[Funland] Những hồi ức của CCB chiến trường K !

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
TRẬN S’VAYRIENG.

Rạng sáng ngày 03/01/79, cha con lục đục gọi nhau dậy từ khi trời còn tối đất. Lại lĩnh cơm vắt với bột canh. Xe trung đoàn tăng bo chở tiểu đoàn bộ ra ngã ba lộ 1 rồi quẹo trái, thẳng tiến trên mặt lộ một quãng nữa. Đổ chúng tôi xuống xong thì đỗ ở đó chờ chở thương tử. Anh Bình “cháo” quân lực tiểu đoàn ngồi phệt trên tấm nilon, tựa vào bánh xe hút thuốc, chuẩn bị sổ sách làm công việc hàng ngày của thánh Pie. Là mở cửa Thiên đường cho những thằng kém số. Các đại đội bộ binh đã lên trước. Tiểu đoàn 6 chủ công còn đi trước nữa. Hai trận đột phá liền, tiểu đoàn 4 toàn được đi sau nên ấm gáo quá trời.

Chúng tôi vượt lên, đi khơi khơi trên mặt lộ mới bắt đầu tỏ mặt người. Ở lùm cây lúp xúp cái phum ven đường lòi ra hai khẩu 85mm nòng dài. Bọn này thuộc lữ pháo 24 đi tăng cường cho trung đoàn. Anh em pháo thủ gò lưng đẩy pháo lên tiếp trên mặt ruộng khô. Đến cái bờ thấp sau lưng đại đội 3 thì hai khẩu dàn hàng ngang dừng lại. Tụi pháo thủ đóng chốt càng pháo. Khẩu đội trưởng rút ống nhòm quan sát một lát rồi đóng mấy cái cọc tiêu pháo sơn khoanh trắng khoanh đỏ đằng trước. Chúng nó lấy hướng lấy tầm xong xuôi thì ngồi chờ. Ngó cái nòng ngoằng ngoẵng, rạp xuống sát mặt ruộng như trọng liên thế kia thì chỉ lo nó quất vào quân ta. Trên kia, tiểu đoàn 6 đang tiếp cận địch. Bộ binh tiểu đoàn 4 nửa nằm nửa ngồi, tản ra hai bên mặt lộ. Anh Trung tham mưu gom lính D bộ sang bên trái đường. Nhưng tôi khoái xem pháo 85mm nó bắn, nên cứ nấn ná nằm bên phải cho gần chúng nó. Anh Ky lại chửi đ…mẹ thằng ngu! Nằm gần đấy tý nữa nó phản pháo thì mày thấy ông bà ông vải. Sang bên này!

Hai anh em kiếm được một cái cống thủy lợi bê tông để cho nước chảy qua đường nên tấp cạnh đó, không đào công sự. Nó giã pháo cối thì chui vào đó tốt chán. Thằng Vỹ đi phụ máy đại đội 3 dự bị, nằm cạnh cái chòm thốt nốt trên tụi tôi một đoạn trông thấy anh Ky thò đầu ra trên cống. Nó nhe răng cười, quay lại xin điếu thuốc thẳng. Cho đến hồi đó, tôi vẫn chưa biết hút thuốc. Thỉnh thoảng phì phà hút vào mồm rồi thở ra cho oai chứ không nuốt khói. Tiêu chuẩn tháng được hai bao Lao Động cho hết ông Ky.

Một dây tiếng rền trầm trầm sau lưng. Tiếp một dây tiếng sấm rền nữa…Những quả đạn pháo hú gió u u qua đỉnh đầu chúng tôi rồi bựng khói đen hướng địch. Một lát mới dội lại tiếng nổ. Pháo bắn dày. Chỉ một lát là tiếng đề pa lẫn vào tiếng nổ cấp tập. Cối 8 hai tiểu đoàn cũng tong tong lên tiếng. Một tiếng nổ kép tức ngực. Hai khẩu 85 ly bên kia đường tự nhiên nhảy lên cầng cẫng. Bọn pháo thủ 85 chúng nó đã xác định được mục tiêu, cũng bắt đầu bắn. Đạn đi thấp lắm! Nhìn thấy cả cỏ, lúa và cây bụi bị hút ngả theo hướng đạn.

Bọn Pốt cũng bắt đầu chơi lại. Phát hiện được mấy khẩu 85, DK75 của địch phản luôn vài trái. Trái phá địch nổ văng bùn đất, tung tóe hoa lửa lốm đốm trước khẩu đội cả dăm chục mét. Cứ nghe “xéo” phát là tôi lại thụt đầu xuống. Có biết đâu là thụt đầu cũng vô nghĩa, vì đạn DK nó đã nổ trước cả giây rồi. Anh Ky quát mày thấy chưa hả con? Tôi chỉ gật gật đầu xác nhận. Đi với thằng phó máy ngu này thì còn phải dạy nhiều.

Chúng tôi trấn giữ cái cửa cống an toàn ấy. Bỗng từ đâu bò ra ra một anh lạ hoắc. Anh ấy bảo: “Chúng mày tránh ra cho tao vào!”. Anh Ky nhăn mặt, khó chịu né người. Anh ấy chui hẳn vào trong lòng cống, người thấy run cập cập. Đạn 12.8mm địch vẫn toác toác, xuyên lòi trắng thân các cây thốt nốt mé trên cao. Với tầm đạn đó, dẫu đứng thẳng người cũng không phải sợ. Tôi hỏi ai đấy? Anh Ky bảo ôi sời ông Thoan tham mưu tụt tạt ấy mà! Người trong cống cũng im lặng, không buồn nói gì. Tôi thầm khoái, thấy mình cũng không đến nỗi sợ như thế. Có biết đâu rằng khi người ta đã phải trải qua những tai ương đẫm máu không chịu nổi, thì đôi khi lâm vào tình trạng thần kinh ấy. Cái nhìn của anh Thoan như bảo tôi rằng: mày cứ hí hởn đi con. Rồi sẽ biết thân!

Tiểu đoàn 6, tiểu đoàn 4 bắt đầu xung phong khi pháo vẫn đang còn bắn. Bộ binh phát triển đến đâu, pháo 85mm đẩy tay lên đến đấy. Tôi với anh Ky lên theo đội hình tiểu đoàn. Vừa đi vừa cố tránh xa khỏi hai khẩu pháo. Thỉnh thoảng, bọn pháo lại dừng, thổi vài trái lọng óc. Chúng nó cứ câm lặng mà làm, chẳng ai nói gì nhưng nhìn động tác rất thuần thục ăn ý. Chắc hẳn cả nhà bọn ấy bị điếc! Hướng này không thấy mìn, lại được hỗ trợ tuyệt đối của pháo binh nên bộ binh tiến khá nhanh.

Trên tuyến phòng ngự của địch, những bựng khói đen dựng lên thưa dần. DK.75 địch còn “cùng - x..**.o” vài quả nữa sau cũng tịt luôn. Loe loé đầu nòng độc nhất một khẩu 12.8mm, “toang toác_ khùng khùng” chừng thêm được vài phút thì cũng tịt nốt. Đã nghe tiếng súng con lốp bốp giòn như rang bắp. Trên cao có tiếng gầm rít của một phi đội máy bay phản lực. Tôi ngửa mặt nhìn nhưng không thấy máy bay đâu. Chúng tôi dịch dần đội hình lên trên nữa. 11h30 trung đoàn đã đánh qua lớp công sự thứ nhất. Ở mấy hầm tiền tiêu còn mấy quả bom bay đen trũi to như cái thùng phuy, bọn lính Miên chết pháo, không kịp gí. Đến 12h trưa, chịu không nổi, địch bắt đầu tháo chạy.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Xe hậu cần trung đoàn chở đạn dược bổ sung lên đến tận nơi. Trừ mỳ tôm và gạo theo khẩu phần, còn đạn không cấp phát theo định lượng cơ số mà xả thùng xe. Ai muốn lấy gì mặc lòng. Phủ phê các loại M.72, M.79, các thùng đạn K.56, cối các loại…Có cả mấy thùng lựu đạn M.67 mới khui hăng hắc mùi Mỹ. Của hiếm để đánh cá đây! Trung đội thông tin nhặt mỗi thằng 2 trái, móc lên hai quai máy 2W. Bọn bộ binh đến sau thì hết lựu đạn, bèn giật của chúng tôi rồi cười hì hì bỏ chạy. Lại phải ém vào túi cóc ba lô. Anh Ky cầm trái M.67 của tôi, xoay tháo cái mỏ vịt ra kiểm tra. Cái kíp nhôm hình trụ, có hai vòng thắt ngấn và chấm một đốm sơn xanh blue. Tốt ! Loại an toàn. Hễ thấy một ngấn thắt và chấm sơn đỏ thì đừng có mà xài nghe mày. Kẻo mà banh xác!

Lệnh trung đoàn đổi D4 chủ công, thay cho D6. Tiếp tục tiến công! Chúng tôi vượt qua người anh em cùng trung đoàn, lầm lụi bước. Bây giờ, chúng tôi là đơn vị đi đầu của sư đoàn trên hướng tiến công mặt lộ 1 này. Phát triển truy kích đến chiều tối, tiểu đoàn dừng tạm trước một con lạch nhỏ nước đục ngầu. Bên trái có lẽ là trạm phẫu tiền phương của địch. Bông băng, dụng cụ y tế quăng bừa bãi. Mùi máu tanh nồng, mùi gây gây xác người lẫn mùi hăng của thuốc tê...Những chiếc võng còn dính đầy máu chăng ngang dọc dưới chân cột nhà sàn. Hẳn bọn Pốt mới rút lui chưa lâu.

Hôm ấy tiểu đoàn bộ nằm lẫn luôn với đội hình đại đội 1, do Anh Sơn tự tay bố trí đội hình. Ba trung đội bộ binh C1 dấn lên phía trước theo hướng con lộ. Khẩu đại liên anh ấy lôi lên đặt trên cái cầu nhỏ, kiểm soát mặt lạch. Trung đội trinh sát với trung đội vận tải bung sang hai cánh ruộng bên đường. Thông tin tụi tôi nằm dưới gậm cái nhà sàn cạnh BCH tiểu đoàn. Ấm sườn sướng rên!

Tụi anh nuôi tiểu đoàn và đại đội 1 leo xuống bờ thấp, đào bếp cạnh nhau sát mặt sông. Lửa bếp chiều hôm loáng trên mặt nước. Lãng mạn y như công dân Liên xô đi cắm trại trong các tờ họa báo…Đêm sâu dần và trời tối lắm! Chỉ còn ánh sáng trắng mờ mờ, hắt lên từ mặt nước. Chúng tôi được ăn cơm nóng với canh mỳ tôm nấu loãng. Trung đoàn thông báo E3 đang nằm sườn phía bắc đường. Cẩn thận kẻo bắn nhầm. Các đơn vị nhận nhau ngoài vô tuyến điện còn bắn bắt liên lạc, cộng tròn bằng 7.

Đêm đầu tháng, như để bù lại cho buổi ban ngày, cực kỳ yên tĩnh. Hướng E3, một vài viên đạn lửa vẽ những đường cam trên bầu trời đêm thẫm tối. Không nghe thấy tiếng súng. Có lẽ họ ở khá xa chúng tôi.

Hướng tiến quân ngày 4/01/1979 của E2F9



Sáng sớm ngày hôm sau, có lệnh tiếp tục tiến. Đồng ruộng trống trải. đội hình hàng dọc đi trên mặt lộ như một buổi hành quân dã ngoại, mỗi lúc một rảo bước. Thị xã S'vay Rieng đã hiện ra trước mặt. Trên cây cầu sắt bắc qua sông phía xa bên phải, một đoàn quân cũng đang vượt tới. Triển khai ngay đội hình chiến đấu và bắn bắt liên lạc. Ba phát AK vang lên. Bên kia trả lời đĩnh đạc bốn phát. Ta rồi! Đó là lính tiểu đoàn 7 trung đoàn 3. Trong chiến đấu, không gì vững lòng bằng lúc gặp đơn vị bạn đang cùng hướng, cùng nhiệm vụ. Chúng tôi vòng sang, gặp nhau trên cầu sắt tiến vào vào thị xã. “Cho xin hớp nước bạn ơi!”.” Này! Dốc sang một nửa bi đông!”. Cảm động cứ như quân Đồng minh gặp nhau trên bờ sông Elber. Hồi đó cái đầu học trò chưa gột của tôi toàn những ý tưởng kỳ quái tựa tựa như thế!

Lúc 9h30 sáng ngày mùng 4 tháng một năm 1979, trung đoàn chúng tôi vào thị xã S'vay Riêng không tốn một phát súng nào.

Cây cầu sắt mới làm, nằm trên đường tiến của D4. Nếu hồi đó đã có cây cầu này thì chúng tôi và D7 sẽ tiến song song:

 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Một thời đầy gian lao; khi cụ chủ thớt lâm trận thì em mới học lớp 2 ạ.
Ấy chết ! cụ không đọc kỹ tựa đề . Hồi đó em cũng đang là thằng nhóc ...thò lò mũi xanh thôi cụ ạ .

Đây : Ngày trước đánh nhau bên K bọn anh hay dùng loại lựu đạn da láng của Mỹ nó....tròn tròn như thế này :D

 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
D trưởng báo về trung đoàn rằng đã vào được thị xã. Lệnh E cho bộ đội bố trí chốt cứng, chờ hậu quân tiếp lên. Tiểu đoàn 4 rẽ trái, bố trí đội hình ở một khu phố. Ban chỉ huy nằm ở một cái nhà sàn giữa vườn dừa. Trung đội thông tin nằm trong cái nhà đúc, cách tiểu đoàn khoảng dăm chục mét. Căn nhà nhỏ nhưng đẹp ghê! Mà đối với một thằng lính cả tháng trời nằm hầm, nằm đất thì căn nhà bình thường nào chẳng đẹp? Nằm dài trên nền đá hoa mát rượi. Gối đầu lên cái ba lô, nhìn qua ô cửa sổ nắng lấp lánh, có chùm vú sữa chín trắng đong đưa. Gió chướng lùa lá dừa, xạc xào tít trên cao nữa. Giá có cái đài phát chương trình bài hát theo yêu cầu thính giả nữa thì đúng là một sáng Chủ nhật yên bình…

S’Vayrieng



Tháng Ba năm 2011, sau nhiều lần trì hoãn, chúng tôi đã trở lại, đi trên con đường tiến quân ngày ấy. Ba mươi năm có lẻ. Đứa đã hy sinh về trong lòng đất, đứa còn sống đã chồn chân mỏi gối. Vẫn bờ đập ấy, bãi lầy ấy, cây cầu ấy… Hàng dầu cổ thụ vẫn mùa khô bay hoa… Song giờ đây người còn, người mất. Người trở lại âm thầm ngó chiến địa xưa:



Ngày trở lại

Ta còn mãi
Khúc quân hành lặng lẽ.
Có vơi không
Kỷ niệm
Một thời trai trẻ?
Trở lại trận địa xưa

Vặn mình quặn nhớ
Đứa mất.

Đứa còn.

Bờ đất ấy
Thằng dính mìn kêu ơi ới!
Nắng ong ong

Hững hờ đụm khói.
Về với mẹ qua những cơn mơ
Thỏa thích vục đầu vào vại nước mưa.
Ngọt ngào và mát
Như tuổi thơ.


Trở lại chiến trường xưa
Hát lại khúc quân hành năm cũ
Gốc cây này
Đồng đội tôi nằm
Như đang ngủ
Bỏ lỡ lời thề về chốn cũ.


Xóm nhỏ gần Phủ Lý
Có cô bé trong tấm hình nhỏ tí

Tựa ngón tay.
Ngủ rất say!
Mang theo tuổi mười tám.
Nó đâu cần thương cảm
Tít trời xanh nhẹ như áng mây


Đâu như chúng ta đây
Trĩu đôi vai
Canon , Nikon , Pentax
Và đong đầy tình nhân thế
Hát mãi khúc quân hành như thể
Những người lính năm xưa.


(Tác giả: Votmuoi_CCB K thuộc Sư đoàn 10-QĐ3)

Bây giờ, hãy trở lại S’Vayrieng của ba mươi năm trước.

Nằm mãi chán, tôi vùng dậy đi theo chúng nó đập vụng vú sữa và xoáy dừa xiêm. Phải đập vụng bởi đã có lệnh trên cấm vi phạm tài sản, nhà cửa, tính mạng nhân dân nước bạn. Chẳng nhớ rõ là bao nhiêu điều. Song, cứ theo cái lệnh cấm nghiệt ngã đó thì bọn lính chúng tôi chỉ được thở không khí nước bạn, được dùng nước sông, nước giếng của bạn, được lấy củi khô để nấu cơm nấu nước. Ngoài ra cấm tất! Thế nên muốn ăn vụng thì phải đi xa BCH. Không có các anh ấy biết thì kỷ luật là cái chắc. Nhưng đời là mấy tí? Cơm treo mèo nhịn với mấy thằng lính cùi nay sống mai chết thì đâu có được?

Anh Nhương túm đâu được con lợn khoảng hai chục ký vẫy tay rối rít gọi Toàn cồ. Hai người lùa nó vào trong toilet, phân công tôi đứng ngoài canh...tiểu đoàn. Một bao dứa đầy gio bếp chụp vào đầu nó, thế là con lợn Pôn Pốt chỉ còn “hập! hập…!” được mấy cái là xong đời. Chắc xưa ở nhà hành nghề trộm lợn nên tôi thấy các ông ấy thành thạo lắm. Pha thịt chặt xương ngay trong toilet chỉ một loáng là đâu ra đấy. Gia vị chỉ có mấy gói ngũ vị hương tống vào nhưng cứ thơm phức. Lại còn mót được vài quả đu đủ non để hầm xương. Anh nuôi nhọ *** chia xong là mấy thằng vội vác chậu cơm về. Một nửa trung đội ăn trước, một nửa ăn sau. Nhớn nha nhớn nhác nhưng ngon miệng không chịu được. Thịt tươi có khác, ấm chân răng nhưng nhức, hơn hẳn thịt ôi hậu cần cấp muộn. Chén xong, thằng Ban trố đi rửa chậu về trả anh nuôi. Bố Nhương giằng lấy, khịt khịt ngửi đi ngửi lại rồi bắt nó mang xà bông đi rửa thêm lần nữa.

Một ngày có thịt tươi chén, có nước dừa uống, có vú sữa tráng miệng và được nằm nghỉ ngơi dưới mái nhà có giá đèn treo trên trần trắng. Cuộc đời vẫn đẹp sao! Chúng tôi không hề biết là sẽ đi những đâu, đánh những đâu? Bao giờ thì hết chiến dịch này cũng không biết nốt. Tôi chỉ mong đừng phải đi đánh đâu nữa. Chốt bố trong cái nhà ngon lành này, cái thị xã nhỏ xinh này cũng được. Địch nó đến thì bắn AK qua cửa kính. Khung cảnh phố thị với những ngã tư, nhà tầng, vỉa hè, cây phố nhắc tôi nhớ đến quê nhà, nhớ đến cuộc đời yên bình văn minh. Nỗi ước ao bé nhỏ thật thà của những thằng lính chiến, dù mới hôm qua còn chúi hố, lấm láp và nhớp nháp như những con sâu đất.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
NEAK LUONG

Khoảng 2h chiều, đang nằm khoèo đánh giấc trưa thì xe trung đoàn chuyển cứ từ Chi Phu lên đến nơi. Hậu cần trả lại các đồ nặng, đủ thứ linh tinh bỏ lại lúc đánh vận động. Lúc đó túi mìn claymore đeo hông, đựng đồ gọn nhẹ như võng nilon và tấm đắp, thường chỉ có cán bộ đại đội mới có. Tôi nhận lại cây đàn. May mà vẫn còn đủ dây. Tiểu đoàn tập trung ra ngã tư chuẩn bị hành quân tiếp. Thế là tan giấc mơ hoa nhà lầu chốt chặn.

Đủ các loại xe pháo, lính sư đoàn tập kết gần ngã tư trung tâm thị xã. Một thằng lính trung đoàn 1 mượn cây đàn của tôi, ngồi trên quầy bán hàng của một cửa hiệu hát say sưa. Mắt nó cũng bị lác như thằng Thiệu mù trung đội tôi.

Mẹ Việt nam mắt ngời sáng quắc.
Nghe đâu đây tiếng vọng hòa bình.
Lệ nhạt nhòa đôi mắt long lanh.
Nghe tin con vẫn còn ngày xanh.

Một cành hoa em cài mái tóc…

Lính trung đoàn 1 ngồi bâu xung quanh. Một số đứa âm ư không thuộc nhưng vẫn gào theo. Chẳng biết ngày xanh còn được đến bao giờ? Nhưng cái trò vè văn nghệ văn gừng thì nó khích nhau ghê lắm! Anh Nhương hất hàm, ý ra hiệu cho tôi thể hiện cho bọn nó biết mặt. Ông này tính máu ăn thua quá. Tôi biết nó ở “trình” dưới nên cười xòe. Lão ấy chờ nó hát hết bài, đòi lại cây đàn hầm hầm vác đi, cứ như bảo tao đây cũng chơi tốt. Mày đã là cái gì?

Lệnh tiếp tục tiến công hướng trục lộ 1! Đổi lại, tiểu đoàn 6 đi trước, tiểu đoàn 4 đi sau. Đánh Ph’nom Penh à thủ trưởng ơi? Không biết! Cứ đi đi đã! Đi một lúc thì tiểu đoàn 6 đụng địch. Bọn Pốt trụ lại tại cái bờ đê cách thị xã khoảng 6km chặn quân hành tiến. Không nghe tiếng hỏa lực. Chỉ có tiếng đạn nhọn léc chéc trên đầu. Tiếng đề pa pháo 105mm ầm ầm sau lưng. Dừng khoảng 20 phút là đường lại thông.

Chiều tối dần. Tiếp tục hành quân thẳng tiến hướng tây. Lúc đi, lúc nghỉ mải miết. Bàn chân dần sưng phồng, mọng nước như bị bỏng. Đi nhón thì tức chân. Chọc vỡ ra thì rát. Phần da ngoài bong ra, trầy trật xót. Mắt nhắm mắt mở, thỉnh thoảng lại đụng thằng đi trước vì buồn ngủ. Hễ có lệnh nghỉ giải lao là hạ ba lô nằm thẳng cẳng trên mặt lộ, ngủ ngay được. Đến khi bị đá dậy còn càu nhàu, tưởng là mình vừa mới ngả lưng xong. Khốn khổ nhất là hoả lực cối đại 4. Mỗi thằng một gánh đòn tre kẹp 8 quả cối 82. Thằng Văn râu đỏ đồng hương Hà Nội lặc lè với cái mâm đế cối. Tướng người đậm thấp, khoác cái mâm đế trông không khác gì con rùa. Bù trừ thôi mày! Lúc bộ binh xung phong thì chúng mày chỉ mỗi việc nằm sau, ung dung thả đạn.

Lúc đêm khuya lắm, không rõ là mấy giờ thấy bọn đằng trước chộn rộn hết lên. Có tiếng mõ bò, tiếng bánh xe lăn xiết cồng cộc kèm theo một mùi khét cháy lạ thường. Anh Thưởng hét :”Dân, dân đấy! Để cho họ đi!”. Trong ánh đèn pin loang loáng, đoàn dân bạn nhếch nhác tơi tả, cắm cúi trôi ngược chiều trong câm lặng. Tiếng xe lăn, tiếng mõ bò lốc cốc tụng kinh đêm trường xa dần, xa dần…

Toác toác_khùng khùng…Một loạt 12.8mm đỏ lừ bay sạt đầu từ bên phải đường. Chúng tôi lăn giạt hết sang sườn lộ. Chẳng biết ta hay địch, cứ tranh thủ ngủ cái đã. Trinh sát tiểu đoàn bắn AK bắt liên lạc theo lệnh tham mưu. Bọn kia vẫn “toác toác khùng khùng” vào đội hình. Anh Sơn hô bọn đại đội 4 giá súng 12.8mm bắn lại, nhưng bắn cao lên. Bên kia toác toác, bên này khùng khùng trao đổi mấy loạt thì thôi. Từ đó cả hai xuống giọng, dùng AK. Bên này bốn phát, bên kia ba phát và ngược lại như quy định. Quân ta rồi! Thông tin trung đoàn thông báo đó là quân sư đoàn 7. Bắn trao đổi mãi cho tới khi bọn tôi đi xa tít. Tiếng súng gọi bầy của đơn vị bạn nhỏ dần, nhỏ dần…

Đã đi bộ qua một đêm dài dường như vô tận…



Mãi gần trưa hôm sau mới có lệnh dừng lại, nấu cơm ăn rồi chờ xe của sư đoàn. Mặt lộ cao, ngó xuống hai dãy nhà sàn mái ngói xếp hàng hai bên đường. Trong lúc chờ cơm, trèo lên một căn nhà lục lọi, tôi thấy trong bao thóc đổ có mấy cuốn truyện của Duyên Anh bèn nhét vào ba lô. Chắc chủ nhân ngôi nhà này là Việt kiều, không biết còn sống hay đã chết? Nhắm mắt định ngủ một chút bù lại một đêm thức trắng. Nhưng không hiểu sao mắt cứ chong chong. Có lẽ do hưng phấn khi đặt chân đến một miền đất mới. Một số xe đang vượt qua chỗ bọn tôi nghỉ tạm trên mặt lộ. Trong các video clip sau này được xem, thấy có cảnh hành tiến của xe tăng trên đường. Nhưng tôi có thể chắc chắn rằng trên lộ 1, từ Chi Phu cho đến Neak Luong, trong khoảng từ ngày 03/01/79 đến 05/01/79, chúng tôi không thấy một đơn vị xe tăng nào đi cùng bộ binh cả.

Quá trưa đến chiều thì bắt đầu sốt ruột. Mãi không thấy xe sư đoàn đâu. Kiểu này lại hành quân bộ quá! Y như rằng lại có lệnh lên đường. Quá ít xe nên sư đoàn sẽ chuyển tăng bo dần từng đơn vị. Lại mải miết đi...Nhưng không thấy bết như đêm hôm qua nữa. Trong một chặng nghỉ, bỗng nhiên ai cũng ngẩng lên. Dường như có hàng trăm con diều sáo vô hình đang reo lên vu vu cùng một lúc trên đỉnh trời. Mãi lúc sau mới nghe phía đằng sau lưng, rộ lên một loạt đề pa như sấm ầm ì. Tiếng hú gió của đạn pháo 130mm đến nhanh hơn tiếng nổ đầu nòng. Đạn pháo bay qua đầu chúng tôi, nổ bên kia phà Niek Luong. Anh Sơn D trưởng bảo:” Kachiusa đi em!”. Thằng Chương Thanh hóa đại đội 3, nhào đến cạnh tôi hát luôn. Đào vừa ra hoa, cành theo gió đưa vầng trăng tà. Ngoài dòng sông, màn sương trắng buông lững lờ. Tựa bến sông bóng ai in trong làn sương mờ. Cất lời ca, rằng Kachiusa đang chờ…Anh ấy mới có người yêu. Chị ấy tên Hà, là diễn viên múa đoàn ca nhạc Bông Sen thành phố Hồ Chí Minh. Và tất nhiên rất xinh. Chúng tôi hát với nhau, với phần đệm bộ dây là cây guitar lẻ loi, và bộ đồng là dàn hơi da diết đang hú ở trên đầu…



Mấy cái xe tấp đến đón chúng tôi. Tất cả leo ào lên thùng xe, duỗi đôi chân đã quá rã rời cho khoan khoái. Tôi ngồi ngó nghiêng cảnh vật thay đổi hai bên đường. Đồng ruộng tít tắp. Một dãy núi thấp xanh mờ bên phải đường, tô đẹp thêm cho cảnh chiều hôm. Đi trận mà như thế này quả là dễ chịu. Xe chạy chừng gần 1 tiếng, lắc lư trên đường đầy hố pháo. Một làn gió mát rượi đẫm hơi nước ào tới.



Phà Niek Luong đây rồi! Mêkong đây rồi!

Hai dãy nhà bê tông bỏ hoang uốn cong theo thế mở bến phà. Những bức tường toang hoác. Mấy cây phượng tây cổ thụ um tùm che bóng. Gắt trong không gian mùi lá ngâm, mùi cá mắm, mùi khét lá quấn thuốc cò ke. Tôi biết bến phà này từ mấy năm trước, khi tô đỏ những tỉnh miền Nam được giải phóng từng ngày trên cái bản đồ.



Cuộc chiến đã cuốn chúng tôi đến đây, tới bờ sông này, trước khi đẻ chín nhánh Cửu long trên đất Việt. Chạy ào xuông dốc phà, khoả nước lên mặt. Mê Kông loang loáng chảy. Gió lồng lộng. Trên sông, đoàn tàu há mồm LCU chở quân lùi lũi ngược sóng. Hộ tống hai bên sườn là bốn chiếc khinh hạm loại nhỏ. Ba chiếc LCU khác cập bến thả cầu đón đơn vị sang sông. Thật là lạ, đến một thằng binh nhì như tôi cũng không thể hiều nổi vì sao nó không lợi dựng cái chiến hào thiên nhiên vĩ đại này để tổ chức phòng ngự? Chắc chắn sẽ gây không ít khó khăn cho quân ta.



Chiều ấy, đơn vị qua sông, dừng chân ngay trái bến phà, bờ hữu ngạn...
 

pkhcsht

Xe điện
Biển số
OF-93302
Ngày cấp bằng
28/4/11
Số km
2,211
Động cơ
420,796 Mã lực
Nơi ở
Ngõ nhỏ, phố nhỏ
Giản dị, chân thực và đọng lại chất nhân văn. Thank Cụ and Vote.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Cám ơn các cụ đã chia sẻ tình cảm với người CCB chiến trường K năm ấy ! Bác ý biết được chắc có lẽ rất vui ạ !

Em xin pots một chút chính sử của F9 - Quân đoàn 4 lên ( đơn vị tác giả ) cho các cụ hình dung chút . Vì tác giả cũng nói là lúc đó chỉ là cấp bậc binh nhì lên cái nhìn cũng không được sâu rộng được toàn cục những trận chiến .

"Trong hai ngày 30 và ngày 31 tháng 12 năm 1978, **** ủy, Bộ Tư lệnh Quân đoàn họp tại Sở chỉ huy ở Bos Môn, nam ngã tư Nhà Thương. Hội nghị tổ chức, quán triệt quyết tâm của Bộ, nhiệm vụ chung của Quân đoàn, tổ chức hiệp đồng và giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đơn vị. Trong đó Sư đoàn được giao nhiệm vụ đánh chiếm Pra Sốt, Tà Cưng và cầu Soài Riêng. Theo kế hoạch, nhiệm vụ cơ bản của Sư đoàn là:
1. Tổ chức trận địa phòng ngự trên một chính diện rộng từ nam Tà Yên đến bắc Kà Chay, Praytưng, củng cố công sự trận địa, tác chiến giữ vững và căng kéo kìm chân địch ở hướng quốc lộ 1.
2. Khi có thời cơ kiên quyết tiến công, phối hợp với các đơn vị bạn của Quân đoàn và của Long An thực hành chia cắt, bao vây tiêu diệt sư đoàn 1 của địch, mở rộng địa bàn hướng lộ 1. Mục tiêu tiến công đầu tiên được giao là đánh chiếm Prasốt và Soài Riêng. Trong quá trình tiến công, khi đã làm chủ Soài Riêng, tiếp tục tiến công đến phía đông sông Mê Kông, tiếp theo tới bờ sông Mê Kông giáp Tôn Lê Basak, thực hành tiến công truy quét địch.
Chấp hành mệnh lệnh chiến đấu Quân đoàn giao, **** ủy, Bộ Tư lệnh Sư đoàn đã chỉ đạo các đơn vị quán triệt nhiệm vụ và làm công tác chuẩn bị khẩn trương, chu đáo. Cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn tràn đầy khí thế chiến đấu cao, sẵn sàng bước vào chiến dịch.
Về phía địch, từ ngày 23 đến 28 tháng 12 năm 1978, sau khi bị tiêu diệt ba trung đoàn ở tây nam Bến Sỏi, chúng phải co lực lượng về phòng ngự ở Xoài Riêng, giữ đường 10 và đường 24. Riêng trên hướng tiến công của Sư đoàn lực lượng địch gồm: Sư đoàn 1 có ba trung đoàn, một trung đoàn của sư đoàn 640, một trung đoàn 804 vùng và có tăng cường thiết giáp, pháo binh. Địch bố trí lực lượng ở bắc lộ 1, từ cầu Tà Yên về Xoài Riêng. Đội hình địch chủ yếu tập trung cho phía trước. Trận địa có công sự, hoả lực, đồng thời bố trí từng bãi mìn, đào hào cắt đường, phá cầu để ngăn chặn ta tiến công chủ yếu ở hướng đông và bắc lộ 1.
Khu vực tác chiến của Sư đoàn là địa hình đồng bằng, đồng ruộng, xen lẫn với các phum, sóc thuộc tỉnh Soài Riêng. Vào tháng mùa khô, đồng đất Campuchia khô ráo, nứt nẻ, rất thuận tiện cho việc cơ động và triển khai lực lượng tiến công. Sư đoàn lấy đường số 1 và đường 24 là đường cơ động chính.
Trong quá trình phát triển ta có gặp một số khó khăn, vì từ đoạn cầu Tà Yên đến Soài Riêng có năm cây cầu khi địch rút chạy đã phá hỏng, nhiều đoạn đường bị đào cắt ngang nhằm hạn chế mức độ tiến công của ta.
Khi bước vào chiến đấu, các đơn vị của Sư đoàn đều được bổ sung quân số và củng cố huấn luyện, nhìn chung về trình độ chiến thuật, kỹ thuật, trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ các cấp được nâng lên. Mặt khác, Sư đoàn cũng đã rút được nhiều kinh nghiệm qua các chiến dịch, các trận chiến đấu của 2 năm 1977-1978. mọi mặt đơn vị đã chuẩn bị sẵn sàng, tuy nhiên do tác chiến liên tục, đơn vị lại có nhiều chiến sĩ mới, chưa được thử thách rèn luyện nhiều trong chiến tranh.
Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Quân đoàn, **** ủy Sư đoàn đã họp đề ra quyết tâm với tư tưởng chi đạo: chuẩn bị chu đáo, nắm chắc thời cơ, tiến công kiên quyết, táo bạo, liên tục tiến công tiêu diệt được nhiều địch. Hình thức tác chiến lúc đầu là tập kích, đánh chiếm bàn đạp, tạo thế tiến công và thực hành vận động tiến công truy quét địch, thực hiện chia cắt bao vây trước và ở hai bên sườn để phía sau tiêu diệt địch.
Hướng tiến công chủ yếu của Sư đoàn là trục đường số 1. Hướng chia cắt, chặn địch là trục đường số 24 (nam Chấk) cắt xuống Tà Hô (đông Soài Riêng).
Hướng phát triển theo trục đường số 1, mục tiêu đánh chiếm là Pra Sốt, Soài Riêng. Khu vực chủ yếu là nam trục đường số 1, đông nam và tây nam thị xã Soài Riêng.
Bộ Tư lệnh Sư đoàn đã bố trí lực lượng của ba trung đoàn ở ba hướng. Hướng chủ yếu, Trung đoàn 3 có 8 xe tăng T54 đảm nhiệm mở cửa thọc sâu theo trục đường số 1. Hướng thứ yếu, Trung đoàn 2 đảm nhiệm đánh chặn địch ở đường số 24 đến Tà Hô.
Trung đoàn 1 luồn sâu phía sau kìm giữ và diệt lực lượng dự bị cơ động của địch. Ngày 31 tháng 12 năm 1978, địch phát hiện xe pháo ta di chuyển trên trục đường số 24, phía bắc Chấk, dự đoán hướng tiến công chủ yếu của ta là đường số 1 - Soài Riêng, vì vậy chúng tăng cường đề phòng và tung lực lượng ra phía trước ngăn chặn."
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
"Ngày 1 tháng 1 năm 1979, thực hiện quyết tâm của Bộ các đơn vị đồng loạt nổ súng mở màn chiến dịch. Tư lệnh Sư đoàn Võ Văn Dần và quyền Chính uỷ Lê Văn Nguyễn trực tiếp chỉ huy Sư đoàn triển khai lực lượng thành ba hướng tiến công. Trung đoàn 2 dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Phan Minh Thống và Chính ủy Nguyễn Tấn Diện có nhiệm vụ cắt, chặn cầu Kà Chay trên quốc lộ 1, đã thực hành chiếm lĩnh trận địa, địch gài mìn, dùng pháo cối ngăn chặn và phản kích quyết liệt, Trung đoàn có ý định đưa Tiểu đoàn 6 tiếp tục tiến công nhưng có lệnh của Sư đoàn dừng tại chỗ nên các đơn vị lui về vị trí đứng chân chốt giữ.
Ở hướng Trung đoàn 1 dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Trần Nhạn và Chính ủy Bùi Sỹ Vui cũng không luồn sâu phía tây bắc chùa Pra Sốt được vì địch đánh bung ra và phản kích quyết liệt cuối cùng trung đoàn phải tạm lui về vị trí tập kết.
Ở hướng Sàn Lây, Trung đoàn 3 do Trung đoàn trưởng Lê Viết Cát và chính uỷ Đỗ Minh Nguyệt chỉ huy thực hiện luồn sâu chậm, trên đường đi đụng phải mìn, chông của địch. Tới Sàn Lây, Tiểu đoàn 8 nổ súng tiến công nhưng bị địch chặn lại và phản kích ở bên sườn. Lúc 10 giờ, trung đoàn phát hiện địch điều lực lượng từ bắc xuống đã tổ chức ngăn chặn địch nhưng địch phản kích mạnh bằng hai mũi, bộ đội bị thương vong nên Trung đoàn 3 cũng phải lùi lại. Qua một ngày chiến đấu, Sư đoàn chưa thực hiện được quyết tâm đặt ra, chỉ diệt được 120 tên địch, trong khi đó bộ đội ta hy sinh 27, bị thương 130 đồng chí.
Tại Chỉ huy sở của Sư đoàn vào lúc 15 giờ, Bộ Tư lệnh họp nhận định: địch chống cự quyết liệt, chứ không sớm tháo chạy như phán đoán của ta, các đơn vị chiến đấu gặp nhiều khó khăn, hiệu suất chiến đấu thấp. Nguyên nhân là do chưa có thời cơ, sử dụng lực lượng lại phân tán, hỏa lực không phát huy được, công việc tổ chức chuẩn bị chiến đấu vội vàng, chưa chu đáo. Đối với các đơn vị bạn cũng tình trạng khó
khăn tương tự. Trước tình hình trên, Tư lệnh Sư đoàn báo cáo và được Bộ Tư lệnh Quân đoàn đồng ý cho Sư đoàn tạm dừng tiến công và củng cố tại chỗ.
Giữa lúc các đơn vị đang tổ chức lại cuộc tiến công, thì 23 giờ ngày 2 tháng 1 năm 1979, đài trinh sát kỹ thuật bắt được tin: bộ tổng tham mưu địch hạ lệnh cho quân lính ở đường số 10 và đường số 1 rút về phòng ngự ở Sa Cách, Prey Veng, Nek Lương chỉ giữ lại một bộ phận nhỏ kìm giữ, ngăn chặn, nghi binh. Sau khi xác định nguồn tin địch rút về phòng ngự là chính xác, lập tức Quân đoàn quyết định cho Sư đoàn triển khai lực lượng phối hợp cùng lực lượng Bạn phát triển về phía tây, tiêu diệt địch, đánh chiếm các bàn đạp như kế hoạch cơ bản đã đề ra.
Sáng ngày 3 tháng 1, khi máy bay ta oanh tạc vào đội hình tháo lui của địch. Cùng với các mũi tiến công của các đơn vị, toàn bộ lực lượng của Sư đoàn phối hợp với lực lượng vũ trang Bạn đánh địch tháo chạy và mở hướng tiến công chủ yếu dọc đường số 1.
Để thực hành tiến công, Bộ Tư lệnh Sư đoàn sử dụng Trung đoàn 2 được tăng cường hỏa lực làm nhiệm vụ theo hướng đường 25 cắt xuống Tà Hô trên lộ 1 để chặn đường rút quân của địch. Trung đoàn 3 được tăng cường xe tăng thiết giáp và hỏa lực tiến công theo trục lộ 1. Trung đoàn 1 làm lực lượng dự bị cho Sư đoàn, dùng hỏa lực pháo, cối và bộ binh thực hành nghi binh thu hút trước chính diện, sau đó vận động sau đội hình Trung đoàn 3. Đúng 2 giờ sáng ngày 3 tháng 1 năm 1979, các đơn vị trong Sư đoàn được lệnh nổ súng.
Trên hướng quốc lộ 1, Trung đoàn 3 dùng sức mạnh tổng hợp đánh tan quân địch chốt giữ đông cầu Tà Yên, buộc địch phải bỏ chạy sang phía tây sông chống cự quyết liệt. Trung đoàn 1 được lệnh dùng hoả lực phối hợp cùng hoả lực của Sư đoàn và Trung đoàn 3 đánh mãnh liệt vào đội hình địch bên tây bờ sông để yểm trợ cho Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 3) vượt qua cầu phát triển về phía trước. Phát hiện thấy lực lượng của ta quá mạnh, quân địch tổ chức ngăn chặn từng bước và lùi dần về Pra Sốt và phía nam lộ 1. Toàn bộ đội hình tiến công của Sư đoàn (thiếu Trung đoàn 2) đã vượt qua sông Tà Yên. Tranh thủ lúc địch đang hoang mang, Trung đoàn 3 nhanh chóng tiến công đánh chiếm Pra Sốt, Trung đoàn 1 được lệnh giữ lại hai Tiểu đoàn 1 và 2 làm lực lượng dự bị cho Sư đoàn, còn Tiểu đoàn 3 tăng cường cho Trung đoàn 3 tiếp tục tiến công. Trong lúc Trung đoàn 3 hình thành một mũi tiến công Pra Sốt, Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 1) phát triển xuống phía nam đánh địch giữ sườn trái cho Trung đoàn 3 đồng thời bắt liên lạc với Trung đoàn Long An. Chiếm được Pra Sốt, Tiểu đoàn 3 trở lại đội hình Trung đoàn 3 tiếp tục phát triển về hướng tây đánh chiếm Tà Hô và thị xã Soài Riêng.
Mất Pra Sốt, quân địch chạy dồn về phía tây, qua cầu Cà Chay chúng định phá sập cầu và tập hợp tàn binh của nhiều đơn vị lập tuyến phòng ngự kết hợp với bọn địch ở khu vực Tà Hô ngăn chặn mũi tiến công của ta từ hướng đông vào thị xã Soài Riêng. Đến cầu Cà Chay, Tiểu đoàn 3 gặp địch chống cự quyết liệt. Trung đoàn trưởng Trung đoàn 3 Lê Viết Cát lệnh cho Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 1) nhanh chóng thành một mũi phát triển xuống phía nam truy quét tàn quân địch, giữ sườn bên trái cho Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 3) tiến công chính diện và phối hợp với Tiểu đoàn 9 bọc phía bắc đánh xuống. Đến 11 giờ lực lượng của Trung đoàn 3 đánh dứt điểm các mục tiêu tiến thẳng về phía Tà Hô. Địch ở Tà Hô chống cự yếu ớt nhưng do bộ đội ta vận động đường dài quá mệt, tốc độ phát triển chậm, ta phải dùng pháo bắn mạnh. Tiểu đoàn 7 tiếp tục bám sát đánh địch buộc chúng phải bỏ chạy về Soài Riêng. Đúng 16 giờ Trung đoàn 3 chiếm được ngã ba Tà Hô, đông cầu Soài Riêng.
Trên hướng Trung đoàn 2 vào lúc 3 giờ 30 phút ngày 3 tháng 1, Tiểu đoàn 6 triển khai đội hình đánh theo trục lộ 24 chiếm được các mục tiêu, sau đó phát triển tiến công, nhưng do địch chống cự lại, Tiểu đoàn 6 không tiếp tục tiến lên được. Trung đoàn 2 tổ chức cho Tiểu đoàn 6 đánh tiếp ba lần, Tiểu đoàn 4 vòng đánh sang bên trái. Đến 17 giờ đội hình của hai Tiểu đoàn 4 và 6 (Trung đoàn 2) tiến lên chiếm cầu Tô Lê, địch phải rút chạy về Svây Riêng. Lúc này Trung đoàn 2 đã liên lạc được với Trung đoàn 3."
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Sử f9: trận đánh Svai rieng ngày 4.1.1979, trận này có nói pháo bắn thẳng (85?), còn d4 e2 đánh mũi vu hồi lội qua bờ đập.... vòng vào TX Svai rieng, QĐ4 và f9 chiếm TX từ 10h sáng, nên ( tác giả ) mới có thịt heo ăn và giấc ngủ trưa ngon lành :D ?....

"Đêm ngày 3 rạng ngày 4 tháng 1, đội hình Sư đoàn tạm thời dừng tại chỗ chuẩn bị tiến công Svây Riêng. Trong ngày 3 tháng 1, Bộ Chỉ huy tiền phương xét thấy Quân đoàn 4 gặp khó khăn lớn trên đường số 10, trong khi đó hướng Quân khu 7 và Quân đoàn 2 phát triển có nhiều thuận lợi nên Bộ Chỉ huy quyết định giao cho Quân khu 7 và Quân đoàn 2 đảm nhiệm vai trò chủ yếu hỗ trợ cho lực lượng Bạn đánh vào Phnôm Pênh. Quân đoàn 4 được chuyển thành lực lưọng có nhiệm vụ thứ yếu đưa một bộ phận đi trước hỗ trợ Bạn đánh chiếm cầu Mô Ni Vông và bộ tổng tham mưu địch, nếu có điều kiện chiếm Hoàng Cung. Theo kế hoạch của Bộ Chỉ huy tiền phương thì ngày 7 tháng 1 phải vào Phnôm Pênh.
Ngày 4 tháng 1 năm 1979, Sư đoàn triệu tập hội nghị quân chính, triển khai nhiệm vụ chiến đấu, tiến công giải phóng thị xã Soài Riêng, dùng pháo triển khai bắn thẳng khống chế không cho địch vận chuyển, dùng lực lượng tiến công đánh vu hồi. Thực hiện phương án tác chiến theo kế hoạch, Tư lệnh Sư đoàn quyết định sử dụng Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 3) vận động qua cầu, Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 2) cùng tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 3) vận động qua hồ đập.
Vào lúc 8 giờ 15 phút ngày 4 tháng 1 ta tiến vào thị xã Svây Riêng thu một số kho, liên lạc được với Sư đoàn 2 (Quân khu 5) từ bắc xuống. 10 giờ ta chiếm được phía tây và làm chủ hoàn toàn thị xã. Sư đoàn giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 2) chốt giữ, còn đội hình của Sư đoàn tiếp tục tiến về phía tây.
Ở hướng tây Svây Riêng bọn địch lợi dụng bờ đất chống cự mãnh liệt. Sư đoàn lệnh cho lực lượng của ba trung đoàn tiến công. Đến 16 giờ, trước hoả lực mạnh của ta với cách đánh thọc sâu có hiệu quả địch phải rút chạy. Sau khi đánh chiếm xong các mục tiêu, Sư đoàn dừng lại tạm thời ở phía tây thị xã Svây Riêng 4 ki-lô-mét để củng cố và chuẩn bị tiến công tiếp."
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Tiếp trận Neak Loeung ngày 5.1.1979 (trong sử f9):

"Sáng ngày 5 tháng 1, Sư đoàn triển khai đánh chiếm khu vực nam đường số 1, tiếp tục phát triển về hướng tây. Trong khi Trung đoàn 1 hoạt động ở phía nam đến bến phà Nék Lương; Trung đoàn 2 hoạt động ở nam ngã ba Plô Veo tiếp theo qua sông Mê Kông thì Trung đoàn 3 hoạt động ở Sa Kách tiếp theo đến khu vực Pa Nam.
Chiều ngày 5 tháng 1, các Sư đoàn của Quân đoàn thực hành chiến đấu có nhiều thuận lợi. Trong khi đó ở hướng Tà Keo do Quân khu 9 và Quân đoàn 2 đảm nhiệm lại gặp khó khăn. Trước tình hình đó, Tiền phương Bộ lại giao nhiệm vụ bổ sung cho Quân đoàn là đảm nhiệm hướng chủ yếu đánh vào Phnôm Pênh.
Đây là vinh dự và trọng trách lớn đối với Quân đoàn. Toàn Quân đoàn hạ quyết tâm tiến vào giải phóng Phnôm Pênh trước ngày 8 tháng 1, tranh thủ thời cơ địch đang trong tình thế rối loạn nghiêm trọng, nếu ta dừng lại ở Nék Lương, địch sẽ có thời gian củng cố và đối phó. Để đảm bảo giành thắng lợi nhanh chóng ngay cả khi địch phản kích, chống đỡ điên cuồng, Quân đoàn quyết định sử dụng Sư đoàn 7 làm lực lượng chủ yếu phối hợp cùng các lực lượng Bạn giải phóng Phnôm Pênh, Sư đoàn 341 làm lực lượng dự bị. Sư đoàn 9 lúc này là lực lượng phối hợp bổ sung, tất cả nhanh chóng hành quân cả đường bộ và đường sông đạt tốc độ nhanh nhất.
Phối hợp chiến đấu với các Sư đoàn 7, Sư đoàn 341, Bộ Tư lệnh Sư đoàn triển khai cho các trung đoàn phát triển ra phía đông sông Mê Kông và khu vực núi Sa Cách - Ba Nam. Vào lúc 17 giờ ngày 5 tháng 1, Trung đoàn 1 nhận nhiệm vụ đánh địch và truy quét rộng phía nam lộ 1 bảo vệ sườn và phía sau cho Sư đoàn 7 tiến công. Trong quá trình phát triển đánh chiếm các mục tiêu ở phía nam lộ 1 thuộc tỉnh Căn Đan, Trung đoàn 1 không gặp lực lượng lớn của địch chống cự, chỉ một vài trường hợp cấp trung đội, tiểu đội tổ chức ngăn chặn để phần lớn lực lượng vượt sông sang bờ tây sông Mê Công. 16 giờ ngày 6 tháng 1, Trung đoàn 1 hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm mục tiêu cuối cùng tại phía nam phà Niếc Lương, sau đó dừng lại triển khai đội hình tiếp tục truy quét địch, bảo vệ cho Sư đoàn 7 vượt sông và tổ chức thu gom chiến lợi phẩm. Vào 17 giờ ngày 5 tháng 1, Trung đoàn 2 dùng 10 xe cơ động hành quân và đến 5 giờ sáng ngày 6 tháng 1 đã đến nơi quy định. Ngay trong ngày 6 tháng 1, Trung đoàn 2 có xe M113 bao vây tiến công địch, diệt 10 tên, bắt 30 tên, địch tan rã tháo chạy. Ngày 7 tháng 1, Trung đoàn 2 tiếp tục nhận lệnh cơ động triển khai đội hình truy quét địch. ( chỗ này sử ghi hình như không khớp với câu chuyện của tác giả )
Trong khi đó, ngày 5 tháng 1, Trung đoàn 3 cũng đã hành quân đến khu vực tác chiến theo quy định, sang ngày 6, Trung đoàn tổ chức truy quét địch dọc theo quốc lộ 1 và nhận lệnh của Sư đoàn hoạt động ở khu vực Ba Nam và cơ động xuống nam Nék Lương. Trong khi đang cơ động thì Tiểu đoàn 7 phát hiện địch, ổ súng bắt ba tên, thu 35 khẩu súng, 35 xe vận tải, một máy PRC25.
Như vậy, chỉ trong vòng chưa đầy hai ngày với sức mạnh tiến công mạnh mẽ của ta, trưa ngày 7 tháng 1 năm 1979 các đơn vị thuộc Quân đoàn 4 và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đã hoàn toàn làm chủ thủ đô Phnôm Pênh.
Trong vòng hơn một tuần thực hiện kế hoạch tổng tiến công, Sư đoàn đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu bổ sung do Quân đoàn giao. Cùng với các đơn vị bạn trong đội hình Quân đoàn, Sư đoàn đã hoàn thành tốt mục tiêu chiến dịch, góp phần đập tan bộ máy chính quyền ********* Pôn Pốt, Iêng Xa-ri, cứu nhân dân Campuchia khỏi hoạ diệt chủng.
Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công giải phóng Phnôm Pênh có ý nghĩa to lớn, nó thể hiện tình hữu nghị, phối hợp chiến đấu giữa nhân dân, Lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia và Quân đội nhân dân Việt Nam.
Quá trình chiến đấu, **** ủy, Bộ Tư lệnh Sư đoàn đã thường xuyên, kịp thời làm tốt công tác lãnh đạo động viên bộ đội giữ vững quyết tâm và tinh thần liên tục tiến công, truy kích địch. Cán bộ, chiến sĩ của..."
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Vị trí D4 ( đơn vị của tác giả ) chiều ngày 05/01/1979:

 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Nhập nhoạng tối, các đại đội bố trí gác xách xong xuôi. Đội hình tiểu đoàn co cụm chứ không bung rộng. Bến phà vẫn ầm ì tiếng máy tàu, tấp nập quân sang. Lính tráng hò nhau đi tắm sông ơi ới. Bờ nước đoạn này sâu, lội ra ngoài một chút là đến ngực. Nước lạnh và chảy khá xiết. Thật khoan khoái khi ba ngày mới được tắm. Tôi làm rơi cái bát sắt xuống sông khi đang vục nước rửa. Một bà già có mái tóc bạc ngắn, ngồi trên nhà sàn sát bờ sông trông thấy, vào lấy cho ngay một cái bát khác. Cái bát sứ men hoa xanh rất nhẹ và đẹp. Anh Ky cười, “ocun” (cám ơn) hộ tôi như một quý ông thứ thiệt. Trên các ô cửa đầu thang phum này, dân bạn ngồi, tò mò nhìn những anh lính Việt. Có vẻ như không thấy gia đình nào còn đầy đủ thành viên. Dăm đứa trẻ con sán lại. Chúng tôi trêu đùa với bọn trẻ trong ánh mắt thiện cảm của những người lớn. Bọn trẻ con, và cả giống chó nữa, có vẻ rất nhạy cảm với sự tốt bụng hay thân thiện...

Các đơn vị nổi lửa nấu cơm chiều ven sông. Dọc suốt đôi bờ, những bếp lửa của lính sáng bập bùng. Các bạn của tôi, nhất là các anh đã từng là lính chiến. Các anh nghĩ gì khi ngồi bên đống lửa, ở một bến sông xa nào đó lúc chiều hôm? Hẳn là nhớ đến bếp ấm quê nhà. Có riêng thêm một niềm kiêu hãnh phiêu du ngấm ngầm của người đi biền biệt vào nơi sinh tử. Cảm xúc vị nghĩa dấn thân ấy là có thật! Đó là cảm xúc lớn của sự hy sinh, của cái đẹp tâm hồn tiềm ẩn và rất con người. Hoàn toàn không phải tư tưởng tiểu tư sản như người ta tưởng tượng hay quy kết. Nhảm nhí, phi nhân tính hết sức! Ở nhà, trong bữa cơm tối mẹ nhắc tên anh. Mẹ sợ chiến tranh, Mẹ không bao giờ muốn anh đi mất. Còn anh thì đốt lửa ngồi đây, trên bờ sông này, hay trong rừng lạnh nơi xa nào đó…Anh không thuộc về gia đình nữa mà thuộc về đồng đội. Thuộc về những thằng áo trận te tua như anh, vác nặng như anh, lấm láp như anh, ghẻ lở hắc lào như anh… Cuộc đời anh, cuộc đời những thằng lính chiến bây giờ thuộc về nhau. Bất kể anh tình nguyện hay không tình nguyện. Cuộc chiến anh theo đuổi là chính nghĩa, anh sẽ trở thành anh hùng. Là phi nghĩa, anh cũng sẽ là một kẻ thù đáng trọng, khi vẫn còn trong anh những thuộc tính của con người như thế.

Tất nhiên, bờ sông đêm hôm đó thì tôi không nghĩ như thế đâu! Kẻo các anh lại chửi tôi là đồ xét lại. Tôi chỉ thấy những đống lửa bên kia sông nhấp nháy mãi, cho đến khi mắt díp lại. Ánh lửa ấm áp trong sương, như khẳng định đích đến của hành trình. Giấc ngủ chóng đến, thật sâu và thanh thản.

Ngày 06/01/79, ai cũng yên trí rằng sẽ tiến dọc lộ 1 vào Ph’nom Penh thì trung đoàn lại lệnh xuống cho tiểu đoàn 4 xuôi cặp bờ Mekong truy quét địch. Quả là thất vọng, nhưng lệnh là lệnh. Từ Neak Lương, đơn vị ngoặt theo hướng nam, hành quân trên con đường đất dọc bờ sông. Hai bên đường, vú sữa rợp bóng, toàn những cây to, lúc lỉu quả. Khu vực các phum này bắt đầu gặp nhiều dân bạn. Họ đứng trên sàn nhà, nhìn đoàn quân đi. Không vồ vập cũng chẳng sợ sệt. Cán bộ dân vận cùng trinh sát hỏi thăm một cụ già về tình hình địch. Ông cụ cười nhe lợi: “Ruột tằng o hơi!” (chạy hết sạch rồi!). Đi một thôi nữa thì hết phum. Địa hình hai bên lau mọc um tùm cao quá đầu người. Tiếp tục đi tản ra, sẵn sàng chiến đấu.

Được khoảng dăm sáu cây số thì rẽ ngang về hướng tây. Một con đê lớn xuyên qua một cái trảng chó ngáp, song song với một con mương. Đoạn cuối con đê, chúng tôi vào một nông trường lớn. Một cái nhà xây lợp ngói đỏ, có lẽ là hội trường. Cạnh đó không xa cái nhà ăn tập thể lợp lá thốt nốt rộng mênh mông. Mấy cái nồi gang to đùng chúng nó bắn thủng hết đáy, chắc không để cho ta sử dụng được. Bọn này đúng là thực hiện tốt việc tiêu thổ kháng chiến. Các dãy nhà sàn nhỏ đứng cách nhau đều tăm tắp, xen giữa các hàng đu đủ. Thấy cái kẻng đầu nhà ăn, Thằng Cầm anh nuôi nghịch gõ mấy tiếng. Gà nghe kẻng bỗng nhiên ở đâu đổ về đông nghịt. Giữa ban ngày ban mặt, không có vật che khuất nên thèm rỏ dãi nhưng không đứa nào dám ho he. Anh Nhương đi cùng tiểu đoàn, nhìn đám gà cứ như nhìn thấy kẻ thù giai cấp, nuốt nước bọt ừng ực. Thỉnh thoảng lại liếc anh Thưởng chính trị viên.


Trưa hôm ấy, chúng tôi hạ trại nghỉ nấu cơm ngay tại nông trang. Thực đơn bữa trưa gồm cá khô mang từ bên nước sang và món gà “ngó” trứ danh ấy. Mâm tiểu đoàn cũng cá khô như lính. Nhưng có thêm chút me thằng Điệp liên lạc hái về dầm vào cho dịu vị . Bố Nhương vẫn còn hậm hực, quay sang kháy liên lạc tiểu đoàn: Điệp! Me này mày cũng ém mang từ nước sang đấy à?


Sau này thằng Căn, lính C1 kể lại là tiểu đoàn nhịn nhưng lính không nhịn được. Trung đội nó vồ được hai con, bóp chết vặt lông nấu nồi cháo gà. Khi tống vào nồi, đang đun thì anh Síu chính trị viên đại đội đi đến hỏi chúng mày nấu gì? Trả lời rằng bọn em đun nước. Anh ấy nấn ná cố tình ngồi lại một tí thì nồi cháo sôi. Cái chân gà co lên đẩy vung bật ra. Anh Síu hầm hầm không nói không rằng, bốc nắm cát ném vào nồi rồi bỏ đi. Giời đánh còn tránh miếng ăn. Khương khàn B trưởng tức nghẹn họng. Lính trung đội lầm bầm chửi vụng, tính đòi xử ngầm khi lâm trận. Rất may là chúng nó ức quá thì nghĩ càn thế thôi. Điều đó dần nguôi nhưng ác cảm lính nuôi vẫn còn nguyên đó. Quả là một chính trị viên gương mẫu và tâm lý!
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Buổi chiều hôm mùng 06/01, tiểu đoàn lại có lệnh quay lại bến phà. Gần về đến chỗ cũ thì có lệnh dừng, nghỉ đêm tại bờ sông. Lúc này các đại đội đóng gần nhau lắm. Trung đội thông tin gom đủ về tiểu đoàn bộ cả vô tuyến, hữu tuyến, truyền đạt. Gần hai chục đứa chiếm cứ cái nhà nổi trên sông. Đáy ghép bằng các thùng phuy. Mặt làm bằng các tấm ván thành một cái sàn rộng bồng bềnh. Gió sông ban đêm thổi lạnh, phải nằm sát nhau mới ấm.

Những tưởng yên vị được vài ngày thì hôm sau, ngày 07/01/79, lại có lệnh hành quân tác chiến vào đúng cái nông trang có trại gà cũ. Cha con lục đục lên đường lộn lại. Địch vẫn chẳng thấy đâu. Lính tráng vào đến cái hội trường cũ, giở cơm nắm ra ăn trưa thì lại có lệnh quay ra. Nắng mùa khô ngây ngất hoa hết cả mắt. Trảng trống tếch mênh mông, đi mãi chẳng đến nổi rặng cây xanh dọc bờ sông.

Hai ngày liền, đi đi lại lại gần năm chục cây số dưới trời nắng gắt làm tôi bết bát. Ba lô trên lưng, cuộn dây trên vai, Ruột tượng gạo năm ký quàng cổ, cái máy điện thoại TA.130 của Mỹ trẹo sườn. Tôi với anh Ky còn chung nhau một khẩu AK Liên xô có cái tay cầm nhựa màu đen nữa. Lúc tôi vác đàn thì anh ấy vác súng. Lúc tôi vác súng thì đưa anh ấy cây đàn. Tôi tháo rời cái băng đạn kép (buộc tráo đầu) của khẩu AK, gạ cho một thằng lính đại 3. Nó đếch thèm vì cũng đang thở lặc lè. Rình lúc không có ai để ý, tôi quăng tõm cái hộp tiếp đạn ấy xuống mương nước. Khẩu súng từ đó lúc nào cũng chỉ có một hộp tiếp đạn duy nhất. Lão Ky nhìn thấy thế cũng thở dài lắc đầu mà không nói gì. Trong tình thế này, cây đàn trở thành thừa và vô duyên. Đã thế nó còn bị đứt mấy dây liền do các ông tai trâu nghịch phá. Đến cái phum bờ sông đầu tiên, tôi bảo anh Ky đưa cây đàn cho em. Anh ấy vừa đưa, “Bá Nha” thả ba lô, điên tiết nghiến răng phang thẳng cánh cây đàn thân yêu vào cái cột nhà sàn. Bum một tiếng vang động. Có cả tiếng echo ngân dây cuối cùng trước khi cây đàn thoát xác. Thùng đàn vỡ toang. Lão “Tử Kỳ” rên lên: Ơ ơ mẹ cái thằng này…! Lão ấy còn xót xa hơn tôi. Nhớ những buổi trưa nằm chốt. Anh Ky tỉ mẩn rút lõi đồng điện thoại, quấn chặt từng vòng quanh cái lõi dây inox bé tí căng trên mặt ván, chế tạo cho tôi cái dây Ré, dây Mi trầm bị đứt. Khi nhàn nhã trà thuốc, chỉ yêu cầu mỗi bài: rừng cây xanh lá muôn đóa hoa tươi mừng đón xuân về…Lần nào cũng như lần nào. Anh ấy người Thái trắng, quê huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Nửa chiều, tham mưu tiểu đoàn thông báo Ph’nom Penh đã được giải phóng. Lính tráng ồ lên phấn khởi. Sống rồi! Sống rồi! Sắp được về nước rồi! Cả đoàn quân tan hết mệt nhọc, đi như bay về nơi đóng quân cũ tại gần bến phà. Trời bắt đầu tối dần. Trăng non nhấp nhóa trên lá vú sữa bóng loáng.

 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Ngày mùng 8/01/1979, cả đơn vị nao nức chờ đợi lệnh tiến quân về thủ đô. Cánh lính cũ được dịp ôn nghèo kể khổ. Thôi hết nhé những ngày mưa nằm chốt cầu Prasaut, ngã tư Nhà thương, giành giật với địch từng mét đường 24…Cán bộ đơn vị là lính trước năm 1975 còn sướng hơn nữa. Với suy nghĩ của các anh ấy, giải phóng Ph’nom Penh xong cũng giống như vừa giải phóng Sài gòn. Là hết chiến tranh, là im tiếng súng, là thành lập ủy ban quân quản thành phố một thời gian rồi rút về nước. Đài bán dẫn của cán bộ tiểu đoàn oang oang mở hết volume. Đại loại: Các lực lượng nổi dậy của chính phủ cách mạng nhân dân Campuchia đã giải phóng hoàn toàn thủ đô Ph’nom Penh, đập tan chế độ Pôn Pốt_Iêng Sary tàn bạo… Trong khi “các lực lượng nổi dậy” này thì vẫn đang ngồi đây, bu xung quanh cái đài, uống ca trà tàn và mong chờ xe đón.

Riêng tôi thì tưởng tượng ra cái cảnh lễ mừng trong Ngày Chiến thắng. Trung đoàn sẽ tiến vào thủ đô trên những chiếc xe thiết giáp đầy bùn đất. Lá Quân kỳ ám đen khói súng và lỗ chỗ vết đạn sẽ phủ bóng trên những gương mặt kiêu dũng của lính binh đoàn. Chúng tôi sẽ mỉm cười với nhân dân ra đón. Và nếu như có cô gái nào đó tặng hoa, thì tôi không hiểu có nên ôm hôn cô ấy không nhỉ? Như những nụ hôn không biên giới khi Hồng quân tiến vào Budapest đã được xem trên phim. Thằng nào cũng cố chọn ra một bộ đồ tươm nhất, ngong ngóng tiếng xe. Nhưng chờ mãi chẳng có tiếng xe nào. Hóa ra xe tăng_ cái binh chủng thần tượng, tôi chỉ thấy trong viện Bảo tàng Quân đội, trong các bộ phim chiến thắng chứ chưa từng thấy nó xuất hiện trong các trận đánh cùng đơn vị. Lệnh trên cho đơn vị chúng tôi chốt tại chỗ cách bến phà 3km. Bố trí đội hình bảo vệ hướng nam bến vượt cho đến khi có lệnh mới.

Lúc ước được chốt thì phải đi rã cẳng. Lúc mong đi thì lại phải chốt. Trong tình thế thủ đô kẻ địch đã thất thủ, những người lính chốt còn biết làm gì? Chúng tôi không đào hầm phòng ngự. Thậm chí ban đêm, trung đội thông tin còn bỏ gác. Ngày ngày, học lại các điều quy định khi giúp nhân dân nước bạn làm nghĩa vụ quốc tế. Chiều thì đi xa xa khỏi BCH tiểu đoàn, ném lựu đạn đánh cá. Quãng sông này có nhiều loại cá trông giống con cá dưng to, cá dầm đất mà không biết tên nó là con cá gì. Lại có cả những con cá giống con cá nóc mồm rộng hơn thân, hàm răng lởm chởm. Nó là cá nóc nước ngọt, một loài cá đáy sống độc thân rất hung dữ. Nghe dân nói của nợ này lúc thì là cá đực, lúc khác không thích thì lại làm cá cái - một loài cá lưỡng tính cộc cằn. Nó thường nằm sát đáy, phủ cát lên mình hoặc chui hốc ém kỹ. Lượn qua lượn lại chỗ phục của nó bất kể cá to hay cá bé, ngứa mắt là nó tấn công ngay. Đôi khi nó táp chặt vào miếng bụng con cá bông lau to gấp cả chục lần nó. Dân đánh cá lôi được con bông lau lên bờ, được cả con cá nóc bám dính ngay bụng. Nhưng bất kể, cứ thảy trái “ục” phát là cá lộn trắng cả! Số cá chết trôi đi mất nhiều hơn số cá lính vớt được. Hề gì, khi đó chỉ là trò nghịch ngợm, tiêu khiển những khi đi tắm.

Anh Thào tiểu đoàn phó vần đâu đó được quả H.12 của địch. Anh ấy đặt chúc mũi nó xuống mặt nước, đấu dây điện rồi lấy pin của bọn thông tin gí điểm hỏa. Trái H.12 hú hụt một tiếng thở dài ghê người rồi phóng tọt xuống nước. Một vệt bong bóng sôi theo cho đến giữa sông. Trái hỏa tiễn ngóc đầu, bay vọt khỏi mặt nước chếch lên không, rú lên rồi bay mất tăm tích…Một số đứa khác thì ra dân xin vú sữa, mang về hàng mũ. Nhựa vú sữa dính răng dính mép cả ngày. Các lão lính giải phóng đời 75 vừa mút trái, vừa kể chuyện lính tẩy bậy bạ. Rằng hai má con nhà kia có sạp buôn vú sữa. Chú bộ đội đến tán con gái bả, mới luồn tay kiểm tra đồ tam bảo. Cô con gái kêu toáng:” Má, má! Chú đội nắn dzú con nè! Má ở gian trong mắng vọng ra:” Thì chú chọn mua thì phải cho chú nắn chớ bộ!”. Cô con gái phản ứng:” Nhưng ảnh cứ nắn bóp hoài! Nứng…thấy mồ!”.

Tôi lật đi lật lại cái lá vú sữa trong tay, nhớ về bài văn đã học tả giống cây này. Đâu như viết rằng mặt trên lá vú sữa màu xanh thẫm, bóng loáng. Mặt dưới lá vàng mịn, như nước phù sa của dòng sông Cửu Long đắp bồi nước Việt…Với riêng tôi, sông nước Mekong tuổi trẻ đầu đời là một dòng sông trong vắt, với đôi bờ dốc, dựng bời bời lau trắng. Hoa lau tung trời xơ xác trong gió chướng mùa khô.

 

ynhi2208

Xe điện
Biển số
OF-80429
Ngày cấp bằng
16/12/10
Số km
2,118
Động cơ
435,741 Mã lực
Nơi ở
Bốn bể là nhà,quê hương chỉ một
Rằng hai má con nhà kia có sạp buôn vú sữa. Chú bộ đội đến tán con gái bả, mới luồn tay kiểm tra đồ tam bảo. Cô con gái kêu toáng:” Má, má! Chú đội nắn dzú con nè! Má ở gian trong mắng vọng ra:” Thì chú chọn mua thì phải cho chú nắn chớ bộ!”. Cô con gái phản ứng:” Nhưng ảnh cứ nắn bóp hoài! Nứng…thấy mồ!”.

ước gì.... ;)) =))
 

Axe

Xe tải
Biển số
OF-8838
Ngày cấp bằng
25/8/07
Số km
253
Động cơ
539,230 Mã lực
Cụ ơi tiếp đi, ít quá :D
 

honda acura

Xe điện
Biển số
OF-15048
Ngày cấp bằng
23/4/08
Số km
3,802
Động cơ
576,171 Mã lực
Mời cụ nhấp chén trà đặc em mới pha
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Mời cụ nhấp chén trà đặc em mới pha
Vâng ! cám ơn các cụ . Uống trà xong rồi giờ em pots tiếp nhé ! :D

PH’NOM PENH

Không có ngày lễ chiến thắng nào với đơn vị tôi hết! Chỉ có Lễ chiến thắng trên đài và trên TV thôi.

Gần một tuần sau, xe trung đoàn đón chúng tôi. Gần đến Ph’nom Penh. Bên phải là bãi sông xanh. Bên trái là bãi lầy có những khu rừng thấp, ngập trong nước tù. Các ngôi nhà sàn không người ở, ngồi trên những cột bê tông cao. Đế cột cũng dầm chân trong nước. Nối nhà với đường 1 hoặc nối các nhà với nhau là những cái cầu dài lót ván gỗ, có hàng lan can mỏng mảnh. Những thân cây cổ thụ trụi lá màu thắng toát, vượt hẳn trên đám cây xanh thấp bên dưới, chen giữa khu nhà hoang vắng. Sau này được biết nó trở thành Cây Số 11. Một khu ăn chơi đèn đỏ, khu nhà thổ rẻ tiền mà không hiếm các anh lính hậu cần lắm tiền nhà ta đã từng thăm viếng.



Tiểu đoàn chốt lại phía đông cầu Sài Gòn khoảng 6 km bên bờ sông Mê kông. Chốt đằng sau vì mình đánh nhanh quá, sợ những đơn vị lẻ của địch bây giờ mới chạy đến thủ đô đánh tập hậu - (hồi đó gọi là đánh bọc *** - sở trường của địch). Đơn vị nằm giữa vườn sa bô chê rậm rạp, cạnh một trại nuôi gà. Đời lính của tôi chưa bao giờ có những ngày sung sướng đến thế.



Mắc võng giữa vòm cây xanh mát. Trên đầu, sóc đi tìm quả chín chạy loạt soạt. Những quả sóc ăn làm rụng ngọt đến nhức răng. Trung đội nằm lẫn luôn với dân. Ban ngày, tôi vào nhà một ông già sống độc thân chơi. Ông già đãi tôi món khô cá kìm nướng nhậu với nước thốt nốt chua. Để làm được thức uống trứ danh này (được mệnh danh là bia Pochentong) là cả một kỳ công. Đầu tiên, người ta đi chặt những cây tre đực già, có gióng rất đều, tỉa cành đi rồi buộc áp vào thân cây thôt nôt. Có những cây có thể cao hơn 20m nên phải hai, ba cây tre mới leo đến ngọn cây. Hoa thốt nốt ra buồng. Người ta dùng hai thanh tre cứng kẹp lấy cuống hoa. Ngày nào cũng kẹp nhẹ nhàng như nặn trái vú sữa vậy, cho đến khi cuống hoa thốt nốt mọng lên, ứa ra nước là cắt cuống, treo ống lồ ô vào. Ống tre đựng phải xông khói lòng trong ống để nước ngọt khỏi bị lên men. Sáng hôm sau đã đầy ống nước ngọt, dùng để nấu đường. Còn muốn làm nước thốt nốt chua, bỏ thêm vào ống mấy mảnh vỏ cây có tác dụng lên men (tôi không biết là vỏ cây gì), là có “bia” uống ngay. Thứ nước này sinh ga rất mạnh. Tôi đã chứng kiến có lần lính ta mang một can 20 lít nước thốt nốt chua ra sân phơi nắng để uống cho thêm bốc. Một lát sau, cái can nhựa từ từ phồng lên hết cỡ rồi nổ cái bùm. Thế là công toi…nghỉ uống.



Ngồi uống một vài bát, mặt tôi đã thấy nong nóng. Anh Ky, với thứ ngoại ngữ chủ yếu bằng tay, hỏi cụ già về cái mồi nhậu đặc biệt kia. Cụ già dẫn chúng tôi ra sông. Một con thuyền nhỏ, một cái “te” hình chữ V bằng tre đan gióng trước mũi thuyền. Đàn cá kìm đang ve vẩy ngược sóng. Thân hình chúng trông giống như quả tên lửa, gần như trong suốt với cái mồm dài ngoằng. Một con to nhất đàn đang cặp ngang một con cá nhỏ bằng cái miệng đặc biệt ấy. Te từ từ nâng lên. Xong rồi! Mang về làm sạch, phơi qua một nắng và đưa lên gác bếp xông khói. Không còn gì phải bàn nữa! Giống cá này khi tươi mùi khá tanh. Nhưng khi đã hong khói cho khô thì thịt rất dai và ngọt.



Đóng quân sát thủ đô mà không được vào thành phố quả là một nỗi khó chịu. Có lệnh cấm các đơn vị không có trách nhiệm không được vào Ph’nom Penh. Song bọn lính chúng tôi vẫn cứ tổ chức nhỏ lẻ “tập kích” thủ đô kiếm đồ. Có bọn còn mang đủ hỏa lực trung đội, sẵn sàng chơi nhau với quân cảnh nếu bị ngăn cản. Chúng tôi chặn xe hậu cần, xin ít dầu đổ cho thuyền dân rồi nhờ họ chạy thẳng, cập bến Hoàng cung. Một số khác thì đi bộ. Tôi không ham đồ, nhưng ham nhìn thấy những khung cảnh thành phố quen thuộc. Tôi nhớ các vỉa hè, các cột đèn, ngã tư đông đúc… Ban đêm nhìn thấy ánh đèn điện sáng bên sông là lòng lại bồn chồn không nhịn được. Thế là cũng theo chúng nó trốn đơn vị vào thăm thú.



Ph’nom Penh là một thủ đô chết. Chỉ có tiếng léc chéc đạn nhọn của mấy thằng lính ta đi lục lọi kiếm ăn bắn bậy gọi nhau đầu đường cuối phố. Một thành phố ma hoang vắng không một bóng người. Lính ta chỉ cho nhau các chỗ có kho vải, kho đường, kho sữa, kho rượu…Một số bắn tan các cửa kính trên tầng 2 xem trên đó có gì. Một bọn khác nghịch ngợm phi các đèn ống từ trên lầu xuống cho nó nổ bùm bụp. Anh Nhương cũng vớ đâu được cái Honda đam, chạy loạn lên cho hết xăng rồi rục. Nghe chừng hả hê lắm! Chúng tôi tha về đủ các loại bật lửa KAI, vải võng, đường sữa, rượu Napoléon chai sương mù, lá thuốc Ara, Con gà…Lắm thằng còn xách cả một bịch lớn kim máy khâu. Bảo rằng ở Việt nam thứ này đắt lắm. Thời gian đó, cả tiểu đoàn tôi khá lướt khướt vì cái món rượu “còn gì nữa đâu, sương mù đã lâu” kia. Anh Khanh C1 còn pha rượu với sữa đặc để uống. Lão ấy say cắm đầu rơi từ trên nhà sàn xuống nước. Hai thằng liên lạc lao xuống vớt lên còn lè nhè khoe:”Tao rớt ngọt như trái mít!”. Rượu thì tuy không công khai, nhưng cán bộ cũng uống và có vẻ ngấm ngầm mặc cho lính uống…Uống say thì lại nhớ các điều cấm, tung võng vùng dậy loạng choạng đi soi xem thằng lính nào bắt gà trộm. Uống thì được mà ăn lại cấm. Tréo ngoe thế mới là say. Thiệt tình khỏi chê! Giá mà hồi đó lắm chim câu thế này thì chết với bọn tôi



Một đêm gần Tết Nguyên đán. Gió chướng lao rao trên các vòm lá. Buổi đêm lạnh nên hay ngót bụng thèm ăn. Dường như không chịu được nữa, anh Tuấn còi trung đội phó thông tin sai tôi với thằng Tường lé mò xuống trại gà. Vừa sờ lườn được vài con thì hướng tiểu đoàn thấy có ánh đèn pin loang loáng đi xuống. Bỏ mẹ! Tôi với thằng Tường vội trèo ngay lên sàn gà đậu, nằm im không dám thở. Anh Thào, tiểu đoàn phó cùng thằng Điệp liên lạc đang xuống kiểm tra. Tay vung vẩy khẩu K.59, anh ấy quát hú hoạ, giọng đã tây tây: “Mấy thằng mò gà đâu ra ngay! Tao bắn bể sọ!” Im lặng đến nghẹt thở. Đám gà mé bên kia tự nhiên loác quác. Ánh đèn rê theo hướng ấy, quét đi quét lại vài lần . Có cái gì buồn buồn ngang lưng. Tôi rờ rẫm chạm phải cái gì lành lạnh bỗng rủn người hất xuống. “Xoạch! Phì… phì ì …!”. Thằng Điệp quay ngoắt lại, lia đèn vào chỗ phát ra tiếng động. Một con rắn đang lắc lư trên nền đất. Nó lia đèn loanh quanh một chút rồi chĩa thẳng vào mặt tôi. Hai thằng im lặng nhìn nhau nửa giây. Rồi ánh đèn chĩa ra hướng khác. “Rắn! Anh ạ! Nó vào mò trứng gà thôi!”. Tiếng chân bước xa dần…

Tôi và thằng Tường tụt xuống. Đêm lạnh nhưng mồ hôi ra ướt đẫm cả người. Hai thằng bóp cổ chết năm con gà mái tha về trung đội. Về đến nơi, cổ gà đã gần như đứt đôi vì tôi bóp chặt quá. Nước đã sôi sùng sục. Tuấn còi chửi “Làm chó gì mà lâu thế?” Tôi nói không ra hơi, chỉ tay về hướng tiểu đoàn. Anh Hoạch chồm dậy, dụi bớt lửa. Bố Nhương lấy tấm liếp thốt nốt che chắn xung quanh rồi sai thằng Vỹ ra gác. Lông gà và lòng mề chôn ngay. Một lát sau, nồi cháo thịt gà nhiều hơn gạo đã ngấu. Cả trung đội đang sì sụp ăn vụng bỗng giật nảy mình. Thằng Điệp liên lạc, không biết bằng cách nào, đã đứng lù lù trước đống lửa. Nó nhe răng cười và chìa bát sắt ra. Hú hồn! Mẹ thằng này khôn thật! Cả về sau này, có lẽ chẳng còn bát cháo gà nào với tôi, ngon như thế nữa. Tìm một bát sắt cháo gà năm cũ trên phố này bây giờ khó thay!

 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
B3 hậu cần trung đoàn 2 lập một kho gạo, đạn lẻ ngay trên đường 1, ở quãng giữa đội hình chốt của tiểu đoàn 4 với cầu Sài gòn. Tối tụi tôi đi chơi từ Ph’nom Penh về qua đó, thấy một đám lính có cây guitar Yamaha khá tốt. Họ đốt lửa đun trà và từng tưng đàn sáo. Tôi nhớ đàn, ghé vào xin chơi. Được vài bản thì một anh đứng lên gọi “Long ơi! Long ơi!”. “Long ơi” từ đâu đó đến liền, gật gù và chìa tay. Tôi trao lại cây đàn. Hắn thể hiện các bài theo Carulli method rất điêu luyện. Trình độ mình ở dưới là cái chắc nên im re thưởng thức. Sau này, tôi biết tên hiệu của anh ấy là “Long trố”, lính Quảng Ninh đoàn 1975. Cả đám hậu cần đàn hát trà lá đến khuya. Khi tụi tôi chào ra về, một số ông đã lăn ra, quấn bạt kho ngáy khò khò. Kho lẻ mà họ bất cần đời, có mấy mống mà dám bỏ gác. Không biết xung quanh đó có đơn vị trung đoàn nào cận đấy không? Chứ còn từ chỗ họ về tiểu đoàn tôi khoảng gần 3km thì tuyệt không có một đơn vị nào hết. Xung quanh chỉ là nhà hoang và đồng trống.



Ban ngày. Xe pháo vẫn chạy rầm rầm trên đường 1. Nhưng đối với chúng tôi, chiến tranh dường như đã kết thúc. Tôi viết thư về nhà, nói rằng đơn vị con đang được vinh dự bảo vệ Thủ đô Ph’nom Penh. Rằng quân Kh’mer đỏ không chịu nổi sức tiến của chiến xa và pháo nặng đã tan chạy. Những cụm từ kêu, nghe lỏm được từ đài BBC đại đội…Cũng qua đài, tôi biết Tết đang dần đến. Cánh đồng ngoại thành đang chuẩn bị rau Tết cho Hà Nội. Nhà máy nọ hoàn thành kế hoạch Xuân sớm…vv…Nhưng phải nói là cái cảm giác mong Tết tuổi thơ không còn nữa. Bởi khung cảnh, khí hậu và sinh hoạt quân đội chẳng có gì liên quan đến Tết cả. Cứ bao giờ xe hậu cần chở trà thuốc sang là Tết. Mà cũng lạ! Viết thư về nhà nhiều thế, nhưng chúng tôi lại không nhận được một lá thư hậu phương nào cho đến tận tháng Ba của năm sau.



Mùa khô. Không gian rộng dài, khô thoáng và êm ả. Đất phù sa bờ bãi đi chân trần mát mịn. Chỉ cần ba xoa hai đập là sạch. Leo lên võng, trùm qua tấm đắp là có thể chìm sâu vào những suy nghĩ, tưởng tượng riêng tư. Gió đêm lạnh thoáng co vai, nhưng lại chóng lùa giấc ngủ đến nhanh. Chớm nghe chưa hết tiếng trái chín rụng đầu đêm thì bình minh đã dựng đỏ. Đã lại bắt đầu một ngày mới, trên một miền đất mới.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Ảo tưởng chiến thắng hòa bình tan biến trong buổi trưa ngày ngày 25/01/79, tức là ngày 27 Tết Kỷ Mùi. Đơn vị nhận lệnh hành quân chiến đấu gấp. Nhìn cái đống “đồ cổ” nặng trịch tham lam gom được ở Ph’nom Penh, nhiều thằng tiếc ngẩn người. Cuối cùng thì chén bát kiểng quất, trôn chén có bốn chữ mà lính đọc ”có ngày ăn bốc” là thứ quăng đi đầu tiên. Sau đó là trăm thứ bà rằn: rèm cửa, kim máy, đi ốt bán dẫn, vòi nước mạ... Có thể nhìn thấy cả một cái đèn hình 17’’ đã tháo rời lăn chỏng trơ không rõ của thằng nào? Nhưng lá thuốc và rượu thì ông Khanh bắt hai thằng liên lạc gom đi bằng hết. Bọn thông tin phối thuộc chúng tôi cũng bị lão ấy chất hai chai vào ba lô với lý do chúng mày cũng uống tợn. Tiểu đoàn 4 đi dọc con đường ngược sông về Ph’nom Penh. Đến mũi đất phía nam sông Bốn mặt (gần cầu Sài Gòn), chúng tôi leo xuống bờ sông dốc đứng.



Ở đó đã có mấy chiếc tàu há mồm đang ủi bờ chờ sẵn. Tiểu đoàn xuống tàu, lùi lũi ngược Tonle Sap. Sông bốn mặt rộng mênh mông. Thủ đô Ph’nom Penh trải dài ven bờ phía trái tầm mắt chúng tôi. Những mái vàng của Hoàng cung lấp lánh trong nắng. Từng vòm cây xanh ngắt ôm ấp những khu nhà ngói đỏ xinh xắn. Trước mũi tàu rẽ sóng, thỉnh thoảng những đàn cá linh thấy động vụt nhảy rào rào trắng xoá. Có con vọt cả vào lòng tàu qua cái mũi bè bè chưa đóng hẳn.

Buổi chiều ngày trở lại, ngồi bên bờ sông Sap nhìn dòng nước chảy. Mùa khô nó chảy về Mekong, mùa mưa nó chảy ngược lại lên biển Hồ. Nó vẫn chảy như thế đã nghìn đời, chứ không là chỉ mới chảy qua hơn ba mươi năm tái ngộ. Ba mươi năm chỉ là một tích tắc của thời gian vĩnh cửu. Cũng vĩnh cửu như tình yêu đôi trẻ này vậy. Họ không thể nhìn thấy một đoàn tàu trận, đưa những con người cũng trẻ như họ, cũng nhiều đam mê, khát khao âu yếm như họ, vừa đè sóng qua đây hơn ba mươi năm trước? Sẽ còn nhiều, còn rất nhiều đôi bạn khác đến bên dòng sông này ngồi. Chỉ có những người bạn tôi là mãi mãi không về.



Ph’nom Penh lùi dần lại sau lưng. Hải trình rì rì giữa hai bờ sông bên dựng bên thoải.

Chạy được khoảng gần 2 giờ, bỗng có tiếng đạn nhọn rộ lên bên sườn bờ bên tay phải, va choang choang vào thành tàu. Chúng tôi ngồi thụp xuống lòng tàu, không bắn trả. Đoàn tàu kéo sập kín mũi, né sang bờ hữu ngạn, tăng tốc phả khói đen mù mịt tiếp tục tiến. Nắng mùa khô hun sàn thép nóng rẫy. Cả bọn lót khăn mặt dưới mũ che nắng xiên, ngồi vạ vật như gà vịt trong cái “chuồng” thép hai lớp. Chạy thêm 1 tiếng nữa, hải quân cập bờ trái, cày mũi trên con đường dốc phà nhỏ và ngắn. Các đại đội lần lượt đổ bộ. Nhiều thằng nóng quá, tranh thủ nhảy ùm, nhúng cả người còn nguyên quần áo xuống sông cho mát. Bọn anh nuôi đại đội 2 còn đổ bộ dưới tàu lên một con ngựa gầy, thồ cái xoong quân dụng. Thêm rất nhiều ruột tượng gạo vắt ngang trên lưng nó. Anh Hải C trưởng chửi đ…mẹ chúng mày để thấm mồ hôi ngựa vào gạo rồi nấu cho bố mày ăn à? Thế là ruột tượng gạo của thằng nào thằng đó lại vác.

Tiểu đoàn tiếp tục tiến theo mé sông lên hướng bắc. Địa hình ven bờ toàn những bụi cây dại lúp xúp. Một số cây phượng tây mọc thành hàng trên bờ đất cao. Con đường đất chạy giữa một bên sông, một bên là đầm lầy. Trời đã mờ mờ tối. Đơn vị dừng lại ở một cái xưởng cưa bốn mái ven sông, triển khai đội hình chiến đấu. Cái xưởng cưa lợp tôn trắng rất lớn. Trong đó còn nguyên máy cưa và các súc gỗ tròn. Thời bình hẳn đây là cái bến gỗ sầm uất. Lát sau lại có lệnh tiến lên tiếp, nhường vị trí xưởng cưa cho trung đội pháo 85mm đi phối thuộc. Bọn pháo quen mặt này đến đây bằng đường bộ.

Trinh sát bám lên. Địch đào những con hào chống thiết giáp cắt sâu ngang đường. Những vết đào đất còn rất mới. Lò dò quãng nữa đến cái chùa nhỏ thì dừng lại. Anh Sơn bố trí BCH tiểu đoàn ở luôn trong chùa. Đại đội 1, đại đội chủ công hôm sau còn phải lên trên nữa. Tôi và anh Ky dải dây lên C tiền tiêu. Địch có vẻ phát hiện ra điều gì đó đang đến. Một vài trái DK75 xeo xéo thăm dò ất ơ vọt qua đầu.

Chùa, nơi đóng chỉ huy sở D4:



Trên mặt sông, mấy chiếc giang hạm nhỏ, đen trùi trũi đi phối thuộc với chúng tôi đang buông neo gần bờ chếch đằng sau.

Đêm cuối tháng tối như mực. Im lặng đến rợn người. Máy 2W ngừng lên sóng. Máy điện thoại để mức chuông nhỏ nhất. Hồi chuông đổ bây giờ chỉ kêu cạch cạch nhỏ tý. Cấm đốt lửa! Chúng tôi đổ nước lạnh vào bịch gạo sấy hoặc xé mỳ tôm sống ra trệu trạo nhai. Xung quanh toàn cây bụi, không thể mắc võng được. Cả BCH đại đội và bọn thông tin trải nilon ra đất nằm. Sương đêm một lát đã làm ẩm cái tấm đắp mỏng.

Đến nửa đêm, tổ trinh sát tiểu đoàn 3 người vượt qua đại đội 1 lên bám địch. Qua đội hình trung đội 3 tiền tiêu, anh Sơn Thanh hóa, tiểu đội trưởng trinh sát còn lào thào dặn với: “Chút nữa bọn tao về! Nhớ hỏi mật khẩu không có bắn nhầm đấy!”. Gà gật đến 2h30 sáng 26/01 (28 Tết), đạn nhọn rồ lên phía trước mấy loạt rồi im bặt. Gần sáng, hầm tiền tiêu thấp thoáng bóng người. Tiếng nói nhỏ: “Trinh sát đây! Sơn đây! Đừng bắn!”. “Mật khẩu?” “Mật khẩu đ… gì? Mấy thằng lính mới trung đội mày gác giật mình ngoéo cò thì bố mày lên nóc tủ à?”. Trinh sát đã về qua đại đội. Mọi người xúm vào hỏi. “Còn thằng Năm đâu?” “Chắc tiêu rồi! Sát họng đại liên, không kéo về được!”.

Thực địa trận đánh vẫn như xưa, hầu như không thay đổi:



5h30, trời bắt đầu sáng. Chỉ huy tiểu đoàn triển khai nhiệm vụ cho đại đội 1 qua máy điện thoại xong, 2W lên máy. Anh Nhương dặn tôi qua máy: “Chúng mày không phải thu dây, tao cho chúng nó thu từ dưới này lên!”. Dưới sông, tàu hải quân cũng tiến song song. Trước mặt có một cái cồn nổi lớn chia Tonle Sap thành hai nhánh. Bốn chiếc khinh hạm của ta phát hiện địch trước. Đại liên 50 hai nòng trên các tàu bắt đầu khai hoả. Lính đại 1 bám từng bờ cây, bụi cỏ phát triển dần lên. Địa hình hẹp bề ngang, nhiều vật che khuất chỉ có một đường tiến. Cối 82 tiểu đoàn được yêu cầu bắn trước đội hình 60m nên đại đội 4 gần như dựng nòng lên thả đạn. Dưới sông, bốn chiếc khinh hạm yểm trợ nhau lần lượt quay đuôi về phía địch thụt cối 81 (thằng cối 81 dưới tàu Mỹ bắn bằng điện nên góc bắn có khi nhỏ hơn 45 độ). Trên cái cồn (giồng) giữa sông, địch có một cái tăng PT.85 chôn âm, nguỵ trang đầy lá thốt nốt gióng nòng pháo bắn săn tàu chiến.



Do tàu cơ động liên tục, và khoảng cách cũng xa nên nó nã hơn chục phát cũng không chiếc nào dính đạn. Hai khẩu 85mm đi tăng cường cho tiểu đoàn 4 không bắn được do không đẩy qua được các rãnh đào. Tít phía sau thì địa hình bị che khuất bởi cây cối. Trước mặt là cái trảng, rồi đến con mương thuỷ lợi rộng ăn thông với sông. Một cây cầu nối hai bờ mương. Bộ binh cứ thò ra ngoài trảng là đại liên bên kia mương nó quất ngay. Địch tựa vào bờ sông và cồn bên kia làm thế ỷ giốc gây khó khăn lớn cho ta. May là nó không bắn cối chứ đường độc đạo như thế, nó cứ thả cối dọc theo đường thì cha con khiêng nhau mệt.



Tử sỹ đã được anh em C1 kéo về. Trong số đó có thằng Thành quê Hà Nam Ninh, thằng Thư ở Bắc Ninh là mấy đứa cùng bổ sung cùng đợt 1978. Thằng Thái bị thương. Nó khát quá, cố bò xuống sông uống nước nên cũng không cứu được. Thằng Căn liên lạc chuồi xuống được lòng sông cõng nó về. Mấy chiếc tàu quân ta hùng hổ được một lúc, bắn hết đạn cối rồi quay đuôi chuồn thẳng. Bộ binh cũng nằm luôn, không tiến nữa. Buổi trưa yên tĩnh trở lại, như chưa hề có điều gì vừa xảy ra. Trên mặt công sự của tôi, những con kiến đang chăm chỉ tha những cọng mỳ tôm vương vãi. Mặc kệ! Ai có việc của người ấy phải không? Tớ bận kiếm ăn, còn loài người các cậu thì bận giết nhau. Cũng thế cả thôi! Tự nhiên tôi bỗng nhớ tới nụ cười Bayon mà chúng tôi đã gặp rất nhiều trên đất nước này. Đôi mắt lim dim, nụ cười đá nhếch mép thoang thoáng, nửa như chia sẻ, nửa như giễu cợt. Cái đất nước bí ẩn và quái quỷ này…




Pháo 105mm sư đoàn bắt đầu giã vào ngã ba chùa sau lưng địch. Tiểu đoàn 5 từ hướng lộ đi Ô Đông đánh sau lưng tuyến chốt này, quyết bao vây tiêu diệt gọn. Trung đoàn lệnh cho tiểu đoàn 4 xung phong phối hợp. Đại đội 4 còn bao nhiêu đạn cối 82 mang ra xài hết. Đẩy khẩu DK.82 duy nhất của tiểu đoàn lên sát đại 1 thổi thẳng vào những bụi cây ven bờ mương. Phía bên kia cồn, tiếng động cơ rồ lên. Cái tăng PT.85 lùi ra khỏi ụ lủi đi thật nhanh. DK82 bắn đuổi với nhưng không trúng. Bộ đội đã vượt qua được cầu. Một tiếng nổ trầm bên cạnh. Anh Tuyển B phó phụt đại một trái B.41 rồi hò:”Lên đi em ơi! Nó chạy rồi!’. Trái đạn nổ trên không phía trước, tung cụm khói cam vàng.

Ngay trước hầm địch 5m là xác thằng Năm trinh sát hy sinh hồi đêm. Súng đã bị địch thu mất, thi thể găm đầy vết đạn. Tôi thấy đôi dép cao su đúc của nó còn tốt liền tháo ra xỏ vào chân, quăng ngay đôi giày thối xuống sông. Đôi dép còn trầy trật máu, phải lấy cát xoa vào cho khỏi trơn mới xỏ chân được. Trên sân chùa, đoàn xe bò chở gạo và thương binh tử sỹ địch trúng pháo văng tung toé. Một con bò què cẳng rống lên thảm thiết. Có ngay một phát đạn nhân đạo dành cho nó. Anh nuôi các đại đội đi qua mỗi thằng xẻo một miếng tướng trước mặt ban chỉ huy tiểu đoàn nhưng lúc này cũng chẳng ai nói gì. Không thế lấy sức chó đâu ra mà đánh nhau?

Đến chiều tối thì hai tiểu đoàn gặp nhau. Trận này không kể bị thương đại đội 1 và tiểu đoàn hy sinh 11 người. Không thấy số địch bị tiêu diệt, nhưng tóm sống bảy thằng còn nguyên vũ khí khi chúng nó bắn hết đạn. Ông Thạnh E trưởng dẫn trung đội vệ binh xồng xộc lao xuống tiểu đoàn 4. Bọn vệ binh trung đoàn cùi, hớ hênh súng ống, lượn qua lượn lại trước mặt mấy thằng tù binh đang ngồi xệp dưới gốc cây me. Chúng nó nhất loạt lao vào cướp súng vệ binh, định phơ ông Thạnh đầu tiên. May mà lính C1 phản ứng cực lẹ, nổ súng luôn. Vệ binh giằng nhau súng với địch trong làn đạn quất của quân ta mà không thằng nào dính. Chỉ bọn địch thì “hy sinh” ráo. Khẩu K.59 của ông Thạnh cũng tham chiến bòm bòm. Có đứa chết rồi, tay vẫn quắp chặt lấy khẩu súng cướp, cạy mãi mới ra... Ghê gớm luôn !

Mai đã là 30 Tết rồi!


Phum chài yên ả bóng gốc me già. Cây me hẳn đã chứng kiến trận đánh, song nó không nói gì. Tượng vẫn cười, me vẫn ra trái…Chúng tôi đã tìm, và đã về đúng nơi...

 
Thông tin thớt
Đang tải
Top