[Funland] Những hồi ức của CCB chiến trường K !

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
20,420
Động cơ
128,016 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Yểm trợ cụ Vi ha cái bản đồ hành chính Căm Pốt để anh em dễ nhìn


 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Cám ơn cụ Pain ! Cụ xem sưu tầm được hình ảnh nào pots lên ( có tiếng Việt càng tốt ) cho mọi người dễ tưởng tượng ạ
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
U ĐÔNG

Hôm đó đơn vị cứ dọc sông mà lên tiếp.

Chiều sập xuống nhanh. Lệnh dừng lại nấu cơm và nghỉ đêm. Anh Ky với tôi lại xuống đại đội 1. Anh nuôi chia cơm sớm. Các trung đội lấy cơm thừa nhiều vì tụi anh nuôi đại đội, theo thói quen, vẫn nấu cả suất những thằng đã hy sinh hồi trưa. Tôi thì chưa có cảm giác thiếu vắng đó, vì mình chỉ là lính phối thuộc. Nhưng tụi lính C1, kể cả ban chỉ huy thì im lặng nhai cơm. Có thịt bò tươi kho trong thùng đại liên Mỹ. Món thịt có mùi sơn, mùi thuốc đạn đăng đắng, lại thái khẩu đun không kỹ nên dai ngoách như quai dép. Tuy vậy lâu lâu chỉ ăn cá và thịt gà nên món này lạ miệng. Thêm một đêm nữa ngủ bờ ngủ bụi trong cái địa hình lúp xúp ven sông đó.

Ngày hôm sau, tức là ngày 30 Tết Kỷ Mùi, tiểu đoàn 4 vẫn tiếp tục hành quân truy quét địch quanh quẩn trong khu vực.

Chiều ba mươi Tết (năm Kỷ Mùi tháng thiếu, 29 là ngày ba mươi), khoảng 4h30 đơn vị dừng chân ở một phum trù phú ven bờ Tonle Sap. Tôi với anh Ky ngồi phệt dưới một gốc dừa thở, chờ lệnh Tuấn còi xem anh ấy dúi đi đại đội nào. Một con chim cu từ đâu bay đến đậu ngay trên cuống buồng dừa. Lão Ky bảo mày bắn đi. Tôi nheo mắt ngắm. Pằm! Con chim rụng xuống do đạn sướt cánh. Anh ấy nhặt lên, thổi lông ức phù phù, bảo để tối nướng.

Cuối cùng chẳng thằng thông tin nào phải đi xuống đại đội cả. Gom tất về trung đội tạm nghỉ chân. Hôm nay mình lại được ngủ trong nhà có mái che. Nói để các bạn thông cảm: trong những cánh rừng sâu hút thăm thẳm về sau này, kiếm được một cái lán tạm của địch bỏ lại. Được mắc võng dưới lán, được không phải căng cái tấm tăng rách bung tàn tạ, được đốt một đống lửa nhỏ, nghe tiếng mưa lắc rắc trên lá rừng khộp ngoài kia… là hạnh phúc mơ ước của bất cứ thằng lính nào trong tiểu đoàn tôi. Hôm đó, tôi, anh Thịnh đen, anh Ky chiếm cứ một cái nhà xây. Cái nhà nhỏ tí như cái trạm soát vé nằm ngay mặt đường đất. Bên kia đường là rặng me già sát sông. Chúng tôi mắc võng vào các chấn song sắt cửa sổ chuẩn bị chỗ ngủ.

Tập trung ăn tối xong một lát thì Tuấn còi với một vẻ rất bí mật, rít lào thào qua kẽ răng: chúng mày đâu, chuẩn bị làm thịt gà. Bọn thằng Túy, thằng Vỹ từ dưới các đại đội về có xách theo mấy con gà đã bị bóp chết mà tụi bộ binh cho. Chúng tôi nổi lửa đun nước vặt lông. Lão Tuấn còi gần BCH tiểu đoàn, và đang là B phó **** viên nên rất có ý tứ thực hiện những lệnh cấm vi phạm. Thịt con gà mà bí mật như chuẩn bị đánh chiến dịch! Nhưng đối với bọn tôi, thường đi với các đại đội thì chuyện này quá thường tình bèo bọt. Một anh lạ hoắc từ BCH xuống trung đội, hỏi tôi là chúng mày làm gì thế? Tôi bảo chúng em đang nấu cháo gà. Tuấn còi đờ mặt. Nhưng anh ấy chỉ hỏi rất hiền. Chú em quê ở đâu? Dạ em Hà Nội. Anh ở Thường Tín, cách nhà mày có hai chục cây thôi. Nói xong anh ấy bỏ đi. Về sau tôi biết anh ấy tên Lộc. Hôm đó là ngày đầu tiên anh ấy về D tôi nhận chức chính trị viên phó tiểu đoàn.

Ăn cháo xong thì tôi lên cơn đau bụng quặn ruột. Hẳn là vì hai ngày qua ăn uống linh tinh với uống toàn nước lã. Đài bán dẫn của ông Thịnh mót được ở Ph’nom Penh đang phát đi những bài hát hay chờ phút giao thừa mà mình thì cứ ôm bụng chạy ra chạy vào. Phải lên xin y tá tiểu đoàn thuốc, dốc hai liều làm một thì nó mới cầm.

Đến giao thừa, tất cả các cỡ súng đồng loạt rộ lên. Tiếng đạn nhọn giòn như bắp rang của các đại đội trong tiểu đoàn, điểm nhịp trầm trầm của hoả lực. Đạn vạch đường AK, đại liên, 12.8 từ các hướng, các đơn vị bay vạch ngang vạch dọc bầu trời. Thậm chí còn có thể nhận ra những vệt đỏ lừ từ *** đạn chống tăng M.72. Sát ngay BCH tiểu đoàn, bọn trung đội trinh sát cũng ren rét một loạt AK nửa chừng…Ra gốc cây me đứng nhìn lên trời, có thể quan sát nhận biết điểm dừng chân của bất cứ đơn vị Việt quân nào đang tham chiến trong vùng mặt trận U Đông. Chắc chỉ bọn pháo là không dám bắn bậy! Thực ra từ hồi chiều chỉ huy tiểu đoàn đã lệnh cho các đại đội cấm cho lính bắn. Nhưng giờ phút thiêng liêng này, ai nỡ ngăn cản những xúc cảm con người. Mà có cấm cũng chẳng được! Nỗi nhớ mẹ, nhớ quê nhà lá dong khói pháo; lòng hy vọng ở một ngày mai về lại; lời vĩnh biệt thằng bạn cùng đoàn sáng nay ngã xuống; niềm cô đơn bất tận của người lính tha hương...Tất cả, tất cả những ẩn ức dồn nén ấy chợt òa ra trong tiếng súng. Bi tráng và day dứt hơn bất cứ dàn giao hưởng nào. Kiểu như con sói của Jack London cũng đã từng tru lên như thế trong đêm lạnh dưới vầng trăng vùng cực? Trong tận cùng cô độc, nhìn sâu vào lòng mình, con người trưởng thành hơn, và thấy thương con người hơn. Tất nhiên chúng tôi hiểu Đất nước và Nhân dân luôn bên cạnh cuộc chiến đấu như báo đài nói. Nhưng trong khoảnh khắc ấy, với chúng tôi, là những giờ phút rất riêng tư. Bao giờ cũng là nỗi nhớ về những giao thừa năm cũ có mẹ có em. Dẫu có vội vàng lấm láp, trên những phum sóc vô danh, những nẻo đường cát bụi... nhưng mùa Xuân đến bao giờ cũng giành một nỗi nhớ riêng cho từng góc tim người...

 

likecar&trips

Xe tăng
Biển số
OF-131467
Ngày cấp bằng
19/2/12
Số km
1,618
Động cơ
389,080 Mã lực
Nơi ở
Bên kia bờ sông Đuống
Ấy chết ! cụ không đọc kỹ tựa đề . Hồi đó em cũng đang là thằng nhóc ...thò lò mũi xanh thôi cụ ạ .

Đây : Ngày trước đánh nhau bên K bọn anh hay dùng loại lựu đạn da láng của Mỹ nó....tròn tròn như thế này :D

Vậy a; kính cụ 1 ly vodka nút lá chuối.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Ngày mùng 1 và các ngày sau đó, chúng tôi công khai kiếm gà, heo ăn mà cán bộ không ai nói gì nữa. Nhớ nhất là cảnh anh Hồng đại đội trưởng đại đội 4, treo con chó vàng lên sàn, cắt tia hồng đánh tiết canh rồi rủ anh Sơn xuống nhậu. Tôi với anh Ky vác súng đi bắn gà cải thiện trong cái phum hoang, cây cối rất rậm rạp. Lính đi mò ăn không trông thấy nhau. Chỉ thấy tiếng súng nổ loạn xạ, nhiều khi tiếng toác toác sát tai, biết chúng nó bắn thẳng hướng mình rất nguy hiểm. Một con chim cu đậu cành ngang, cách chỗ tụi tôi đứng khá xa. Tôi lấy súng ngắm, thực hành động tác đứng bắn. Con chim cu rụng ngay sau khi lẩy cò. Mặt tôi vênh lên. Lão Ky chỏ cho tôi cái mũi vát đuôi nóc chùa thách bắn. Tôi kê súng lên cái bệ tượng tròn làm một phát. Mẩu vữa bé chót đỉnh văng tung lên trời. Lão Ky gật gật khen khẩu súng này tốt. Kể lặt vặt thế để thấy rằng dù đã đánh nhau mấy trận nhưng tính vẫn còn trẻ con lắm! Có cơ hội là nghịch phá ngay được. Đánh nhau thật thì đã bao giờ được bắn phát nào đâu? Đi sau nên ngứa ngáy muốn bắn thì lại bắn vào lưng anh em đang xung phong à? Chiến công thực sự của tôi cho đến lúc đó mới chỉ là cá các loại, gà và chim cu…

Sau Tết được vài hôm, tiểu đoàn 4 xuống tàu há mồm ngược dòng lên KP Ch’năng, để lại đại đội 2, 1 khẩu cối 82mm cùng sở chỉ huy nhẹ do anh Thoan tham mưu nắm. Đại đội 2 và khẩu cối 82 do anh Hải chỉ huy, sang bên kia sông đóng trên cồn. Tiểu đoàn bộ nằm bên này sông, gần C vệ binh của trung đoàn. Mấy thằng thông tin gồm anh Ky, tôi, anh Thịnh và thằng Tuý vẫn nằm trong cái nhà xây cũ. B vận tải còn lại Hưng trắng, Thống và 3 đứa nữa ở trên một cái nhà sàn chân cao nằm trên đầm lầy. Hàng ngày có một cô gái chừng 17 tuổi khá xinh, hay đánh xe bò qua nhà bọn tôi, lên phum cạnh chùa lấy gỗ. Lúc thì đi một mình, lúc thì đi với một ông già. Hễ nó đánh xe qua tôi lại gào tướng duy nhất một câu mòn rỗng mà lính ta đứa nào cũng thuộc: On sa lanh boòng tê? Nó chỉ hơi mỉm cười. Anh Ky nhăn mặt bảo đ…má coi chừng bố con nó là gián điệp. Chở đ… gì mấy cái cây nhỏ như khúc củi mà ngày nào cũng lượn qua đây mấy lượt? Sau này ngẫm lại thấy lão Ky có lý. Vì cái áo nó thường mặc màu xanh sĩ lâm, cái màu xanh đặc biệt chỉ có trong kho địch. Có một con “gián điệp” xinh ngắm cho vui mắt dẫu sao cũng đỡ buồn.

Sắp rằm nên trăng sáng. Tối tối bên kia sông, nơi đại đội 2 đóng quân, tiếng trống chạ tình tinh bay sang bên này. Bọn C2 nói múa vui lắm! Thế nên tôi cũng kiếm thuyền mò sang xem. Cả một đội gái trẻ tóc ngắn, quần vòng tròn quanh một bãi trống. Tuy có hơi thâm thấp nhưng tròn trịa mềm mại. Ánh trăng vừa đủ, để cho cảm giác khuôn mặt nào cũng nhìn được. Một cô dạy tôi múa. Thì ra bước lăm thon cũng không khó gì. Các cô ở riêng trong những cái lều nhỏ cất tạm liền nhau. Gọi là những cái chuồng gà lớn thì đúng hơn. Tuy nhiên có đủ sàn tre, thang tre…Tối hôm đó bọn tôi và lính C2 múa đến khuya. Hôm sau nữa thì cán bộ bảo mật ban chính trị trung đoàn điện xuống, cảnh báo chúng tôi rằng chấm dứt ngay cái trò múa may với đám vợ lính Pốt. Coi chừng! Thế là hết vui. Mà cũng coi chừng mất cảnh giác thật. Vì xung quanh trong vùng, tiếng hỏa lực, tiếng pháo vẫn vọng về rền rền…

Tiểu đoàn 4 thiếu được lệnh dời ra Ô Đông phối thuộc với trung đoàn 3 . Địch bâu bám, quấy rối và đánh cắt giao thông lộ 5 đi Kompong Ch’nang, bao vây sư 339 bằng cả xe tăng và trọng pháo, đẩy tiểu đoàn 8 trung đoàn 3 ra sát rìa lộ. Ở ngã tư gần thị trấn Ô Đông còn thấy năm sáu chiếc xe tăng T.54, M.113 của sư 339 bị nó phục kích bắn cháy đen thui. Bọn địch đánh bật quân ta khỏi nhiều vị trí, tung toàn lực ra giành giật với mình ở khu vực này.

Từ Tonle Sap, chúng tôi lên 2 cái xe tải chạy thẳng ra ngã tư. Suốt từ biên giới nước Việt đến đây, chúng tôi đã quen với đường chân trời hút tầm mắt. Giờ thì cảnh quan đã thay đổi. Xen giữa những khoảng ruộng là những đám rừng thưa cao thấp khác nhau về bình độ. Những quả núi đất thấp, nhỏ cây đã cháy trụi hết. Trên núi là những đền nhỏ, tháp hoặc tượng nham nhở vì vết đạn, bị lửa xông cho đen thui. Có cái tượng bốn mặt bị pháo 37mm của QK9 tương đúng mép thành ra xếch miệng lên cười trông rất quái. Núi nào cũng có tháp. Nghe nói đây là cố đô nước Kh'mer cổ. Bọn địch thường vác DK.75 lên núi để phụt vào đội hình hành tiến của lính mình trên mặt lộ 5.

Xe đổ chúng tôi xuống ngã tư thì trời tối. Xung quanh rền rền tiếng súng. Bọn tôi ngủ trong một cái nhà lợp tôn rất rộng. Trong nhà là một đống súng AR.15 và các thùng đạn đại liên vô chủ. Chúng tôi không đào hầm, và được lệnh cấm đi lại trong đêm để khỏi bị bắn nhầm vì xung quanh chẳng biết đơn vị nào vào đơn vị nào. Đêm ấy trăng rất sáng, đổ bóng lỗ chỗ qua các lỗ thủng trên mái tôn xuống nền xi măng.

Gần sáng thì Cáp đen, khi đó vẫn là anh nuôi C2 dậy nấu cơm. Mới nhóm xong bếp thì đạn nhọn quất vào rào rào. Chúng tôi xách súng bắn trả thì có tiếng chửi rầm rĩ bên kia vườn xoài. Đó là bọn lính E bộ E3 bắn để cảnh cáo bọn tôi nấu cơm không che lửa, làm lộ vị trí, sợ địch nó giã cối vào.

Ăn sáng xong thì lên đường. Mỗi thằng một vắt cơm to. Chúng tôi bám lộ 5 rồi tạt phải. Nhiệm vụ là bọc sườn cho D8E3 thọc vào đường sắt. Khỏi mặt lộ 5 khoảng 500 m là đụng địch ngay. Gần chục thằng áo đen đi ngược chiều, thấy bọn tôi chạy lộn cắt ruộng về dãy thốt nốt đằng trước, quay lại xả đạn. Rồi địch xuất hiện ở khắp nơi. Chúng nó bám các bờ cao ngăn các khu trảng ruộng bắn vào đội hình. Lúc thì trô trô đằng trước, lúc thì trô trô bên sườn, lúc thì lại đằng sau. Anh Hải quát bọn tôi không được bắn bậy. Cứ lừ lừ bám địa hình tiến lên. Lắm lúc tránh trảng, bám theo sườn cái bờ đập cao đi dòng dòng. Tụi nó bắn bên này thì tụi tôi lộn qua bên kia. Tụi nó qua bên kia thì bọn tôi lộn lại qua những con đường bò xuyên thân đập. Như chơi trò ú tim. Trên sóng 2W ở khắp các kênh, tiếng Việt tiếng Kh'mer loạn xạ. Chứng tỏ có rất nhiều đơn vị tham chiến. Lắm khi cả ta và địch cùng dùng một tần số tới cả chục phút. Chúng nó chửi bọn tôi, bọn tôi chửi lại chúng nó. Thằng thông tin địch chửi tiếng Việt rất sõi giọng Nam bộ. Chửi chán thì tụi nó đuổi thằng Tuý sang tần số khác mà dùng nhưng thằng này thây kệ. Về sau chính chúng nó phải chuyển. Thằng Tuý còn hẹn tụi nó nhớ mặt kênh này để chửi nhau tiếp...

Máy 2W PRC.25 nó có hai cái núm răng cưa chỉnh tần tròn, chia từ "tần" 12 đến "tần" 76, vặn kêu reng réc. Nghĩa là tổ hợp kép của hai tần mới là "số nhà" của đơn vị mình theo phiên liên lạc. Ví dụ núm 1 là 36, núm 2 là 48 thì "số nhà" mình là 36-48. Cứ đôi ba trận lại đổi tần theo quy ước trung đoàn, gọi là đổi "số nhà". Không phải tần nào cũng tốt như tần nào về chất lượng liên lạc. Thằng Tuý quê Hà Nam Ninh, nhà nó có số bao giờ đâu? Nhưng khi nghe nó hót trong tổ hợp, gọi trung đoàn phối thuộc, đòi đổi "số nhà" thì lại thoáng thấy nghĩ đến nhà trong cái nắng nung người.

Qua nửa chiều thì đến cái hồ nước trên bản đồ. Hồ này thì lính Sư 9 không hiểu sao lại gọi là "Hồ Thiên Nga". Ở trong bản báo cáo thành tích chiến đấu của C2D4E2F9 của Quân đoàn 4 năm 80 (trước khi xét phong anh hùng lần thứ 2) mà tôi đã đọc cũng ghi tên nguyên văn là "Hồ Thiên Nga" ở Uđông.

Một cái hồ dù tên là "Thiên Nga", nhưng khá kinh tởm vì sủi bong bóng và bốc mùi nồng nặc. Quanh bờ hồ là những cái xác người bị nắng mùa khô hun cho khô đét, toả mùi mằn mặn khăm khẳm. Còn trên mặt hồ là những gốc cây cổ thụ, nhưng bị cụt tướp xơ, rễ chùm cắm xuống mặt nước. Thân cây trắng toát như những thân bạch đàn hay gỗ lũa lâu năm. Tôi cũng không hiểu đó là loại cây gì? Trong đám rễ chùm đó, cá ăn móng quẫy sòng sõng. Tuy vậy lính mình thấy có nước là nhao ra. Mé trảng bên kia hồ nhìn rõ cả toán trung đội địch, có cả địch nữ, đội can nước tháo chạy. Khoảng cách cũng hơi xa, và lính thì đang khát nước nên chẳng ai buồn nổ súng. Bây giờ tôi vẫn nhớ cái mùi nhàn nhạt, ngầy ngậy không đun của cái nước hồ "Thiên Nga" ấy! Uống luôn nước lã mà không bị tháo dạ. Có lẽ cơ chế cơ thể con người trong hoàn cảnh đặc biệt đó ưu tiên các vấn đề khác, quan trọng hơn là thiết lập một cơn đau bụng đi ngoài thuần tuý sinh lý.

Đêm hôm đó chúng tôi nằm cạnh hồ nước.

Anh Hải thì anh ấy cáu, vì vẫn biết là đi phối thuộc thường hay bị "gí" lên đầu. Nhưng có lẽ nào một tiểu đoàn thiếu, hay đúng hơn là một đại đội tăng cường lại đi một mình một mũi. Nghe qua nhiệm vụ thì là mũi che sườn, nhưng thực ra lại là mũi chủ công vì chúng tôi phải tấn công dọc tuyến lộ chính vào đường sắt. Tiểu đoàn 8 trung đoàn 3 ở hướng Nam của đội hình chúng tôi. Hướng Bắc đội hình là đơn vị bạn, không rõ là sư đoàn 339 hay sư đoàn 2? Nhớ lúc ban ngày gọi chi viện quân bạn không được, nên đêm hội ý trung đội, anh ấy khùng bảo là đ...cần thằng nào. Mai tao với chúng mày đánh ra lộ lấy...cơm ăn. Vì anh nuôi vẫn ở cứ tiểu đoàn trong cái nhà tôn, mà nắm cơm vắt thì hôm nay coi như xong!

Đêm yên tĩnh, trôi qua rất nhanh giữa lòng địch ta xen kẽ kiểu xôi đỗ. Tôi với anh Ky trải nilon nằm đất không mắc mùng. Chúng tôi và BCH nằm trong vòm sẫm của những cây thốt nốt, dưới một bờ đất cao. Ngoài trảng ruộng, trăng sáng vằng vặc như ban ngày. Các vòm cây lớn nhỏ, nằm lọt trên đồng không như những hòn đảo độc lập nằm trên biển sáng. Chỉ có những thằng ngu mới đi đột chốt vào những đêm như thế này. Mà qua cách giao lưu khinh khỉnh của bọn tôi với chúng nó suốt buổi ban ngày thì bọn Pốt phải hiểu rằng đã nhằn phải một đối tượng không dễ xơi.

Tinh mơ hôm sau, súc miệng bằng loạt 12.8mm của địch từ bên kia hồ quất sang. Khẩu cối 82mm từ hôm qua vận động nặng đạn, nài nỉ mãi, chưa bắn một quả nào thì hôm nay được lệnh khai hoả cho bộ đội lấy nước. Hơn chục trái giã vào bìa trảng bên kia hồ. Bọn địch thôi bắn ngay lập tức. Lúc này từ các hướng khác, súng nổ rộ lên không lúc nào ngừng, từ sáng dến gần trưa. Nổ liên hồi không phân biệt được ta đâu, địch đâu, như trận đồ bát quái. Địch giạt về hồ nước ngày càng nhiều. Lắm thằng tưởng đến khu an toàn của chúng nó, xồng xộc chạy ra hồ lấy nước trên mặt ruộng. Bọn lính đại đội 2 và đại liên thi nhau kéo cò, điểm xạ chính xác như bắn tập vì xuôi nắng. Gần 2 chục thằng nằm rải rác trong khoảng 3 tiếng đồng hồ. Đến mức bọn địch bên kia hồ phải quét đại liên dọc lộ để cản quân nó chạy về làm mồi.

Kỳ lạ là chúng tôi nhịn cơm gần ngày trời mà không thấy đói. Đến chiều tà, có lệnh tạt về hướng Nam giải vây cho tiểu đoàn 8. Tiểu đoàn tôi (d4) có duyên với tiểu đoàn 8 này, kể từ khi nổ súng đánh trận mở màn vào S'vay riêng. Quả thực đi với trung đoàn 3 thì bọn tôi có phần hơi ớn. Mỗi đơn vị thường có cái "dớp" của mình.

Được lệnh thì anh Hải cho giã thêm vài quả cối rồi bí mật cắt mạn Nam đường ngay. Bọn đang bâu sườn d8 bị chúng tôi tập hậu giạt chạy chí chết. Thấy quân đằng sau cứ khơi khơi trên mặt ruộng mà càn tới, chúng nó tưởng là quân mình. Đến khi C2 nổ súng thì tụi nó quá ớn! Đi đến đâu địch giạt ra đến đấy! Có nhiều thằng sợ quá chạy phọt gần ra sát lộ bị bọn DK.75 trung đoàn 3 giá súng ngay trên mặt lộ 5 "bắn tỉa" chết không toàn thây. Lúc đó tôi gặp anh Nguyễn Năng Nguyễn - E trưởng E3 lúc đó chỉ huy trực tiếp 5 khẩu DK.75 này. Biết thế vì anh Hải với anh Ky tới chào thủ trưởng cũ, vì anh ấy trước là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 4 từ hồi tôi chưa vào.

Cảm động nhất là ra gần sát lộ thì gặp Cáp đen cùng mấy thằng ốm ở cứ, xách súng gánh cơm đi vào. Anh Hải có bảo là mày biết chúng tao ở đâu mà đâm đầu vào, liều thế? Thì anh ấy bảo cứ chỗ nào nổ súng rát thì chúng tao đến đấy. Thế nào cũng gặp bọn mày! Hai người bạn chí cốt này cùng quê cùng đoàn, lính 74, vùng than Quảng Ninh. Về sau cả hai người đều hy sinh, người năm trước, người năm sau. Điều đặc biệt là suốt hai ngày đó, tiểu đoàn tôi không một ai mảy may bị thương hay hy sinh. Trong khi tiểu đoàn 8 cả thương và tử phải tới gần hai chục. Âu cũng là đạn biết tránh người...

Đêm đó, chúng tôi lại về cái nhà tôn nằm. Ngủ như chết và không phải gác vì nằm sát trung đoàn bộ trung đoàn 3. Thằng nào thằng nấy sau hơn hai ngày phơi nắng, quần nhau với địch rộc rạc cả người. Sáng hôm sau trung đoàn 3 trả tụi tôi về đội hình tiểu đoàn. Ở bên kia sông, thị trấn KP Hau, tiểu đoàn tôi cũng bị địch nó quấy nhiễu liên tục.

Lúc này trên mặt lộ 5, xe đã chạy tới lui được. Một số nằm dài chờ xe. Còn tôi với thằng Điệp (anh Sơn sau rút nó lên làm liên lạc) mó máy nghịch đống súng AR.15. Lần đầu tiên tôi mới tận tay cầm khẩu súng tiểu liên Mỹ. Công nhận là nó rất nhẹ. Hai thằng tra đạn vào trong băng rồi kéo qua cái trảng sau rình chim cu bắn. Mấy thằng vệ binh trung đoàn 3 nghe đạn bay thấp trên nóc lán chúng nó, chạy sang chửi. Bọn tôi chạy về, bị Cáp đen lôi chúng tôi ra chửi mát là địch thì đ....sợ, lại đi sợ mấy thằng chưa thấy địch đã rút. Bọn kia thấy thế hầm hầm đi về...

Xe sư đoàn đến và chiều hôm đó thì bọn tôi về đến đội hình tiểu đoàn.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Dạng địa hình điển hình vùng UĐông:

 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Tác giả đang thưởng thức nước thốt nốt trong một lần thăm lại U đông, chiến trường xưa !

 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
KAMPONG CH’NANG

Lộ 5 đã thông, đại đội 2 và chúng tôi trở về đội hình tiểu đoàn bằng xe tải. Từ UĐông lên thẳng Kampong Ch’nang, rẽ phải xuôi ra bờ Tonle Sap. Tiểu đoàn 4 đã cùng tàu hải quân lên Kampong Ch’nang trước bằng đường thuỷ. Lúc đó ở bến sông KP Ch’năng thuyền cá lưa thưa lắm, không lắm nhà bè sầm uất như bây giờ. Cái “cầu tàu” bằng đất đắp lèn chặt giữa hai hàng cọc gỗ, dẫn thằng ra sông vì chỗ bến này khá cạn. Đại đội 2 qua sông bằng thuyền của dân, về đội hình tiểu đoàn ở “Bôngbăng” theo lính gọi (tức KP Hau trên bản đồ), bên kia thị xã Kampong Ch’nang.



Lúc đó trời đã ngả chiều. Chúng tôi đi theo một đám dân cũng từ bến sông về phum. Ban chỉ huy tiểu đoàn đóng tại cái chùa lớn. Trung đội thông tin nằm trong cái nhà đúc 2 tầng cách BCH khỏang 100m, chẹn cái ngã ba từ tiểu đoàn bộ xuống đại đội 4. Cái nhà không trát, đỏ hoét màu gạch trần. Thằng Vỹ thông báo ngay là đêm nào cũng bị địch tập kích. Trung đội thông tin cũng đảm nhiệm một mũi. Trung đội trinh sát ở cùng BCH tiểu đoàn trong chùa. Đại đội 4 hỏa lực chốt trong cái trường học một tầng lợp ngói, cũng nằm dài theo tuyến chốt của đội hình dọc con đường đất. Đại đội 2 mới nhập lại đội hình, bị đẩy lên cái phum xa nhất. Phum này có cái chùa cây cối rậm rạp như một khu rừng nhỏ.



Về đến nơi kịp làm hụm nước, tôi và anh Ky được phân công xuống đại đội 1. Anh Nhương đuổi bọn tôi đi sớm vì chiều đã tà. Đêm vừa xuống đến đại đội 1, địch tập kích ngay. Tiếng súng rộ lên khắp các nơi. Chủ yếu là đạn nhọn và M.79. Chưa bao giờ bị tấn công ban đêm nên tôi thấy lạ và hơi hoảng. Trước giờ chỉ có mình tẩn nó, còn lần này nó chủ động tấn công mình. Chúng tôi và BCH đại đội nằm sạp, trong cái lều vịt thấp lè tè. Khẩu cối tép nằm ngay cái lều bên cạnh, cách BCH một khoảng sân cho vịt ăn. Khi đại đội 2 chưa về đội hình, trung đoàn tăng cường cho đại 1 tiền tiêu một khẩu DK.75, một khẩu 12.8mm nên lúc này hỏa lực khá mạnh. Chúng tôi không bắn lại. Chỉ khi thấy chớp đầu nòng súng địch mới câu M.79.

Đại đội 1 nằm tựa lưng một gò núi nhỏ mọc đầy tre gai, chẹn ngang con đường đất đi về phía rừng thưa. Nhìn thấy phía đó có cái sườn núi cháy nham nhở. Rừng thưa trên núi trụi lá, chỉ còn những thân cây khô trắng xám. Ban ngày yên tĩnh. Cánh đồng trống trải nhìn rõ những gò cây khô. Lính tráng đi lại kiếm ăn cải thiện khá thoải mái. Thằng Sơn “ba tai” còn kiếm đâu được con ngựa liền cưỡi ra bờ sông sang thị xã Kampong Ch’nang kiếm rau ăn. Chiều tối cả người cả ngựa bơi vượt sông về. Tôi cũng thử cưỡi ngựa. Dù lót cả cái bao tải làm yên nhưng cũng trợt cả da mông vì mồ hôi ngựa.

Một lần vào buổi trưa, thằng Đồng “Huế” liên lạc phát hiện một con trâu đang xồng xộc chạy trên đồng, hướng địch hay vào tập kích . Tôi và nó nằm ngay trên cái sạp trong lều đại đội vớ ngay AK cứ thế tương. Con trâu đã loạng choạng lảo đảo thì lại thấy bóng người đang đuổi theo nó. Bọn tôi tưởng địch! Thế là lại quay sang tỉa nó. Thằng Gia “cà bây” bên cối 60 hét lên địch đâu mà địch! Ông Khanh đấy. Bọn tôi hoảng quá, ngưng bắn ngay. Anh Khanh -(Quê Cẩm Thuỷ, Thanh Hoá - đại trưởng) – đúng là anh Khanh thật, từ từ đứng dậy quan sát rồi bình tĩnh tiến đến con trâu đã chết. Sau một hồi hì hục giải phẫu, xách về một cái lưỡi trâu, một quả tim lừ lừ đi thẳng vào lều hỏi thằng nào vừa bắn. Thằng Đồng im lặng. Còn tôi đứng ngay dậy: “Em bắn đấy! Em tưởng địch…”. Thế là veo một cái, cả cái lưỡi trâu trên tay cha Khanh bay thẳng vào mặt tôi. Phản ứng cực lẹ, tôi né được phát thứ nhất. Chưa định thần thì bụp, cả quả tim trâu đầy máu đập ngay vào bụng tôi rồi lăn ra đất. Dường như đã hả tức, anh ấy chửi rủa vài câu nữa rồi thôi. Thằng Đồng len lén đi nhặt chiến lợi phẩm bất đắc dĩ ấy đi rửa để chiều làm bữa. Còn tôi cởi áo ra sau bụi le *** vào, vò sạch máu trâu rồi đi giặt.

Đêm mùa khô lạnh. Địch tập kích đã thành quen. Những đêm không có tiếng súng thì bọn tôi không thể ngủ được. Tất nhiên, đứa nào gác cứ gác, đứa nào ngủ cứ ngủ. Chủ yếu là địch nó bắn chứ chúng tôi đâu có bắn phát nào. Kệ mẹ nó! Lắm đêm, khi nó bắn quá rát, lão Síu gọi liên lạc cùng chạy xuống các trung đội đốc gác trở về. Thấy bọn phối thuộc chúng tôi nằm ngủ, vẫn buông mùng trắng toát liền chửi đ..mẹ chúng mày! Sao lại có cái loại lính khốn như chúng mày? Anh ấy điên lên, giật tung từng tấm mùng. Tôi với anh Ky lặng thinh, thu dọn lại chỗ ngủ, chẳng ai nói gì.

Lắm đêm, địch nó đánh vào cả BCH tiểu đoàn. Ba thằng liên lạc tiểu đoàn và trung đội trinh sát bắn soi qua các ô cửa chùa mà không kêu chi viện. Gần như chỗ nào cũng độc lập tác chiến trong đêm. Trò tập kích quấy rối đó dần dần hầu như không có tác dụng. Một trường hợp duy nhất gây thương vong là ở hai khẩu cối 82mm của đại đội 4. Hai khẩu đội đóng sát nhau, cách mỗi cái sân trường. Một thằng khẩu đội 1 chạy qua sân trong khi địch đang tập kích sang xin nước, bị thằng gác khẩu đội kia bắn què chân…Những đêm nó đánh toàn tuyến thì chỉ mỗi cối tép các C và cối 8 tiểu đoàn lên tiếng. Khoảng đợi chờ giữa tiếng đề pa và tiếng nổ đạn của cối ta là khoảng lặng giống như chờ một ván bài ù. Rất yên lặng!
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Bây giờ là khoảng giữa tháng hai năm 1979. Một hôm, sau khi ăn cơm chiều, bọn thông tin chúng tôi sang A cối uống trà. Tự nhiên thấy anh Síu ôm cái đài chạy sang. Này này, Trung Quốc nó đánh mình rồi! Chúng tôi cứ nhìn vào cái đài đang nói, quên cả uống nước. Được một tý thì anh ấy lại ôm cái đài đi về. Chúng tôi và cả bọn cối cũng chạy theo. Lúc đó BCH không có ai vì ông Khanh với liên lạc không biết chạy xuống trung đội nào. Lát sau thì về đủ, cùng các cán bộ trung đội hội ý chiều. Hôm đó hội ý hội báo chẳng cắt đặt nhiệm vụ gì như mọi ngày. Cả bọn im lặng hút thuốc rê, nghe đài. Lát sau khi hết tin, đến các đoạn nhạc tiến quân thì anh Khanh xua cán bộ trung đội về. Tôi không thấy lo gì. Thậm chí còn thấy mừng, nghĩ rằng có thể đơn vị sẽ được rút về tẩn nhau với bọn này. Nếu đi qua nhà thì tôi sẽ chuồn về ít ngày cho đỡ nhớ. Nói chung lúc đó bọn tôi tự thấy không ngán bọn xâm lược mà chỉ muốn được về nước ngay.

Đường ra bến cá:



Dường như để phối hợp, bọn Pốt cũng tăng cường hoạt động. Có đêm, giữa đại đội 1 và đại đội 3, có thằng địch phụ B.40 đeo giá đạn lạc hẳn vào đội hình. Lính ta thấy lạ quát hỏi mày ở B nào? Nó chạy loằng ngoằng một lúc rồi phọt ra cánh đồng. Mất cơ hội bắt sống hoặc diệt địch. Một đêm khuya, từ bầu trời bất chợt vọng xuống tiếng kêu, nghe như tiếng trẻ con khóc. Nằm nghe rợn hết cả da người. Ông Khanh đại trưởng đại 1 hoá ra cũng sợ ma. Ông ấy hô thằng Dung “kỳ đà” bắn cối. Cối càng bắn, nó kêu càng rền rĩ. Cả đại đội thức, dỏng tai nghe tiếng kêu lạ mà không ai biết là cái tiếng kêu gì. Điện thoại tiểu đoàn gọi xuống hỏi tại sao địch không đánh mà các anh dùng hoả lực? (Mãi về sau mới biết đó là tiếng kêu của đàn công đất đi ăn đêm). Lúc này, hướng trung đội 2, nghe tiếng trung liên của thằng Cự kéo hai loạt ngắn trước. Tiếng AK của địch đáp trả rất gần. Một lát sau nổ thêm 3 phát nữa nhưng xa hơn. Sau đó tất cả lại im lặng. Bình thường địch bao giờ cũng nổ súng trước nhưng đêm nay như thế thì quả là lạ. Anh Khanh nhỏm dậy gọi thằng Đồng cùng xuống trung đội 2 kiểm tra tình hình. Một lát sau trở về kêu các trung đội tổ chức thêm vọng gác. Cả BCH đại đội và tiểu đội cối 60mm vì nằm gần nhau nên cũng phải tổ chức chung một vọng gác phía sau nữa.

Rồi đêm cũng dần qua. Buổi sáng, trước hầm gác của thằng Cự trung đội 2 lù lù một cái xác địch to vật. Nó nằm sấp úp mặt xuống đất. Lính ta định lật xác nó lên thì anh Khanh cản lại. Săm soi một lúc nữa mới phát hiện thêm một vệt máu nữa cách đấy một chút rồi mất dấu. Trở lại xác thằng địch chết, thận trọng lật lên (vì đề phòng chúng nó gài mìn) thu khẩu M.79 với rất nhiều đạn và lựu đạn. Bộ ka ki dày màu xám, cái túi mìn claymo bên trong có một cái võng nilon (cái võng này tất nhiên thuộc về thằng Cự). Một cuốn sổ ghi chép linh tinh chữ loằng ngoằng như giá đỗ. Đôi dép cao su dày, cắt vuông đầu đuôi, tự chế từ lốp xe ô tô. Ở moi quần còn phụt ra cả một đám tinh dịch loang lổ. Khẩu M.79 đã bắn nhưng đạn mới tòi ra khỏi nòng được một nửa vì ngã sấp, nòng cắm xuống đất. Trinh sát tiểu đoàn khi dịch cuốn sổ cho biết đây là bọn đặc công, đêm qua định mật tập xơi tái đại 1. Thật may là đàn công đất đã báo động cho chúng tôi. Khi đại đội bắn cối, địch nó tưởng là bị lộ nên rút ra. Có thể hình dung tổ ba người của thằng trinh sát này đen đủi mò vào đúng họng RPD của trung đội 2. Chết 1, bị thương 1 vì vẫn còn dấu máu khi tụi nó rút lui. Tiếng AK bắn 3 phát sau từ phía xa có thể là hiệu lệnh tập hợp đội hình của địch. Hú vía!

Khung cảnh nông thôn KP Ch’nang:



Sau hôm đó thì anh Hải C trưởng C2 tỵ, đòi tiểu đoàn đưa khẩu DK.75 và khẩu 12.8mm lên phối thuộc với đại đội 2 nhưng không được. Anh ấy không bằng lòng. Thỉnh thoảng uống rượu lại báo phát hiện trinh sát địch đang trèo cây trong cụm rừng chùa để xúi anh Khanh cho DK bắn. Những phát đạn xuyên 75mm bay đỏ lừ cả trong ánh sáng ban ngày. Bên đại đội 2 có một nhà thóc không biết dân hay địch bỏ lại. Cái nhà đó có cả một cái cối giã gạo. Ăn mãi gạo cũ nhạt bên nước chở sang, nên thỉnh thoảng anh Ky rủ tôi sang C2 vào ban ngày, xúc thóc đổ ra cối để giã. Gạo mới nhiều nhựa, nấu cơm hay cháo đều quánh và thơm…

 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Trong thời gian này, thằng T.Anh bạn cùng lớp cũ với tôi, bỏ đơn vị đi từ hổi còn nằm chốt Bờ đê biên giới quay trở lại đơn vị. Chắc hẳn ở nhà khó yên được với tiểu khu, phường đội. Nó lần mò vào được đến tiểu đoàn nhưng anh Sơn không nhận, bợp tai đuổi đi. Nó cứ về đại đội. Trung đội 2 vẫn chia cơm cho nó. Tôi nhớ mấy hôm đó có cả thịt ngựa ăn đàng hoàng. Tối thì nó ngủ ở lán anh nuôi chỗ thằng Lại, thằng Tào. Anh Síu cũng đuổi nó đi nốt. Tôi gặp nó trong lán anh nuôi, bảo mày cứ ở lỳ thêm một thời gian. Các ông ấy hết giận thì nhận lại súng mà chiến đấu. Tôi vẫn còn như nhìn thấy nó trong buổi chiều hôm ấy, tay mân mê một chỉ vàng đã quấn bọc lại bằng chỉ khâu cho khỏi mòn, cúi đầu nghe anh Síu chửi. Nhưng anh Síu đuổi gắt quá nên nó lại bỏ đi. Cả thằng Thoan phố Mã Mây, đang cầm khẩu B.40 ở B2 cũng chuồn đi theo nó. Mất thêm người, anh Síu quay sang chửi cả tôi. Bảo mày là bạn thân với nó, sao không biến mẹ nó nốt đi. Từ đó tôi hận thằng cha này. Anh Síu chính trị viên C1, quê Hải Hưng lính năm 1974 đóng hàm chuẩn úy. Anh ấy có một cái hộp thuốc cá nhân bằng nhựa màu xanh của Trung Quốc. Trong đó đựng mấy tấm ảnh chụp hồi quân quản Sài gòn. Anh Síu trong ảnh mặc quần ga ba đin bộ đội bó ống, tóc để dài như mốt thanh niên thành thị hồi đó. Ngoài ra còn một cái bọc nilon gói đôi quân hàm chuẩn úy có một gạch bạc, không có sao. Thỉnh thoảng lại giở ra xem.

Tôi được điều xuống đại đội 3 trực máy vì một lý do rất vớ vẩn. Thằng liên lạc mới (không nhớ tên) của anh Đạt đại trưởng nhặt được ở đâu đó quả đạn cối 81 lép mang về định kẹp thêm lựu đạn đánh cá. Những quả đạn cối Mỹ đã bắn rỉ sét, đôi khi chỏng trơ trên mặt ruộng khô. Anh Đạt đang nằm võng trông thấy hét nó mang đi vứt ngay. Thằng ngu đấy giật mình ném đi luôn thật. Thế là: “Uỳnh!”. Đạn thì nặng, tầm ném gần. Đại trưởng và thông tin bị thương, liên lạc hy sinh. Đang thiếu người, anh Thưởng, anh Sơn tiểu đoàn tức lộn tiết nhưng đành động viên anh Thoan xuống nhận nhiệm vụ đại đội phó. Tôi từ đại đội 1 sang đi với đại đội 3. Nói thêm một chút về anh Thoan, người Thanh Hoá, lính 74 đang mang hàm chuẩn uý. Sau những trận đánh ác liệt ở cầu Prasaut, anh ấy không nhận nhiệm vụ nữa. Tiểu đoàn rút lên kỷ luật **** nhưng vẫn để đi kèm tiểu đoàn bộ. Lính tráng nói kháy gọi là “tham mưu tụt tạt”. hay là “thành phần đọc báo” anh ấy cũng mặc kệ. Lần này không nhận nhiệm vụ không được nên đành xuống đại đội 3.

Một lần trong đêm, tôi gọi về tiểu đoàn kiểm tra đường dây như thường lệ. Thấy tay quay máy nhẹ và không có tín hiệu biết ngay là dây đã đứt. Tôi gọi thằng Phụng lên máy vô tuyến rồi trở dậy, khoác súng đi nối dây. Lại còn cẩn thận mang thêm cả bao xe. Xin anh Thoan thằng liên lạc đi cùng nhưng anh ấy không cho.Tôi bảo thằng Phụng gọi về tiểu đoàn thông báo các chốt gác để khỏi bắn nhầm rồi lên đường. Chỉ huy sở tiểu đoàn cách đại 3 khoảng 1km. Đêm tối như mực. Tay cứ lần theo dây mà đi thật chậm tìm chỗ đứt. Thỉnh thoảng lại co kéo dây thật nhẹ nhàng để kiểm tra. Nếu thấy dây điện thoại co về dễ dàng thì hãy cẩn thận, vì đã đến gần chỗ phải nối. Ai biết được dây đứt vì lý do gì? Bọn Pốt thường chơi trò cắt dây điện thoại rồi nằm phục tại vị trí cắt hoặc gài mìn. Điều này anh Hoạch, anh Tuấn “còi” đã dạy chúng tôi từ hồi còn nằm chốt biên giới. Lần mò dần nhưng không thấy dây đứt chỗ nào. Đã nhìn thấy nóc chùa tiểu đoàn mờ mờ trên nền trời sao. Vọng gác thông tin đây rồi. Tôi cúi người thật thấp rồi dặng hắng: “Thông tin đây! Đừng bắn!”. Anh Hoạch ra đón. Tôi thông báo tình hình. Anh Hoạch nhận định có thể dây bị đứt ngầm rồi giục tôi về làm cọc âm. Khi ta nối một dây vào cọc âm thì máy điện thoại vẫn có thể liên lạc được.

Về đến đại đội, tôi lôi que thông nòng AK ra, đóng xuống đất làm cọc âm. Nhưng vẫn không liên lạc được vì đất mùa khô độ dẫn truyền điện tích rất kém. Thế là tôi mang ra ngay cây dừa, dùng xẻng bộ binh làm búa, đóng cái thông nòng vào thân cây. Tiếng chan chát vang lên trong đêm làm anh Thoan cáu: “Thôi ngay đi! Địch nó bắn vào bây giờ!”. Tôi cũng phát khùng. Phần thì mệt, phần thì tức chuyện không cho người đi cùng lúc nãy liền vặc lại: “Đây là nhiệm vụ của tôi! Tôi không thể không làm!”. “Ah! Thằng cà chớn...!” Anh ấy chạm nọc văng vung xí mẹt, đòi đuổi tôi về tiểu đoàn ngay. Đến lúc này thì tôi cũng cóc cần gì nữa. Liên lạc đã thông, tôi quay máy thẳng về báo cáo với trung đội. Sau vụ đó vài hôm, thấy căng thẳng, anh Nhương (lúc này đã là trung đội phó) lại chuyển tôi sang đại đội 1.
 

Chã Nhỏ

Xe điện
Biển số
OF-115758
Ngày cấp bằng
6/10/11
Số km
4,107
Động cơ
425,516 Mã lực
Nơi ở
Lương Sơn, Hoà Bình
Ấy chết ! cụ không đọc kỹ tựa đề . Hồi đó em cũng đang là thằng nhóc ...thò lò mũi xanh thôi cụ ạ .

Đây : Ngày trước đánh nhau bên K bọn anh hay dùng loại lựu đạn da láng của Mỹ nó....tròn tròn như thế này :D

da láng có 2 loại như thế này cụ nhỉ


 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
GA ROMIA

Một chiều cuối tháng 2, có lệnh hành quân. Đơn vị sang Kampong Ch’nang bằng tàu hải quân. Đứng bám trên boong mũi cái tàu hộ tống, thấy oai hùng lắm! Đến thị xã, tôi nhận được một lúc 14 lá thư. Thư gia đình, thư các bạn cùng lớp phổ thông…Đây là lần đầu tiên những lá thư hậu phương đến với tôi. Chúi vào một góc kín đọc chậm từng lá. Đọc đi rồi đọc lại. Nước mắt lặng lẽ chảy…

Đêm đó tiểu đoàn ngủ trong các nhà hoang dọc bến cá. Sáng hôm sau, lĩnh đạn, gạo, đường, sữa…Vạ vật đến khoảng 14h chiều, chúng tôi lên xe tải, tới ngã ba lộ 5 quẹo trái theo lộ 27 tiến về ga Rômia. Xe chạy rì rì cuốn tung bụi đường, nồng nghẹt mũi. Lại những cánh đồng không khô xác. Cỏ cháy loang trên đồng, để lại từng đám tro đen xám loang lổ. Một vài ngọn núi đất thấp cũng khô xám như thế. Cây cối trên núi cũng cháy trụi cả, giơ lên trời những cành đen thui. Điểm trên khoảng trống bao la là những chòm thốt nốt lẫn cây bụi nhỏ, lúc hiện lúc khuất sau làn khói. Khung cảnh điêu tàn trông như hoang mạc.

Lộ đất 27 nằm sau quả núi này.



Có tiếng đạn nhọn rộ lên nhằm thẳng vào đoàn xe. Tiểu đoàn để ba lô lại trên xe, nhảy xuống đất, theo đội hình chiến đấu càn tới. Các đại đội giạt sang hai bên ruộng, tiến song song bảo vệ. Tiểu đoàn bộ D4, C4 hỏa lực cùng một bộ phận tham mưu trung đoàn vẫn đi trên mặt lộ. Địch nã đạn nhọn liên tục về phía mấy cái xe. D bộ phải đi tụt lại, vì có tiếng xe ở đâu là nó bắn rát về phía ấy. Nhìn không thấy địch ở đâu vì khói cháy đồng mù mịt. Không dám tiếp cận thì chứng tỏ bọn này cũng nhát.

Một lát sau, thấy anh Sơn D trưởng quay lại hỏi chúng tôi còn một khẩu đội cối 82mm nữa đâu? Bọn tôi nói không biết. Anh ấy nổi nóng chửi cả tham mưu rồi bắt D bộ quay lại tìm. Thật may là chúng nó đi sau D bộ khoảng hơn 100m. Sau khẩu đội cối này lại có một đơn vị nữa cũng đang tiến gấp theo phía xa xa. Đại đội 2 đi trước. Hai đại đội 1 và 3 đi hai bên sườn. Khối D bộ, đại đội 4 và tham mưu trung đoàn cùng đoàn xe đi giữa. Vậy còn đơn vị nào đằng sau nữa đâu? Bỗng nhiên bọn đó bắn vào đội hình tới tấp, rồi giạt sang bên phải đường mất tích. Địch bâu bám đằng sau thật. Một trái M.79 câu trúng thùng cái xe chở ba lô. Không việc gì, xe vẫn chạy dù trên thùng bốc khói. Chúng tôi dũi lùi lũi giữa đội hình địch. Phát đạn duy nhất bắn đi là quả M.72 của một trợ lý tham mưu trung đoàn đi cùng đội hình đơn vị. Anh ấy mang nặng. Rút ra rút vào trái đạn mãi rồi phụt bớt đi cho nhẹ.

Cách ga Rômia 1km, đến một cái cầu cháy qua con mương cạn thì gặp trung đội chốt đường của đại đội 11 tiểu đoàn 6 ra đón. Tôi gặp thằng Hiệp là thằng bạn cùng lớp, cùng trường Phan Đình Phùng. Nó vẫn mặc bộ quân phục màu vàng đất thời huấn luyện ở Phủ Lý. Trên tay là khẩu B.41. Ngày hôm đó nó đã phải bắn tới 16 trái B.41 nên tai điếc, nói với nhau mà như quát. Thằng Hiệp nói rằng trung đội chốt đường của nó đã nằm đây 4 ngày trời. Rình rập tỉa nhau với địch quanh cái cầu cháy này. Bọn nó muốn chiếm và phá huỷ cầu để ngăn cơ giới ta nhưng không được. Chuyện ngắn vài câu nữa, tôi lại mải mốt bước theo đơn vị. Thùng cái xe chở đồ bây giờ cháy ngún mù mịt. Chúng tôi nhảy lên xe quăng đồ xuống. Lúc đó nhiều cái ba lô đã cháy nham nhở. Các hộp sữa mới lĩnh ban sáng phồng lên, méo mó hết cả. Gần vào sát ga, tiểu đoàn vượt qua hai cái xe chở tử sỹ bị địch vây, không mang ra Kampong Ch’nang được. Anh em đơn vị bạn phải chặt cành lá phủ lên cho khỏi ruồi và tưới nước cho mát để đỡ mùi.

Chiều tối, tiểu đoàn 4 nghỉ luôn ở vị trí đại đội pháo 105mm trung đoàn 42. Lính pháo mấy ngày lạnh lưng hở sườn, lo sốt vó chống địch. Bây giờ thấy chúng tôi đến, lại được tiếp thêm đạn thì sướng quá! Còn bao nhiêu trà lá thuốc vét mang ra chiêu đãi mệt nghỉ. Chúng nó nói mấy đêm vừa qua, lính pháo phải đánh nhau như bộ binh vì địch nó đánh sát cả vào chân các khẩu đội. Pháo 105mm phải hạ nòng bắn ứng dụng như pháo bắn thẳng để uy hiếp địch cho nó giãn ra. Thằng Bình cáo C12D6 nghe tin tiểu đoàn 4 đến tăng viện, mò sang tìm tôi. Hai thằng trải nilon nằm trên mặt bờ ruộng nói chuyện. Được mươi phút thì địch lại đánh rát vào đại đội 11 D6. Tiếng súng rộ lên. M.79 nổ choang choang trên các mái tôn. Nó trở dậy chạy về đơn vị. Rừng mùa khô đang cháy dữ dội. Lửa hắt lên trời những vầng sáng hồng rực, nhìn rõ cả từng cái cát tút rơi trên đường.

Đêm đó tôi với anh Ky nằm với đại đội 4. Chỉ huy phó đại đội 4 hoả lực hồi đó là anh Ninh, tên họ đầy đủ là Thái Gia Ninh, em ruột nhà thơ Thái Thăng Long. Sau này bọn tôi trong đơn vị khi được chia thịt heo hay thịt thú, cứ giả vờ hỏi nhau là bây giờ thịt thái ra ninh, thái ra nấu hay thái ra hầm...hả mày thì anh ấy cáu lắm, chửi vung mấy thằng xỏ lá. Nằm với đại đội hỏa lực, sát tiểu đoàn và pháo đội 105mm nên cứ yên tâm hưởng suất ấm sườn, đêm không phải gác. Một đêm ngủ thật ngon lành dù tiếng súng địch xung quanh không lúc nào ngừng...
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Sáng hôm sau, tiểu đoàn 4 nằm ở sân ga đợi lệnh. Ga Rômeas, cũng như mọi nhà ga nhỏ trên trái đất này, với đường ke, nhà chờ và tháp nước…Con đường sắt heo hút chạy giữa rừng dầu thưa, mùa khô lá rụng vàng cháy. Nhà ga một tầng, lợp ngói đỏ. Tường lỗ chỗ vết đạn to nhỏ. Phía trong nhà cũng cửa tò vò, ghi sê bán vé. Những vật thể kiến trúc còn lại như nhắc nhở về một thời yên bình từng hiện hữu nơi đây. Trên sân ga, hàng cây me keo cổ thụ toả bóng râm mát. Mỗi khi gió mạnh thổi qua, những quả me keo chín loăn xoăn quay vòng rụng xuống. Bao quanh cái hạt là lớp thịt quả, ăn chơi thấy vị ngọt ngọt, có chút đắng. Nằm đó một lát, chúng tôi được lệnh đi về hướng sau ga, nằm trong một vườn điều. Đất khô cát trắng, nhưng điều đang ra trái mọng. Vặt vài quả ăn chơi, thấy vị chua ngọt cũng đỡ, khỏi khát nước. Tôi cắn thử cái hột như hột đậu lớn treo dưới trái. Một tia dầu tứa ra dính vào môi. Cảm giác bỏng làm rộp phồng môi liền, rất rát. Toàn cồ thấy vậy cười hô hố. Anh Ky bảo phải nướng hạt lên mới ăn được, ngu thế!

Ga Romia_ảnh sưu tầm


Hướng tây ga Rômia là một trái núi nhỏ, thấp, cách ga khoảng 3 km. Trung đoàn 1 đang vận động tấn công địch ở đó. Trên núi, nó có một khẩu pháo cao xạ 37mm hai nòng hạ góc tà âm bắn điên cuồng cản bước. Cứ “Bốp bốp…khục khục” nổ đâu đó suốt. Trận địa pháo 105mm của trung đoàn 42, được chúng tôi hộ tống xe tiếp tế hôm qua, bắt đầu bắn không tiếc đạn lên núi.

Chúng tôi ăn cơm ở vườn điều. Buổi trưa cứ nằm im đó nghe tiếng súng nổ các nơi. Mãi đến chiều mới có lệnh tiến quân. Tiểu đoàn theo đường sắt lên hướng tây bắc 1 km rồi tạt xuống lòng một con suối cạn chuẩn bị vu hồi. Dưới lòng suối không có nước, toàn cát. Những con rùa bằng cái bi đông bò lổm ngổm. Hai bên bờ suối, le mọc dày rịt. Thân nọ đan thân kia như một hàng rào không thể vượt qua. Toàn “cồ” túm được một con tê tê (con trút) ngay trong lòng suối, định mang theo làm thịt nhưng ai cũng bảo vứt đi. Được thả, con trút đang cuộn mình từ từ duỗi ra rồi chậm chạp lủi vào một cái hốc.



Khẩu 37mm của địch bây giờ không thấy bắn nữa. Thông tin trung đoàn thông báo là E1 đã tịch thu được nó rồi. Thu nốt cả cái xe ô tô kéo pháo. Tiểu đoàn tôi lại được lệnh quay lại nhà ga, theo đường bò bắc lộ 27 tiến giữ sườn cho trung đoàn 1. Đường bò là loại đường dân sinh. Nông dân Campuchia thường dùng loại xe gỗ bánh cao do đôi bò kéo để vào rừng, lên rẫy. Những con đường do bò kéo bao giờ cũng có hai vệt bánh xe, ngang dọc khắp rừng. Chiều tà, nghỉ giải lao tại một cái nhà tôn có cần anten cao vút địch bỏ chạy chưa kịp dỡ. Anh Trung tham mưu tiểu đoàn bảo đây chính là sở chỉ huy sư đoàn địch. Tôi gặp thằng Thọ - bạn cùng lớp cũ - trong đội hình tiểu đoàn 6 đang hành quân qua. Khẩu cối 60 cồ cộ trên vai, đầu chụp cái mũ nhựa ép dạng mũ sắt của VNCH cũ, không biết nó kiếm được ở đâu. Nó thả khẩu cối bịch xuống đất, xin tôi hớp nước. Hỏi thăm dăm ba câu chuyện rồi lại vác cối lên vai, cắm cúi đi theo đội hình.

Lại tiếp tục lên đường. Đi mãi đến sâm sẩm tối, đơn vị dừng lại ở một cái phum cũ, rừng vây xung quanh. Không còn nhà cửa, chỉ có thể nhận biết là nơi từng có người ở qua những cây me, cây chùm ruột lẫn trong những hàng rào, khung nhà đổ nát. Các đại đội lặng lẽ bố trí đội hình. Lại cấm đốt lửa, chúng tôi bẻ cơm vắt được phát hồi trưa, chấm với bột gia vị cố mà nuốt. Đêm trong rừng núi tịch lặng và bí hiểm. Trên những cây dầu lớn, có những cái hốc mà người ta đục vũm vào để đốt lấy dầu, ánh lửa chập choạng. Rất nhiều thân cây dầu đang cháy lửa như thế trong đêm, trông rất ma quái. Đâu đó phía xa, vài tiếng súng lẻ vang lên rồi tắt ngấm. Sau tiếng súng, không gian như càng im vắng hơn.

Gần sáng. Dậy! Tiếp tục hành quân. Lần này đơn vị bỏ đường lộ cắt xiên sang tay phải vào rừng. Tốc độ hành quân chậm do trinh sát phải dò dẫm bám địch. Đi được một lúc, sau khi vượt qua một con suối có một bờ cao dốc đứng, đội hình dừng lại. Đằng trước có tiếng chặt cây chan chát cùng tiếng đào đất thình thịch. Địch đang chặt cây làm hầm chiến đấu. Tiểu đoàn báo về trung đoàn đã phát hiện địch rồi triển khai đội hình bí mật tiếp tục bám lên. Đại 3 vượt sang bên phải sẵn sàng đánh sườn. Đã gần địch lắm rồi. Trong khi đặt đạn, không biết đứa nào bên cối đại 4 để gánh đạn va vào mâm cối đánh “cốc” một tiếng. Tiếng chặt cây lập tức im bặt. “Cóc! Oành…!”. Quả M.79 của địch bắn thăm dò trúng một thân cây loé xanh nổ. Không ai bắn trả. Tất cả lại im lặng. Không gọi 2W vì sợ lộ, tiểu đoàn cho truyền đạt bò lên các đại đội, lệnh khi phát hiện địch cho hoả lực nổ súng đồng loạt áp đảo.

Tổ truyền đạt vừa về đến tiểu đoàn thì B.40, B.41 thi nhau nổ tức ngực. Tiếng đạn nhọn ré lên. Trời đã mờ sáng. Lính đại 1, đại 2 cứ thấy chỗ nào có ụ đất mới hoặc cành cây gãy còn tươi lù xù trên đất là thổi B.40, B.41 vào đấy. Lối tiếp cận quá gần cùng hoả lực mãnh liệt làm cho bọn nó choáng. Sau khoảng mươi phút là tháo chạy ngay. Bỏ lại hơn chục thằng toi mạng trên dãy hầm mới đào đêm qua. Có thằng nằm vắt nửa trên nửa dưới hầm, cánh tay và gần nửa người bị hơi nổ tuốt đi. Cối 82 đại 4 mới bắn chi viện hơn chục trái đã phải tháo súng lên theo bộ binh. Truy kích thêm nửa cây số nữa đến một cái phum. Địch chạy tuốt vào đấy rồi tổ chức chống trả.

Cối 60 của địch trong phum hoàn hồn, bắt đầu lên tiếng. Hai khẩu cối 82 của đại 4 bắt đầu giã vào phum. Mấy thằng lính cối khôn vặt tranh nhau tháo đạn để khỏi mang nặng. Hễ cứ nghe tiếng M.79 hay tiếng cối ta, cối địch đề pa “Coong!” một tiếng, y như rằng tiếng đạn nhọn lại câm bặt. Nổ “Oành!” xong một cái thì lại rồ lên như xé vải. Đạn cối địch rơi ngay trúng đội hình tiểu đoàn bộ. Thằng Khoát người Thanh Hoá lính vận tải bị một quả cối 60 nện giữa đỉnh đầu. Phần sọ biến mất. Chi còn xương hàm dưới với khúc đứt đầu tuỷ sống nám đen thuốc nổ. Đại 1, đại 2 vẫn chưa vượt qua được trảng trống trước phum.

Đúng lúc đó, ngay phía sau đội hình, tiếng súng địch toang toác rộ lên rất gần. Chúng nó đánh bọc ***. Bọn này cơ động rất nhanh. Anh Sơn điều một trung đội của đại đội 3, cùng với thông tin, trinh sát tiểu đoàn bộ vận động ra phía sau chặn địch. Lúc trung đội của đại 3 vận động ra phía sau, có tiếng lao xao: “Đại 3 chạy kìa!”. Anh ấy quắc mắt nhìn quanh. Tôi tin là nếu phát hiện thằng nào vừa lên tiếng, ông ấy bắn cho vọt óc. Chúng tôi bắn dữ dội về phía sau, mặc dù không nhìn thấy địch mà chỉ nghe súng nó bắn. Phía trước, bộ đội đã bám được vào rìa phum. Tiếng súng thưa dần. Cối 82 quay nòng giã về phía sau mấy trái. Bọn bọc *** biết tình hình không ổn nên cũng chuồn nhanh. Tiểu đoàn 4 đã làm chủ trận địa. Trong sử sư đoàn 9 sau này được xem thì tôi đoán đây là trận đánh vào bàn đạp Tà Nốt. Nhưng trên bản đồ thì không thấy Tà Nốt là địa danh nào.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Đơn vị dừng lại củng cố vị trí đứng chân sau mấy ngày đánh địch, vượt quãng đường gần 50 km từ Kampong Ch’nang vào đây. Anh nuôi triển khai nấu cho bộ đội ăn cơm nóng. Đang mùa khô, lính ăn 8 lạng một ngày (mùa hè 7 lạng gạo/ ngày). Thông tin còn trên tiểu đoàn 9 người, vừa xoẳn cái ruột tượng đang quàng. Nhanh chân, tôi chạy đến xoong quân dụng của thằng Cầm điếc trút tuột hết gạo vào. Thế là nhẹ mang đi được mấy ký. Thậm chí còn nháy mắt đắc thắng với thằng Ban trố mang ruột tượng đến sau. Diễn cái trò khôn vặt này được vài lần thì Tuấn còi chửi, bảo để cho thằng nào yếu nó trút gạo trước. Ruột tượng đựng gạo thường được khâu từ các ống quần cũ. Chỉ nhớ sau này về Bamnak có đúng một lần được quân nhu cấp ruột tượng mới. Cho đến thời gian tháng 3 năm 79, kể cả những đồ thiết yếu khi tác chiến trong rừng là cái tăng, cái võng, đoàn lính 1978 cũng chưa được cấp. Chúng tôi có được chủ yếu là do lấy vải kho địch tự khâu hoặc lột từ xác dân, xác địch mang đi giặt lại.

Trừ các trung đội cảnh giới vòng ngoài, tụi tôi bắt đầu lục lọi kiếm ăn trong phum. Tôi lục được một chum đường thốt nốt, múc đầy một ca inox rồi vẫy tay gọi chúng nó. Sau một loáng chỉ còn lại cái chum không. Của này buổi tối lạnh nấu một nồi chè thì cả trung đội ấm chân răng. Một dãy toàn chum đựng muối đầy. Muối biển địch tải lên rừng để kháng chiến lâu dài. Mấy thằng xúm lại, hè nhau lăn ra dốc hết xuống suối. Lia thêm loạt AK, mấy cái chum vỡ toác. Suối chảy liếm tan hết muối. Trên một căn nhà khác, tôi tìm được một con dao cắt kính. Con dao nhỏ chuôi gỗ đen bóng khắc nhiều hoạ tiết, chuốt cong như một mái chùa xứ này. Có thể nói là một tác phẩm tuyệt đẹp. Tôi dám chắc nghệ nhân chế tác ra nó chỉ để chơi mà thôi, chứ không phải để rạch cắt trên bất cứ tấm kính nào. Lại nghe nói mũi dao làm bằng kim cương nên tôi cất con dao kỹ lắm.

Gia tài trong ba lô thế là thêm một món đồ cổ. Nào! Thử kiểm kê xem nó có những gì: Một bộ quần áo lính vải kaki gabađin Nam Định (đang mặc trên người), thêm một cái quần dài vải chéo đã xổ vài chỗ. Đôi áo lót trước kia là màu trắng. Hai cái quần đùi giải rút lính, rộng thùng thình, chừa rất nhiều tự do cho đối tượng lắc lư đường trường mà nó bao bọc. Không biết quân đội bây giờ có phát quần sịp cho lính không? Chứ vẫn quần đùi giải rút như cũ, hành quân dài ngày mà không anh nào bị sa đì thì quả là thật lạ! Một cái võng vải nilon còn khá tốt lột được của địch. Có điều cái võng chỉ có một lớp, lại màu vàng chanh chói lọi. Khi đập những con muỗi no máu bâu phía ngoài võng thì nó để lại những vệt máu khô lốm đốm như vải in hoa trên cái nền màu đặc biệt, không cách gì giặt được. Tấm nilon dày, mặt phải màu xanh lá, mặt kia màu xám phát từ thời huấn luyện ở Phủ Lý. Hai cuốn truyện lấy được gần phà Niek Luong hao gầy dần đi theo năm tháng. Vì ngoài chức năng phục vụ văn hoá, nó còn phải phục vụ thêm nhu cầu đi vệ sinh bắt buộc. Cái địa bàn Mỹ anh Phát tôi (lính trinh sát cũ, bị thương năm 75) cho trước khi vào bộ đội. Tập thư nhà, thư bạn bè bọc kỹ trong túi nilon, quý hơn vàng. Khi rảnh hay lôi ra đọc lại. Có khi còn hít hít cả mùi trong những cái bao thư mới. Mấy miếng liều cối 60 để kéo lửa khi trời mưa ẩm và để bôi dán ghẻ. Năm viên đạn vạch đường (tích trữ do sợ bị lạc). Cái bát sứ ăn cơm bà già cho ở bến phà Niếc Lương. Bây giờ có thêm con dao cắt kính nữa. Không kể đôi dép đúc lấy của thằng Năm đã hy sinh dưới chân.

 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Trong một lần đi thăm Việt bắc ( tháng 10/2012 ), tác giả vô tình gặp lại người đồng đội cũ cùng đơn vị cùng chốt ở ga Romia !

 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Đây là một trong những bức ảnh mà người CCB thể hiện trong chuyến Phươt vòng cung sông Gâm !

 
Thông tin thớt
Đang tải
Top