[Funland] Những hồi ức của CCB chiến trường K !

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Càng về cuối mùa, mưa càng ác liệt. Cơn lũ rừng trong đêm kéo nguyên cái cây cổ thụ còn nguyên cành lá tươi nằm dọc theo suối. Hôm trước không thấy gì, nhưng sáng hôm sau sớm dậy đã thấy lù lù giữa dòng nước đục ngầu. Khung cảnh bờ suối lở toang hoác, trông khác hẳn. Không biết lũ đã cuốn nó từ đâu trên thượng nguồn về đến đoạn này thì mắc lại. Một thằng lính cối ra suối đánh răng. Bờ đất chỗ nó ngồi bị nước xói, lở cái ùm. Lũ cuốn nó luôn...Chới với ra giữa dòng, may túm được cái cành của cây này. Nó trụ lại, leo lên một cái cành to, ngồi chễm chệ rồi mới bắt đầu kêu cứu ầm ĩ. Trên một cành cây khác còn một con trăn đang nằm cuộn khúc. Các nạn nhân của nước đang hoảng hồn, chẳng buồn để ý đến nhau. Lũ mới là cái đáng sợ nhất...Chúng tôi chập dây võng, buộc vào đá ném ra cho nó bám rồi lôi vào.

Anh Việt chính trị viên phó C1 đi tập huấn ngoài trung đoàn cùng anh Được, chính trị viên tiểu đoàn. Đi đến chỗ ngoặt vuông của con suối, chỗ lán khẩu đội DK.82, thấy nước réo ầm ầm. Cái cầu gỗ tự làm, theo kiểu cầu khỉ của Nam bộ, dài khoảng hơn 10m rung lên bần bật dưới sức chảy của dòng lũ, đã bắt đầu xiêu. Đi qua được cái cầu này quá như làm xiếc. Có lần ra trung đoàn bộ lĩnh pin về tối, tôi cũng không dám đi qua cầu mà cởi đồ chấp nhận lội suối, dù nước mùa khô lạnh căm. Cái cầu này đã bị lũ cuốn mấy lần rồi nay mới làm lại.

Hai thầy trò cởi đồ và túi mìn, gói trong tấm nilon do anh Được mang sang trước. Anh Được qua đầu tiên an toàn. Anh Việt qua sau, đi đến giữa cầu thì lảo đảo rồi rơi cái tõm. Khẩu AK tròng cổ, níu anh ấy mất tăm tích trong dòng nước đục ngầu. Ai cũng kinh hoảng nhưng không kịp phản ứng. Một lát sau, mới thấy ngoi được đầu lên và tấp dần xuôi vào bờ. Khẩu súng vẫn còn nguyên trên cổ. Tuy chắc cũng có hớp vài ngụm nước, nhưng anh Việt là người bơi giỏi nên thoát chết. Anh ấy vốn dân đánh cá, quê ở vùng biển Quảng Xương, Thanh Hoá. Ngày còn ở nhà, buổi trưa nắng chang chang chạy ra đón mảng về, phải ngắt hai cái lá sen mang theo. Chạy một mạch qua trảng cát nóng. Đến khi bàn chân rát bỏng, không chịu được nữa thì trải đôi lá sen xuống dẫm lên. Chân nguội đi, lại nhặt lá lên chạy tiếp. Ba lượt như thế mới ra đến biển. Lúc đó cặp lá sen đã giòn rụm như lá khộp, lá tếch mùa khô rừng này. Bồ Đề Lạt Ma xưa dùng thuyền đi chở đạo, còn ông này dẫm lá sen đi đón cá. Tâm Phật với cá tươi đều thơm như nhau, chẳng có gì là mâu thuẫn cả, vì nó thực là đời.

Lũ về, chúng tôi làm lưỡi câu đi câu chạch. Lưỡi câu mua ngoài dân toàn loại to đùng, dùng để câu cặm chứ không câu cá nhỏ được. Đầu tiên xin đoàn vài cái ghim giấy. Mang về hơ lửa cho nóng đỏ, duỗi thẳng ra. Lấy sống dao găm trần đoạn đầu cho hơi dẹt. Dùng lưỡi dao đột ngạnh trong đoạn dẹt đó, sau đó mài thật nhọn mũi. Mượn thằng Phượng bọ cái “panh” uốn đoạn ghim thành hình cái lưỡi câu theo cỡ mong muốn. Nhớ là đoạn mũi hơi vẹo so với thân cho lưỡi câu dễ đóng cá. Chặt đuôi, đập dẹt nốt đoạn cuống lấy chỗ bám để buộc dây câu. Cái lưỡi câu đã thành hình, mỗi tội mác thép do gia nhiệt nên hơi non. Giờ thì phải tôi thép cho cứng lại. Lại tiếp tục hơ cho hơi đỏ lưỡi trên lửa bấc đèn. Nhớ là hơi đỏ thôi đấy! Đỏ rực lên thì lưỡi câu giòn, không dẻo, bẻ quá là gẫy. Sau đó dùng “panh” gắp ra, nhúng thật nhanh vào cái chôn chén đựng dầu lau súng. Xèo…! Lấy tay gại gại kiểm tra. Bén rồi là xong cái lưỡi câu.

Chạch suối ngày thường không biết chúng nó chúi ở đâu, nhưng lũ lên, nước đục chạch đi ăn nhiều. Chạch suối hay tụ ở chỗ bờ lở, nước xoáy quẩn ngược nên phải quấn thật nhiều chì cho mồi mau chìm. Chúng tôi bẻ đầu đạn AK, cậy vỏ đồng ra để lấy chì. Giữa vỏ đồng là lõi thép hình côn là một lớp chì quấn mỏng. Có đạn AR.15 thì càng tốt, vì trong ruột đầu đạn này toàn chì. Câu chạch cũng là một cái thú giết thời gian. Đôi khi ba bốn cái cần câu châu vào một chỗ xoáy nước mà vẫn kéo được liên tục. Những con chạch phàm ăn bằng ngón tay, bụng vàng ệnh, thân lốm đốm hoa đen, có khi còn nửa khúc giun trên lưỡi câu vẫn nuốt chửng. Thỉnh thoảng lại dính câu con cá bò vàng óng. Chiều tối chạch mới ăn rộ. Có khi mưa chiều muộn, trùm áo mưa chịu lạnh, ngón tay mắc mồi và ngấm nước đã xun hết lại mà vẫn chưa muốn về.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Một cái bi đông nhựa úp lên một cái ca inox, từ đó toả ra mùi trà thơm thơm. Một đùm thuốc rê to không hạn chế, để trên một phần tư tờ báo Quân đội mà Thắng Pavel cũng không thèm đến. Một ngọn đèn dầu hôi khêu sáng hết cỡ. Tiếng quậy xoong sàn sạt dưới bếp của thằng Thiệu con đang nấu kẹo sữa…Một buổi tối vui vẻ, chờ đợi đã lâu, đến độ chúng tôi quên mất, thì nó thường bất ngờ xuất hiện sau chuyến xe nhu yếu phẩm từ nước nhà mới sang. Mỗi lần xe sang là một lần mất ngủ, vì lâu lâu mới uống trà nên thần kinh nó bị kích thích. Lại thêm một anh trả phép sau cả nửa năm biệt tích nữa thì càng vui. Có thể được quà là một điếu thuốc Bắc thơm nhẹ, một ấm trà Bắc chát dịu hậu giọng. Và ngẩm ngầm sướng nhất là tủm tỉm cười vô thức, khi nghĩ đến câu nhắn nhủ dễ thương của một người bạn gái, trong lá thư mới nhận ban chiều.

Kèm theo báo chí, thư từ, trà lá, đường sữa… là tạp chí Văn Nghệ Quân Đội, một cuốn tạp chí mà nhà tôi đã đặt thường xuyên hồi tôi còn đi học. Mỗi đại đội được phát 2 cuốn. Cũng may là các ông cán bộ đại đội hay bận này nọ nên tôi thường tranh với tụi bậu sậu đọc trước. Đọc hết lượt rồi thì xé dần ra hút thuốc rê. Đầu tiên xé trước những tờ mục lục, sau đó xé đến các bài xã luận chính trị, khảo cứu hay phê bình. Truyện ngắn, thơ phú thì để lại đọc gần như thuộc lòng hết rồi thì mới bắt đầu dám xé. Giấy in tờ tạp chí này mỏng và tàn khá trắng, làm giấy quấn thuốc rê khá tốt, không bị khét và bổi xốp như giấy báo.

Những truyện ngắn trong báo Văn Nghệ Quân Đội trong khoảng thời đó, tôi nhớ nhất hai truyện nhưng không nhớ tác giả. Truyện thứ nhất kể về một cô gái cùng bà mẹ, sống bằng nghề photocopy và đánh máy thuê ở một thị trấn vùng biên. Vùng này đang xảy ra chiến sự với bọn xâm lấn Pôn Pốt. Nàng có cha là một sỹ quan tâm lý chiến VNCH, từng tham gia văn chương. Cha này vượt biên, để mẹ con nàng ở lại với nhiều mặc cảm buồn và nàng sống khép kín với thời cuộc. Một anh phóng viên chiến trường trở về thị trấn. Tất nhiên là quần áo bết bùn đất và với một cánh tay bị thương. Anh mang đến tiệm nhờ photo bản thảo. Máy photocopy bị hỏng nên cô gái nhận chép tay cho chàng phóng viên. Những câu chữ lấp lánh thực đời chiến đấu hào hùng ở chốt biên giới, hoàn toàn không giống với giọng văn chương lai láng uỷ mị của cha nàng, đã làm nàng sực tỉnh nhớ đến một người trai bạn đã đi bộ đội. Tâm hồn nàng trở nên biến đổi. Và anh lính kiêm phóng viên lại trở ra chiến trường.

Truyện này làm tôi mơ tưởng có ngày được là cái anh phóng viên chiến trường kia. Rồi tôi sẽ trở về Hà Nội với cái xà cột và khẩu súng ngắn, ngẩng cao đầu nện gót giày đi qua cái nhà ở phố Đồng Xuân buôn bán lẻ ấy, mắt không thèm nhìn vào. Anh phóng viên chiến trường ấy là hình mẫu lý tưởng của tôi khi đó. Cha tôi, vốn cũng có truyện ngắn đăng trên tờ Văn Nghệ hẳn hoi, còn dặn tôi rằng con hãy tích luỹ vốn sống để mà viết những điều cao đẹp. Mẹ tôi thì dặn là lúc đánh nhau phải nhìn anh nhìn em. Lúc chúng nó xung phong thì cũng xung phong. Lúc chúng nó rút lui thì cũng phải rút lui theo nghe chưa. Đừng có mà xông lên một mình! Tất nhiên điều này chiến tranh dạy tốt hơn bà. Không thế thì có khi còn không sống được, chứ nói gì đến vốn sống.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Truyện thứ hai kể về một xạ thủ B.40, trên mặt trận đánh Pôn Pốt của chúng tôi. Anh ấy có cái tên đẹp như tên con gái. Tôi nhớ hình như tên là Lê Phương Liên_trùng tên với một nhà văn nữ thời đó. Tên đã đẹp, đôi mắt còn đẹp hơn cả cái tên nữa. Tác giả dụng công đặc tả đôi mắt này khá kỹ. Không biết có đẹp như đôi mắt trong truyện Loan Mắt Nhung hay không, nhưng theo mường tượng của tôi thì đôi mắt đó rất đẹp.

Trong một trận chiến đấu ác liệt bảo vệ biên giới, anh bị thương. Con mắt bên phải đầm đìa máu, không nhìn thấy gì nữa. Bọn Pôn Pốt vẫn tổ chức tấn công lên chốt, những bóng áo đen liên tục xông lên. Tình thế quá nguy cấp. Người chiến sỹ có đôi mắt đẹp liền chuyển khẩu B.40 sang vai bên trái nhằm bắn quân thù, bất kể lỗ chích khí trên thân súng B.40 sẽ làm mù nốt con mắt còn lại. Địch bị đánh tan, còn người lính của chúng ta đã hiến dâng đôi mắt đẹp cho Tổ Quốc.

Bên phải thân khẩu B.40 mà chúng tôi hay gọi là ống lươn, gần với bản tay cò phía trên búa đập nó có một cái lỗ chích khí nhỏ. Tôi không biết người ta làm cái lỗ đó để làm gì, nhưng tụi bắn B.40 được dặn rằng đừng có ngu mà ngắm bắn bằng vai trái. Từ hồi đánh nhau từ biên giới đến bây giờ, tôi chẳng thấy thằng nào ngắm bắn B.40 cả. Chúng nó toàn kẹp nách thổi đạn cho nó khỏi điếc tai, bởi tiếng nổ đầu nòng B.40 đanh lắm. Phụt kiểu ngắm đôi trái thì B trường hô lên hay hô chạy chắc cũng không biết gì, mặt nghệt ra luôn. Sau này giải ngũ về quê, tai lòi ư hử thì có khi rước đứa nào khổ cho đứa con gái đó, vì sẽ mang tiếng quát chồng.

Truyện này về sau còn được cải biên thành câu chuyện truyền thanh sáng Chủ nhật, phát trên đài cho lính nghe. Âm nhạc vĩ cầm da diết lắm.! Nhạc nền chêm giữa các đoạn hồi tưởng phục hiện khung cảnh bình yên quê nhà, với những kỷ niệm cùng bạn gái thời đi học. Tôi đếch tin chuyện này! Nghe cứ tức anh ách! Nó gần như xúi người ta hy sinh vô nghĩa mà không dạy cách người ta chiến thắng. Như thế không phải là người lính chân chính. Nhưng dù không tin, tôi vẫn bị ám ảnh bởi cái sự quên mình kia, dẫu đã ba năm lấm láp chiến trường. Để rồi sau này, khi về trại viết Quân Đoàn 4 ở Ph’nom Penh, tôi bịa ra cái chuyện thằng Thành bắn B.40, khi đuôi súng giáp luôn với bờ đê dựng đứng, góc an toàn không đảm bảo. Bắn như thế thì luồng khí phản lực của đạn bị vướng vật cản, không thoát được sẽ làm bỏng nặng xạ thủ. Nhưng cần gì, quân thù đang xông lên. Hãy nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng!

Câu chuyện tôi bịa ra ấy được in trong một cuốn truyện in chung của Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân về sau này. Tên truyện nhỏ của tôi trong tập do cụ Vũ Sắc đặt là “Ở Một Góc Chiến Hào”. Sách in ra thơm lắm! Tôi đến lĩnh tiền nhuận bút chỗ chị Hồng vợ anh Chu Lai ở phố Lý Nam Đế. Bốn mươi lăm đồng tất cả. Lại còn được thưởng thêm một cái đèn bão nữa để những đêm mất điện chong đèn lên mà viết. “Cây đèn nhà văn” này tôi cho thằng Tuấn Anh đại đội 1. Còn cụ Đỗ Gia Hựu, cụ Vũ Sắc kiểm duyệt, hướng dẫn sửa bài thì tôi mua kẹo lạc về khao, nhai côm cốp ở số 23 phố Lý Nam Đế, cứ như nhà văn quân đội thực thụ.

Tôi lấy cuốn sách có truyện của mình, tặng một cô bạn rất xinh của con em gái, mong nàng chiếu cố đến mình. Nhưng tiếc thay, nàng là con một ông thứ trưởng, lại không có máu văn chương nên chắc đã lẳng cuốn sách tâm huyết của tôi vào tủ cho mọt ăn. Rồi chiều chiều, nàng ngồi sau cái xe Star Simson nữ màu xanh biển của một thằng cha đen trũi, lên Tràng Tiền ăn kem. Lúc đó chỉ nghĩ rằng ông có khẩu B.40 bây giờ thì mày chết!
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Bây giờ trở lại tiểu đoàn 4 trong mùa mưa đó.

Một trung đội bộ binh, dù đã được bổ sung cũng chỉ có khoảng 12 người, bằng quân số một tiểu đội chính quy. Trung đội 2 có trung đội trưởng là anh Yên, lính Vĩnh Phú đi năm 1977, trung đội phó Tám khỏe, 3 tiểu đội trưởng. Nếu tính thêm A phó nữa thì trong trung đội hầu như toàn là cán bộ cả. Thằng Cự chúng tôi gọi là Cự kỳ đà vì nó bị lang ben loang lổ, bây giờ cũng là tiểu đội trưởng. Nó nhường khẩu RPD cho thằng Đăng, lính Kiên Giang mới vào, còn nó thủ cây AK. Cứ nhìn trang bị thì biết đẳng cấp lính. Toòng teng khẩu M.79, một dây đạn dù xệ bụng chắc chắn là trung đội trưởng. Tiểu đội trưởng hoặc lính cũ bao giờ cũng chỉ xách AK. Còn thấy vác B.40, B.41, RPD, nguyên khẩu cối tép hay thân đại liên…thì chắc chắn đó là những thằng em dại mới vào. Làm em ăn thèm vác nặng là cái lẽ sống phải thuộc nằm lòng.

Sau mấy trận diệt được địch năm ngoái, thằng Cự được cử đi học trường hạ sỹ quan ở Đồng Dù. Nó mới trở về đại đội được ít bữa. Ám ảnh đói cơm ở nhà trường quân đội vẫn đang hành hạ nó hay sao đó mà cứ trước lúc chia cơm đã thấy nó ở dưới bếp cậy cháy. Tổ anh nuôi đại đội 1 có ba người. Chung thân vẫn là thằng Tào, thằng Lại, nay thêm anh Hồng heo, lính 75 Hà Bắc bị thương đi an dưỡng từ cứ Trảng Lớn bên nước mới sang. Anh Hồng ra dân mượn được cái bẫy cạm. Cái cạm khá lớn, hai cái ngàm răng sắt hình cung nghiến chặt treo góc bếp trông thấy gớm. Cứ sau khi chia cơm chiều, anh Hồng lại đi đặt cạm đâu đó thỉnh thoảng kiếm con dím, con chồn.

Tôi bê chậu xuống lấy cơm tối, thấy thằng Cự đã ở dưới bếp như mọi lần. Một tay nó cầm miếng cháy nhai lốp cốp, tay kia nó sờ sờ vào cái cạm hôm đó đã căng sẵn. Anh Hồng làu bàu bảo mày đừng có nghịch mó vào đấy! Mới xúc cơm vào chậu văn phòng, chưa kịp ngẩng lên thì đã nghe xoạch một cái. Ngón tay trỏ thằng Cự bị cái cạm nghiến chặt, tía rịm gần như đứt đôi. Ông Hồng vừa lựa vừa nạy cho nó khỏi đau, mãi mới rút được cái ngón tay của nó ra. Tụi thằng Tào, thằng Lại xông vào chửi xơi xơi đ…mẹ cái thằng ngu. Bố mày đã bảo bao nhiêu lần rồi mà cứ mó vào đấy. Thằng Phượng bọ chạy xuống cố định, băng bó sát trùng cho nó, nhưng chắc cái ngón tay đó cũng vứt đi. Hôm sau, nó tự đi ra phẫu trung đoàn bộ rồi đi viện. Nó đi rồi, anh Hồng heo mới bảo ngu cái cục *** nó. Tao thấy nó hồi này chuyên xuống đây sờ sờ cái bẫy. Mấy hôm rồi đấy!

Mưa đã vào cuối mùa. Chỉ ba tháng nữa là Tết đến. Nghe đâu kỳ này đơn vị chúng tôi sẽ lên biên giới Thái Lan
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Bình cò bắn được con kỳ đà khoảng 3 ký ở mé trên suối. Mọi lần năm ngoái khi đang đánh nhau ác liệt, chúng tôi không bắn kỳ đà, trút bao giờ. Gặp còn thấy ghét chứ đừng nói là ăn, vì ăn thịt kỳ đà , trút, rùa, cơm khê… là rất xui. Không biết từ đâu có cái kinh nghiệm đó nhưng mỗi lần thấy kỳ đà cản mũi là tụi đi đầu thường né ra một đoạn rồi mới nhập lại hướng đường cũ. Vừa tránh vừa lầm bầm chửi, vừa trợn mắt lên dò tìm dây mìn. Có lần trong Ămleng còn thấy cả mấy con kỳ đà nhỏ nhoe nhoét ướt, chạy bung ra từ bụng thằng Pốt chết thối. Tụi nó đục theo vết đạn xuyên, rúc vào bụng cái xác để ăn lòng.

Bây giờ thì khác, hết thời tác chiến, thức ăn tươi đang khan hiếm nên chẳng cần phải kiêng cữ gì. Đun một nồi nước sôi già, đổ từ từ suốt đầu đến chân con bò sát kinh tởm. Lớp biểu bì ngoài trắng dần, rộp như lên mốc. Ra suối cạo, hoặc dùng tay chà là lớp vỏ mốc ấy tuột ra như người ta kỵ ghét. Lớp vỏ này giống như lớp vỏ phủ ngoài mai của con ba ba. Con kỳ đà giờ chỉ còn lớp bì hoa đen vàng bóng nháng. Sau đó chặt đầu, chặt các móng chân sắc dài nguều, bóc bỏ toàn bộ lòng ruột, vứt đi cả mật. Bình cò nháy thằng Căn xúc mũ gạo bảo liên lạc ra dân đổi rượu. Ới mấy ông đầu ngành B trưởng lên cho đủ cỗ là bắt đầu xào to lửa thịt đã pha ướp sẵn. Thịt kỳ đà trắng như thịt gà. Ngon nhất là cái gốc đuôi có những khoanh bì đen giòn tan. Tụi bậu sậu kêu ăn thịt kỳ đà rồi uống rượu ngứa điên, rủ nhau ra suối ngâm. Nhưng riêng tôi thì không bị. Thằng Căn ghen tức, phong cho tôi danh hiệu “Tre xanh Việt Nam”, vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt.

Nhưng chúng nó lại ăn được những thứ tôi không dám ăn. Trung đội 2 bắn được con vượn đen lớn. Chúng nó không biết làm, mang lên cho chỉ huy sở. Thằng Trung nghịch ngợm, buộc xác con vượn ngồi bó gối, tựa lưng vào cột lán chỉ huy, lấy cái mũ mềm đội lên đầu cho nó. Đôi tay dài nghêu lông mượt đen nhánh, đặt ôm hờ lấy khẩu AK trong lòng. Bàn tay với các ngón thanh dài vắt nhẹ qua cò súng. Cái đầu đội mũ, chúng nó để gục xuống, tựa vào thân súng. Thằng Nhạ quấn một điếu thuốc rê tổ bố, châm lửa rít vài hơi rồi cạy răng con vượn nhét vào cho ngậm. Khói thuốc bay lơ đãng. Xong tác phẩm theo trường phái bày đặt ấy, cả bọn đi lại xung quanh ngắm nghía, cười hô hố bình phẩm.

Tôi không thấy buồn cười, tôi thấy sợ. Nhất là nhìn cái hàm răng nhe ra, cắn chặt điếu thuốc dưới cặp môi đen mỏng dính trễ xuống. Như một nụ cười lạnh ngắt, nửa giễu cợt, nửa u ẩn. Cặp mắt đen tròn trong suốt không nhắm được, vẫn còn ngân ngấn nước trong cái nhìn cúi xuống. Trông nó giống như một anh lính nhỏ đang suy tư ngồi gác. Vừa gác vừa buồn ngủ, hoặc đang nhớ nhà. Cũng tai, mắt ấy, chân tay ấy. Chắc cũng bắt ve bắt bét, cũng gãi ghẻ sồn sột như tụi tôi. Đôi lúc hứng chí gọi bầy sáng sớm, hay chiều tà tuyệt vọng cũng hú lên điên rồ.

Không dám nhìn chúng nó làm thịt con vượn chứ đừng nói là xơi. Trong cuốn sách nào đó tôi từng đọc, có kể về một bà hoàng thời cận đại rất sành món khỉ. Bà hoàng Trung Hoa này đãi khách quý bằng món gỏi hầu não. Người ta dùng búa bạc đục đỉnh sọ con khỉ đang sống. Đổ rượu, vắt chanh, tiêu với các gia vị phức tạp gì gì đó vào cái lỗ nhỏ xíu hoen máu đó, rồi khoáy thìa vào móc gọn từng bán cầu não ra xơi nóng. Trong khi đó, người anh em gần gũi, người láng giềng bé nhỏ của loài người đang gào lên thảm thiết. Cơ thể con khỉ run lên bần bật trong sự sống tắt dần. Khéo ăn thì múc đến cuống tủy sống con khỉ mới chết.
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
219
Động cơ
333,722 Mã lực
Mình cũng có một chuyện về loài vượn này khi còn ở bên đó! Nhưng bây giờ bận quá, không kể lên đây được, hẹn ít bữa nữa...
 

MoonMax

Xe điện
Biển số
OF-19478
Ngày cấp bằng
4/8/08
Số km
2,736
Động cơ
528,334 Mã lực
Em có vài lời giứoi thiệu qua về bác Tùng này chút !

Tuy không phải nhà văn ( bác ấy là nhà kỹ thuật ) nhưng các bài viết của bác rất hay và sâu sắc, nhân văn. Không khô cứng nhưng cũng chẳng lên gân như chính trị viên .

Là một nhà nhiếp ảnh nghiệp dư, những bức ảnh của bác ấy cũng rất đẹp, phong phú đủ cả các thể loại ( trừ người mẫu, hoặc có nhưng bác ấy dấu vì sợ em xin đi theo cầm đèn chụp :D ) phong cảnh, macro...

Không phải nghệ sĩ nhưng lại là một tay đàn ghi ta điêu luyện và có giọng hát thật truyền cảm ( lúc cao vút, lúc mất hút :D ) và khi đi giao lưu đồng đội anh em vui vẻ hết mình.

Chứng cứ đây ạ :

Rất ngưỡng mộ bác tùng trungsy1 khi đọc Hổi ức của một binh nhì, nay lại được đọc thêm cái này!

Các bác ấy học hành tu luyện ngày xưa điều kiện khó khăn kiểu gì mà cái gì cũng biết siêu thế nhỉ,:-bd
 

quang8.3

Xe hơi
Biển số
OF-184329
Ngày cấp bằng
9/3/13
Số km
168
Động cơ
336,094 Mã lực
DĐọc hết 42 trang lại nhớ về thời quân ngũ.Sao giống mình vậy.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Thằng Tuất bọ được quân lực rút lên làm quản lý tiểu đoàn. Nó quê huyện Hương Thủy, Thừa Thiên Huế, nhưng tụi tôi vẫn gọi là Tuất bọ theo thói quen. Chỉ huy sở C1 làm một cuộc liên hoan chia tay. Không thấy nó đeo cái đồng hồ Orient 3 sao mặt xanh như mọi khi, thằng Căn hỏi đồng hồ đâu rồi? Tuất bọ không trả lời. Bị hỏi gặng quá, trong hơi rượu phừng phừng, nó nổi khùng bảo mất mẹ nó rồi, chúng mày đừng có hỏi nữa.

Cái đồng hồ này có số phận khá đặc biệt. Nó là chiến lợi phẩm chung của thằng Căn và thằng Đặc như đã kể trong chiến dịch trèo vượt núi U Răng năm 1979. Đại đội 1 xung phong, quất sụm ba thằng địch. Thấy thằng Pốt chết trận đeo lấp lánh cái đồng hồ, thằng Trung, thằng Cự nhào đến. Thằng Căn thấy thế hạ AK bắn găm, cản đường tụi kia cho thằng Đặc cướp. Khốn khổ cái thằng dân Hải Phòng mà quê một cục, loay hoay mãi không biết cách tháo cái khóa dây inox đồng hồ tư bản ra như thế nào. Thằng Cự xông đến, tóm tay thằng Pốt, nhẹ nhàng bấm đánh tách. Cái đồng hồ đã nằm gọn trong tay nó. Nó thản nhiên đút vào trong túi. Bị hớt tay trên, thằng Đặc nổi khùng giằng lại. Tụi thằng Trung, thằng Cự đẩy nó ra, gân cổ bảo tao bắn hạ nó, cái đồng hồ này của tao. Thằng Căn chửi đ…mẹ mày đạn ra như mưa thế biết đ…thằng nào hạ? Chúng mày định ăn cướp phỏng? Có bỏ ra không thì bảo? Bỏ ra ngay! Bản lĩnh kém hơn, lại thấy thằng Căn lăm lăm khẩu súng đã lật khóa an toàn quyết ăn thua đủ, thằng Cự mới chịu nhả.

Từ đó, hai thằng đeo chung cái đồng hồ. Tuần này thằng Đặc đeo thì tuần sau thằng Căn đeo. Cái đồng hồ Orient mặt đá có ba ngôi sao trắng trông thật đẹp. Ban đêm, kim dạ quang xanh rực màu lá mạ, soi lên vỏ kính mờ mờ khi nó gác tay lên đầu võng. Cái đồng hồ Orient trở thành vật dùng mơ ước của tôi. Nhưng là thằng lính đi giữa đội hình thì cái kiểu giật đồng hồ này chắc chắn không bao giờ đến lượt, trừ khi tiểu đoàn thu được cả một xe đồng hồ, như cái xe vàng dạo ấy. Sau thằng Đặc đeo chán, vất cho thằng Căn, bảo thôi mày làm liên lạc, đeo luôn cho an toàn. Tao dưới trung đội, nhỡ đá mìn nó hỏng mẹ nó mất cái đồng hồ thì phí của.

Anh Chính cho thằng Căn đi học trường Sỹ quan lục quân 1 cùng với thời gian tôi sốt rét đi viện sư đoàn. Đêm trước khi ra đi, Tuất bọ tỉ tê bảo thằng Căn kỷ niệm cho cái đồng hồ. Thằng Căn lúc đó không có tiền, bảo mày thích thì bỏ tiền ra đây, bao nhiêu cũng được để tao lấy tiền tiêu dọc đường. Tuất bọ bảo tao cũng không có tiền, hay để khi nào về nước tao trả. Mẹ cái thằng khôn lòi tói! Biết đếch khi nào mới được về nước mà thanh toán. Nhỡ nó tèo thì coi như là xong nợ. Nhưng nó cứ lèo nhèo mãi, cuối cùng thằng Căn cũng đồng ý đưa cho thằng Tuất cái đồng hồ với tất cả những gì thằng Tuất vét túi. Thằng Căn ra Bắc đi học, nhưng được 3 tháng thì không chịu được kỷ luật rèn giũa của nhà trường nên lại xin lộn trở về dơn vị.

Bữa nhậu đó không thấy thằng Tuất đeo cái đồng hồ nữa nên tụi tôi mới xoắn vào hỏi. Cuối cùng, thằng Tuất thở dài, bảo chúng mày đừng chửi tao. Tao cho cái đồng hồ ấy rồi. Quân lực rút tao lên làm quản lý tiểu đoàn. Tao nể quá, tao cho…

Bây giờ, tôi cũng chỉ đeo đồng hồ Orient là vì cái ước mơ ảm ảnh từ thời đó. Trong cuộc sống, tôi cũng đã từng được bạn bè cho, tặng nhiều loại đồng hồ khác nhau. Song không hiểu sao chỉ mãi chung thủy đeo loại Orient này. Chẳng biết cái đồng hồ năm xưa vẫn còn tích tắc trên cổ tay ai, hay đã mãi mãi im lìm đâu đó trong cái thế giới này?
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
*
Trung đoàn đã có lệnh cấm các đơn vị đi săn đêm, nhưng mấy thằng lính thèm chất tươi vẫn lén lút. Đèn 3 pin Con Hổ Trung quốc ra ga Bamnak mua của dân buôn tàu hỏa, tháo pha ra, hàn đấu lưỡng cực để nối với nửa lố pin máy 2w thải đeo sườn. Buộc cái dây nịt đội chặt trên trán thành cái đèn săn xịn. Trung đội thông tin trở nên có giá vì là nguồn cung cấp pin cho mấy tay sát thú. Ban chỉ huy tiểu đoàn đến khi được các đại đội cho miếng thịt tươi mới biết là lính đi săn trộm, nhưng vẫn xào thịt chén như thường. Trong tiểu đoàn bộ, chỉ có Bình vàng, Quỳnh xe lôi trung đội vận tải là sát thú. Tụi vận tải thường bắn được mễn, heo. Trong lán Quỳnh xe lôi treo mấy cái mảng sọ con mễn có cặp sừng nhỏ chẽ đôi để làm mắc áo. Còn trung đội tôi, dù đồ đoàn trang bị đến tận răng nhưng anh Nhương họa hoằn mới bắn được vài con thỏ nát ăn hoi mù. Phải táo gan đi xa như tụi nó mới gặp may, chứ kiểu nhát ma săn cảnh, nghe súng nổ quanh nhà đen đét cách vài trăm mét có thỏ ăn đã là phúc.

Một tối, anh Nhương với thằng Tường lé chui vào phum nhà dài săn. Cái phum này có một cái nhà dài đã tháo hết ván, chỉ còn lại bộ khung xương. Chúng tôi nằm nhà, bỗng nhiên nghe tiếng AK kéo tằng tặc hướng đó. Hiếm khi nghe AK nổ liên thanh nên cả tụi nhỏm dậy xôn xao. Đứa thì đoán đụng địch, đứa thì đoán đêm nay ngập răng vì chắc hạ thú lớn.

Nửa tiếng sau thấy hai người sồng sộc chạy về, thần thái hoảng loạn nói không ra hơi. Anh Nhương hổn hển lắp bắp thông báo gặp hổ. Nó ngồi trên nhà sàn thấy tao, giật mình nhảy vọt qua ngọn cây bưởi. Tao cũng giật mình néo cò, xuýt bắn vào chân. Thằng Tường lé bổ sung thêm là con hổ rất lớn, lông nó trắng tinh, lướt qua vệt ánh pha đèn săn. Tiểu đoàn bộ nghe súng nổ, thấy xôn xao chạy cả sang thông tin mong kiếm miếng thịt. Thấy thằng Tường với anh Nhương nói thế đều im phắc. Chỉ có thằng Quỳnh xe lôi cười bí hiểm. Thằng Quỳnh người Thái trắng Thanh Hóa giáp Lào, cùng đoàn với anh Ky tiểu đội tôi. Nó thấp đậm, da trắng bóc dù đã mấy năm chiến trận. Một bên má nó có cái mụt ruồi lớn, trên đó thò ra một túm lông xoăn đen nhánh. Nó bảo hồi bé nó cũng nghe ông già nói đã từng gặp hổ trắng. Anh Nhương *** ra quần rồi kìa! Để mai tôi rủ Bình vàng đi…

Mấy đêm liền tụi bên trung đội vận tải đi rình mò, nhưng con hổ vẫn mất tăm tích. Mấy ông nhát ma thấy êm êm lại lét đét loanh quanh nổ súng bắn thỏ đêm. Một hôm tôi ra trung đoàn lĩnh pin, về đến khẩu đội DK.82 chỗ đầu dốc cầu, tạt vào tính kiếm miếng nước. Vừa vào lán bỗng giật mình sởn da gà. Nằm dài thượt trên nền là một con báo hoa mai lớn đang há miệng, dãi còn chảy nhèo nhẹo. Con báo dính bẫy treo của thằng Mẫn, một chân bị cáp treo lên. Không tháo được, nó đang tự cắn đứt chân trước thì thằng Mẫn lò dò đến thăm bẫy. Con báo nghe động nằm im, rình đúng tầm, phóng mình vọt tới quơ tay tính vả ngang mặt. Thật may, tầm nhảy của nó bị cái cáp bẫy gìm lại, kéo nó đổ lật thân. Bàn tay trước đầy vuốt vả hụt, cách mặt nó có 20 cm. Thằng Mẫn cũng lỳ không nhát như lão Nhương. Nó lựa vị trí trên thân con báo làm đúng một phát xuyên tim rồi chạy về gọi tụi DK ra khiêng về.

Ngay lúc đó, bọn DK bí mật khiêng ra ga Bâmnak bán không mặc cả cho dân buôn được 500 Riel. Thằng Hùng lé cho tôi ba chục tiền hóng hớt. Mãi sau tiểu đoàn mới biết, chửi bọn DK ăn bẩn. Thời giá lúc đó tôi nhớ 1 Riel ăn 4 đồng tiền Việt. Một gói Samit giá 1 tờ xanh 20 đông tiền Việt, hoặc 5 Riel.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Cuốn "Những bí mật trong lòng bàn tay" do ông già tôi mua ở đường BS Calmette rồi tự dịch ra, ghi vào vở. Hồi chuồn về nhà, tôi có đọc cuốn vở này và thấy khá hấp dẫn. Những cái bí hiểm luôn gây tò mò, nhất là đoạn đường đời phía sau không ai đoán định. Tôi gần như thuộc lòng cuốn vở lược dịch. Bây giờ rảnh rỗi, có lúc xem tay phán cho mấy đứa trung đội.

Lúc đầu thì cẩn thận, chỉ nói những điều rõ ràng như trong cuốn sách ghi. Nhưng về sau thấy chúng nó cứ hỏi thêm những điều khác cụ thể hơn với thái độ trọng thị ra mặt, tôi bắt đầu tự nghĩ ra những điều khác để thỏa mãn “khách hàng” của mình. Đến như ông Nhương cũng là khách hàng ruột của tôi. Thỉnh thoảng lại chìa tay hỏi liệu con vợ tao ở nhà có lăng nhăng hay không? Câu này thì đến bố tôi cũng chịu. Nhưng anh ấy hỏi điều này lắm quá nên tôi cứ bảo bừa là muốn biết điều ấy thì phải xem tay thằng xã đội trưởng ở nhà. Anh Nhương bỗng nhiên nổi khùng, dọa bố mày vả vỡ mồm bây giờ.

Hoảng quá! Từ đó có thêm kinh nghiệm, rằng cứ phán tốt lên là có thuốc lá hút. Và để cho tụi nó tin, phải liên tục đưa vào quẻ những thuật ngữ chuyên môn và kèm theo tiếng Tây, hay dẫn chứng các điển cố Tàu. Sinh đạo mày dài, sâu thế này cơ mà. Thế là trường thọ lắm đấy! Thằng này gò Mars lớn và đỏ, giàu nứt đố đổ vách, phát tài trong thời gian ngắn. Ngón nhẫn của thần Apollon mày dài quá, lại có mũi tên hướng lên, thế nào sau cũng thành công về nghệ thuật Mạnh ạ, dù mày bây giờ hát khê như tiếng gào rống bò đôi. Tâm đạo thằng này lằng nhằng khiếp quá, những ba bốn vợ... Thằng nào cũng sướng! Dự cảm tốt lành về những điều chưa xảy ra làm người ta hy vọng... Thấy chúng nó tin sái cổ, tôi cũng tự tin hơn trong những câu phán. Thậm chí tin luôn cả vào những gì mình đang nghĩ ra để nói.

Thế nhưng có một lần, thằng Kảm - Trương công Kảm - nhờ tôi xem. Tên cúng cơm khai sinh nó là Cảm, nhưng nó ghi trong sổ tay là Kảm cho điệu. Tay nó không có đường Trí đạo. Không có đường này không phải sẽ học dốt mà theo như sách phán thì chỉ có chết non. Tôi vô tư bảo mày đi càn lần này phải cẩn thận đấy! Thế là nó sợ, cáo ốm liên tục, không đi nữa. Anh Nhương bực tức báo cáo chuyện này với tiểu đoàn.

Tối hôm đó, anh Nhương đi hội ý về, bảo tôi mấy hôm nữa chuẩn bị xuống C1 làm thằng bộ binh, chứ không ở thông tin tiểu đoàn nữa. Xuống thì xuống thôi! Ngày nào mà chẳng đi với các đại đội, ăn ở khác gì nhau mấy đâu. Mà thực ra tôi đi với đại đội 1 còn nhiều thời gian hơn ở trên tiểu đoàn. Tự xác định rõ là xuống đại đội 1 thì tôi sẽ chỉ xách AK chứ không nhận hỏa lực. Chết không sợ bằng mỏi mòn vác nặng. Mà đời nào Chính tréc bắt tôi xách hỏa lực, anh em đã ăn ở đánh đấm mấy năm rồi. Xòe bàn tay, nhìn thấy cái trí đạo cũng dài mà sao mình ngu quá! Những câu chuyện vui, những lời bông phèng “thông thái” không nâng cái sỹ diện mình lên được, mà có khi tự ấn vào đời cái gánh nặng của sự hối hận. Thậm chí có khi còn cả khẩu B.41 nặng như cái cùm nữa.

Hai hôm sau, tiểu đoàn lại thay đổi quyết định, bắt tôi đeo máy 2W đi với đại đội 1 cho thằng Kảm ba đợt truy quét liền, để “cho nó chừa nói láo đi" như anh Được nói. Tôi may mắn được giữ lại bởi thằng Tường lé bất ngờ biến mất khỏi trung đội nên thông tin thiếu người.

Mọi việc lại như cũ. Có điều “thầy bói” thì không dám hành nghề nữa...

 

Simson

Xe buýt
Biển số
OF-3149
Ngày cấp bằng
18/1/07
Số km
586
Động cơ
565,340 Mã lực
Hay quá. Nhẽ ra có nút like để cho đỡ phải comm những câu khen ngắn như này
 

SonrackTài khoản đã xác minh

OF vì cộng đồng
Biển số
OF-6764
Ngày cấp bằng
5/7/07
Số km
12,180
Động cơ
659,394 Mã lực
Nơi ở
Nơi có rượu và...

LongThan

Xe hơi
Biển số
OF-66616
Ngày cấp bằng
19/6/10
Số km
135
Động cơ
433,786 Mã lực
Nơi ở
Hà nội
hay tóa . tiếp đê bộ đội cụ Hồ ơi
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Sau đêm đi săn cùng anh Nhương gặp hổ vài ngày, thằng Tường lé biến mất khỏi trung đội. Chắc không phải do sợ hổ, ngán địch, mà vì cái tiếng còi tàu ngoài ga kia nó thúc giục. Nó xin ra ga trung đoàn thăm đồng hương hai hôm không thấy về. Anh Nhương gọi thằng Mạnh, người cùng xã, cùng trường cấp 3 Yên Cường với nó, hỏi có phải thằng Tường lé chuồn rồi không. Thằng Mạnh nói em không biết. Thôi thế coi như xong. Bây giờ chắc nó đang cà phê ở chân cầu Sài gòn rồi. Một số thằng vội lục kiểm lại ba lô xem có mất thứ đồ cổ nào không. Tôi không kiểm đồ, bởi không đủ sức và ý chí mang nặng như tụi nó. Ba lô tôi càng thâm niên càng lép.

Những chuyến tàu đã chạy, chở theo bao nhớ nhung, khát vọng của đời thường. Tôi gửi mua gói Samit ngoài ga, mất 20 đồng xanh để khao vì được giữ lại trung đội thông tin sau sự cố trên. Phụ cấp tháng quân đội và tiền riel do chính phủ Heng Xòm rin cho cấp hạ sỹ tôi nhớ khoảng 28 đồng gì đó. Tháo chỉ quấn, mới bóc lớp bạc bao mềm che cái tem xanh, một mùi thơm hấp dẫn tỏa ra khiến muốn hít một hơi thật sâu. Thuốc này buổi sáng chưa ăn, rít sâu khói hơi đầu là chân tay bủn rủn, chảy nước miếng. Mùi khói thuốc thơm xa vài chục mét. Tụi nó đồn rằng loại Samit No14 của Thái lan này có tẩm thuốc phiện, không biết có đúng không. Chỉ biết hôm đó lính thông tin về trung đội họp đông đủ. Anh Nhương quản lý bao thuốc, bắt chúng nó hút dè hai thằng một điếu. Thằng nào cũng cố rít trước khi đưa cho bạn, nên cái tàn thuốc không cháy hết, thò nõ dài ngoằng, thân điếu thuốc gầy tóp, nhăn lại ám nâu nhánh nhựa khói.

Bên bàn trà, gói thuốc thơm trong cuộc sống nằm rừng tẻ nhạt, chẳng ai nói chuyện chiến dịch, luồn sâu, leo núi nữa. Thằng Tường lé bỏ đi, khơi nỗi háo hức dồn cả ra ngoài ga, nơi có con tàu chạy ngày mỗi buổi đi về. Cùng với nó là những xấp vải ôt pho, ka tê, dép tông gan gà, kem đánh răng Hynos…Lính tiểu đoàn bắt đầu dùng bàn chải đánh răng Thái lan. Nhìn cây bàn chải nó mới thần kỳ lóng lánh làm sao. Lông bàn chải mềm mại, pha sắc tuyệt đẹp. Không biết vì sao một vật nhỏ như thế mà họ lại làm tốt và đẹp được đến như thế. Một vài đứa còn móc ra khoe những cái bóp nhựa hay album Thái, có hình mấy đứa con gái vú căng nhức, đùi trắng tinh. Để nhìn thẳng đã thấy sướng mê cứng lên rồi. Nay lắc hình ra góc khác là nó nháy mắt, nó cười mỉm, nó giạng đùi… làm cả tụi lính giằng nhau cướp xem, cười hô hố.

Tôi không có album Thái. Tôi chỉ có một cái album nhựa rẻ tiền mua ở Sài gòn, bìa in hình hoa hậu Thẩm Thúy Hằng. Trong đó có một tấm hình nhỏ của em mà phải giơ lên ánh sáng mới đọc được mờ chữ ghi đằng sau. Bởi em đã kín đáo dán dè lên lưng tấm hình sau khi viết xong một lần giấy pơ luya.

“……tấm hình trước lúc xa nhau” ấy, luôn ở trong túi ngực trái tôi, cho đến khi tôi trở về nhà.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
*
Quân khí ra trung đoàn lĩnh bia về. Có ai ngờ một đơn vị chiến đấu, đã đánh nhau ba năm liền mà bây giờ phải tập bắn lại. Bia mẹ con, bia thằng còm màu xanh…và khoảng cách bắn cũng xa hơn cái bia số 4 mà chúng tôi đã bắn thời huấn luyện. Các đại đội cử người ra cái rẫy sắn của thông tin làm trường bắn. Mỗi đại đội đắp một cái công sự nổi dày chắc hình móng ngựa chỗ cắm bia mẹ con. Có 4 ụ cho 4 tuyến bắn cùng lúc. Thông tin chúng tôi dải dây, lắp máy điện thoại vào trong từng ụ và nối máy với chỉ huy đặt dưới tuyến xuất phát.

Ngày bắn đã đến. Đây là một dịp tốt để cá cược. Xạ thủ được chọn đại diện cho trung đội thông tin là anh Ky. Trung đội vận tải, bên thách đấu là Bình vàng, tay thợ săn lão luyện. Chính cha ấy gần phum Kầmnom đã bắn nhầm què tay thằng Hiệp híp và suýt đưa tôi về thế giới bên kia bằng loạt đạn cách cái sọ 15cm đứt ngọt dây võng. Mỗi trung đội chung độ một cái mùng huy động của mấy thằng đoàn mới vào. Chưa chắc mỗi viên đạn một quân thù. Nhưng mỗi cái mùng một con chó là cái chắc! Mùng mới có khi được hai con.

Dân bạn Campuchia theo Phật giáo, không ăn thịt chó. Những năm đầu đánh vượt biên, hễ thèm món cờ tây thì ra dân xin họ cho ngay. Nhất bạch nhì vàng, tam khoang tứ đốm cứ thế tha hồ chọn. Dần về sau này, nhu cầu cầy tơ của lính ta nhiều quá. Người ta còn mỗi một con giữ nhà mà cũng có thằng mặt dày ra xin. Oi kh’nhum xum kôn ch’ke, kh’nhum nuôi kh’nhum ót thịt. Họ không cho nữa, muốn ăn thì đổi! Chó bắt đầu lên giá. Bộ đội Việt Nam đi qua phum bị bọn cẩu ghét cái mặt, sủa gâu gâu long óc. Đến bây giờ thì giá mỗi con là một cái mùng không hơn không kém. Lính tiểu đoàn tôi trở nên đoàn kết hơn bao giờ hết. Bởi hai thằng ôm nhau nằm chung một cái mùng, thừa ra một cái thì đem “mắc cho chó”.

Các cặp bắn khác thì không ai quan tâm mấy. Kết quả bắn cũng bình thường. Đến cặp Ky – Bình vàng bước vào vị trí bắn, cả tiểu đoàn bộ xô vào háo hức. Chúng nó ngồi ngang bờ ruộng ngong ngóng, như chó ngồi xem tát ao. Tôi cũng thấy hồi hộp. Bình tĩnh nào anh Ky! Bắn bia số 1. Cái đầu ruồi ngọ nguậy. “Pằm!” , “Pằm pằm! Pằm pằm!”. Loạt đầu anh Ky tắc cú, trừ một điểm. Hai loạt sau điểm xạ tốt. Bình vàng thì qua loạt đầu suôn sẻ. Cả hai xách súng bắt đầu vận động lên phía trên. Bia còm xuất hiện. Hai đấu thủ súng nổ nhịp đôi giòn giã. Sao Bình vàng tiến nhanh thế kia? Đúng lúc đó, cán bia số một trong tuyến bắn của Bình vàng gãy gục. Chúng nó ồ lên cả lượt: “Phạm quy rồi!”. Thằng cha này khôn lỏi. Bia số 7 bắn dễ, rách áo ăn tiền. Hắn thấy trúng rồi thì quay sang quất đạn tiếp vào bia số 1 cho chắc ăn con chó. Vận động lên gần thế với một tay thợ săn thì trúng là đương nhiên. Nhưng trời có mắt! Đạn bồi thêm trúng cả cán bia làm nó gãy gục, tố cáo kẻ gian manh.

Anh Nhương đắc chí ôm hai cái mùng tại trận, giao cho thằng Ban trố mang ra dân ngay. Lại còn chỉ tận mặt Bình vàng: “Khôn ngoan chẳng lại với giời đâu con ạ!”. Thời thế có lúc, bây giờ anh chuyên bắn thỏ què lại chửi được cả anh từng hạ vô số lợn lòi. Cán bộ tác chiến trung đoàn cùng theo dõi thao trường gọi Bình vàng lại chửi cho một trận vuốt mặt không kịp.
 

Viethathanh

Xe buýt
Biển số
OF-180313
Ngày cấp bằng
10/2/13
Số km
817
Động cơ
344,700 Mã lực
Nơi ở
0 chín 0 tái 453345
E tự hào về bố e. Ông cũng là 1 trong những số hiếm lính chiến trường K sống sót trở về. E sẽ bảo ông theo dõi bài này
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top