- Biển số
- OF-159708
- Ngày cấp bằng
- 7/10/12
- Số km
- 1,004
- Động cơ
- 360,454 Mã lực
*
Mưa đã giảm hẳn. Những tiếng sấm xa, đùng đục đâu đó hồi nửa đêm về sáng bảo rằng mùa mưa sắp dứt. Sáng hôm ấy, như một bất ngờ, con chim cu đáp xoạch xuống cành me cụt, nghiêng ngó sửa soạn rồi cất tiếng gù. Chim cu về nhiều là mùa hành quân, là nghẹt mùi khói xe, quện nồng cát bụi trên đường thẳm.
Chẳng có thằng lính nào trên đất nước xứ người này không từng nheo mắt, đưa đường ngắm vào con chim cu vô tội. Có khi chim cu chết vì đạn nhọn lính ta nhiều hơn cả lính Pốt cũng nên. Mùa mưa cũng có, nhưng mùa khô càng nhiều. Loài chim ăn hạt hiền lành về theo mùa lúa. Chim cu bên này lớn con hơn chím gáy ngoài Bắc và cũng ngu hơn, cả tin hơn. Nó đậu trên nhánh hoa dừa, trên cành me trụi, trên tàu lá thốt nốt, trên hàng rào ngăn bò thật thấp. Cũng có khi nó đậu trên cái lõi thép lòi ra vì đạn của một bảo tháp, hay tít cao trên sừng cong của mái chùa. Chim cu nó không rúc bụi, nó cứ trần phơi cái ức nâu non pha hồng của nó ra ở những chỗ dễ thấy nhất. Gru…gru…gru…gru…Rồi… pằm! Xong đời chim cu!
Hành quân tiến về Ph’nom Penh, tiểu đoàn buồn ngủ rũ người trong tiếng cu gù trưa nắng. Khi xa, khi gần, nhịp ba đều đặn. Chẳng biết nó đậu ở đâu trên cánh đồng mênh mông hoang vu, chói lói gốc rạ ấy. Nhưng tiếng gáy ru trưa thì đậu mãi trong hồn đến tận bây giờ. Ở Ô Đông càng nhiều. Nó thích ở những vùng đồng có nhiều cây bụi hoặc ven rừng lẫn trảng. Súng rền chiến dịch tháng Hai năm 79 như thế mà chim cu nó vẫn lẩn quất, không chịu bay đi. Nó quen sống với loài người canh nông trồng tỉa, nó không chịu vào rừng. Trong rừng rậm chỉ có loại cu xanh, cu gầm ghì ăn đa mà anh Chính tréc bắn được cả xâu. Tiểu đoàn tôi đóng quân ở cứ Pursat này, trước cũng lắm chim cu đất nhưng nay thì đã vãn. Lính ta rình bắn nó nhiều quá, nó sợ, cứ thấy bóng áo xanh từ xa là nó bay biến ngay. Chớp mắt chỉ còn thấy vết chim mờ ngược sáng trên trời bổng, rớt lại tiếng gáy cụt nửa chừng. Thằng Quỳnh xe lôi tai quái, lục bồng lấy cái áo đen thu được trong kho vải Pốt năm ngoái, mặc vào đi săn cu. Trưa hôm đó nó hạ được bốn con. Tôi không bắn được con nào, cay cú chửi đ…mẹ thằng này đi lừa cả chim.
Bây giờ thì nó đậu ngay đây, trên cành me trụi đầu lán thản nhiên gáy. Không đứa nào dám bắn. Trong lán tiểu đội vô tuyến điện, thằng em mới vào đang nhợt người li bì trong cơn sốt ác tính. Anh Ky dọa chúng mày bắn sát đây, nó giật mình vỡ mạch máu là chết ngắc. Lính nam mới vào trung đội tôi 2 đứa thì thằng này dính sốt rét ngay. Tôi chỉ nhớ tên thằng Quan, không nhớ tên thằng em này bởi nó vào và nó ra nhanh quá. Hình như đạn nhọn, mìn, ký sinh trùng sốt rét nó chỉ thích chén hồng cầu tươi lính mới. Tụi vận tải đến võng nó ra trạm xá trung đoàn. Thằng Quỳnh xe lôi xốc cái đòn cáng nhìn con chim trên cây tiếc rẻ, lại cúi nhìn xuống khuôn mặt xám ngoét của thằng em trong võng, bảo kiểu này hỏng rồi, hỏng rồi.
Con chim cu áo nâu, cổ đeo tràng hạt. Con chim ăn chay như thầy tu, gieo xuống đồng hoang khói lửa tiếng gù đều đều như kinh hiền vĩnh cửu. Tiếng chim gù ở Ô Đông, tiếng chim gù ở Kompong Ch’năng, tiếng chim gù ở Pursat… nghe đâu có khác gì nhau? Chỉ có điều giữa những tiếng chim gù, những người nghe chim nay đã vãn đi nhiều.
Chim cu gù ở Ô Đông
Chim cu gù ở Pursat
Áo nâu, tràng hạt
Tha thẩn thóc rơi
Trên ruộng lẫn xương người
(Chim cu chụp ở S’vay Rieng. Chắc nó đi uống nước)
Mưa đã giảm hẳn. Những tiếng sấm xa, đùng đục đâu đó hồi nửa đêm về sáng bảo rằng mùa mưa sắp dứt. Sáng hôm ấy, như một bất ngờ, con chim cu đáp xoạch xuống cành me cụt, nghiêng ngó sửa soạn rồi cất tiếng gù. Chim cu về nhiều là mùa hành quân, là nghẹt mùi khói xe, quện nồng cát bụi trên đường thẳm.
Chẳng có thằng lính nào trên đất nước xứ người này không từng nheo mắt, đưa đường ngắm vào con chim cu vô tội. Có khi chim cu chết vì đạn nhọn lính ta nhiều hơn cả lính Pốt cũng nên. Mùa mưa cũng có, nhưng mùa khô càng nhiều. Loài chim ăn hạt hiền lành về theo mùa lúa. Chim cu bên này lớn con hơn chím gáy ngoài Bắc và cũng ngu hơn, cả tin hơn. Nó đậu trên nhánh hoa dừa, trên cành me trụi, trên tàu lá thốt nốt, trên hàng rào ngăn bò thật thấp. Cũng có khi nó đậu trên cái lõi thép lòi ra vì đạn của một bảo tháp, hay tít cao trên sừng cong của mái chùa. Chim cu nó không rúc bụi, nó cứ trần phơi cái ức nâu non pha hồng của nó ra ở những chỗ dễ thấy nhất. Gru…gru…gru…gru…Rồi… pằm! Xong đời chim cu!
Hành quân tiến về Ph’nom Penh, tiểu đoàn buồn ngủ rũ người trong tiếng cu gù trưa nắng. Khi xa, khi gần, nhịp ba đều đặn. Chẳng biết nó đậu ở đâu trên cánh đồng mênh mông hoang vu, chói lói gốc rạ ấy. Nhưng tiếng gáy ru trưa thì đậu mãi trong hồn đến tận bây giờ. Ở Ô Đông càng nhiều. Nó thích ở những vùng đồng có nhiều cây bụi hoặc ven rừng lẫn trảng. Súng rền chiến dịch tháng Hai năm 79 như thế mà chim cu nó vẫn lẩn quất, không chịu bay đi. Nó quen sống với loài người canh nông trồng tỉa, nó không chịu vào rừng. Trong rừng rậm chỉ có loại cu xanh, cu gầm ghì ăn đa mà anh Chính tréc bắn được cả xâu. Tiểu đoàn tôi đóng quân ở cứ Pursat này, trước cũng lắm chim cu đất nhưng nay thì đã vãn. Lính ta rình bắn nó nhiều quá, nó sợ, cứ thấy bóng áo xanh từ xa là nó bay biến ngay. Chớp mắt chỉ còn thấy vết chim mờ ngược sáng trên trời bổng, rớt lại tiếng gáy cụt nửa chừng. Thằng Quỳnh xe lôi tai quái, lục bồng lấy cái áo đen thu được trong kho vải Pốt năm ngoái, mặc vào đi săn cu. Trưa hôm đó nó hạ được bốn con. Tôi không bắn được con nào, cay cú chửi đ…mẹ thằng này đi lừa cả chim.
Bây giờ thì nó đậu ngay đây, trên cành me trụi đầu lán thản nhiên gáy. Không đứa nào dám bắn. Trong lán tiểu đội vô tuyến điện, thằng em mới vào đang nhợt người li bì trong cơn sốt ác tính. Anh Ky dọa chúng mày bắn sát đây, nó giật mình vỡ mạch máu là chết ngắc. Lính nam mới vào trung đội tôi 2 đứa thì thằng này dính sốt rét ngay. Tôi chỉ nhớ tên thằng Quan, không nhớ tên thằng em này bởi nó vào và nó ra nhanh quá. Hình như đạn nhọn, mìn, ký sinh trùng sốt rét nó chỉ thích chén hồng cầu tươi lính mới. Tụi vận tải đến võng nó ra trạm xá trung đoàn. Thằng Quỳnh xe lôi xốc cái đòn cáng nhìn con chim trên cây tiếc rẻ, lại cúi nhìn xuống khuôn mặt xám ngoét của thằng em trong võng, bảo kiểu này hỏng rồi, hỏng rồi.
Con chim cu áo nâu, cổ đeo tràng hạt. Con chim ăn chay như thầy tu, gieo xuống đồng hoang khói lửa tiếng gù đều đều như kinh hiền vĩnh cửu. Tiếng chim gù ở Ô Đông, tiếng chim gù ở Kompong Ch’năng, tiếng chim gù ở Pursat… nghe đâu có khác gì nhau? Chỉ có điều giữa những tiếng chim gù, những người nghe chim nay đã vãn đi nhiều.
Chim cu gù ở Ô Đông
Chim cu gù ở Pursat
Áo nâu, tràng hạt
Tha thẩn thóc rơi
Trên ruộng lẫn xương người
(Chim cu chụp ở S’vay Rieng. Chắc nó đi uống nước)