Cuối tập kỷ 50, đầu tập kỷ 60 thế kỷ 20 , Mỹ có những máy bay của hải quân có hiệu suất rất cao về sức mang như A4, A6, A7, B66...
Tuy nhiên những loại này lại có nhược điểm rất lớn là rất dễ bị bắn hạ khả năng phòng thủ kém đối với máy bay tiêm kích đối phương cũng như hệ thống phòng không ( pháo phòng không, tên lửa....).
Sau 1 thời gian ngắn đánh phá miềm bắc VN bị rơi rụng nhều ( 1965-1967) thì phần lớn các loại trên được tăng cường khả năng phòng thủ EW và chuyển chức năng khác như EW và tiến hành đánh phá ban đêm, nhưng nơi có phòng không yếu.
Có 1 ví dụ con A6 chỉ một mình và mang nhiều thiết bị EW kèm theo 4 tấn bom vào đánh phá các mục tiêu ở Ninh bình ban đêm mà ta cũng đã bắn hơn chục quả tên lửa lên cũng không bắn hạ được. Một phần hệ thống EW gây nhiêu radar phòng không, 1 phần con A6 này có hệ thống dẫn đường bay thấp theo địa vật ( một trong những hệ thống Terrain following radar TFR đầu tiên) với độ cao 60-200m mà tên lửa SAM2 ban đầu chỉ bắn được các mục tiêu bay cao hơm 1km.
Con A4 là con máy bay rất đặc biệt vì kích cỡ nhỏ. Không quân và Hải quân Mỹ đã lấy con này làm kích cỡ đơn vị ( unit) để so sánh với các các loại máy bay sau này. A4 có khả năng cơ động rất cao khi không mang nặng bom - tính năng này sau này được dùng trong TOPGUN đóng giả máy bay khối soviet.
Trong chiến tranh Anh - Arhentina 1982 con A4 này đóng vai trò rất lớn trong không quân Arhentina đánh biển cũng đã đánh chìm 1 số chiến hạm Anh chỉ bằng bom ngu.
Cấu tạo ống xả sau buồng đốt của dộng cơ A4 rất dài và đã có trường hợp dính tên lửa IR vào đuôi nhưng A4 vẫn không bị hư động cơ và bay về được.
Thằng này xuất thân dường như được thiết kế cho nhiệm vụ cường kích (ném bom chiến trường - mã định danh Axx) thì phải Lão nhệ
Nhưng khi chiến đấu thực tế, chính cái khung thân kiểu cá chày của nó đã đem lại không gian hoàn hảo cho việc đưa các thiết bị điện tử lên đó
Và nó chuyển sang nhiệm vụ tác chiến điện tử là chủ yếu (EAxx)