tốp B-52 số hiệu 954 đang từ hướng núi Ba Vì bay vào. Do trận địa Chèm được bố trí nằm ben sườn cả hai đường bay cơ bản của B-52 vào Hà Nội từ Tây Bắc xuống Và Tây Nam lên nên ngay từ cự ly ngoài 40 km, các trắc thủ của Tiểu đoàn 77 đã nhìn rõ 3 tín hiệu B-52 cùng lúc xuất hiện trên màn hiện song. Chớp thời cơ, Thượng úy Đinh Thế Văn hạ lệnh phóng đạn ngay khi mục tiêu ở cự ly 36 km, sát rìa vùng xạ kích có hiệu lực bằng phương pháp vượt trước nửa góc hai đạn, bám sát tự động, kích nổ có điều khiển (để chống nhiễu thụ động). Đòn đánh đối diện của Tiểu doàn 77 đã bắn rơi tại chỗ chiếc B-52D số hiệu 56-0608, mật danh liên lạc “Rose 1” tại xã Tam Hưng, Thanh Oai, Hà Tây. Các quân nhân Mỹ trên chiếc máy bay này gồm Đại úy Hal Wilson, lái chính, Trung úy Charles Brown, lái phụ, Thiếu tá Fernando Alexander, Hoa tiêu ném bom và đại úy tác chiến điện tử Henry Barrows phải nhảy dù và bị bắt sống. Các quân nhân Mỹ còn lại trên máy bay gồm Đại úy hoa tiêu Richard Cooper và thượng sĩ xạ thủ súng máy Charlie Poole đã không thể thoát nạn.
Chiến thắng của Tiểu đoàn 77 mở ra một triển vọng mới cho phép lực lượng Phòng không-Không quân Nhân dân Việt Nam có thể đánh tiêu diệt lớn trước đối thủ B-52 hiện đại của Không lực Hoa Kỳ.. Bởi B-52D là loại máy bay cũ hơn B-52G nhưng lại được nang cáp hoàn toàn mới về tác chiến điện tử., được trang bị 15 máy gây nhiễu tích cực kiểu ALQ-101 và ALQ-107 có phổ tần rộng, công suất lớn, cường độ mạnh, có thể gây nhiễu radar ở cá 3 chế độ nhiễu nắn, nhiễu chặn và nhiễu quét; kèm theo 2 máy gây nhiễu thụ động bằng các dải băng kim loại để kích nổ đầu đạn tên lửa đối không có chế độn ngòi nổ radar tự động và còn kem theo 4 tên lửa mồi bẫy “Quayle” phát tín hiệu giả B-52.
Trong số 87 lần chiếc B-52 được R. Nixon giao nhiệm vụ tấn công Thủ đô Hà Nội đêm 18-12-1972, đã có 3 chiếc B-52 có đi không về, Ngoài a, Bộ chỉ huy không quân chiến lược Mỹ (SAC) còn thừa nhận 2 chiếc B-52D số hiệu 56-0678 và 56-0583 bị thương (mật danh liên lạc “Lilac 3” và “Rainbow 1”), trong đó chiếc 56-0678 bị thương rất nặng; tổn thất sửa chữa và phục hồi lên đến hơn 175.000 USD nhưng chiếc máy bay này vẫn không thể cất cánh.
Trong đêm đọ sức đầu tiên với Không quân chiến lược Mỹ, lực lượng Phòng không-Không quân Nhân dân Việt Nam đã đánh 33 trận, tiêu thụ 62 đạn tên lửa B-750B, hàng trăm viên đạn pháo cao xạ các loại, hàng nghì biên đạn súng phòng không tầm thấp, bắn hạ 3 chiếc B-52, 2 chiếc F-105F. 1 chiếc F-4E, 1 chiếc A-7C. Tỷ lệ thắng đạt 9,09%. Một bước khởi đầu hứa hẹn cho chiến thắng của toàn bộ chiến dịch.
Ảnh 1: Đại tướng Võ Nguyên Giáp kiểm tra các phương án đánh B-52 tại hầm nhà “Con Rồng” ngày 15-12-1972.
Ảnh 2: Sơ đồ bố trí lực lượng phòng không Việt Nam tại Hà Nội và Hải Phòng tháng 12-1972.
Ảnh 3: Đội hình lực lượng phòng không bảo vệ Hà Nội cuối tháng 12-1072.
Ảnh 4: Các trận đánh B-52 đêm 18 rạng ngày 19-12-1972 tại Hà Nội
Ảnh 5: Xác chiếc B-52G số hiệu 58-0201, mật danh liên lạc “Charcoal 1” rơi tại Cách đồng Chuôm, Phù Lỗ, Sóc Sơn, Hà Nội.
Ảnh 6: Đường bay cơ bản của B-52 tấn công miền Bắc Việt Nam trong Chiến dịch Linebacker II.
Ảnh 7: Phân tích của chuyên gia Liên Xô về đội hình tấn công của B-52
Ảnh 8: Sơ đồ chiến thuật gây nhiễu thụ động của không quân Mỹ bảo vệ cho B-52.
Ảnh 9: Hình sóng nhiễu B-52 trong đội hình có F-4 bảo vệ.
Ảnh 10: Hình sóng nhiễu B-52 ở cự ly 25-28km trên màn hiện sóng của radar đo cao.
Ảnh 11: Hình sóng nhiễu B-52 trên màn hiện sóng của đài radar nhìn vòng P-12.
Ảnh 12: Mạng radar cảnh giới quốc gia Việt Nam tháng 12-1972.
KỲ II: NGÀY 19-12-1972, RÚT KINH NGHIỆM ĐỂ ĐÁNH TRẬN TIÊU DIỆT LỚN.



