- Biển số
- OF-294906
- Ngày cấp bằng
- 4/10/13
- Số km
- 1,256
- Động cơ
- 365,303 Mã lực
- Nơi ở
- Lai châu
- Website
- taybacthaoduoc.com
Những người lính cụ hồ thật đáng trân trọng
Thân gửi bạn 'trungtuan_nt',Chào Bác, nhà em đọc một hơi văn của Bác.
Em có ông chú cũng Hải quân nhưng hy sinh tại Quảng bình ngay trận đầu tiên, nghe kể lại là các Cụ dong tàu ra giữa sông chiến với máy bay Mỹ.....Bác baoleo có thông tin chuẩn gì về trận này không ah.
Chúc Bác khỏe.
Vâng, cám ơn bác baoleo...ông chú nhà em giờ cũng đã được gia đình đưa từ QB về Nghĩa Trang liệt sỹ quận Hồng Bàng rồi ạThân gửi bạn 'trungtuan_nt',
Nếu bạn có "...ông chú cũng Hải quân nhưng hy sinh tại Quảng bình ngay trận đầu tiên...", thì xin gửi lại bạn một vài tư liệu về ngày đó như sau:
Theo sáng kiến của Bộ Tư lệnh Hải quân, một cuộc gặp gỡ cảm động giữa những người đã tham gia vào trận thắng đầu tiên của quân chủng được tổ chức vào năm 2004.
Sau đây là ký ức của một số cựu binh ngày ấy:
1/ Đại tá Hoàng Kim Nông, người từng chiến đấu ở Cửa Hội ngày 5-8-1964 trên tàu 187 kể lại: "Tôi nhớ rõ thuyền trưởng Nguyễn Văn Tiếu; anh ấy trúng đạn, tay trái gần đứt lìa đến vai, liền bảo mọi người cắt đi cho đỡ vướng và tiếp tục chỉ huy chiến đấu". Gần 80 tuổi, ông Tiếu (nay sống ở Xuân Tân, Thọ Xuân, Thanh Hóa) đáp lại: "Cánh tay gần đứt rơi, lủng lẳng vướng víu quá, tôi bảo anh Liêm cơ điện cắt giúp, nhưng cậu ấy không dám, thế là tôi phải giắt nó vào cạp quần rồi dùng tay phải lái tàu. Tôi cũng có một đứa con đi hải quân, bốn mươi tuổi cũng vợ muộn, giống tôi". Trận ấy tàu 187 có 30 người, chỉ năm còn nguyên vẹn!
2/ Chuyện kể của Đại tá, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Hoàng Kim Nông, nguyên chiến sĩ tàu 187, phân đội 7, khu tuần phòng 2.:
- Như bác Bột đã nói, hải quân ta lúc đó còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Cái thiếu nhất là kinh nghiệm đánh máy bay Mỹ. Song chúng tôi không bị bất ngờ. Anh em chuẩn bị rất khẩn trương, miệt mài huấn luyện bắn máy bay, đánh tàu chiến Mỹ. Có thể nói, tất cả đã sẵn sàng, chờ địch tới là đánh. Lúc này, tôi nhập ngũ mới được một năm, là chiến sĩ tiếp đạn của tàu 187.
Trong những ngày đầu tháng 8-1964, tàu chúng tôi được lệnh tuần tiễu trên biển từ Quảng Bình ra Cồn Cỏ. Ngày 5-8, tàu được lệnh về nam Hòn Ngư và neo tại đó ăn cơm trưa xong, đang thiu thiu ngủ thì có lệnh báo động. Khi chúng tôi ra đến vị trí thì vừa lúc máy bay địch bổ nhào. Cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt không cân sức đã diễn ra: Một chiếc tàu lẻ loi trên biển chống chọi với sáu máy bay địch suốt mấy tiếng đồng hồ liền. Nhưng không những tàu của chúng ta vẫn tồn tại, mà còn bắn cháy một máy bay, làm bị thương một chiếc khác.
40 năm đã trôi qua, đến bây giờ mỗi khi nhớ lại tôi vẫn rất xúc động trước những gương chiến đấu dũng cảm, ngoan cường của đồng đội tôi. Họ hiến dâng cả đời mình cho Tổ quốc không chút do dự. Thiếu úy thuyền trưởng Lê Văn Tiếu điều khiển tàu rất cơ động và linh hoạt để tránh bom đạn địch. Một quả rốc-két nổ trúng đài chỉ huy, một số đồng chí hy sinh, riêng anh Tiếu bị một mảnh bom cắt gần đứt cánh tay. Rất bình tĩnh, anh lệnh cho đồng chí Miền báo vụ cắt phần còn lại cho khỏi vướng để tiếp tục chỉ huy tàu chiến đấu.
Tôi nhớ mãi hình ảnh thiếu úy, chính trị viên Đoàn Bá Ký. Anh chạy như con thoi đến từng vị trí dưới làn đạn 20mm từ máy bay địch xả xuống để động viên bộ đội, băng bó cho anh em bị thương. Một viên đạn găm vào người anh, anh đổ ụp xuống. Tôi vội chạy lại ôm chầm lấy anh. Anh cố gượng dậy, ghé vào tai tôi thều thào: "Hãy bình tĩnh chiến đấu" rồi tắt thở. Anh Ký người miền nam, đẹp trai, hát hay, vui tính, gần gũi và cởi mở, chúng tôi xem anh như người anh cả của tàu.
Chính trị viên hy sinh, thuyền trưởng bị thương nặng, nhưng cán bộ, chiến sĩ trên tàu vẫn gan góc bám vị trí chiến đấu đánh máy bay địch. Một loạt đạn trúng khoang máy, đường ống dầu bị vỡ bốc cháy mù mịt. Bất chấp nguy hiểm, thượng sĩ Cao Viết Thảo nhảy vào giữa khoang máy dùng bình cứu hỏa dập lửa, bịt rò đường ống bị vỡ, mặc cho quần áo bốc cháy như bó đuốc. Tiếp đó, tôi chỉ kịp nhìn thấy một tia chớp sáng chói và một tiếng nổ rất đanh hất tôi vào bệ pháo. Tôi ngất lịm, lúc tỉnh dậy thấy quần áo rách tả tơi, khắp người chỗ nào cũng có máu. Trước mặt tôi anh Bằng, anh Thuật đã hy sinh, anh Bê và Hy bị thương nặng, máu ra đầm đìa. Anh Thiệp, pháo thủ 20mm đang ôm ghì lấy súng, một tay bóp cò, một tay bịt trán mà máu vẫn trào ra đầm đìa. Trên đài chỉ huy, đồng chí lái tàu cũng bị thương ngã xuống, tàu tròng trành. Băng bó vết thương cho các anh xong, tôi cố leo lên nắm tay lái. Mặc dù máu ra nhiều, mắt hoa lên nhưng tôi vẫn ghì chặt tay lái, điều khiển tàu tránh đạn theo lệnh của thuyền trưởng...
Anh hỏi, hình ảnh nào in đậm nhất trong tôi ư? Tôi nhớ đồng chí Nguyễn Thanh Hải, chiến sĩ ra-đa quê ở Thanh Hóa, cùng với tôi tiếp đạn cho vị trí pháo số 3. Lúc quả rốc-két nổ trên bệ pháo, anh bị một mảnh cắm vào đầu. Khi tôi băng bó cho anh, anh cầm tay tôi hỏi: "Nông ơi, mày có việc gì không?". Khi tàu cập cảng, anh gọi anh em tôi lại nói: "Dựng tôi dậy để cho tôi nhìn Tổ quốc lần cuối". Anh em tôi xúm lại, dựng anh lên. Anh nhìn chúng tôi khắp lượt, nhìn trời nhìn đất rồi từ từ khép mắt. Không ai trong chúng tôi có thể cầm được nước mắt.
Bắt được lỗi '' Đánh máy'' của cụ rôi nha!!! 1941NGÀY 22/12, ĐẾN THĂM TỔNG TƯ LỆNH.
Đúng ngày kỷ niệm 71 năm thành lập quân đội: 22/12/2015, chúng tôi lại về thăm ‘người Anh Cả’ của quân đội – Võ Đại tướng – Tổng Tư lệnh, tại tư gia của Ông.
Với chúng tôi, Đại tướng như chưa hề đi xa, Tổng Tư lệnh luôn sống mãi trong lòng những người lính chúng tôi, với sự kính yêu chân thành.
Ngắm nhìn khu vườn nhỏ trong nhà Đại tướng, chúng tôi lại như nhìn thấy khu rừng Trần Hưng Đạo, buổi chiều ngày 22/12/1941, Người Anh Cả của quân đội, cùng những người lính Cụ Hồ đầu tiên, hô vang 10 lời thề.
Chúc Đại tướng vững bước chinh biên.
Chết cười với chuyện của cụKhi đại trưởng …êu
Nhà cháu chơi thân với cậu Hải, đại trưởng tên lửa phòng không vác vai A72, thuộc f 365.
Đại đội tên lửa phòng không vác vai này, cùng với 2 đại đội cao xạ 37 ly 2 nòng khác, đóng trên đồi cao, làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ Hải quân của nhà cháu.
Còn doanh trại của cánh nhà cháu, ở chân đồi, sát mép biển.
Gần nhau, nên nhà cháu và cậu Hải, thường qua lại chơi với nhau, nên lính của 2 bên đều biết mặt 2 người.
Thời ấy, cậu Hải chưa có vợ, mà đơn vị nhà cháu thì lại nhiều chiến sỹ nữ, nên chuyện tán tỉnh của cậu ấy là điều dễ hiểu.
Thời nào chả thế, đã là đi cưa cẩm thì con người ta, ai cũng muốn mặc bộ quần áo phẳng phiu một chút.
Mà thời ấy thì đào đâu ra bàn là. Ai mà có “đầu đội áp xuất, chân đi bàn là” thì cứ gọi là vênh ngược. Còn oai hơn các cậu vác BMW 525 đi tán người yêu bây giờ.
Mà đã là bàn là thì phải là loại “hoa râu-dây sọc đen đỏ”, khác đi một tý là không có giá, tỷ như xe Mipha mà không phải là mầu xanh ngọc thì cứ gọi là mất nửa tiền.
Quay lại chuyện làm thế nào để có bộ cánh phẳng phiu.
Lắm mẹo như nhà cháu, thì cũng nghĩ ra cách là: gấp phẳng quần áo, bỏ vào trong tờ báo cũ gập đôi, rồi đặt 2 quyển “Lê Nin toàn tập” (loại sách được Liên Xô phát không thời 8X) lên trên. Chờ đủ 24 tiếng đồng hồ hẵng đem ra mặc. Kể cũng tạm.
Còn cậu Hải đại trưởng bạn cảu nhà cháu, lại có cách khác.
Một hôm, vào một buổi chiều hè nóng thắt ngực, nhà cháu lên C 11 tên lửa vác vai A 72 của cậu Hải, để bàn việc giao lưu văn nghệ.
Vào phòng cậu Hải, không thấy đại trưởng đâu, chỉ thấy một cậu chiến sỹ (không nhớ tên, chỉ nhớ là quê ở Con Cuông-Nghệ An) béo đen nhất đại đội, đang mặc quần đùi ngồi thu lu trên giường, lại còn hai tay, bê thêm hai hòn gạch ba-vanh ở trên đùi, mồ hôi tuôn ra nhễ nhại, dưới cái nóng hầm hập của mái nhà lợp gianh.
Nhà cháu bèn vặn hỏi: cả đại đội đi lấy củi từ sáng, sao giờ này cậu vẫn ngồi nhà.???
Cu chàng béo đen, mếo máo:
- Em cũng đang lao động từ sáng đến giờ đấy chứ, nặng nhọc, vất vả là đằng khác. Anh nhòn chứng giám cho em đi.
Nhà cháu nhòm kỹ, thì thấy: cậu chàng đang hai tay bê 2 viên ba-tanh, ngồi lên trên 2 cái chăn bông, dưới 2 cái chăn bông là một gói giấy báo.
Nhà cháu bèn thắc mắc hỏi: cậu làm cái quái giề thế ?
Anh chàng béo đen mếu máo: em đang ‘là’ quần cho đại trưởng, tối đi chơi!!!
Cụ lãng mạn quáSonate ánh trăng.
Những năm này, do hoàn cảnh, nên ngoài lúc mưu sinh, kiếm cơm trong thiên hạ, baoleo nhà cháu khi trở về nhà, đảm nhận nốt việc trông nom thương binh nặng, ca 4, từ 10 giờ đêm đến 5 giờ sáng.
Đêm khuy cô liêu, đức cha tuyên úy hay nhất, người bạn tâm giao phù hợp nhất, những intangible có thể nâng đỡ tinh thần, gột rửa tâm hồn, thanh tẩy tâm linh, làm cho con người trở nên thánh thiện hơn, chỉ có thể là các trình tấu nhạc cổ điển không lời.
Nhưng, những ‘Phiên chợ Ba-tư’; hay ‘Turkish March’ thì chỉ tổ làm lạc bước màn đêm đang trôi về hư không. Phải là ‘Khúc nhạc chiều’; ‘Memory’; hay Serenade’, thì mới có thể: dặt dìu nhịp bước cùng đêm thinh không, đang trôi dần tới ánh bình minh.
Đêm qua, baoleo nhà cháu bật re-play bản ‘Sonate ánh trăng’ của Beethoven. Từng nốt pi-a-nô rơi nhẹ, rải những nốt trầm mềm vào tĩnh lặng. Và từng nốt pi-a-nô như dìu đưa mảnh trăng hạ tuần đầu hạ, rơi dần nghiêng về phía chân trời.
Ánh trăng trôi bồng bềnh ngoài khung cửa, như đưa baoleo thả xuôi theo con sóng, trôi về vùng biển đông bắc, thời biên giới chiến tranh.
……………….
Được lữ trưởng đánh giá là thằng có tâm hồn nhất lữ đoàn (trai Hà lội gốc, đọc được “Bông Hồng vàng” của Pau tốp xơ ki bằng nguyên bản tiếng Nga, bla, bla…), nhà cháu được phân công phụ trách nữ tân binh của lữ đoàn.
Và thế là: tai nạn, nối tiếp tai nạn.
Thoạt tiên là toi 1 tháng phụ cấp, vì bị anh em đè ra bắt khao.
Anh em tưởng tượng ra cảnh: ‘tháng 9 nắng rám quả hồng’ mà lại có thằng cha là nhà cháu, được ngồi ghế, bên tả thì có 1 em mời bát nước gạo rang, bên hữu thì có em khâu hộ cái yếm bò của áo lính thủy, là tiết của đại bộ phận anh em, đã sôi lên sung sục.
Và tiết của nhà cháu còn sôi hơn, khi bị vu oan thế, mà lại không được tí ‘miếng’ nào làm thuốc.
Tiếp theo, đó là chuỗi ngày bị đau thần kinh, vì luôn luôn phải nghiến răng và lên gồng.
Các bác thử tính xem. Là cái thằng phụ trách thì đương nhiên là phải đi đốc gác đêm.
Đêm mùa hè, sóng biển rì rầm, từng con sóng va vào gềnh đá, làm bắn lên bạt ngàn tia hoa lân tinh. Tô điểm thêm cho vườn hoa sóng biển là những vì sao băng đang rơi chéo phía chân trời.
Lẫn trong gió biển là mùi hương hoa lan đất, xa xa rồi thật gần.
Hương lan đất gần đến mức, chỉ nhìn cặp môi của cô bé Hải Lệ, cũng đoán ra tiếng: “em ở đây cơ mà, anh ơi”.
Gía như là tiếng hô “ báo cáo thủ trưởng, có tôi” thì đời quân ngũ đơn giản biết bao nhiêu.
Trời ạ, đây lại là tiếng thì thầm” anh ơi” của nàng thiếu nữ, mới gần 18 trăng tròn.
Nó có sức nóng làm tan chảy câu căn vặn về mật khẩu, của anh chàng mẫn cán.
Nó làm anh chàng gương mẫu cóng người, khi đôi tay mát rượi của ‘hương lan đất’, chỉnh lại hộ chàng mấy ngôi sao trên vai.
Và theo bản năng cách mạng, anh chàng bất hạnh chỉ còn biết giơ 2 tay lên trời. Rồi vẫn giữ nguyên tư thế giơ hai tay lên trời ấy, chàng sỹ quan hào hoa của lữ đoàn, thất thểu lùi và lùi. Lùi đến khi không lùi được nữa thì thôi.
Làm sao khác được các bác ơi.
Trong cái ánh sáng mờ ảo của các vì sao rơi, trong tiếng thì thầm của sóng biển, trong hương thơm thì thầm của ‘hương lan đất’ đang xua tan cái vị mặn mòi của biển cả, trong bạt ngàn sắc hoa lân tinh, khi sóng đánh vào gờ đá. Và trong cái ánh sáng ‘nhờ nhờ nhân ảnh’ ấy, cái ‘dáng hương lan đất ấy’, ‘nó’ buông xõa tóc không theo điều lệnh, cặp mắt sáng như mèo rừng, hai cánh tay trắng như lõi rau dọc mùng trong bát bún chân giò, dài như vòi bạch tuộc ấy, nó như đang muốn cuộn siết con mồi.
Ôi, khi ấy, chỉ cần một vang lên một tiếng sấm “khoạc khoạc” của chính ủy, đang đi thanh tra các ông kiểm tra, mà lúc đó tay chân mình lại không để đúng điều lệnh, thì “thôi rồi Lượm ơi”. Nhẹ thì cũng 1 hạt ra đi không hẹn ngày tái ngộ.
Thời ấy ngấm lắm, nếu mà bị 2 cái vòi bạch tuộc trắng ngần kia, nó cuộn siết- ăn thịt, thì:
-‘nó’ cướp mất sao
-‘nó’ cào mất gạch
-‘nó’ rạch thẻ ****.
Kinh bỏ ***. Có mà đang hăng hái ‘12 giờ’, nhớ tới câu sấm truyền kia, thì cũng phải khẩn trương lui về trạng thái ‘6 giờ rưỡi’ cho nó lành. Cho đẹp ý **** – hợp lòng dân.
…………………..
Nhớ tới chính ủy, theo phản xạ từ thủa còn khoác áo binh nhì, baoleo đưa tay lần tìm đôi quân hàm trên ve áo. Nhưng chẳng còn thấy đôi quân hàm gắn phù hiệu mỏ neo. Ở nơi ấy, giờ đây, là chiếc áo may ô cổ tròn, đã sờn mòn theo tháng năm.
Ừ, mình đã gửi ‘sao trên mũ và quân hàm trên vai’ cho quân đội, cũng đã 20 năm với nhiều lẻ mất rồi.
Bất giác, baoleo nhà cháu buông tiếng thở dài.
Từ trên chiếc giường i-nox quân y, bà vợ baoleo chợt tỉnh giấc: ‘ông lại mơ màng điều gì đấy phỏng?’.
Ừ, vâng. Baoleo nhà cháu vừa trở về nơi miền ký ức. Nơi biển tuần phòng vùng 1, nơi sóng đại dương cuộn sôi dưới chân vịt pháo thuyền. Nơi có một vùng biển vắng, nơi đã từng có mùi hương lan đất và chiếc kẹp tóc, sáng lấp lánh trong ánh lửa lân tinh.
Baoleo cố nén 1 tiếng thở dài, những mong nó chìm khuất lấp trong những nốt pi-a-nô trầm mềm của bản ‘Sonate ánh trăng’ .
Ừ, nếu như hồi ấy, mình chót nhỡ, đánh rơi tay xuống vùng ‘trắng mềm như cánh dọc mùng, thấm đẫm hương hoa lan’, thì ...thì....thì ...sao nhỉ.
Hải quân Việt Nam chưa có một trận đánh lớn nào với quân Trung Quốc. Ngay cả trong chiến dịch CQ-88, thì Hải quân Việt Nam cũng chỉ là đánh trả tự vệ quân Trung Quốc xâm lược mà thôi.Cám ơn cụ Baoleo đã mở một thớt hay về Hải quân VN.
Cụ cho em hỏi, năm 1992, Hải quân VN có trận đánh lớn nào với khựa không ạ?
Em cám ơn cụ đã trả lời.Hải quân Việt Nam chưa có một trận đánh lớn nào với quân Trung Quốc. Ngay cả trong chiến dịch CQ-88, thì Hải quân Việt Nam cũng chỉ là đánh trả tự vệ quân Trung Quốc xâm lược mà thôi.
Cảm ơn bạn đã đọc bài.
Cái này tôi e là cụ nhầm.Cùng một máy phát tín-thoại,cùng công suất phát,tín hiệu Morse sẽ được phát rất xa so với thoại.Các nội dung khác thì em hóng, nhưng cái này thì em xin chém phát.Trong chiến đấu khi dùng hệ thống vô tuyến điện liên lạc thì sẽ có hai trường hợp:
1. Chuyển điện, mệnh lệnh, chỉ thị chiến đấu từ cấp trên đến cấp tiểu đoàn (hoặc tương đương) sử dụng điện cơ yếu có mã hóa và có nhân viên cơ yếu dịch điện. Tín hiệu không chỉ là Morse mà có thể là thoại (cụ có thể nghe đọc hàng loạt địa danh mà chả hiểu gì cả) khi thu được, không có giải mã thì bên đối phương cũng chịu bó tay. Ngoài ra, không phải tín hiệu Morse sẽ phát đi xa hơn tín hiệu thoại (lời nói) mà do công suất của các máy thu vô tuyến quyết định.
2. Trong hiệp đồng chỉ huy cấp biên đội, phân đội cần có thông tin, mệnh lệnh, quyết định nhanh chóng nên không ai sử dụng điện cơ yếu cả (vì có mà đến tết công gô mới đọc được) nên chủ yếu dùng thoại là chính và dùng mật danh quy định đối tựơng, vị trí, hành động vv....
Tất nhiên có thể cụ Baoleo nói minh họa cho dễ hiểu chứ câu "ông Bột về ngay, ông Khôi về ngay " có thể thực tế nói lái đi như "cá tằm 1,2,3... về lại tổ" chẳng hạn
@ các cụ: Riêng em vẫn tin vào chuyện của cụ Baoleo hơn, có lẽ do bị nhồi nhét quá nhiều "chính sử" khi học phổ thông, nhưng sau lại thấy là không phải vậy chăng?