Cụ xem thêm phiên bản Mường ( Mol) Âu Cơ Lạc Long quân mới thấy cái sự gần gũi Kinh Mường.
Không hiểu ông quái nào nghĩ ra Lạc Long Quân từ phía Bắc xuống, và nghĩ ra biên vào sử với mục đich gì.
Em đồ rằng trước đây mình theo chế độ "Mẫu hệ" tức là Mẹ Âu Cơ làm chủ một vùng đất rộng lớn ở đồng bằng Sông Hồng. Chế độ mẫu hệ đó cũng khá dài, kéo dài đến tận thời bà Trưng làm vua đất Phong Châu khởi nghĩa năm 40 sau công nguyên. Bà Triệu thì 226 - 248 sau công nguyên.
======
Bà Trưng: sanh vào khoảng năm 14 Sau Công Nguyên, con của Lạc Tướng vùng châu Phong, dòng dõi Hùng Vương, họ Lạc. Cha mất sớm, Mẹ là Man Thiện nuôi dạy theo cung cách con nhà võ, với tinh thần thượng võ.
Hai Bà là chị em song sanh. Về tênTrưng Trắc và Trưng Nhị, chính là " trứng trắc " và " trứng nhì " theo ngôn ngữ dân gian nuôi tằm thuở ấy.
Trưng Trắc kết hôn với Thi Sách, con Lạc tướng châu Diên. Hai người rất tâm đầu ý hợp về việc chống ngoại xâm, giặc Hán. Ông Thi Sách bị tên Tô Định, viên Thái Thú Hán quan lừa giết.
Nước mất, nhà tan, Bà cùng em Trưng Nhị nổi trống khởi nghĩa tại Mê Linh ( Tiếng Trống Mê Linh ), vào muà Xuân năm 40, nhiều nơi hưởng ứng. Hai Bà đaị thắng. Tên Tô Định vắt giò lên cỗ, ôm nỗi nhục chạy về Tàu....
Bà Trưng Trắc lên ngôi tức vị Trưng Nữ Vương..., lấy Mê Linh làm Kinh Đô năm 40 SCN
==========
Bà Triệu còn được gọi là Triệu Ẩu, Triệu Trinh Nương, Triệu Thị Trinh, sinh ngày 02 tháng 10 năm Bính Ngọ (226) tại miền núi Quân Yên, quận Cửu Chân (nay thuộc thôn Cẩm Trướng, xã Định Công, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá).
Khởi nghĩa bắt đầu vào năm 246 - 247, tại vùng núi Nưa (thuộc Kẻ Nưa – Cổ Định, huyện Nông Cống, nay là huyện Triệu Sơn). Triệu Thị Trinh cùng anh trai đã thảo hịch kể tội ác giặc Ngô đối với nhân dân ta và kêu gọi mọi người đứng lên đánh giặc cứu nước. Ngay khi lời hịch truyền đi và cờ khởi nghĩa giương lên đã được đông đảo nhân dân trong vùng hưởng ứng. Khi Triệu Quốc Đạt mất, bà được nghĩa quân tôn làm chủ soái, xưng là Nhuỵ Kiều tướng quân (giặc Ngô thì gọi bà là Lệ Hải Bà Vương). Là một người phụ nữ song Triệu Thị Trinh có một khí phách rất hùng dũng của một người chỉ huy quân sự và có ý chí khôi phục giang sơn mãnh liệt. Sau một thời gian chuẩn bị, Bà Triệu cùng nghĩa quân đã vượt sông Chu đến vùng Núi Nưa cách quê hương mình hơn 30km để lập căn cứ, chuẩn bị tràn xuống đồng bằng.
Cuộc tấn côn thành Tư Phố mau chóng giành được thắng lợi trọn vẹn, Bà Triệu cùng đại quân của mình vượt sông Mã xuống Bồ Điền.
Nhà Đông Ngô vô cùng hoảng sợ, phía bắc phải chống đỡ với nước Nguỵ của Tào Tháo, phía tây bắc phải chống lại nước Thục của anh em nhà Lưu Bị, phía nam nếu Giao Châu bị mất thì hậu phương của nhà Đông Ngô cũng bị lung lay. Do đó triều đình Ngô tức tốc cử tướng quân Lục Dận (cháu họ viên danh tướng Lục Tốn) sang làm thứ sử Giao Châu, đem tám nghìn quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Lục Dận là một viên tướng giảo hoạt, hắn một mặt mở các trận tiến công quân sự vào lực lượng khởi nghĩa của Bà Triệu, mặt khác dùng thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ, rất nhiều thủ lĩnh và hàng vạn người dân ở Giao Chỉ đã bị khuất phục như sử cũ đã chép.
Triệu Thị Trinh cùng quân sỹ củng cố lực lượng ra sức chống Ngô song cũng chỉ kéo dài được nửa năm do lực lượng non trẻ, binh ít, thế cô. Trong một trận huyết chiến với quân Ngô tại khu căn cứ Bồ Điền, Bà Triệu đã anh dũng ngã xuống trong sự tiếc thương, kính phục từ nhân dân. Đó là ngày 22 tháng 2 năm 248. Ngày mất của Bà từ bao đời nay đã trở thành ngày lễ hội tại đền thờ Bà dưới chân núi Tùng.
“Ru con con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành con voi
Muốn coi lên núi mà coi
Có Bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng
Túi gấm có lẫn túi hồng
Trầu têm mũi mác cho chồng ra quân.”