Vought F-8 Crusader, máy bay hải quân, ra đời 1957, dài 16,53 m, sải cánh 10,87 m, cao 4,8 m, nặng 8 tấn kg, tốc độ 915 km/h, tốc độ max 1.975 km/h (1,86 Mach); tầm bay 2.795 km, bán kính chiến đấu 730 km, thùng dầu 5.100 lít, MTOW 13 tấn, 1 động cơ Pratt & Whitney J57-P-20A cho lực đẩy 47,6 kN (4,8 tấn lực), và 8,2 tấn lực khi đốt sau, sản xuất 1.261 chiếc, mang được 2,3 tấn vũ khí gồm 4 pháo 20 mm Colt Mk 12 gắn dưới thân, với 125 quả đạn mỗi khẩu, 4 tên lửa đối không AIM-9 Sidewinder, 2 tên lửa đối đất AGM-12 Bullpup, 8 Rocket Zuni gắn trên 4 đế cánh, 12 bom 110 kg hoặc 4 bom 450 kg, hoặc 2 bom 900 kg
F-8 là máy bay tiêm kích cuối cùng sử dụng pháo làm vũ khí chính, sau 1969 được rút khỏi cuộc chiến cải biến thành máy bay trinh sát RF-8.
F-8 là máy bay đầu tiên tham chiến với Bắc Việt Nam chiều ngày 2/8/1964 ngoài khơi Thanh Hoá trong sự kiện Vịnh Bắc Bộ, ba tàu phóng lôi ta đánh đuổi tuần dương hạm Maddox bị F-8 tấn công (em sẽ nói thêm dưới đây)
F-8 là tiêm kích chủ lực trong những ngày đầu chiến dịch Sấm Rền ném bom Bắc Việt Nam năm 1965
F-8 lần đầu tiên đối đầu với MiG-17 vào tháng 8 năm 1965 , bị rơi một chiếc F-8
Cho dù là "máy bay tiêm kích bắn pháo" cuối cùng, F-8 chỉ giành được 4 thắng lợi với pháo, còn lại là do tên lửa AIM-9 Sidewinder, một phần là do xu hướng dễ bị kẹt của cơ cấu nạp đạn trên khẩu pháo Colt Mark 12 dưới tác động của lực G khi cơ động cận chiến tốc độ cao.
Dù sao, Crusader được Hoa Kỳ ghi nhận có tỉ lệ thắng:thua cao nhất trong mọi máy bay Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam, 19:3.
Trong số 19 máy bay bị hạ, có 16 chiếc MiG-17 và 3 chiếc MiG-21.
Tuy nhiên các phi công Việt Nam lại tuyên bố đã bắn rơi 11 chiếc F-8.