Douglas F-4 Phantom ra đời 1961, 2 ghế ngồi, dài 19,2 m, cao 5 m, sải cánh 11,7 m, nặng 13,8 tấn, mang max 8,4 tấn vũ khí, MTOW 28 tấn, thùng dầu chính 7.550 lít, có thể mang thêm hai thùng dầu phụ mỗi thùng 1.400 lít, tốc độ max 2.370 km/h, tốc độ hành trình 940 km/h, tầm hoạt động 680 km, hai động cơ General Electric J79-GE-17A có lực đẩy mỗi chiếc 53 kN (5,4 tấn) và 79,4 kN (8,1 tấn) khi đốt sau. Từ model F-4E có thêm pháo 20 mm M61A1 Vulcan với 640 viên đạn (đặt trong bụng)
Ban đầu Hải quân là "chủ đầu tư" dự án F-4 dùng trên tàu sân bay
Khi ra lò, F-4 đã đoạt được 15 kỷ lục thế giới lúc bấy giờ. Thế là Không quân đặt hàng cho phiên bản của họ F-4C và F-4E
Tất cả các phiên bản bán đầu F-4A, B, C, D đều không có pháo nhỏ, vì họ nghĩ rằng tên lửa không-đối-không là đủ. Đến khi đánh nhau với Việt Nam, thì té ngửa ra đánh nhau quần vòng, cận chiến, nhìn thấy MiG trước mặt mà phải rỏ rãi. Do tên lửa không thể phóng gần được, thêm nữa phải kích hoạt tên lửa trước khi phóng
Phiên bản F-4D chữa cháy bằng cách thêm pháo 20 mm, nhưng đặt bên ngoài, giảm sức cơ động của máy bay và bắn không chuẩn
Mỹ cấp tốc sản xuất F-4E với pháo 20 mm VULCAN sáu nòng tốc độ bắn 6.000 viên/phút
F-4C (không pháo) hoán chuyển một phần thành RF-4C, một số khác hoán cải thành F-4G tác chiến điện tử, trấn áp pháo, tên lửa và MiG
F-4 gọi là "Con Ma" song đáng buồn là hai vệt khói đen xì khi tăng tốc khiến nó không còn "tàng hình như con ma" mà trở thành mục tiêu cho pháo phòng không Bắc Việt Nam
F-4 là máy bay cường kích và tiêm kích (khi không mang bom), là lực lượng chủ yếu trong chiến dịch Linebacker I đánh phá Bắc Việt Nam mùa hè 1972
Khi rút khỏi Việt Nam, Mỹ không để lại F-4 và AH-1 cho VNCH
F-4 là máy bay có tuổi thọ cao, đến nay vẫn còn hoạt động trong không lực một số nước