Trù ếm kho báu bằng Thần giữ của
Để thực hiện việc luyện Thần Giữ Của, các thầy Phù Thủy ngày xưa đã thực hiện một công việc hết sức ác độc. Họ sẽ chọn một Đồng nhi nữ vừa qua hết 12 con giáp, nghĩa là vừa tròn 12 tuổi được định sẵn để làm Thần Giữ Của. Trước đó, liên tục 100 ngày, người ta có một chế độ chăm sóc cực kỳ đặc biệt với đứa đồng nhi đó, qua sự hướng dẫn và giám sát bởi một Thầy Phù Thủy người Tàu.
Trong 100 ngày đó, đồng nhi phải được ăn những thức ăn đặc biệt, hàng ngày phải được tắm nước đun lá quế và hoa hồi. Trong thời gian này, đồng nhi hoàn toàn không được tiếp xúc với mọi người, trừ một vài người được cử vào chăm sóc. Mục đích của những công việc đó là xả dần những Khí trược, uế khí mà đồng nhi có thể bị nhiễm từ trước.
Tới ngày làm lễ luyện Thần Giữ của, được chọn vào những ngày giờ can chi, âm dương theo tính toán nào đó, Vị Phù Thủy cho đồng nhi ăn no, tắm rửa lần cuối bằng nước thơm, thay quần áo đẹp và cuối cùng là cho uống một bát thuốc lá rừng bí truyền màu đen. Chỉ một lúc sau đồng nhi đã chìm vào giấc ngủ. Người ta đem Đồng nhi xuống hầm, cột chặt chân tay vào một cái ghế, người ta cho vào miệng Đồng nhi một củ sâm Cao Ly lớn, một miếng vàng, một miếng bạc, mấy đồng xu lỗ vuông, một vài lá Bùa và trám miệng của Đồng nhi lại bằng khằng. Cuối cùng họ đặt ghế và người trong một cái khám kín bằng gỗ. Cái khám này có lỗ thông hơi để Đồng nhi có thể thở được.
Một đàn lễ rất lớn được bày trước Đồng nhi. Thầy Phù Thủy đọc chú yểm Bùa, tay cầm kiếm bước theo Thất trận Đẩu Tinh, Thiên, Hậu Thiên Bát Quái Cương Pháp,… Mỗi một bộ vị Thầy Phù Thủy đều đọc khẩu quyết và dùng kiếm họa những Linh phù của bộ vị đó. Đồng nhi bị trói chặt, bỏ đói khát nhưng trong miệng có sâm nên vẫn có thể sống được 49 ngày. Trong 49 ngày đó, vì chưa chết nên mọi suy nghĩ, cảm giác của nó vẫn nhận biết được bình thường. Nên ban đầu, tâm trạng từ trạng thái lo lắng, buồn rầu, hoảng sợ, dần dần chuyển qua nỗi tức tối, ghê tởm, căm thù, oán giận… Thầy Phù Thủy làm phép, luyện Thần giữ của đủ 49 ngày thì hoàn thành. Lúc này ông ta mới cho nó một câu chú giống như mật hiệu để sau này nhận ra con cháu người chôn của. Chỉ có những ai có câu chú đó mới có thể lấy của ra khỏi căn hầm an toàn. Bất cứ người nào dùng sức lực hay thủ đoạn gì để lấy của ra đều bị Thần Giữ Của ngăn cản hoặc hãm hại.
Đồng thời với việc luyện Thần Giữ Của, Thầy Phù Thủy còn cho chôn 9 cái hũ gốm, bên trong có Thất Bảo gồm những miếng chì lá có vẽ Bùa; bộ xương đầu của những con mèo đen tuyền gọi là Linh Miêu. Chín cái hũ này chia làm 8 cung : Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài và Trung Ương.
Đây là một trận đồ trấn yểm dựa theo Hà Đồ và Lạc Thư, chia làm 8 cửa : Hưu, Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai. Các cửa này biến đổi theo Linh Quy Bát Pháp thay đổi bộ vị theo độ số Trời Đất. Trong trận pháp này, Thầy Phù Thủy còn sử dụng các loại Phù của Lục Đinh, Lục Giáp. Những Trận đồ Trấn yểm này sẽ làm nản lòng những kẻ có ý đồ chiếm đoạt của cải do Thần Giữ của cai quản.
Với khu Huyệt địa này, cái giỏi của Thầy Địa lý xưa khi chọn được một Oa Huyệt nằm ở lưng chừng của một ngọn núi, ngay bên cạnh có một cái hang nhỏ chứa đầy nước. Nước trong hang chỉ rút đi một lần vào đúng ngày Đông Chí hàng năm, khi mà có Khí Nhất Dương sinh ra. Chính đường hang nước này khi nước rút là con đường duy nhất có thể tiến vào hầm mộ chôn của mà thôi.
Theo tấm bản đồ bằng da cổ để lại : Phía nắp hầm ngày xưa đã bị lấp bằng những phiến đá cực lớn, sau đó xây cái Miếu Sơn Thần lên nên không thể vào theo đường này được. Con đường duy nhất vào cửa hông của hầm mộ là căn vào đúng ngày Đông Chí, khi mà nước trong hang rút hết, đi theo con đường hang ngoằn nghèo vào sâu khoảng 200 m, sẽ thấy một đường hang ăn chếch lên phía trên. Từ một lỗ thủng nhỏ trên trần hang, sẽ có một tia sáng mảnh mai chiếu xuống phía dưới. Cạnh vách hang chỗ đó có đục vào hình 3 ngôi sao thành một hình tam giác. Từ hình tam giác đó, sau một loạt công việc hóa giải những cơ quan bố trí từ xưa để đề phòng những kẻ xâm nhập. Con cháu sau này phải canh theo đúng đường song song với tia sáng đó mà đào chếch lên. Khi đào đúng hướng, đường hầm mới mở này sẽ dẫn đến đúng của hông của hầm mộ chôn của ở phía trên…
Chuẩn bị xong mọi công việc, thấm thoắt đã gần tới tiết Đông Chí. Cả nhà vợ chồng Ru càng quyết tâm thực hiện việc đào kho báu lên. Những vật dụng cần thiết được ba người mua sắm đầy đủ và vận chuyển đến chân miếu Sơn Thần, tất cả chỉ chờ đến giờ G: Trước đó một ngày, mọi người làm lễ cúng Sơn Thần Thổ Địa tại ngôi miếu và cúng Gia tiên tại nhà thật chu đáo. Chiều hôm đó, là giờ bắt đầu vào tiết Đông Chí. mọi người đã bày một mâm cúng rất thịnh soạn tại cửa hang .
Ru là người chủ tế đứng trước bàn lễ lẩm nhẩm khấn khứa theo các phép đã học : " Chúng Đệ tử tên họ, tuổi, chỗ ở, cầu xin Đức Cửu Thiên Huyền Nữ chứng minh, hộ trì cho đệ tử thoát khỏi tai nạn khi vào hang nhận quà tặng của Tổ tiên để lại. “ Nam mô Đại Pháp Đường Đường - Thiên Viên Địa Phương -…,… - Cấp Cấp Như Luật Lệnh ".
Đúng xx giờ yy phút zz giây, từ miệng hang một tiếng ì ầm vọng ra như có muôn ngàn đạo binh đang hành tiến. Một làn hơi mỏng từ miệng hang thoát ra dưới ánh đuốc chập chờn thắp sáng quanh miệng hang hư hư ảo ảo. Nước trong hang như có một vòi hút khổng lồ đâu đó dưới đáy hang cứ tụt dần xuống và cuối cùng trơ lại cái hang còn nhỏ nước, trơn trượt, như một con rắn uốn lượn vào đêm tối. Ru vội đốt một nắm Bùa đã chuẩn bị trước tại cửa hang và cầm mấy bó đuốc, cuốc xẻng đi vào lòng hang trước. Hai chị em người Dao cũng liền bước theo sau.
Lòng hang tương đối bằng phẳng nhưng vì ngâm lâu trong nước nên trơn hết sức. Cả ba người dò dẫm đi trong ánh lửa chập chờn, cố gắng hết sức để khỏi ngã. Đi được khoảng 200 m thì lòng hang dốc dần lên và tới một cái bộng khá rộng và khô ráo. Cái bộng hang này tương đối sáng sủa nhờ có một vệt sáng mặt trời ban chiều xuyên qua một khe đá chiếu xuống. Ba người dò dẫm tìm nơi có ba ngôi sao khắc vào đá như tấm bản đồ chỉ dẫn. Kia rồi, phía vách bên phải của hang, ba ngôi sao khắc chìm vào đá tuy đã cũ, mòn nhưng có thể thấy nét khắc rất sắc. Ba ngôi sao tạo thành một tam giác đều và một mũi nhọn hướng chênh chếch lên phía trên.
Ba người vội đặt đồ lễ xuống cạnh mấy ngôi sao, thắp hương và đốt một đống lửa. Khi ngọn lửa bốc cao chiếu sáng rực góc hang, Ru ném vào đống lửa một gói thuốc bột vàng làm từ những vị thuốc trong rừng cộng thêm Thần sa, chu sa, huỳnh hoàng, A ngùy, hồi, quế .... Một mùi thơm ấm áp bốc lên ngào ngạt trong hang, xua đi cái âm u của hang đá từ lâu không có hơi người. Mùi vị này cũng xua đuổi những loại rắn, bò cạp, nhện độc không cho chúng đến gần. Đốt một nắm nhang lớn, một tay cầm nhang, một tay cầm thanh kiếm cổ hình con rắn của ông Thầy Mo, Ru bước theo Bộ Cương Đẩu Pháp. Bộ pháp này rất quan trọng, nó có tác dụng thông Thần, làm cho Bùa, Chú tăng thêm Linh nghiệm.
Vừa bước theo đồ hình đã luyện tập gần một năm qua, vừa đọc thần chú của từng bộ vị theo đúng quy định và trình tự có từ xưa, tay vung kiếm xé gió, trông thật hào hùng, tiên thiên đạo cốt. Khoảng 20 phút sau, khi Ru hướng cây kiếm cổ đâm vào tâm của hình tam giác và hô " Mau ". Một tiếng kêu nhẹ vang lên và sau đó phiến đá hình tam giác xoay đi 180 độ để lộ một cái lỗ hổng chỉ vừa một người chui lọt. Như đã biết từ trước, vợ Ru dùng hết sức hắt một ống bương đầy nước thuốc đã chuẩn bị sẵn ở nhà vào lỗ hổng vừa mở. Một làn khói mùi khét lẹt bốc cuộn lên tỏa ra khắp hang đá. Từ phía trên, một tiếng lạo xạo, rào rào từ trong lòng đất vọng ra và một dòng thác những viên đá to nhỏ lăn xuống phủ kín của hang vừa mở. Cả ba vội vàng nhảy tránh ra xa. Khi dòng đất đá đã hết sụp xuống, ba người tận lực xúc đá ra khỏi miệng hang.
Một lúc sau, khi cửa hang đã được dọn sạch và Ru là người đầu tiên cầm đuốc bước qua khe cửa vào thạch động. Ba người đi trong thạch động chỉ cao khoảng một mét dẫn tới một cái cửa đá chắn ngang. Đứng trước cửa, Ru thắp thêm một bó nhang nữa và quỳ xuống trình câu thần chú có mật khẩu đã được truyền lại với Thần Giữ Cửa. Những tiếng lách tách nổi lên phía trong và một làn hơi lạnh bốc qua khe cửa. Thấp thoáng trong làn sương như có bóng một ai đó bay qua bay lại, mọi người quỳ xuống bái tạ Thần Giữ của. Một lúc sau, sương vừa tan là Ru nhanh nhẹn tra cây kiếm hình con rắn vào cái lỗ tròn của tấm cửa đá. Tiếng cơ quan rì rầm chuyển động và tấm cửa đá dày khoảng 20 cm từ từ lùi vào một bên, mở cho mọi người thấy rõ căn hầm. Tấm đá gạt thanh kiếm cổ đứt ngang ngay tại chỗ nối giữa lưỡi kiếm và đốc kiếm. Ru nhặt đốc kiếm bỏ ngay vào túi quần.
Trong ánh đuốc chập chờn, mọi người thấy căn hầm chỉ vào khoảng 20 m2, có trần rất cao. Ngay ở giữa hầm là một cái bể xây bằng một hợp chất bao gồm vôi, vỏ sò, mật mía... cao khoảng một thước trên có nắp đậy bằng một phiến đá dày. Phía trước cái bể có kê một cái khám bằng gỗ đen bóng, bốn bề kín mít, chỉ có một ô cửa nhỏ bằng bàn tay phía đằng trước. Xung quanh bốn bức tường kê đầy những lọ lục bình bằng gốm lớn nhỏ đủ các loại trông thật lạ lùng. Trên bốn bức tường, người ta vẽ những hình ảnh giống như hình Thập Điện Diêm Vương và đáng chú ý nhất là có một tấm chân dung vẽ trên tường một vị Tướng với mũ áo, cân đai trông rất uy nghi, oai dũng.
Theo hướng dẫn của tấm bản đồ, ba người đặt đồ lễ lên phiến đá trước tấm chân dung và cùng quỳ xuống lạy tạ ông Tổ của dòng họ. Khi ba người cùng đang lạy tạ ông Tổ của dòng họ trên phiến đá thì một cơ quan nào đó trong nhà hầm từ từ chuyển động và đẩy tấm đá nắp bể dịch sang một bên. Ba người vội chạy lại nhìn vào trong bể. Trong ánh sáng của ba ngọn nến, những khối vàng ròng kiểu cổ xưa nằm la liệt bên cạnh những chiếc ngà voi, những vòng ngọc ....
Ngay chính giữa bể là một cái đế bằng gỗ đen mun, phía trên có một quả cầu đang phát ra ánh sáng xanh dịu dàng. Thằng em vội vàng định cho tay vào nhặt một thỏi vàng thì Ru vội thét lên : “Khoan!...”. Giật mình cậu ta vội thụt tay và đứng sang một bên.
Lấy trong túi ra cái đốc kiếm, tra vào một lỗ ngay bên thành bể, Ru kêu mọi người lùi ra ngoài cửa và xoay mạnh chuôi kiếm. Một loạt những tia nước từ hai bên thành bể phun ra, chẳng mấy chốc đã ngập lưng bể một thứ nước đục lờ lờ màu sữa. Tiếp tục xoay đốc kiếm thêm một lần nữa và toàn bộ nước rút ra khỏi bể theo một lỗ nào đó dưới đáy. Chẳng là, theo những ghi chú trong tấm bản đồ, khi cho của vào bể, tiền nhân đã phủ lên bề mặt các thỏi vàng, các chuỗi ngọc trong đó một lớp thuốc cực độc. Thứ này nếu ai cầm phải sẽ thấm qua lỗ chân lông làm cho người đó chết tím tái lại ngay lập tức. Người lấy của phải xả cho dòng nước sữa chảy ra bằng cách xoay chuôi kiếm, đó chính là thứ thuốc hóa giải chất độc trên các đồ vật.