[Funland] Những hồi ức của CCB chiến trường K !

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
AM LEANG.

Tôi là thằng rất khoái bản đồ, địa bàn. Là lính thông tin, luôn được đi với chỉ huy sở khi hành quân nên cứ mỗi lần tiểu đoàn trưởng, tham mưu hay trinh sát pháo binh xem bản đồ, vạch tuyến đi là tôi cứ sán đến le lé mắt xem ké. Tôi dần học mót được khối điều. Chẳng hạn cách xác định địa điểm đứng chân theo các mốc chuẩn tự nhiên của địa hình. Các đường bình độ sít sịt dính nhau như thế kia là chuẩn bị leo dốc hộc cơm. Cái con suối vẽ vạch đứt quãng như thế này thì chỉ có nước vào mùa mưa. Còn hôm nay cái bút chì đỏ chỉ huy tiểu đoàn vẽ một mũi tên dài độ gang tay trên tấm bản đồ bọc nhựa trong, tỷ lệ 1/50.000 thì yên tâm là sẽ được nghỉ sớm…

Mùa mưa đã gần tới. Đơn vị đi như bị phát cuồng. Hành quân cả ngày, đôi khi cả đêm. Càng vào sâu trong núi rừng đi càng gấp. Đụng địch ở đâu đánh địch ở đó. Một ngày có khi nổ súng mấy bận, không còn nhớ nổi. Những trận tao ngộ ngắn ngủi không mấy kết quả vì bọn địch giạt ngay. Không còn khái niệm “chốt” mà chỉ còn khái niệm tạm “đứng chân”. Chốt thì phải có đào hầm hào, có bố trí hướng địch hướng ta. Còn đứng chân tạm thì hiểu như là chia nhau chỗ ngủ mắc võng qua đêm. Các trung đội xung quanh đại đội, các đại đội vây quanh tiểu đoàn bộ. Chúng tôi đi trên lớp tro còn ấm của cỏ cháy chân rừng. Những cơn gió khô cuốn tro bụi, phủ lên người đen nhẻm. Lúc nghỉ nằm võng đu đưa, vừa nghĩ linh tinh vừa lấy ngón tay miết miết trên cổ một lúc, viên được hàng chục những cục ghét to như hạt đậu xanh. Làm nhiều lần như thế nó thành thói quen. Thế nên bọn nó gọi tôi là thằng Tùng bẩn. Cứ như là cổ chúng nó không có ghét không bằng…

Trên phổ biến đợt này là chiến dịch cuối cùng, đánh vào sào huyệt Am Leang, thủ đô kháng chiến của Pôn Pốt. Đầu tiên tôi cứ nghĩ Am Leang nó là một thành phố nhỏ, chẳng gì cũng mang tiếng là “thủ đô”. Ở đó có thể có phố, có nhà…nên bọn tôi khoái lắm! Nhưng đi mãi, chỉ thấy rừng lúc rậm, lúc thưa. Cây rặt một loại dầu quánh, dầu khộp. Rừng mênh mông đi mãi thấy nản. Thỉnh thoảng sáng lộ ra một chân ruộng của một phum hoang, hay một trảng cỏ rộng có một vài cây thốt nốt đứng đơn lẻ là đã thấy mừng, tưởng mình sắp được ra đến đồng bằng. Trời ơi là nỗi nhớ phum sóc với gà qué ngủ đầy trên cây, lợn “hoang” ngoáy đuôi chạy kêu khìn khịt, những ống thốt nốt chua phình bụng, những đêm lành không gác…Ở đây, súng nổ ì ầm vọng về từ các hướng xung quanh lúc mau, lúc thưa. Một lần từ đâu đó rèo rèo qua đầu mấy viên đạn 12.8mm cuối tầm. Một viên va vào thân cây, văng sang ụ mối cái bộp rồi lăn tới gầm võng. Viên đạn đã tuột lớp vỏ đồng, chỉ còn cái lõi thép trắng xám hình côn. Thấy hay hay, tôi mới nhón tay nhặt lên. Vừa kịp vảy tay vứt đi thì đầu mấy ngón tay đã bỏng rát, lát sau nó mọng nước phồng lên. Lão Ky lại được thể chửi tôi ngu. Thế ra mình vừa bẩn vừa ngu! Cái đầu đạn ấy mà bằng vàng thì chắc hắn còn ngu hơn mình…

Trong khoảng trung tuần tháng 3, sau vài lần chạm súng lẻ tẻ với các đơn vị lẻ của địch, chúng tôi đã tiến gần tới Ăm leang. Hôm đó được lệnh luồn sâu cấp tiểu đoàn. Cơm nước chuẩn bị đầy đủ, khuya thì lên đường. Luồn sâu cái gì mà cứ đi khơi khơi trên đường. Con đường cát trắng khá lớn, mờ mờ bụi cuốn theo chân người dưới ánh trăng. Hai bên là rừng thẫm tối. Đến gần sáng thì đại đội 3 rơi vào ổ phục kích của địch. Anh Thoan đại đội phó đi cùng trung đội đi đầu lĩnh đủ một phát M.79 bi. Lính C3 tản ra nằm xuống tại chỗ, bắn loạn xạ rồi bò lui, kéo được anh ấy, anh Lẽ trung đội phó và thằng liên lạc về. Ngực và bụng anh ấy lỗ chỗ vết bi chụm, máu ra đẫm ướt cả cái võng chứng tỏ cự ly nổ súng rất gần. Anh ấy khò khè được vài tiếng, kêu “Mẹ…!” rồi tắt thở. Hy sinh hai, bị thương một. Vận tải gác đòn võng để các anh ấy nằm tại vị trí tiểu đoàn bộ, không đưa về tuyến sau được trong đêm.



Thằng địch bắn phát đạn bi đó hẳn là một thằng lỳ lợm và giàu kinh nghiệm chiến trường. Nó bỏ qua tốp đi đầu, nhằm đúng cán bộ chỉ huy. Thường thì cán bộ đại đội không vác súng dài, chỉ đeo túi mìn nên cũng dễ nhận biết. Đường trăng lại sáng như thế kia! Sau phát M.79 và mấy loạt đạn nhọn đó thì bọn địch lại im lặng, kệ cho lính C3 xả đạn vào rừng. Nó muốn bí mật lực lượng. Anh Sơn đẩy đại đội 1 lên đầu, chia đội hình tiểu đoàn sang hai bên đường chờ sáng. Đó đây, trên các hướng khác thỉnh thoảng lại rộ lên tiếng súng, càng gần sáng càng dữ dội. Có cả tiếng động cơ ô tô rì rì, không rõ xe ta hay xe địch.

Tang tảng sáng, mờ mờ rồi rõ địa hình địa vật. Cối 82 đại đội 4 bắt đầu bắn mở hai phía biên con đường đằng trước. Bắn thì cứ bắn xăm thế thôi, chứ có xác định được vị trí địch đâu. Các đại đội giữ sườn cho nhau. Bộ binh bám đường tiến dần lên. Lên qua chỗ địch phục kích hồi đêm 200m, cả tiểu đoàn lại chúi xuống. Hai bên rìa đường phía trước, hai khẩu đại liên địch bắn chéo cánh sẻ rèn rẹt. Bộ binh không lên được nữa, nằm im tại chỗ chờ hỏa lực hỗ trợ. Rừng dày thế này, DK.82 xếp xó mặc dù đã giá súng. Hai khẩu 12.8mm trong phòng ngự thì lợi hại, hoặc chổng nòng bắn trợ chiến khi xung phong lấy tiếng nổ uy lực cho nó hách, chứ còn trong trường hợp này cũng vô dụng. Tất cả trông chờ vào 2 khẩu đội cối 82 và mấy khẩu cối tép dưới các đại đội.

Đúng lúc đó, có tiếng động cơ xe tăng rền rền phía sau. Từ đâu lòi ra 4 cái T.54 của lữ đoàn 22, phun khói mù mịt. Trưởng xe tháo mũ công tác gào lên hỏi bộ binh tình hình địch rồi lại thụt vào xe. Bốn chiếc tăng vượt qua đội hình, càn qua cả những bụi cây nhỏ xộc thẳng vào vị trí địch. Bộ binh C1 và C2 bám liền ngay theo sau. Pháo 100 và trọng liên 12.8 mm trên xe nổ điếc tai. Rừng rung rinh nghiêng ngả. Mấy thằng lính chạy gần nhăn cả mặt, há cả mồm. Anh Sơn giữ lại đại đội 3 đi sau, cùng với D bộ. Tiến được một lúc nữa, mấy chiếc tăng tự nhiên dừng lại. Thằng xạ thủ 12.8mm trên tháp pháo quay xuống hỏi các anh là đơn vị nào? Khi biết chúng tôi là trung đoàn 2, bọn tăng ơi ới gọi nhau trở lui ngay lập tức. Thì ra bọn này có lệnh đi phối thuộc với trung đoàn 3 lại nhầm đường sang hướng đơn vị tôi. Đường bò ngang dọc trong rừng. Chưa biết tiến hướng nào thì nghe hướng chúng tôi nổ súng dồn dập nên đổ xô đến. Sự hiệp đồng bất ngờ này đã giúp chúng tôi thông đường! Bọn lính chúng tôi quen gọi những trận chiến đi qua theo đặc điểm riêng của nó. Chẳng hạn trận “Rừng tràm”, trận “Cầu cháy” … Và lần này là trận “Xe Tăng Nhầm Đường”. Trong “Sử Sư đoàn 9” đọc sau này, tôi đoán đây là trận luồn sâu vào phum Th’mei. Nhưng nói về trận luồn sâu phum Th’mei thì không ai biết. Nhưng nói đến trận “Xe Tăng Nhầm Đường” thì đứa nào cũng biết.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Ban chỉ huy tiểu đoàn thông báo cho toàn đơn vị là đã tiến đến gần sát Amleang. Lúc này các đơn vị khá độc lập với nhau. Kể cả các đơn vị trực thuộc trung đoàn bộ cũng phải nổ súng vì địch từ các nơi nhao nhác chạy về vô hướng. Trung đoàn rút đại đội 3 D4 lên bảo vệ chỉ huy sở E. Tiểu đoàn 4 lúc đó chỉ còn hai đại đội bộ binh là C1, C2, đại đội hỏa lực C4 và tiểu đoàn bộ. Đơn vị cứ theo đường bò mà đi tiếp…

Khoảng 3h chiều, súng con các đại đội đi đầu nổ rộ phía đằng trước. Đại đội 4 dừng lại giá cối nên đội hình D bộ ùn lại một chút rồi vượt qua C4. Cối 60 địch bắn dọc con đường tiến. Vừa chui qua bụi le dày mọc trên bờ con suối cạn có đường bò cắt ngang thì “hoét_ oành”. Một trái cối 60 tung đất cách tụi tôi và đám lính cối gần chục mét. Cả đám không ai mảy may bị làm sao. Chỉ có thằng Thịnh đen ở khẩu đội cối 82 dính mảnh vào tay, máu không thấy chảy nhiều. Nó định thần rồi la toáng lên sung sướng trúng mánh rồi, trúng mánh rồi…Bọn cối băng treo tay cho nó, nhưng mặt thằng nào cũng thuỗn ra, ước được dính mảnh như thế. Thằng Thịnh vẫn phải đi theo đơn vị vì chẳng biết trạm phẫu trung đoàn giờ ở đâu, và cái chính nó là vẫn đi được tốt. Hồi đó không biết từ đâu có cái dớp lính đồn là cùng một đại đội có hai thằng trùng tên thì một thằng sẽ “đi”. Ở trường hợp C4 thì đúng thế! Có hai thằng tên Thịnh đều lính Hà Nội. Thịnh đen cối ở 82mm, Thịnh “toác” ở 12 ly “toác”. Đến năm 1982, Thịnh đen hy sinh trong trận đánh ven biển Hồ bên Siêm Riệp. Thịnh “toác” trở về lành lặn, làm chân chạy cờ, bê đạo cụ cho nhà hát Tuổi Trẻ Hà Nội.

Cối 82 bắn hết gánh đạn 8 trái của thằng Thịnh. Bắn thêm đôi gánh đạn tiếp thì thằng Vỹ đi với C1 gọi về là bộ binh đã lên được đến ngã ba, đừng có bắn nữa. Trung đoàn lệnh cho D4 chốt cứng tại ngã ba. Tôi được lệnh lên theo luôn BCH đại đội 1 vì cán bộ C chưa bố trí quan sát sở ở đâu. Khi bố trí đội hình chốt và chỉ huy sở xong xuôi thì dải dây từ đó ngược về tiểu đoàn bộ. Về đến D bộ thì trời đã sâm sẩm. Trông thấy chỗ D bộ đứng chân có con suối nước sâu chảy xiết, chắc mát lắm! Không kịp tắm vì anh Nhương đuổi tôi về đại đội ngay. BCH đại đội nằm ngay chính ngã ba con đường lớn, cạnh một cái chùa đã bị phá hủy, chỉ còn nền cũ cao và các tháp xung quanh cụt sát đến gần móng. Anh Khanh bảo tôi và mấy thằng liên lạc đào hầm. Nhưng nền đất nện sân chùa cứng, đào mãi bằng xẻng bộ binh mới được cái hố nông choèn choèn. Tôi bỏ không đào nữa thì anh ấy chửi đ…mẹ thằng lười! Nó đánh thì đừng có chúi hầm của bố mày. Đào được chừng mươi phút nữa thì thằng Đồng Huế và thằng Căn cũng phải bỏ đào. Sân chùa không có cây nên không mắc võng được. Tôi trải ni lông cạnh cái chân tháp làm chỗ ngủ, nửa nằm nửa đắp như phủ tử sỹ. Sáng ra, cả hai mặt nilon đều đẫm hơi nước, nửa sương đêm nửa hấp hơi người…



Sáng hôm sau nắng lên, xe zeep chở tham mưu trung đoàn và xe tải chở đạn lên đến ngã ba. Các đại đội cho các trung đội đi truy quét xung quanh, mở rộng địa bàn đứng chân. Ở nhà chỉ còn bậu xậu văn phòng và các tiểu đội hỏa lực. Anh Nhương gọi tôi về tiểu đoàn bộ lấy thư. Nhận được thêm 7 cái thư nữa và được ra suối tắm. Vừa về đến đại đội 1, định giở thư ra đọc chợt tiếng súng con rộ lên bắn vào vị trí đại đội. Chỉ huy sở chỉ còn mỗi thằng Tuất văn thư với tôi. Hai thằng hoảng quá vì đại đội lúc này trống bốc. Tôi với nó ôm súng chạy về khẩu đại liên của thằng Lễ bố trí cách chỉ huy sở độ 15m đang bắt đầu quét lại. Bắn nhau một chập, nghe tiếng máy cóc cóc, tôi lộn lại cầm máy thì nhận lệnh thôi bắn. Tiểu đoàn thông báo đấy là tiểu đoàn 7 trung đoàn 3 đang truy quét bắt liên lạc với đơn vị. Tiểu đoàn 7 phát hiện một đám địch đang chạy gần vị trí tiểu đoàn 4 nên nổ súng. Chục phút sau thì lính D7 vào đến chốt. Chúng nó ngồi thở hồng hộc rồi uống sạch nước hà thủ ô thằng Tuất mới nấu. Không có thương vong đáng tiếc. Từ trận cầu sắt S’vay Rieng cho đến nay mới lại gặp đơn vị anh em cùng sư đoàn.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Tiểu đoàn 4 nằm tại ngã ba mấy hôm, coi như thời gian được nghỉ sau những cuộc hành quân liên miên. Bấy giờ chẳng biết địa danh nơi nào với nơi nào nữa. Chỗ nào cũng như chỗ nào. Là đường bò ngang dọc, là rừng dầu rừng khộp miên man. Rừng cháy suốt từ ga Rô Mia vào cho đến tận Am Leang không lúc nào tắt. Đêm nào trời cũng hồng hồng do ánh lửa cháy rừng hắt lên nền trời. Một đêm như thế, hai thằng địch cắt rừng chui vào đúng ổ gác trung đội thông tin tiểu đoàn bộ. Toàn cồ kéo hai loạt AK, diệt hai thằng địch một già một trẻ, thu 2 súng. Sáng hôm sau kiểm tra túi mìn thằng địch già, thấy có cái bản đồ, la bàn, sổ sách, một cái võng nilon đen rất mới. Tham mưu tiểu đoàn báo lên là đã diệt được một tên trung đoàn trưởng cùng thằng cận vệ. Đơn vị hai thằng này chắc bị đánh tan tác ở đâu đó. Thầy trò cắt rừng mò về chiến khu nhưng ngắn số, đến đây thì tiêu. Toàn cồ đắc ý cái võng ấy lắm. Anh Nhương cậy thế trung đội phó đòi đổi nhưng hắn không đồng ý.

Chuyện nữa đáng nhớ ở tại ngã ba này là chuyện cái hầm. Một buổi chiều, phía con đường lớn có tiếng mõ bò càng lúc càng rộn rã. Một đoàn người cùng xe bò kéo đang đủng đỉnh đi tới ngã ba. Tiếng thằng Trung cảnh giới trung đội 1, trung đội chẹn đường bỗng dưng la thất thanh: địch, địch… không phải dân! Nó phát hiện đám “dân” ấy có những đứa giấu súng. Bọn mất dạy trá hình đó nghe tiếng kêu biết bị lộ, giạt sang hai bên đường nổ súng ngay vào chúng tôi. Đạn nhọn rất rát và làn đạn đi thấp, đôi khi thấy man mát trên má. Tiểu đoàn nghe nổ súng gọi xuống đại đội nắm tình hình. Tôi ngồi xổm trên cái hầm nông đào dở hôm nọ, đưa tổ hợp cho anh Quang râu (chính trị viên phó C mới về nhận công tác). Anh Quang đứng, một chân dưới hầm, một chân trên thành hầm báo cáo. Thấy nó bắn rát quá nên anh ấy vừa nói trong tổ hợp, vừa kéo tay tôi dúi xuống hầm rồi nhảy lên. Cái hầm nông choèn, đứng có khi mới chỉ ngập trên đầu gối. Muốn an toàn thì chỉ có thụp xuống, hay nằm dài ra dưới đó. Nhưng thế thì ra cái thể thống gì vì tôi đâu có đào, lại còn cự cãi với anh Khanh C trưởng nữa. Hoàn cảnh khó khăn vẫn sĩ diện được tốt! Thằng Đồng Huế, thằng Căn liên lạc núp sau bệ tháp, đang thể hiện pằm pằm điểm xạ hai phát một vào khoảng rừng giữa B1 và khẩu đội đại liên. Thấy thế tôi cũng chúi vào chân bệ tháp cùng với tụi nó. Tôi vẫn nhớ khuôn mặt anh Quang lúc ấy. Vừa báo cáo vừa hơi cười, nụ cười hiền xa xăm, hơi là lạ…như chế giễu cái tính trẻ con của tôi. Có những khoảng khắc hoặc hình ảnh, đôi khi không gắn với bất kỳ sự kiện quan trọng nào nhưng làm ta nhớ mãi…
 

honda acura

Xe điện
Biển số
OF-15048
Ngày cấp bằng
23/4/08
Số km
3,805
Động cơ
576,204 Mã lực
Ông già em cũng lính thông tin hồi chiến tranh chống mỹ, cụ kể cả đời chưa bắn được thằng địch nào
Hồi ở đông hà quảng trị , thấy trâu nhiều quá mà giơ súng bắn mãi chả trúng con nào
Hồi giải phóng ông cũng vào tận dinh độc lập, lấy được mấy cái thìa và dĩa bằng inox . Bây giờ cũng mất tiêu đâu rồi
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Lính thông tin thì hầu như không phải bắn ai cụ ạ. Tuy nhiên lại là đối tượng cần bị tiêu diệt của phía bên kia . Giống như ưu tiên phải diệt ổ hỏa lực địch trước ấy :D !
 

honda acura

Xe điện
Biển số
OF-15048
Ngày cấp bằng
23/4/08
Số km
3,805
Động cơ
576,204 Mã lực
Vâng , nhất là hữu tuyến thường hai phải đi nối dây vướng mìn nhiều
Còn vô tuyến thì cứ coi chừng cái râu angten, nho nên là dễ bị thành mục tiêu mà thông tin thì lại hay phải lên những chỗ có địa hình cao hơn để dễ bắt sóng hơn
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
KHO SÚNG

Vỡ mộng với cái “thủ đô kháng chiến” không đường phố, không nhà cửa. Đêm đêm tắc kè kêu điếc tai lúc xa lúc gần, chẵn mưa thừa nắng. Mùa khô, kể cả tắc kè kêu tiếng chẵn thì trời vẫn nắng. Anh Khanh bảo đây là cái thủ đô tắc kè. Ngày ngày, dân tuôn ra từ các cánh rừng trở về phum cũ. Có đoàn xe đông tới hàng chục chiếc tràn qua ngã ba. Bụi đường cuốn tung theo vó bò cùng một mùi khét lạ, mùi thuốc rê nặng cuốn lá cò ke. Những đứa trẻ đói trõm mắt, ngồi bám gióng xe đờ đẫn, ruồi bu đầy trên đầu. Chỉ có tụi trẻ con và phụ nữ là dám quay sang nhìn chúng tôi, còn đàn ông họ cúi đầu giục bò đi thẳng. Anh Khanh bắt lính trung đội 1 nằm sát đường đào hầm khác, sâu hơn vào phía trong rừng. Chỉ có đêm mới cho một tổ ra chốt các hầm cũ. Đã có kinh nghiệm đối phó nên cứ nghe tiếng mõ bò lốc cốc là tụi tôi lăm lăm tay súng, giạt vào rừng như bố trí đội hình phục kích. Khẩu đại liên cũng chĩa nòng ra ngoài đường. Mỗi lần dân qua lại một lần chộn rộn âu lo. Có khi lính đang ăn cơm trưa cũng phải bỏ cơm bỏ chậu để tránh. Họ đi dềnh dàng quá thì một vài thằng la hét hối thúc rồi nổ súng lên trời. Những người đàn ông nhất loạt quất bò đi nhanh hơn. Cả đoàn xe lại rùng rùng chạy gằn.

Ở ngã ba một thời gian ngắn, lại có lệnh hành quân. Đơn vị đi sâu thêm vào trong núi. Không còn trận đánh nào lớn nữa. Tiểu đoàn 4 tiến vào chiến khu của địch như vào chỗ không người. Con đường lầm bụi. Thảng hoặc gặp những đám dân lẻ, những xác người quắt queo dưới nắng bốc mùi khăn khẳn. Hành quân tìm diệt nên ngày đi, đêm nghỉ. Cứ khoảng chiều tà, gặp nơi có nước, có suối thì đại đội đi đầu tự tiện dừng lại báo về tiểu đoàn. Thường đơn vị sẽ qua đêm tại vị trí đó.

Một buổi chiều sắp tới giờ “nghỉ”, gặp một đám dân bạn rách rưới cùng mấy chiếc xe bò đi ngược. Lại tiếng mõ bò lốc cốc buồn bã, nghe chừng đã chán tai cả gần tháng nay. Mấy người ngồi xe đầu bỗng nhiên huơ khăn cà ma rồi kín đáo chỉ về phía sau. Chúng tôi dạt sang hai bên đường cảnh giác. Bọn địch bám theo dân, thấy lộ lủi sang hai bên rừng, bắn mấy loạt réc réc rồi biến mất. Tiểu đoàn tiến chậm hơn, dò dẫm các ổ phục kích. Một cái trảng nhỏ xuất hiện bên tay trái. Ngô mọc mới đến ngang thắt lưng tạo một khoảng xanh giữa vùng rừng cháy. Thẩp thoáng trên triền bình độ thấp trong hõm núi, cách chúng tôi chừng 300m là mấy mái tôn xám nhạt. Vết bánh xe tải ngang dọc trên bãi. Có thể là cứ địch! Tiểu đoàn dàn hàng ngang tiến đến. Bộ binh đi đầu bắn như vãi đạn. Trung đội đi đầu đã lọt hẳn vào trong khu vực mà không hề có tiếng bắn trả. Địch đã bỏ chạy.

Vào đến nơi, thấy đây là một căn cứ hậu cần rất rộng. Một chiếc xe Hoàng Hà vẫn còn đang nổ máy. Đường đi lối lại phong quang. Thậm chí trong bếp lò, than vẫn còn hồng. Trong các nhà tôn, chất đến gần mái toàn là vũ khí các loại. Có đến hàng ngàn khẩu súng cả cũ lẫn mới. Đồ Mỹ đủ loại: AR.15, M.16, M.72, M.79, đại liên 30 hai càng…Đồ Trung quốc cũng nhiều: AK, CKC, K.63, rồi lựu đạn chày, nụ xoè, kíp nổ, thuốc nổ các loại… Chỉ huy tiểu đoàn báo ngay về trung đoàn rồi bố trí đội hình các đại đội bảo vệ kho vũ khí thu được.

Chỉ huy sở đại đội 1 đóng tại một cái nhà gỗ địch dựng để bảo vệ cái máy phát điện khổng lồ màu xanh nhạt, mang nhãn “Made in Germany”. Cũng có thể nó là cái máy biến áp vì thấy có các múi khế tản nhiệt, các ống dẫn dầu kim loại bao dọc thân máy. Tôi mắc võng trên các tai ống dẫn dầu đó một cách thoải mái, chỉ có điều không đu đưa được mà thôi. Cái nhà vách dựng bằng các tấm gỗ thông, trước là thùng bao bì của cái máy khi nhập khẩu. Gỗ thông tỏa mùi thơm phức, rất dễ chịu. Các tấm gỗ này hẳn là được khai thác từ một cánh rừng cây lá kim nước Đức. Chú tôi đi học ĐH Lâm nghiệp bên đông Đức. Khi về mở các thùng hàng cũng thơm thơm mùi thế này mà tôi gọi là mùi tây. Ngoài hai cái xe đạp Diamant, lại có mua thêm một cái máy hát mono ba tốc độ cùng các bộ đĩa nhựa. Có thể nghe Schubert hoặc Beethoven bất cứ lúc nào mà không cần chờ chương trình âm nhạc cổ điển nước ngoài chỉ phát lúc 3 giờ chiều Chủ nhật hàng tuần. Nhưng thú hơn cả là lúc anh Hưng Hàng Bồ đến chơi, mang theo những điệu vanx của Blue Danube, Danube wave…Lan man thế để thấy rằng ván gỗ với âm nhạc nó có liên quan với nhau trong một nỗi niềm khát nhớ quê nhà. Căn nhà địch giữa rừng hoang lúc này nó trở thành cái thùng đàn thơm phức mùi quá khứ. Lắm khi nằm võng nghĩ vẩn vơ mãi. Anh Khanh lại chửi đ…mẹ thằng lười ra kiếm rau môn với chúng nó, nằm đó nghĩ *** gì?

 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Hai hôm sau, xe vận tải sư đoàn cùng một đại đội công binh đến bốc dỡ vũ khí thu được. Lính tiểu đoàn 4 chốt ở đó cứ tuỳ tiện mà trang bị thêm. Tôi lấy một khẩu M.16, bắn bậy chán rồi cũng quăng lên xe vì ngại mang nặng. Mười ngày bảo vệ kho súng là mười ngày xả hơi của đơn vị. Vừa được thành tích, vừa được nghỉ ngơi, trong khi các đơn vị khác đi càn rã cẳng. Quanh khu vực đứng chân là dạng rừng rậm hỗn hợp khe núi, nơi có khí hậu ẩm. Không phải rừng thưa, rừng khộp chán ngắt vốn trải đều trong hành trình đến đây. Dâu da đất đang mùa, chín từng chùm lúc lỉu màu hồng sậm. Tôi khoái cái vị chua ngọt thanh thanh của nó. Nhưng anh Ky bảo tọng vừa thôi, không thì sốt rét ốm bây giờ! Chán dâu da đất thì bọn lính chúng tôi lấy kíp ra suối ném cá lốp bốp như đốt pháo tết. Rừng vẫn cháy, lan cả vào một cái kho H.12 của địch giấu ở đâu đó. Đạn hoả tiễn H.12 chưa lắp ngòi nổ, bắt lửa bay vu vu trên không trung. Đêm xuống, lán các trung đội sáng lấp lánh ánh điện tự tạo từ các “ăm bun” và pin mắt me thu được.

Một lần tôi lấy thỏi nổ hai lạng nhồi kíp với cuộn dây cháy chậm khá dài rồi giấu trong bụi cây đằng trước hầm gác mấy chục mét. Gần hết ca gác, mò lên chỗ gài hồi chiều đốt dây cháy chậm. Đổi gác chán đến gần nửa ca nó mới "Uỳnh". Nằm nghe chúng nó bắn ra rào rào thấy sướng. Ông Khanh đốc gác cả đêm lục sục không ngủ. Sáng chúng nó bung đội hình lên, vẫn thấy vỏ của đoạn dây nằm đó. Anh Khanh truy gắt xem thằng nào nghịch ngầm. Nhưng cối tép với văn phòng gác chung một vọng cả chục thằng, biết thằng nào nghịch? Riêng mình mặt cứ tỉnh bơ. Anh Quang râu cười bảo cứ lấy đoạn dây bằng thế rồi đốt thử bấm giờ. Trừ đi kể từ lúc nó nổ là ra ca thằng nào gác ngay. Nhưng anh ấy không làm như thế…

Thời gian chốt này còn được học một đợt chính trị do cán bộ tiểu đoàn lên lớp. Trừ các tổ cảnh giới, còn tất cả mang vũ khí, tập trung tại đại đội 2. Vũ khí giá ngoài sân xong, cả tiểu đoàn vào “lớp” là lán chỉ huy đại đội. Chắc là sợ lính nhàn nên sinh hư. Nội dung thì không nhớ nổi. Đại loại kẻ thù trực tiếp là bọn Pôn Pốt_Iêng Sary cùng bọn bành trướng bá quyền xâm lược Bắc Kinh. Kẻ thù nguy hiểm lâu dài là bọn đế quốc Mỹ. Ngoài ra còn các thế lực ********* quốc tế điên cuồng chống phá cách mạng…Nói chung là tiềm tàng rất nhiều kẻ thù với *********. Với chúng tôi thì quá đơn giản, không lắm loại kẻ thù đến thế. Cứ thằng nào bắn vào đội hình, bắn vào anh em tôi là kẻ thù tất! Phải diệt nó ngay! Có thế thôi! Trong cái đám xe bò vừa kéo qua ngã ba Am Leang chắc chắn cũng có nhiều thằng địch thứ thiệt. Nhưng nó đã vứt súng, đang đánh xe bò thì muốn bắn nó cũng còn rất khó… Nói chung, những định nghĩa cao siêu, những ngữ từ to lớn… cả những thằng học hết trung học cũng thấy lơ mơ chứ đừng nói gì các anh em ta mới bỏ cày vác súng. Sáng học, chiều thảo luận thì cũng như những con vẹt biết nói mà thôi! Học chính trị như một cực hình, nhiều thằng cáo ốm. Còn trong “lớp” chúng nó hoặc gà gật, hoặc nghịch linh tinh, tai để ở đâu đâu…Thằng Đức “nhực” ngồi cạnh tôi, rút trong túi ra một nắm nụ xòe, thỉnh thoảng giật cái bép. Nhà nó ở phố Hàng Buồm, sát khách sạn Mỹ Kinh. Gọi là Đức nhực vì nó lùn như người “Nhực”. Nghe bép bép bên dưới mãi, anh Thành chính trị viên đang lên lớp nổi cáu không giảng nữa, quay sang chửi. Cái ngôn ngữ thân thuộc này thì lính chúng tôi hiểu sâu sắc, nên im ngay lập tức.

Cũng ở tại đây, đã nhận được một lá thư mà cho đến bây giờ tôi cũng không thể nào quên được. Nàng viết thư cho một người lính khác trong nhóm bạn chung, nhưng phong bì thì ghi gửi cho tôi. Trong thư, nàng kể với thằng đó tất cả các suy nghĩ, tình cảm thương mến của mình đối với người ngồi bàn trên, nay đã đi lính là cái thằng tôi. Nhầm lẫn hay cố tình không quan trọng. Với hơn hai trang giấy, nhưng nó nhập tâm hơn bất cứ bài giảng chính trị nào. Đêm rạo rực mắt không thể nào nhắm được, ngày mỉm cười vu vơ…Tình yêu đầu tiên của tôi! Những ngày ở kho súng là những ngày tôi ở một thế giới khác, như siêu thực. Không có nắng khét bụi đường, không có rừng cháy, không có chết chóc…chỉ có Mưa rừng ơi mưa rừng! Hạt mưa nhớ ai mưa triền miên…là đoạn kết mượn lời một bài hát của bức thư, lúc nào cũng lẩn quất trong đầu.

 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
DÃY NÚI URĂNG

Vận tải sư đoàn chuyển xong kho vũ khí, chúng tôi lại lên đường tiến vào sườn nam dãy Đậu Khấu. Đậu Khấu là tên chính thức trên các giáo khoa thư môn địa lý. Trên bản đồ nó có một ngọn cao nhất, hơn 1500m tên là Aoral. Lính chúng tôi gọi là dãy URăng. Còn anh Quảng (đã lên tham mưu trung đoàn) bảo là dãy “Khô rang”.

Thời tiết càng về cuối mùa khô càng khốc liệt. Rừng dầu, rừng khộp rụng lá, nắng chói chang. Triền rừng bốc hơi nóng, rung rung dưới nắng. Thảm mục và cỏ gianh dưới chân rừng đã cháy hết, liếm cháy cả bên ngoài lớp vỏ những thân cây. Chúng tôi hành quân tìm địch, quệt ngang quệt dọc cành lá một lúc là mặt mũi, quần áo thằng nào thằng nấy lem nha lem nhem, đen sì như hề. Khỏi cần bôi mặt hóa trang như biệt kích Mỹ. Nhưng đáng sợ nhất là thiếu nước. Mang nặng quá, những thứ khác có thể quăng đi chứ bi đông nước thì dứt khoát là không. Đi rạc rài nửa ngày không có nước mà gặp một lòng suối cạn, lớp cát đáy còn hơi âm ẩm là cả một niềm hạnh phúc bất ngờ. Dùng xẻng bộ binh khoét xuống lòng suối khoảng 1m. Ngồi chờ nước ri rỉ ứa ra, lờ lờ đục. Chúng tôi giải khát luôn bằng thứ nước ấy, tích trữ trong bi đông cũng bằng thứ nước ấy. Ấy thế mà không đứa nào bị tháo dạ mới lạ.



Ở tấm hình này, ta thấy có rặng le vàng cháy bên ngoài, bên trong xanh xanh kia là do có một lòng suối cạn. Một khung cảnh điển hình của rừng khộp, rừng chồi xen lẫn trảng, một trong những địa bàn tác chiến khi xưa. Rặng le đó thường là điểm lấy nước của đơn vị. Vị trí chụp tấm hình nằm ở gần đường sắt tới ga Pursat, giữa rặng Urăng và dãy núi Tà Lạt. Thời gian chụp tấm hình đúng thời gian mùa khô tháng 3, lúc các con suối rừng kiệt nhất. Và trùng với thời gian tôi đang kể câu chuyện hành quân xuyên núi URăng này. Khi trở lại rừng xưa, lúc bấm máy lòng chợt thấy yên tâm rằng trong cái xe Mercedes 16 chỗ đỗ ngoài kia vẫn còn một thùng Lavie. Nỗi sợ chết khát rũ xương trong rừng khô vẫn còn đâu đó…

Một lần, cũng trong tình huống khát nước như thế, chúng tôi tìm thấy một hủm nước trong vắt giữa lòng suối cạn. Trên bờ rặng le ngả bóng xanh om. Quả là may mắn! Chúng nó uống và lấy nước chán chê. Vũng nước đã gần cạn. Đến lượt mình, tôi vục mũ đưa lên miệng làm một hơi sảng khoái cho đã. Nước mát lạnh và ngọt đến không ngờ. Khi vục bi đông để lấy nước dự trữ, tôi bỗng thấy cái gì trăng trắng dưới đáy. Định thần nhìn kỹ lại thấy đó là cái đầu lâu người trắng nhờ, đang nhìn tôi bằng hai hốc mắt vô hồn mọc đầy rêu. Hàm răng nhe ra như nhạo báng. Tôi hoảng, hét gọi tụi nó xuống. Mấy thằng chạy ào tới, ngó vào vũng nước lom lom rồi cũng thấy sởn da gà. Hai hốc mắt sâu hoắm của cái sọ người đang hấp háy, bỗng dựng lên một hàng mi dài thượt như nổi giận. Một thằng can đảm nhất bẻ vội cành le khô chọc xuống, hẩy cái sọ lăn đi. Từ trong hốc xương mắt, mấy con cá nhỏ bị quấy rầy vọt ra. Kinh quá! Hoá ra mấy con cá tụ về nơi nước đọng. Bọn nó làm tổ trong cái sọ rỗng, quậy bên trong làm rêu trong hố mắt toé ra. Ấy thế mà cũng chẳng ai đổ bi đông nước của mình đi. Đằng nào thì cũng đã vào bụng rồi! Dùng thứ nước này còn hơn là uống nước ***. Nói thế bởi vì chúng tôi đã có những lần phải *** ra mà uống. Nắng như thiêu đốt. Hành quân mệt nhọc. Mồ hôi rịn ra giọt nào khô ngay giọt đó, thấm vào quần áo cứng như mo nang. Môi đã nứt nẻ hết cả. Trên bản đồ còn tới 5km nữa mới đến nguồn nước. Thế là tè vào bi đông mà uống để có đủ sức mà lết đi. Mà nước tiểu có nhiều nhặn gì cho cam! Cố mà rặn may chỉ được chục nắp bi đông, đỏ quạch, mặn và nồng không chịu được. Đi mãi, đi mãi chỉ thấy con đường bò bụi trắng, những rừng khô táp lá…



Lại một lần khác, cũng gần như lả đi vì khát nước thì đơn vị phát hiện một con trâu độc. Hai loạt AK vang lên. Con trâu ngã kềnh. Anh em lao vào xẻ thịt, thái những miếng thịt to như bao diêm rồi quăng vào nồi quân dụng. Lửa được nhóm ngay lập tức. Nồi thịt trâu đun khan đã dần xình xịnh nước. Ưu tiên ngay cho những ai yếu nhất. Phần còn lại chia cho mỗi người một vài hụm. Thịt chín kiệt nước thì rục ngay ra rừng, để đưa lượt thịt mới vào đun tiếp. Nước thịt trâu lợ lợ và hoi nồng, nhưng còn hơn chết khát. Yên bụng tàm tạm lại khoác súng lên đường thiên lý.



Càng đi tới gần suối hay gần nguồn nước càng phải cảnh giác. Địch hoặc thú dữ cũng hay dựa vào đấy để tồn tại qua mùa khô. Giữa vùng rừng khô khát vàng cháy bỗng xuất hiện một vệt xanh sẫm của rặng le thì đích thị đấy là suối hoặc suối cạn rồi. Triển khai đội hình cẩn thận, thậm chí bắn thăm dò, cử tổ cảnh giới xong xuôi mới có thể yên tâm mà giải khát.

Cây khộp này nhỏ, nhưng lá to như lá cây tếch:



Những người bạn cùng chúng tôi trở lại miền rừng gần dãy URăng xưa:

 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Thời gian này, địch đã bắt đầu tan rã hoặc phân tán nhỏ lực lượng. Để đáp ứng tình hình mới, thay vì tổ chức những trận đánh hiệp đồng quy mô lớn, trung đoàn tôi cũng phân tán từng tiểu đoàn độc lập truy quét địch. Đôi khi các tiểu đoàn có phối hợp với nhau. Bạn bè trang lứa, cùng đoàn cùng lớp nhưng khác đơn vị, khi đánh chiến dịch gặp nhau thường xuyên, nay thưa dần. Mùa mưa chuẩn bị bắt đầu. Tiếng sấm đâu đó đã ì ầm thoảng qua phía chân trời. Rừng dầu, rừng khộp đang thay lá. Từ những thân cây, cành cây vỏ cháy đen trong những trận cháy rừng mùa khô, những mầm non xanh mỡ, cuộn trong đài búp thắm đỏ đã chuẩn bị xoè tay đón nước.



Một ngày cuối tháng 3, tiểu đoàn 4 (thiếu đại đội 3), cùng tiểu đoàn 6 tấn công địch trụ trong “Phum Chuối” ( gọi như thế vì phum này mọc rất nhiều chuối) sát chân núi Urăng. Trước khi đến phum chuối thì đã cả một ngày khát nước. Khi thấy rừng chuối, cả đơn vị xông vào chặt rầm rầm để lấy lõi nhai cho đỡ khát. Bọn địch phòng ngự trong phum cứ thấy chuối đổ chỗ nào bắn cối 60 vào chỗ đó. Tụi tôi không dám chặt cây lớn nữa, chỉ chặt những cây con, ngồi hít nước chờ bộ binh xung phong. Đến chiều sâm sẩm, 2 đơn vị vào được trong phum. Như thường lệ, không thấy bóng một thằng địch nào, kể cả những cái xác. Chỉ có một số vết máu mới và những thứ linh tinh, rau chuối đang thái dở, quần áo cũ hôi hám…Heo là thứ ông Nhương quan tâm nhất cũng không có nốt. Nhưng lại có gà. Phát hiện thêm vỏ thùng đạn cối 60, giống hệt lô đạn thu được bên kho súng. Thậm chí bọn địch ở đây có lẽ cũng đang lang thang, mới đến tạm trú nhưng bị đánh bật ra vì thấy chúng nó chưa kịp đào hầm. Với ngần ấy thứ địch bỏ lại, tôi không hiểu vì sao ta lại có thể báo rằng đã diệt được X tên địch, làm bị thương Y tên…Chắc chắn bên tác chiến, các anh ấy có nhiều kinh nghiệm về việc phán đoán thiệt hại của địch.

Mới tới cây cầu sắt nhỏ bắc qua dòng suối cạnh phum, gặp lại thằng Hiệp C11 D6 đang đi qua cầu, lui lại sau cùng tiểu đoàn 6. Tại hướng D6 ở rìa suối, sau khi thổi một trái B.41 mà chưa kịp di chuyển, nó bị quả B.41 địch phản, phụt bay sát mặt. Cánh đạn lướt khía vai trái, mặt thì bị thuốc phóng phụt bỏng nhẹ. Quả đạn địch lệch phải 15 cm nữa chắc đơn vị báo mất tích. Nó bị thương nhẹ trận này, đi viện điều trị, và bằng cách nào đó được ra Bắc luôn. Mừng cho nó! Nhưng việc cần làm nhất lúc đó là cứ để nguyên ba lô, trang bị, nằm úp sấp xuống lòng nước trong mát đang riu ríu chảy làm một hơi dài. Thỏa cơn khát thì đã nghe gà kêu quang quác trong phum. Lâu lắm mới có gà tươi ăn dù ít.



Tiểu đoàn 4 đứng chân tại đây mấy hôm. Đi miết dưới trời nắng dữ dội, không có rau ăn, chỉ toàn cá khô mục nấu nước me nên rất thèm rau. Mà đào đâu ra rau dưới cái bầu trời nắng lửa này? Không biết có ai đó phát minh ra cái món óc dừa thay rau. Óc dừa là cái đọt non của ngọn cây dừa. Mỗi cây chỉ có duy nhất một cái đọt, khi lấy đi tất nhiên cây sẽ chết. Nhưng háo rau quá nên bọn tôi cứ gặp dừa là trèo lấy đọt. Những thằng trèo giỏi, giắt lưng cái búa sắc leo lên cây. Ngồi chắc chắn ở một bẹ cuống, vạt bớt các tàu dừa vướng rồi vung búa khoét vào đọt cây lấy óc non. Lấy xong cuốn khăn cà ma hay thả vào trong bụng áo leo xuống, vì thả lỡ bắt không trúng thì vỡ tan ngay. Óc dừa ăn sống ngọt như ăn củ đậu. những phần già có vị hơi chát. Bắn được con trâu, lọc thịt bắp xào óc dừa thì cũng khá ngon. Đầu tiên chúng tôi còn trèo. Sau rồi thì cứ ngang thân dừa vung búa đốn. Chính ủy Hai Hữu một lần thị sát khu vực đóng quân, bảo lính rất nhẹ nhàng và hình ảnh rằng cây dừa dân người ta trồng một hai chục năm, đang thu trái. Nay các em khoét óc cây đi. Cái cây chết cứ đứng sừng sững như cái cột tượng đài tố cáo các em, khơi lòng thù hận. Nay cấm tất những em nào trèo lấy đọt, đốn dừa…Nghe thì cũng thấy nhân văn quá đúng! Nhưng khuất mắt trông coi là tụi tôi đốn tất. Trăm sự chỉ tại cái mùa khô chết tiệt!

Chính ủy Hai Hữu người Nam bộ, tóc thưa và gầy nhẳng. Một chuyện đồn không kiểm chứng là có một thằng lính táo tợn khi gặp chính ủy, nó bắt chéo tay trước ngực em chào thủ trưởng ạ! Thủ trưởng cho nó cái bạt tai vì tội hỗn láo, bắt chước hình ảnh của ông, tựa tựa như cái cảnh báo nguy hiểm chết người.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Sau mấy hôm càn quét khu vực không có kết quả, tiểu đoàn 4 rút ra cách đó 6 km, để lại đại đội 1 có tăng cường khẩu đội 12.8 mm của đại 4 chốt lại. Tại vị trí đứng chân của đại đội 1 có một con suối chảy theo hướng Bắc – Nam, ở giữa có cây cầu gỗ nhỏ bắc ngang. Rừng bám vào tận rìa phum. Gần như không còn tổ chức lại được lực lượng, địch thấy ta là chạy. Trận nào hiệu suất lắm cũng chỉ diệt được ba bốn tên là may, nên bắt đầu có tư tưởng chủ quan khinh địch. Có thể vì thế mà anh Khanh khi bố trí đội hình đại đội 1 đã đưa chỉ huy sở đại đội lên đầu nguồn nước, như một B độc lập tại tiền tiêu. Lại còn giỡn với các trung đội là lần này cho chúng mày ăn …*** văn phòng. Liền kề là khẩu đội cối 60mm. Kế đến khẩu 12.8mm chẹn ngang cái cầu gỗ. Bên kia suối là trung đội 2 và trung đội 3. Trung đội 1 nằm ở cuối nguồn, cách quan sát sở 120m. Tắm suối mùa khô là một cái thú, nhất là sau những ngày đi dài mệt mỏi. Nước mát lạnh, trong văn vắt, cuốn đi bao nhiêu mệt nhọc, bụi đường. Nước mát nâng người lên, bềnh bồng ve vuốt. Những con cá nhỏ rỉa vào chân, vào lưng buồn buồn, nhồn nhột. Bên ngoài đã sạch rồi, làm sạch nốt trong lòng là…ị bậy. Cái sướng này cũng ngang với quận công.

Sáng Chủ nhật, ngày 15/4/1979. Trời xanh trong, nắng đẹp. Như mọi chủ nhật khác, chương trình văn nghệ Chủ nhật dành cho chiến sĩ từ 7h30 đến 8h sáng đang phát đi đoạn nhạc hiệu quen thuộc. Thằng Căn liên lạc với tay vặn to cái radio bán dẫn rồi ôm quần áo ra suối tắm. Có cái gì đó chấn động không gian. Dưới suối, rất đông lính các B đang bì bõm giặt áo quần bỗng nghệt mặt ra nhìn: mái nhà, vách nhà bằng gianh của chỉ huy sở đại đội bỗng bay tung lên trời. Liền luôn đó mới là tiếng B.40 mà tiếng đề pa đầu nòng chập làm một với điểm nổ. Cự ly bắn rất gần. Tiếp một phát B.40 tức ngực nữa giật tung lều cối, may mà không đưá nào bên trong. Đạn trung liên, đạn AK cày tung hai bên bờ suối. Địch rồi! Nó đã làm chủ vị trí chỉ huy sở đại đội và trung đội 3 và đánh chẻ đôi đội hình từ thượng nguồn xuống.

Anh Tảo người Hà Bắc - Trung đội trưởng 12.8mm đang tắm cứ cởi trần nồng nỗng, nhảy lên khẩu 12.8 cạnh cầu, hất tung tấm tôn che súng bắn cản địch. Lính ta quần đùi áo may ô ướt, trong tay không vũ khí chạy trắng lòng suối về hướng trung đội 1. Hoả lực, đạn nhọn của địch tập trung vào diệt khẩu 12.8mm. Đạn nổ rát, xung quanh chẳng còn mống nào hỗ trợ. Anh Tảo bắn thêm được mấy loạt ngắn nữa, thấy địch vào quá gần cũng bỏ súng chạy nốt. Thằng Tư trung đội 3 lớ ngớ tưởng còn chỉ huy sở, lại thấy 12.8mm vừa giòn giã liền chạy về qua cầu. Bị đạn nhọn xỉa rớt bịch xuống suối chết ngay. Anh Lượng – (người Hải Hưng, biệt danh Lượng khỉ) mới về nhận chức đại đội phó ngày hôm trước chỉ kịp vơ khẩu AR.15 không biết của ai và một băng đạn khi chạy qua một cái lều trống, kéo thằng Căn nhảy đại xuống một cái hầm sát bờ, cứ thấy bóng áo đen là điểm xạ. Dưới lòng suối, hai cái đầu đen thò lên cách hầm có 7m. Cò lại xiết nổ được vài phát thì hộp đạn rỗng không. Anh ấy nhanh trí giương súng quát to lớc đay lơn! (giơ tay lên). Hai thằng địch thụt đầu xuống suối. Hai thầy trò kéo tay nhau vọt lên miệng hầm chạy gấp.

Khẩu 12.8mm địch đã chiếm được quay nòng bắn theo mục tiêu vừa phát hiện. Đạn cày tung dưới chân, xuyên qua dãy thùng phuy làm dầu bốc cháy ngùn ngụt. Thật là còn may! Khói dầu đã cản tầm quan sát của địch. Trên trận địa chỉ còn khẩu đại liên của thằng Lễ là còn lên tiếng, khằng khặc thêm một thùng đạn rồi cũng tháo súng quăng xuống suối, tuỳ nghi di tản. Cha con anh em đại đội gom dìu nhau ở trung đội 1, theo con suối, thất thểu chạy về tiểu đoàn. Anh Quang râu, chính trị viên phó cũng bị một phát AR.15 xuyên bắp chân, lỗ xuyên nhỏ xíu không chảy máu nhiều. Vẫn đi tập tễnh được. Thằng Tường lé, thằng Ban trố mất máy PRC.25, đôi mắt thất thần. Lính tráng non nửa là quần đùi áo lót, đi tay không, súng ống, ba lô mất sạch. Khẩu cối 60mm cũng rơi vào tay địch. Thấy thằng Gia “cà bây” vẫn còn gánh 6 quả cối trên đòn, thằng Trung B1 bảo sao không vất mẹ nó nốt đi rồi trang bị mới luôn thể. Thằng này cáu bảo vất đạn lại để nó giã cho vỡ đầu ông vải nhà mày ra à? Hục hặc như thế nhưng cũng chẳng còn lòng dạ súng đạn đâu mà đánh nhau nữa. Kiểm điểm lại, đại đội 1 trong sáng hôm ấy mất một khẩu 12.8mm; một khẩu cối 60mm; một máy PRC.25; gần chục AK và RPD; hy sinh 5; bị thương 3. Tử sỹ không mang đi được. Đến trưa thì về đến đội hình tiểu đoàn. Gương mặt ai nấy bơ thờ.

Cả tiểu đoàn 4 xôn xao. Đau quá! Anh Sơn lệnh ngay phần còn lại của đại đội 1, toàn bộ đại đội 2 và một khẩu đội cối 82 đại đội 4 do anh Thào - tiểu đoàn phó chỉ huy, quay ngay lại đánh địch. Vào đến nơi thì địch đã rút đi từ bao giờ. Tại chỉ huy sở đại đội 1, cái máy 2W nằm móp méo, lăn long lóc. Tử sỹ bị chúng nó dùng xẻng bộ binh băm nát mặt. Ba lô quần áo cũ cũng bị rạch nát tứ tung. Tiền phụ cấp chúng tôi vừa mới lĩnh (toàn tiền mới) bay như bươm bướm trên mặt đất. Trong một bụi cây gần chỗ bố trí khẩu đại liên cũ, anh Thào lấy gậy chọc chọc, lôi ra một thùng đạn đầy nguyên rồi gọi toáng lên: “Lễ! Lễ lại đây! Mẹ mày! Bảo bắn hết đạn rồi mới chạy thế thùng đạn nào đây?”. “Đạn địch đấy anh ơi!”. “Mẹ! Cờ đỏ sao vàng lè lè ra thế này mà mày dám bảo là đạn địch à ?”. Thế là cứ cái gậy sẵn đấy, ông ấy quất vun vút. Thằng Lễ đại liên chân dài, ôm vội thùng đạn rồi bỏ chạy sau khi ăn mấy chưởng gậy vào lưng. Khẩu đội đại liên mò sục, móc được súng dưới lòng suối lên.

Thu dọn chiến trường xong xuôi, về đến đội hình tiểu đoàn thì trời đã tối. Thật là một đêm nặng nề! Nửa đêm về sáng, có hai phát pháo hiệu xanh vọt lên trên đỉnh rừng, cách chúng tôi khoảng 3 km. Điện về trung đoàn hỏi thì được thông tin là không có đơn vị nào đứng chân hay làm nhiệm vụ ở vị trí đó. Xác định rõ là địch với lực lượng cấp tiểu đoàn, đang bâu bám đơn vị. Hôm đó bọn Pốt gan thêm một chút, áp dụng bài đánh điểm, phục kích diệt viện nữa thì tiểu đoàn 4 còn thiệt hại nữa.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Sáng hôm sau, chỉ huy tiểu đoàn triệu tập toàn bộ các đại đội và trung đội trưởng về họp rút kinh nghiệm. Căn cứ lực lượng địch trong trận đại đội 1 mất chốt và các dấu hiệu đêm qua, dự đoán địch sẽ có thể đánh vào đội hình tiểu đoàn nay mai. Các đơn vị củng cố hầm hào sẵn sàng đánh địch. Cử các tổ thám sát vòng ngoài phát hiện dấu vết, tránh bị bất ngờ. Cuộc họp ngắn vừa tan thì xe tải trung đoàn có một trung đội của đại đội công binh 19 hộ tống vào đến nơi. Bổ sung súng đạn xong xuôi, tử sỹ thương binh được chuyển lên là xe vội biến ngay vì sợ bị phục kích. Tiểu đoàn trưởng trực tiếp bố trí lại đội hình.

Cái phum đơn vị tôi đang đứng chân lính gọi là phum “dừa cụt” hoặc “phum 19”. Trước đây một thời gian, đại đội 19 công binh trực thuộc trung đoàn đóng quân ở đây, và cũng đốn dừa ăn đọt nên nhiều cây cụt mới đặt tên như thế. Địa hình dốc thoai thoải từ cái chùa cũ đã bị phá huỷ, qua một trảng trống có một khẩu pháo 155mm xẹp lốp (địch bỏ lại, đã rút mất kim hoả) là đến con suối cạn hình cánh cung, ôm lấy rìa phum. Đại đội 2, xác định là hướng chủ yếu, bám rìa con suối cạn cắt ngang con đường. Khống chế trảng trống sườn phải ban chỉ huy tiểu đoàn là trung đội vận tải và khẩu đại liên 30 Mỹ do thằng Luân – liên lạc tiểu đoàn lấy được ở kho súng tháng trước (ba cán bộ tiểu đoàn mỗi người một liên lạc). Tôi nhớ thằng Luân người Thanh Hoá, người nó to vật vã. Cái ba lô trên lưng nó cõng đồ cho cả hai người, cả nó cả chỉ huy mà vẫn lọt thỏm trên tấm lưng bè bè như cái phản. Ngoài khẩu AK treo bụng, nó còn vác thêm trên vai khẩu đại liên Mỹ này. Băng đạn quấn ngang quấn chéo đầy mình, cứ đụng địch lại hạ càng bắn rèn rẹt. Phần cao nhất địa hình là cái chùa đổ ở chếch phía sau bố trí đại đội 4 với khẩu 12.8mm còn lại và 2 khẩu cối 82mm. Đại đội 1, có tăng cường khẩu DK.82, giữ sườn trái tiểu đoàn.

Vị trí đại 1 nằm trong một chòm cây rậm sát bìa rừng thưa, cách tiểu đoàn bộ khoảng 120m bằng một khoảng rẫy khô trắng, địch mới trồng mì. Chỉ huy đại đội bây giờ là anh Tuy voi Hà Bắc, thay cho anh Khanh. Anh Lược, dân Hải Phòng làm chính trị viên phó thay cho anh Quang râu bị thương hôm trước. Như là duyên nợ, tôi và anh Ky lại được điều động xuống đại đội 1. Chúng tôi khiêng các súc gỗ dầu địch đã xẻ vuông vức, chồng lên nhau quây thành một cái công sự nổi của BCH đại đội. Bên trên không biết tụi liên lạc kiếm đâu được mấy tấm tôn trắng lợp làm mái. Cái mái trắng bốc nên anh Tuy bắt tụi tôi bẻ lá che lên. Vừa đỡ lộ, vừa cản nắng nóng ban trưa.

Ngày 17/4/1979, buổi sáng, anh Sơn tiểu đoàn trưởng kéo theo thằng Điệp xách khẩu M.16 xuống đại đội 2. Hai thầy trò dò dẫm ngược lòng suối cạn bên tay trái xem xét tình hình. Việc này đáng nhẽ của trinh sát tiểu đoàn, nhưng không hiểu sao hôm đó anh ấy muốn trực tiếp thị sát. Vừa qua khỏi đội hình đại đội 2 hơn 50m thì đụng 2 thằng trinh sát địch. Thằng đi đầu đứng trên bờ suối mọc đầy le, há hốc mồm vì bất ngờ nhưng cũng kịp bóp cò khẩu M.79. Quả đạn bay thẳng vào đùi anh Sơn, rơi bịch xuống nhưng không nổ vì cự ly quá gần, không đủ vòng xoay. Thằng Điệp (người Huế- học sinh trường Quốc học hẳn hoi) cũng bị giật mình, chĩa khẩu M.16 kéo một loạt lên trời. Hai thằng trinh sát địch chúi xuống bỏ chạy. Thầy trò anh Sơn cũng tập tễnh dìu nhau tới đại đội 2 rồi về tiểu đoàn, lệnh cho các đại đội chuẩn bị đánh địch. Trung đội thông tin đang họp trong cái nhà sàn con con, nghe tiếng “Póc!” của M.79 và tiếng tiểu liên hướng lòng suối cạn, xớn xác ngó ra ngoài. Anh Nhương lao về hét thông báo địch vào rồi xua chúng tôi xuống các đại đội ngay. Tôi và anh Ky vừa lao xuống cầu thang thì khắp các đại đội, tiếng súng đã rộ lên. Hai thằng cắm cổ chạy vượt qua khoảng trống địch mới trồng mì, mọc ngang đến đầu gối về đại đội 1.

Không thể nói đạn bay chiu chíu hay cắc bụp bên tai nữa, vì lúc này đã ào lên như một nồi cơm sôi rền từ khắp các hướng. Cũng chỉ thấy toàn đạn nhọn địch chứ không có hỏa lực. Sau mấy lần ngã chúi vì vấp, hai thằng cũng chạy về tới ban chỉ huy đại đội 1 an toàn. Địch đã bám được vào lòng suối cạn trước mặt đội hình đại đội. Cứ nhô lên thằng nào là trung đội 1 xỉa ngay thằng đó. Biết không thể lên theo hướng này, nó để lại bộ phận bắn kiềm chế rồi quay sang bìa rừng đánh vào hướng trung đội 2, trung đội 3. Khẩu DK.82 nằm kẹp giữa hai trung đội làm liền mấy trái. Tiếng nổ làm tai ù đặc. Lính trung đội 2 hô ầm ầm: “Cối bắn trước đội hình 40m!”. Thằng Dung tiểu đội trưởng cối 60 do ù tai, lại đang cuống cả lên liền lấy cự ly 40m thả đạn. Quả đạn cối rơi sát ngay khẩu đội DK.82. Thằng Hạnh, xạ thủ số 1 dính ngay một mảnh vào đầu nằm quay táng ra. Một chú nữa dính mảnh vào đùi. Thằng Mận - tiểu đội trưởng DK phát khùng, cõng thằng Hạnh về đặt nằm trong quan sát sở rồi xách AK chạy xồng xộc về khẩu đội cối tính ăn thua đủ. Dung “kỳ đà” mặt xanh như tàu lá. Anh Tuy chửi ầm ĩ, can chúng nó ra.

Bên hướng tiểu đoàn bộ, địch cũng bị trung đội vận tải với khẩu đại liên của thằng Luân ghìm chân không vượt qua trảng được. Cối 82 đại 4 cứ thì thụp giã vào bìa suối theo yêu cầu của đại 2. Thằng Cường vận tải thấy thưa đạn, bò lên định gí quả H.12 giá cạnh khẩu pháo 155mm thì bị chúng nó tỉa. Viên đạn có mắt đi qua trán nó. Anh Sơn bị thương vì quả M.79 hồi sáng, không đi lại được, nằm trong hầm quay điện thoại hỏi hết đại đội này đến đại đội khác rồi quay xuống đại 1. Cán bộ đại đội chạy hết xuống các B nên tôi báo cáo như người lớn: Đại đội 1 vẫn vững! Anh yên tâm! Ờ! Ngon nghe thằng em!

Đúng lúc đó, ngay sau chỉ huy sở đại đội sát mép trảng, đằng sau ụ mối lớn thấp thoáng mấy thằng địch áo đen. Thằng Đồng phát hiện địch trước, nổ mấy loạt AK. Tiếng AK địch toang toác đáp trả ngay sau lưng. Những thằng địch đi đầu dồn cả vào sau ụ mối vì chỗ rừng đó khá thưa và cây nhỏ. Đạn xuyên qua nóc lều lợp tạm bằng mấy mảnh tôn rách, thủng lỗ chỗ. Thằng Căn, thằng Đồng liên lạc nhảy ra núp sau góc lều, bắn cản địch. Sợ mất máy, tôi lăn vào lều, đè cả lên người thằng Hạnh đang khò khè, giật vội cái máy điện thoại rồi nhào ra. Thấy thằng Thư y tá đang nhớn nhác sau một ụ mối, tôi bảo nó trong lều còn thằng Hạnh đang bị thương nằm đấy, vào kéo nốt nó ra đi không mất thương binh là mày chết! Bọn địch đánh bọc ***, định cắt đội hình C1 khỏi tiểu đoàn. Nó mà chiếm được vị trí chỉ huy sở C1 thì cả đại đội bung hết!

Anh Tuy thấy địch bám đánh rát phía sau, thét bê khẩu đại liên quay lại, giá súng ngay cạnh lều chỉ huy bắn dữ dội. Lúc này chẳng thấy tiểu đội trưởng Quyến khợp đâu nữa, đại liên chỉ còn thằng Nhạ tân binh, người Thái Bình và thằng Lễ. Thằng Nhạ cứ ngồi xổm chồm chỗm trên mặt đất không công sự mà đẩy cò. Hai thằng liên lạc và tôi cũng ghim AK hỗ trợ. Cái ụ mối lớn cạnh gốc cây cám to mấy thằng địch nấp bục dần từng mảng. Không thằng nào dám ló đầu ra nữa. Biết không ngon ăn, chúng nó rút chạy. Chúng tôi vận động lên đến đó, thấy quanh ụ mối máu me be bét lẫn cả bông băng. Thu được hai quả lựu đạn chày địch chưa kịp ném. Tôi chạy vào trong lều đại đội mắc vội dây vào máy. Chắc tiểu đoàn đang sốt ruột quay máy nên tôi bị giật rung cả tay. Lập cập mấy lần mới xong. Liên lạc lại thông suốt. Anh Tuy báo cáo tình hình, nghe máy một lúc rồi nhăn mặt, đưa tổ hợp cho tôi. Tiếng súng thưa dần rồi im hẳn. Thế mà đã quá trưa lâu rồi!



Đến lúc này, anh Tuy mới gọi: “Thư! Thư! Băng cho tao!”. Anh ấy bị một viên AR.15 xuyên bắp đùi, máu ra không nhiều. Cái mũ cứng của thằng Nhạ cũng bị đạn xuyên thủng vành hai lỗ tròn vo lúc nó ngồi xổm bắn đại liên. Buổi chiều, nó cứ sờ sờ cái lỗ thủng, cười ngây ngô. Không kéo khẩu đại liên về đấy có khi bung chốt lần nữa. Khẩu DK.82, do quân ta đánh quân mình, bị thương 2, còn lại 3 người. Tiểu đoàn rút luôn khẩu đội này về đội hình đại đội 4. Trung đội 2 được lệnh bung ra ngoài đội hình đại đội, qua bờ suối cạn thám sát địch. Bọn này cũng chỉ lò dò qua trảng đến suối, loanh quanh một lúc, bắn bậy mấy loạt rồi về. Đạn thiếu, lính đi mót từng viên đạn lẻ rơi vãi tra vào băng. Chẳng bù cho những lúc chúng nó cứ bẻ đầu cát tút, dốc thuốc đạn đổ vào để nhóm bếp pha trà.

Đại đội 3, sau một thời gian đi phối thuộc trung đoàn được trả về đội hình đúng hôm đó. Cắt rừng về đến nơi thì trời đã gần tối, bố trí ngay sau lưng tiểu đoàn. Thêm một đại đội, dẫu chỉ hơn ba chục tay súng, ai nấy cũng yên tâm hơn hẳn. Anh Tuy chào chúng tôi rồi chống gậy tập tễnh về tiểu đoàn bộ. Hôm sau cũng theo xe thương binh tử sỹ, cùng anh Sơn tiểu đoàn đi viện luôn, lập kỷ lục người chỉ huy đại đội 1 trong thời gian ngắn nhất (2 ngày). Anh Quảng trung đoàn cử về thay, nhận chức tiểu đoàn trưởng. Anh Chính “tréc” người Hà Nam Ninh làm đại đội trưởng đại đội 1.

Đơn vị nằm đây khá lâu để củng cố. Các đại đội nhiều hôm đi truy quét. Khi C1 đi càn, chốt bỏ trống nên chỉ huy tiểu đoàn đẩy trung đội trinh sát ra đó chốt thay cho C1. Vì cụm rừng đó là sườn trái D bộ, không thể không giữ. Tôi được lệnh để nguyên máy đó, nằm với trinh sát. Đội hình mỏng, có 7-8 người nên ngày ăn cơm tập trung trong lều chỉ huy. Còn ban đêm ngủ võng tản ra. Một hôm, quãng nửa đêm, một con chó trắng tinh dưới ánh trăng, lớn khoảng 15 kg chạy dọc đường bò xuyên qua vị trí B2 cũ vào gần đội hình. Cách hầm gác khoảng hơn chục mét, nó dừng lại. Tôi đã khẽ kéo nấc an toàn xuống, ướm nó vào đường ngắm. Nó dừng lại hít hít một lát rồi lộn trở lại theo đường cũ. Tôi không bắn, linh cảm đó có thể là chó trinh sát của địch. Khi nó bỏ đi, mới luồn về võng anh Sơn (Sơn con B trưởng trinh sát) lay dậy. Anh Sơn vơ khẩu M.79. Hai anh em lại trở ra hầm gác đôi. Lúc sau nữa có tiếng lá khô loạt soạt rất khẽ, và cái chính là rất đều. Cái máy điện thoại trong lều chỉ huy để nấc chuông nhỏ, bỗng nhiên kêu cạch cạch như dế gáy. Đ…mẹ cái thằng nào không ngủ được, thử máy vào đúng lúc này! Tôi nín thở chờ phát B.40 đầu nòng từ phía địch.

Đánh bịch một cái, một hòn đá lăn lăn tới gần miệng hầm...Im lặng! Lại bịch một tiếng nữa...Anh Sơn mới lượm đại một cục đá, ném về phía trước cũng bịch một cái. Phía trước lặng ngắt, không thấy loạt soạt nữa. Mắt căng ra nhưng không nhìn thấy gì. Bóng trăng lổ đổ trong khoảng rừng Cái hầm gác nằm trong bóng thẫm của lùm cây nên nó khó phát hiện. Tôi với anh ấy chỉ rình nó loé lửa đầu nòng là siết cò. Nhưng chúng nó cũng không dám bắn vì sợ lộ vị trí. Thành ra cả hai bên rình rập nhau. Lát sau không thấy gì khác thường nữa…

Cả đêm hôm ấy, trung đội trinh sát và tôi thức suốt. Sáng hôm sau bám lên, nhặt được nắm cơm chuột khoét nham nhở bọc trong giỏ thốt nốt. Thời đó địch vẫn còn mạnh, lực lượng chốt đêm vài mống, thêm thằng thông tin là tôi nên cũng ngán. Nhất là đang xuống tinh thần vì vừa bị nó tẩn cho một trận te tua. Đêm ấy chúng tôi không có lựu đạn. Mà có lựu đạn chưa chắc đã dám ném vì mình không biết rõ lực lượng địch thế nào? Cũng là thói quen của tụi trinh sát nữa chứ bộ binh C1 là chúng nó nổ súng ầm ầm rồi. Nhỡ nó vào cả tiểu đoàn thì mình bỏ mẹ! Ban ngày trông rõ địch, nó đông cũng không sợ vì mình có thể đánh hoặc bỏ chạy vô tư. Nhưng cuộc chiến không có chiến tuyến, rừng đêm như thế biết lực lượng địch thế nào? Nói là mình với bọn Pốt đêm đó cùng sợ nhau cũng đúng. Đêm mùa khô lạnh, nhưng đầu và lưng áo tôi ướt đẫm mồ hôi...

Cũng ở đây, tôi bắt đầu biết hút thuốc thực sự. Điếu thuốc Vàm Cỏ vào phổi từng ngụm nhỏ, ngai ngái và nằng nặng.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
ình hình yên ắng trở lại. Sau một tuần củng cố, sư đoàn lại chuẩn bị chiến dịch đánh thông lên thị trấn Leach theo thung lũng phía bên kia núi Urăng. Trung đoàn 2 chúng tôi được lệnh trèo vượt núi này, chẹn ngang thung lũng để các đơn vị bạn lùa địch vào đấy cất một mẻ lớn. Urăng là một dãy núi cao nằm theo hướng tây bắc – đông nam. Có những đỉnh độ cao tuyệt đối đạt 1500m. Địa điểm bắt đầu cắt vào để vượt núi được xác định đúng cái phum hoang mà đại đội 1 mất chốt tuần trước, cách phum “dừa cụt” tiểu đoàn 4 đang đứng chân 6 km. Mệnh lệnh rất rõ ràng, quán triệt đến từng chiến sĩ: bí mật bất ngờ, tránh các đơn vị nhỏ lẻ của địch, mang đầy đủ lương thực súng đạn tác chiến trong 6 ngày, nhất là đồ đựng nước uống. Chuẩn bị tư tưởng, hậu cần xong xuôi, trung đoàn lục tục lên đường.

4h sáng, nhận xong phần cơm vắt cho cả ngày dưới anh nuôi là hành quân ngay. Tiểu đoàn 4 đi đầu, theo con đường nhỏ ngược về hướng bắc. Cấm dùng thông tin vô tuyến, cấm bắn bắt liên lạc. Một bộ phận của đại đội trinh sát 21 trung đoàn và trinh sát tiểu đoàn 4 thuộc địa hình đi trước bám địch. Gần 6h sáng có lệnh dừng lại. Trinh sát đã phát hiện có khói bay lên trong phum (bây giờ gọi là phum “đại đội 1 tan tác” ). Đơn vị im lặng dạt vào rừng, cắt lối khác áp vào triền núi Urăng này. Hướng leo cũng đúng hướng tấm hình chụp, từ đông sang tây, vượt qua ranh giới giữa tỉnh KP S’Peu và Pursat


(Sườn đông nam rặng núi Urăng hướng KP S’peu_ Ảnh sưu tầm)

Bắt đầu leo dốc khoảng 7-8h sáng. Lúc đó dưới chân rừng thưa, nắng xiên hướng đông đã chói lắm. Tôi gặp anh Quảng, D trưởng D4 tôi một thời gian thay anh Sơn đi học. Lúc này anh ấy đi chung với ban tham mưu trung đoàn. Anh ấy nháy mắt bảo thông tin chúng tôi là chúng mày chuẩn bị leo núi “Khô Rang”. Hai ba trăm mét độ cao khởi đầu rừng sáng còn ngon, nhưng càng lên cao càng khó đi. Rừng nguyên sinh trên núi dày rịt dây leo. Tầng cây cao khép tán, toả bóng thâm u che phủ. Đã 9h sáng mà đáy rừng vẫn nhờ nhờ tối. Những cây con bên dưới bị cớm nắng, thân mảnh thẳng đuột, ken dày như thành. Tôi cũng biết là phải giữ hơi đều, hít sâu và thở ra từ từ, nhưng đến khoảng gần trưa thì mớ kiến thức dưỡng sinh ấy trở thành vô dụng. Mũi, mồm và tai cùng thi nhau hoạt động hết công suất. Đấy là còn được đi sau đấy! Còn mấy thằng trinh sát đi đầu, vừa đi vừa phạt cây mở đường lên thì phải biết chúng nó siêu như thế nào.

Cắm cúi leo. Khoảng tiếp xúc giữa ba lô và lưng áo đã ướt đẫm mồ hôi. Rồi cái ruột tượng 5 ký gạo quàng quanh cổ cũng ướt nốt phần đáy. Quai máy, quai súng siết vào vai tê dại. Vẫn chưa có lệnh nghỉ. Đi! Đi cho kịp giờ hiệp đồng! Toàn trung đoàn thằng nào thằng nấy khoanh tay trước bụng, còng lưng vượt dốc. Thằng Tào, thằng Lại anh nuôi đại đội 1 cậy mang nhẹ, chỉ phải khiêng cái nồi nhôm quân dụng, nên cứ băng băng vượt trước. Nhọ nồi quệt vào lá cây, từ lá lại quệt vào mặt những thằng đi sau lem nhem. Ông Thào tiểu đoàn phó tức, vừa xoa mặt vừa quát chúng nó xuống đi sau. Nhưng hai thằng này cứ như điếc, càng vọt khoẻ, mỗi lúc một xa. Bất lực! Thế là bố ấy lấy cái gậy chống phi theo luôn nhưng trượt. Đã thế lại còn mất đà ngã quay ra. Lính tráng cười ồ lên hô tháo đạn đứng dậy. “Mẹ hai thằng cà chớn! Rồi biết tay tao!”. Anh ấy chửi với chữa ngượng thế thôi chứ sức đâu mà đuổi! Tình huống khôi hài cũng làm quên đi cái mệt được một chốc.

Quá trưa, có lệnh nghỉ ăn cơm. Tôi kiếm một chỗ phẳng, ngồi phịch xuống, dựa vào ba lô vẫn quàng nguyên sau lưng hồng hộc thở. Lát sau mới tháo ba lô ra. Cái lưng áo ướt đẫm mồ hôi giờ trở nên lạnh lạnh vì khí núi. Đỡ mệt, giở cơm vắt ra ăn. Vèo một cái là nửa vắt cơm đi bay vì hôm đó có món mắm trâu của bọn cối đại đội 1. Thịt trâu ăn chán rồi, còn lại nước thịt. Chúng nó cho muối, bột gia vị vào rồi đun nhỏ lửa cho đến khi cô lại sền sệt. Đổ vào đoạn ống DK.82 cắt ngắn, lấy nilon bịt lại mang theo khi hành quân. Loại “mắm” đó hao cơm vô đối.

Nghỉ một lát lại leo tiếp. Rừng ở độ cao lớn quang hơn nhưng độ dốc lớn hơn. Bắt đầu có mây mù dưới thung lũng bốc lên. Trời tự nhiên tối lại. Những hạt nước li ti nhưng dày đặc làm triền dốc trơn nhẫy. Khổ nhất là lính pháo DK.75 đại đội 17 trung đoàn. Khẩu đội trưởng đi trước, dùng xẻng pháo đào khoét triền núi thành từng cái hốc cho bọn khiêng pháo phía sau có chỗ đặt chân. Hai thằng khiêng nòng, mỗi thằng một đoạn tầm vông. Thằng xỏ miệng, thằng xỏ đuôi, hai đoạn tầm vông oằn xuống dưới sức nặng của nòng pháo. Cứ trầy trượt như thế mà bám sườn leo lên. Bọn mang đạn buộc hai ống DK néo lại làm một, cúi đầu gằn gằn bước. Thỉnh thoảng có thằng trượt chân. Nòng pháo lăn lông lốc rồi mắc lại ở cái gốc cây nào đấy. Chúng nó lại quay xuống, nhẫn nại kéo lên không kêu một tiếng.

Đại đội 16 cối 120mm còn nhục nhằn nữa. Bốn thằng lặc lè khiêng hai cái đòn xỏ chữ thập nâng đế cối, như người ta khiêng một con rùa khổng lồ. Chỗ rộng không sao. Chỗ hẹp phải có một đứa phát cây dọn cho đòn khiêng khỏi bị vướng. Cái chữ thập lúc mở ra, lúc khép vào kèn kẹt theo độ mở địa hình hướng đi. Những chỗ dốc quá, cái bàn đế trượt lê trên mặt đất núi ướt, ủi tung cả đất. Còn nòng cối, chúng nó tròng dây kéo trượt ngược lên, mồm miệng bạnh ra như hổ mang thổi lửa. Nhìn cái cảnh đó đừng đứa nào bảo lính pháo là sướng nữa. Xem cái ảnh hò kéo pháo lịch sử trong báo thì thấy vui như chơi kéo co. Còn nhìn cảnh các đại đội hỏa lực trung đoàn tôi khiêng pháo vượt núi trên đất trơn thì mới thấy khiếp. Tốt nhất là được làm cái thằng chụp ảnh hô hào tuyên truyền. Cho nó khiêng thử thôi chắc vãi cả *** ba họ.

Để đại đội DK.75 của trung đoàn vượt qua là tôi đã bị tụt lại sau tiểu đoàn 4 khá xa rồi. Sức tôi khá yếu so với tụi nó. Hai thằng một máy, hai cuộn dây 600m, một khẩu súng, hai ba lô, hai ruột tượng 10 ký gạo… anh Ky đi cùng tôi cũng không giục không nhắc gì, cứ lùi lũi đi đằng sau. Khi các đơn vị khác nghỉ, chúng tôi vẫn cứ cắm cúi bước để theo kịp đơn vị. Trời sâm sẩm tối thì gần lên tới đỉnh. Một hơi gió tạt qua mát lạnh, gió sườn tây núi Ô răng thổi từ vịnh Thái lan. Nghĩa là sắp đổ dốc xuống núi. Trời bắt đầu mưa lất phất. Thật lạ lùng! Mới bên này cách mấy trăm mét khí hậu khô rang nóng kinh người mà sang sườn bên này thời tiết quay ngược 180 độ. Lần đầu tiên tôi biết thế nào là mưa địa hình. Bây giờ đọc thêm thì mới biết hiện tượng địa lý ấy nó gọi tên là thế, chứ lúc đấy thì biết chó gì! Chỉ biết là rất mệt! Mệt đến há hốc mồm.



Tôi tránh anh Ky, chui vào một bụi rậm vờ đi *** rồi tháo bao gạo đổ đi 1/3 ruột tượng. Trông kỹ ra thì trong bụi ấy cũng trắng xoá gạo đổ của những thằng đi trước. Gạo nhẹ đi nhưng nỗi nhọc ngày một tăng lên. Đôi chân dường như không phải của tôi nữa mà như đi mượn. Trời tối đen. Cứ nghe tiếng vạch cây rào rào đằng trước mà chuệnh choạng lần theo. Thỉnh thoảng lại vấp phải chân những thằng đang nằm ngủ, hoặc nghỉ thò ra giữa lối, ngã lăn ra. Mồm vập vào súng đau điếng. Phát cáu lên bảo chúng mày muốn ngủ thì cứ chui vào bụi mà nằm, sao lại ngáng chân bố mày. Về sau mới biết có những thằng mệt quá ngồi ngủ, sợ ngủ quên mất nên cứ thò duỗi chân ra đường để có ai đi sau vấp vào đánh thức rồi lại lần theo, không có lạc mất đơn vị. Mà lạc ở đây chắc chắn chỉ có làm mồi cho hổ. Thằng Phụng người Huế, khoác cái máy 2w vừa leo vừa khóc. Nó bỗng phát khùng chửi đ…mẹ bọn tham mưu tác chiến trung đoàn lừa chúng tao! Bảo đêm là tới mà sao vẫn đi mãi. Lạc đường rồi! Chẳng may anh Phấn tham mưu trưởng trung đoàn đang bước ngay sau nó. Anh Phấn bảo mày ngon đưa máy cho anh khoác, còn bản đồ la bàn đây, cho mày lên làm tham mưu trưởng liền. Đ…má lính tráng cà chớn! Thế là nó im tịt, cắm đầu bước tiếp.

Giờ thì chẳng còn phân biệt được đơn vị nào vào đơn vị nào nữa! Cứ thằng khoẻ đi trước, thằng yếu đi sau, yếu nữa thì đi sau rốt như bài ca con voi của bọn trẻ con. Giở nắm cơm vắt ra, nó đã chua loét phần bên ngoài. Tôi bẻ đôi, cạp cạp mấy miếng phần lõi rồi lẳng vào bụi. Cái bát sứ hoa men xanh bà già Miên cho ở Neak Luong cũng lẳng đi nốt. Nhẹ tí nào đỡ tí ấy. Còn nhai và nuốt với lý trí là để nạp thêm năng lượng thôi, chứ không hề có thấy đói. Có chết cũng không thể là ma đói được. Không phải cảm giác mệt nữa! Phải nói là cảm giác tuyệt vọng đôi khi trào lên và dần dần chế ngự con người. Giá chết được ngay, chấm dứt nỗi khổ này ngay có khi cũng tốt! Một cái đầu đờ đẫn trên một đôi chân rời rã, lúc nào cũng chực gục xuống.

Dần dần xung quanh chẳng còn ai…

Khi tôi chợt nhận ra điều ấy thì nỗi khiếp sợ bỗng ùa tới làm tỉnh cả người. Hóa ra mình cũng ham sống phết! Tôi dừng lại ghìm nhịp thở, lấy lại bình tĩnh nghe ngóng. Chỉ có tiếng gió thổi trong lá. Xa phía dưới kia, có tiếng lá rung ào ào từng nhịp ngắn. Chỉ có người vịn vào cây vít lại rồi buông ra lá mới rung theo nhịp ấy. Tôi tháo ruột tượng gạo định lẳng vào rừng cho nhẹ để đuổi theo, nhưng chợt nghĩ lại. Giống như trong truyện cổ tích, tôi mở nút ruột tượng, thả gạo dần theo lối chạy để đánh dấu đường. Tiếng động lá ngày càng gần. Lúc này không phải chỉ có chạy nữa, mà vừa chạy vừa ngồi phệt tụt dốc xuống. Vừa hết ruột tượng gạo thì va phải một đám lốc nhốc. Chúng nó chửi ầm lên. May quá! Khẩu DK.82 của đại đội 4 đây rồi! Hoá ra chúng nó cũng suýt lạc đường. Lúc ấy đã là 2h30 sáng. Cả bọn đi thêm một đoạn nữa thì gặp anh Ninh đại đội phó đại đội 4 hoả lực với thằng liên lạc đang ngồi nghỉ. Mừng vì đã gặp lại đội hình, chúng tôi bước dấn qua.

Đêm tối mịt mùng. Bọn DK82 rạch ống bảo quản, tháo đạn cho vào ba lô rồi đốt ống nhựa tìm đường về đại đội 4, bất chấp lệnh cấm đốt lửa. Nhựa cháy xèo xèo, rỏ cả những giọt lửa xanh lét xuống chân bỏng rẫy. Đi một lúc nữa, tôi về tới đội hình tiểu đoàn. Chân núi chỉ còn một đoạn ngắn nữa. Võng chăng ngang chăng dọc. Tôi cũng tìm vội hai cái cây mắc võng. Quăng ba lô cái huỵch rồi leo lên gần như ngủ ngay tắp lự…

Không có khái niệm thời gian, thiếp đi được một lúc tất cả đều choàng dậy. Trên núi, không thể xác định được khoảng cách, ba phát AK nổ đĩnh đạc, kiểu bắn bắt liên lạc. Tiếng nổ hồi âm qua các sườn núi, các tàn cây vọng lại ào ào rồi nhoè dần. Chúng nó nhỏm dậy, lào thào hỏi nhau: “Bọn nào bắn ấy nhỉ?”. “Chắc bọn lạc đường!”. Hai thằng trinh sát được cử quay lại tìm người bắn. Luồn sâu kiểu này thì lộ mất rồi.

Đây là sườn Đông nam một bộ phận của dãy Urăng với cao độ 120 nhìn từ ga Bamnak. Tiếc là hôm trở lại chiến trường trời nhiều mây, lại gần tối nên không chụp được toàn bộ sườn đông nam hùng vĩ của rặng núi này

 

Axe

Xe tải
Biển số
OF-8838
Ngày cấp bằng
25/8/07
Số km
253
Động cơ
539,230 Mã lực

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Hì ! em thấy bác này cũng mang phong cách nghệ sĩ phong trần lắm đấy chứ !

Nghệ sĩ lang thang đích thực :D !

 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Lúc này, phía thung lũng dưới núi, tiếng động cơ ô tô, xe xích bỗng rộ lên, vọng lại ầm ì. Nhìn rõ loáng thoáng những vệt đèn pha trong sương đục. Địch đã bắt đầu bỏ chạy. Chắc chắn là lộ rồi! DK.75 và một khẩu pháo 105mm của địch bắt đầu bắn phát một lên núi. Bắn kiểu mù thôi, đạn rơi cách chúng tôi rất xa. Bộ đội thu võng ào ào. Tiểu đoàn lệnh 2W lên máy, để lại toàn bộ ba lô cho bộ phận thu gom quân lạc đường trông, còn tất cả các đại đội lao xuống núi. Lúc bắt đầu vận động, toàn thân đau điếng, cứng đơ, tưởng chừng không cất mình lên nổi. Được một quãng thì ổn định dần dần.

Trời mờ sáng. Lội qua một suối nước tù sâu hoắm, nước lạnh căm căm thì lên đến một cái trảng rộng. Giữa trảng là con đường đất rộng rãi đầy vết xe cơ giới. Bên kia trảng, một dãy nhà thấp lợp tranh nằm lẫn những chiếc xe vận tải, máy cẩu, máy ủi màu vàng choé. Nơi đó có một cây xoài độc lập rất lớn. Bộ binh dàn hàng ngang tiến lên. Lính đại đội 2 nổ súng rồi hô xung phong. Cối và DK bắn theo hướng con đường chạy dọc thung lũng. Không có tiếng súng bắn trả từ phía địch. Không tiêu diệt được được bất cứ một thằng địch nào. Thu một khẩu pháo 105mm, một khẩu DK.75mm và một số đạn cối 82. Số xe máy công trình địch bỏ lại, toàn đồ KOMATSU Nhật Bản, đã bị bắn thủng gần hết lốp. Riêng lố đạn cối 82 sản xuất tại Trung Quốc, trung đoàn ra lệnh gom huỷ ngay. Trong trận Ô Đông hồi trước, trung đoàn 1 thu được đạn cối 82 của địch mang ra xài. Khi thả đạn thì nổ ngay trong nòng súng. Hy sinh gần hết một khẩu đội.

Nắng lên được một lúc thì gặp lính trung đoàn 1 theo đường lớn tiến vào thung lũng. Trung đoàn này cũng gần như phải hành quân suốt đêm hôm qua. Đi đường bằng nên khoẻ quân hơn, theo đường lộ vượt qua chúng tôi truy kích địch. Chúng tôi nghỉ lại một ngày, chờ công binh, vận tải sư đoàn lên thu hồi chiến lợi phẩm. Tôi nhớ hôm đó hình như là chủ nhật. Nắng lên trong rừng quang đãng, với thảm cỏ non xanh vì gần suổi. Khoảng rừng này thật đẹp như tranh phong cảnh. Anh nuôi cho ăn cơm sớm. Đi lấy cơm về trung đội bằng đôi chân đau cứng các cơ, nhất là lúc mới đứng dậy từ võng. Ăn xong lại nằm ngủ tiếp.

Về sau này, quân pháp quân đoàn xuống đơn vị tôi điều tra mãi nhưng cũng không tìm ra người bắn ba phát AK “bắt liên lạc” đêm đó, làm lộ đội hình luồn sâu. Khi đã tuyệt vọng hay lạc đường hoảng sợ thì hành động vô thức như thế là thường. Đừng có anh nào nói phét rằng các đồng đội cứ đi đi, cứ bỏ tôi ở lại một mình trong rừng sâu với hổ. Tôi sẵn sàng hy sinh vì bí mật quân sự. Lúc đó lại chẳng són *** ra quần. Người bắn đó là ai bây giờ nói ra cũng chẳng ích gì. Chuyện cũ đã qua đi lâu rồi. Không diệt được địch cũng là do số phận.

Hôm sau, tiểu đoàn hành quân phát triển rộng hơn về bên phải đường. Phía trung đoàn 1 đi trước, tiếng súng lớn nổ vọng lại ầm ì. Đơn vị mở rộng đội hình, sục sạo sát chân núi nhằm phát hiện triệt phá những kho tàng, cơ sở hậu cần của địch. Cứ thấy ngách núi nào có đường bò hoặc nghi có địch là đơn vị rẽ vào. Tiểu đoàn bộ đi đường bằng dưới thấp. Các đại đội đi theo bình độ trên sườn núi bao thung lũng. Được một lúc đầu đi theo kiểu đó, sau rồi vất quá nên bộ binh các C bộ binh hạ dần độ cao rồi nhập luôn với đội hình tiểu đoàn.

 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Ở đây xảy ra câu chuyện rất khó chịu và lạ lùng. Có một thằng địch thỉnh thoảng lại câu póc một trái M.79 vào đội hỉnh tiểu đoàn. Lúc hành quân, lúc nghỉ đêm đều không yên với nó. Lúc nó đón đầu đằng trước, lúc lại bắn từ bên sườn. Căn cứ vào khoảng nổ đầu nòng đến khi trái đạn nổ oành thì ước lượng nó luôn bám sát bọn tôi khoảng 250-300m. Gần như thằng này không biết ngủ. Đạn lúc nổ trên cây, lúc nổ dưới đất nhưng đều cách khá xa không gây thương vong. Chúng tôi không bắn lại nhưng đi đến đâu nó đều biết đến đấy. Hột “xí ngầu” mồ côi kích cỡ 40mm, gieo cái póc bất kể ngày đêm. Nó bay rất chậm rãi trong không trung...đủ thời gian để ta suy nghĩ, đợi chờ tiếng chẵn, hay tiếng bạc lẻ đời mình, không biết nó rơi vào đâu? Nói chung cực kỳ khó chịu. Anh Chính tréc tức lắm, cứ lúc nào nghỉ đều tung một B lên rình nhưng nó đều tránh được. Hình như nó là một con ma. Suốt 2 ngày trời liền như thế thì không thấy nó póc póc nữa. Chắc cu cậu hết đạn vì đạn M.79 ngay đơn vị tôi bấy giờ cũng bắt đầu thiếu.

Đây đã là địa phận tỉnh Pursat, cách thị trấn Leach khoảng 45 km. Ngoài đường lớn chạy giữa thung lũng, trung đoàn pháo 42 kéo pháo theo bộ binh. Cần chi viện hướng nào đáp ứng hướng đó. Trong những ngày ấy, tiểu đoàn4 tìm thấy khá nhiều những những kho hậu cần nhỏ địch phân tán trong rừng, để tạm trong những căn lán nhỏ cất vội. Kho gạo mang không hết thì đốt, vì số lượng nhỏ không bõ gọi xe sư đoàn đến chở. Kho muối thì mang ra suối đổ rồi bắn vỡ hết chum. Có cả một cái “kho” kéo cắt tóc Trung Quốc. Nhờ cái kho kéo này mà anh em trong tiểu đoàn có đồ để chỉnh trang sắc đẹp cho nhau. Một kho quần áo kaki rất dày dặn, màu xanh công nhân, may kiểu áo ga ba đin Trung Quốc của bộ đội ta cũ. Nhưng kho này ít quá nên tụi nó tranh nhau cướp.

Nhưng may nhất là vớ được một kho vải màu xanh sỹ lâm. Lính ta đang rách rưới. Quần áo đi trận đánh nhau, hành quân gai cào cỏ xé đã tơi tả cả mà quân nhu vẫn chưa phát kịp. Nay sục được kho này như buồn ngủ gặp chiếu manh. Phải nói là trong lính có rất nhiều thằng có tài, rất nhiều hoa tay trong nhiều lĩnh vực. Bây giờ tiểu đoàn lòi ra một tay thợ may tay ngang là thằng Lễ đại liên. Với một cây kéo lấy được trong kho của địch, nó cứ nhìn người đến nhờ một thoáng rồi hạ kéo cắt xoèn xoẹt, khỏi cần đo đạc mất thì giờ. Có moi quần cẩn thận, khâu vào bằng những cái khóa kéo nhựa YKK lấy được ở Ph’nom Penh. Có điều không cái quần nào có túi. Chắc là nó chưa đủ trình độ. Đường kim mũi chỉ của mấy anh lính không được “mỹ thuật” cho lắm. Chỗ đột mau, chỗ đột thưa và thường là ngoằn ngoèo, nhưng cũng đủ giúp chúng tôi có tấm áo manh quần che thân lành lặn. Thấy một thằng lính tử trận là điều bình thường. Nhưng nhìn một thằng lính buổi trưa ngồi võng, cặm cụi tự khâu lấy quần áo cho mình thì trông rất tội! Từ đó, cứ thấy sắc lính xanh rì sỹ lâm là trung đoàn biết ngay lính tiểu đoàn 4 khỏi cần giới thiệu.

May võng thì đơn giản hơn. Để nguyên khổ vải đáp bốn, đáp sáu, có cái võng đáp đến tám lượt… rồi khâu chèn chặn gấp mỗi đầu hai lượt là có một cái võng tử tế. Võng nào cũng đáp nhiều lượt vải nặng trình trịch vì đó là để chúng tôi tích trữ vải. Khi cần tháo bớt ra may những đồ khác cần thiết hơn. Lúc đó chưa gặp dân, chưa có khái niệm đổi chó. Những kho nhiều vải, tụi nó quấn nguyên súc vải ngang dọc quanh các thân cây liền liền nhau làm võng tạm thời, như người ta trang trí bày đặt sân khấu. Dây võng dù lúc đó là của quý. Ngoài việc may quần áo, may võng, chúng tôi còn mang vải ra đổi thuốc lá, đổi các nhu yếu phẩm cần thiết khác cho lính pháo 42. Bọn này hành quân cơ giới, cái gì cũng mang đi được. Lại hay được hậu cần tiếp tế nên cái gì cũng có.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Thời gian này địch tan tác, đói lả… không gượng được nổi nữa. Cứ thấy bóng chúng tôi là chạy. Có khi gặp một cái xác teo tóp còn nguyên khẩu AK trong tay trên đường. Anh Ky bảo chắc là nó chết đói hoặc chết khát. Điều đặc biệt là tuy chúng nó chết đói như thế, song các kho gạo, kho vải phân tán trong rừng vẫn nguyên bao bì, không hề bị xâm phạm. Trái lại, lính ta bây giờ cứ thấy kho, thấy địch là ồ lên, mạnh ai nấy chạy tới, nổ súng không ra đội hình chiến thuật gì. Cách đây mới có non tháng thôi thì tình hình khác hẳn. Bây giờ trinh sát gặp địch cũng nổ súng luôn, không thèm chờ bộ binh. Lính tiểu đoàn bộ cũng nhoi lên kiếm lợi. Tất cả chỉ vì mấy cái kho, mấy cái đồng hồ hoặc mấy chỉ vàng trên tay hay trong túi mìn những thằng địch chết. Trên một cái trảng nhỏ, đại đội 1 bắn sụm 3 thằng địch. Thằng Đặc lao lên giật đồng hồ từ một cái xác. Đồng hồ chưa tháo khỏi tay địch thì thằng Trung cũng xông đến. Thấy thế, thằng Căn liên lạc bắn găm tung đất, cản thằng Trung để thằng Đặc thu chiến lợi phẩm được an toàn. Hai thằng này vốn thân nhau. Thằng Trung uất ức vì thằng địch đó do nó hạ, còn thằng Đặc có nổ phát B.40 nào đâu? Anh Chính thấy chúng nó hục hặc, nổi cáu đòi thu đồng hồ. Nhưng cái đồng hồ lúc đó đã mất tăm tích.

Vào một buổi chiều gần tối, trong một cái ngách núi heo hút và ẩm ướt, tiểu đoàn 4 gặp lại “cố nhân” như một sự sắp đặt của định mệnh. Vừa ở bìa rừng rúc ra mép trảng, chúng tôi bắt gặp mấy cái nhà nhỏ lợp gianh, lá còn rất mới. Ở bên Campuchia, dù cất nhà to hay làm nhà nhỏ, kể cả những cái chòi con đều làm kiểu nhà sàn. Đại đội 1 đi đầu dừng lại ngay, chia mũi bí mật tiếp cận. Dưới gầm nhà, quanh chân cột, hơn chục thằng địch đứng ngồi lố nhố. Chúng nó đang nấu cơm chiều. Lính C1 cứ bám từng bụi cây, lặng lẽ bò tới. Cách địch khoảng 30m thì tự nhiên hai thằng trong đám đó đứng dậy, vác 4 ống DK.75 đi xăm xăm thẳng về phía anh em đang bò vào. Chắc chúng nó đi lấy nước ở cái suối mà chúng tôi vừa đi qua. Chính “tréc” đại trưởng vừa gí đầu nòng súng lính xuống, định ra hiệu bắt sống nhưng không kịp. Thằng Trung B1 đã kéo một loạt AK. Hai thằng địch đổ vật xuống ngay. Liền đó, hai phát B.41 thổi tung căn nhà, nhìn rõ cả cái nồi gang vỡ với xác địch người tung lên. Trong đám đó chỉ còn ba thằng phía ngoài vùng chạy được. Trời nhoè nhoẹt tối. Lính đại đội 1 bắn đuổi theo ba thằng chạy rầm rầm. Đứa quỳ bắn, đứa đứng bắn, có đứa kê súng vào chạc cây cẩn thận lấy đường ngắm, điểm xạ mãi mà vẫn thấy chúng nó chạy nhanh như hoẵng.

Thế mới biết đôi khi chết được cũng khó! Trên cái nền trước kia là nhà, thịt người lẫn nội tạng văng tung toé. Vẫn còn hai thằng bị thương không chạy được kêu lên ồ ồ! Trong mấy cái bồng rách hôi mù của bọn này, chúng tôi lôi ra được cuốn sổ ghi bài hát nhăng cuội của thằng Tư hy sinh hôm đại đội 1 tan tác. Thằng này lấy để xé giấy hút thuốc rê. Trúng phóc bọn đánh đại đội 1, băm mặt thương binh tử sỹ bên kia núi. Oan gia gặp nhau trong ngõ hẹp. Kẻ thù đây rồi! Anh Thào nổi cơn điên, quát lính khử nốt hai thằng tù binh bị thương. Thằng khẩu đội trưởng DK.75 đại đội 17 đi phối thuộc hô lên: “Để em!”. Chúng tôi vội giạt ra khỏi hướng bắn của nó. Nhịp AK găm vào ngực và họng thằng thứ nhất, nhưng nó không chết tốt lại còn khò khè lớn hơn. Thằng thứ 2 (chỉ chừng 16 tuổi) lăn đến ôm chân thằng bắn. Nó đạp ra, nhưng đã run tay lùi lại. Ông Thào lườm nó một cái rồi rút K.59, phân phối đều vào sọ mỗi thằng hai phát. Thấy giật giật mấy cái rồi xuội lơ, môi vẫn còn run run. Thấy chúng tôi nghệt mặt ra, anh ấy quay lại chửi: “Mẹ chúng mày! Lính với tráng!” rồi bỏ đi.

Tôi đá nốt cuốn sổ của thằng Tư vào trong đống than hồng. Trả mày cuốn sổ xuống đấy mà hát vớ hát vẩn! Anh em đã thanh toán xong món nợ cho mày! Không biết có phải cái thằng đã cầm xẻng băm mày không?
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
"Mục tiêu A3"_Khu chiến E2_D4 tháng 4, tháng 5 năm 1979. Vệt xanh blue là đường sắt

 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top