NHỮNG CÔNG TY QUỐC PHÒNG XUẤT KHẨU VŨ KHÍ HÀNG ĐẦU
Sự tăng trưởng chung của chi tiêu quốc phòng trên thế giới tạo ra xu hướng mua sắm vũ khí mạnh mẽ, giúp các công ty quốc phòng thu về khoản doanh số khổng lồ.
Hiện nay, một số quốc gia trên thế giới đang phải gia tăng các hoạt động quân sự để chống khủng bố. Ở các nước khác, tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn chính trị có khả năng dẫn đến một cuộc nội chiến... Những trường hợp như vậy có thể kích thích sự gia tăng chi tiêu mua sắm vũ khí. Theo Viện Nghiên cứu Hòa bình Stockholm (SIPRI), về mua sắm vũ khí, riêng giao dịch của 100 công ty quốc phòng hàng đầu đã chiếm 420 tỷ USD trong năm 2018, tăng 4,6% so với năm 2017 và tăng 47% so với năm 2002. Trong giai đoạn 2015-2019, các nhà nhập khẩu vũ khí chính là Saudi Arabia, Ấn Độ và Ai Cập. Tỷ lệ xuất khẩu vũ khí quân sự của Mỹ trong giai đoạn 2015-2019 tăng 23%, tương ứng với tỷ lệ xuất khẩu vũ khí toàn cầu tăng 36%. Các công ty của Mỹ chiếm 59% doanh số bán vũ khí trong Top 100 công ty quốc phòng hàng đầu. Trong giai đoạn 2015-2019, xuất khẩu vũ khí của Mỹ cao hơn 76% so với Nga - nước xuất khẩu vũ khí lớn thứ hai thế giới.
Xếp theo thứ tự về doanh số của công ty quốc phòng toàn cầu năm 2018, thì Mỹ chiếm giữ các vị trí đầu: thứ nhất là Lockheed Martin với 47,2 tỷ USD; thứ hai là Boeing - 29,2 tỷ; thứ ba là Northrop Grumman - 26,2 tỷ; thứ tư là Raytheon - 23,4 tỷ và thứ năm là General Dynamics với 22 tỷ USD.
Ở vị trí thứ sáu là Công ty quốc phòng BAE của Anh, với 21 tỷ USD. Đại diện các quốc gia khác có tên trong danh sách này bao gồm Leonardo (Italy) với 9,8 tỷ, Thales (Pháp) với 9,4 tỷ, Rheinmetall (Đức) với 3,8 tỷ, Tập đoàn Công nghiệp nặng Mitsubishi (Nhật Bản) với 3,6 tỷ và Elbit Systems (Israel) với 3,5 tỷ USD.
Đặc biệt, có 10 công ty Nga lọt vào Top 100, dẫn đầu là công ty thuộc sở hữu nhà nước AlmazAntey - nhà sản xuất hệ thống phòng không và các vũ khí khác. Almaz-Antey xếp thứ tám trong danh sách với doanh số 9,6 tỷ USD. Tất cả các công ty Nga trong Top 100 đều thuộc sở hữu nhà nước và chủ yếu phụ thuộc vào nhu cầu trong nước. Năm 2016, Nga đã đưa ra sáng kiến khuyến khích doanh nghiệp quốc phòng đưa tỷ lệ sản xuất hàng dân sự trong tổng doanh số của các công ty vũ khí lên ít nhất 17% vào năm 2020 và 30% vào năm 2025.
Đáng chú ý, khác với báo cáo trước đó, lần này các nhà sản xuất vũ khí Trung Quốc không xuất hiện trong danh sách Top 100 nhà xuất khẩu vũ khí, vì thiếu dữ liệu để đưa ra ước tính hợp lý, mặc dù Trung Quốc bán sản phẩm của họ ra khắp thế giới. Tuy nhiên, SIPRI ước tính 3 công ty vũ khí của Trung Quốc sẽ được xếp hạng trong top 10 của 100 công ty sản xuất vũ khí và dịch vụ quân sự hàng đầu là AVIC, NORINCO và CETC. Dựa trên thông tin hạn chế, tính đến việc xuất khẩu vũ khí và tăng trưởng chi tiêu quân sự của Trung Quốc, ít nhất 7 công ty vũ khí khác của nước này có thể sẽ nằm trong Top 100 nếu có các số liệu đầy đủ.
Sự tăng trưởng chung của chi tiêu quốc phòng trên thế giới tạo ra xu hướng mua sắm vũ khí mạnh mẽ, giúp các công ty quốc phòng thu về khoản doanh số khổng lồ.
Hiện nay, một số quốc gia trên thế giới đang phải gia tăng các hoạt động quân sự để chống khủng bố. Ở các nước khác, tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn chính trị có khả năng dẫn đến một cuộc nội chiến... Những trường hợp như vậy có thể kích thích sự gia tăng chi tiêu mua sắm vũ khí. Theo Viện Nghiên cứu Hòa bình Stockholm (SIPRI), về mua sắm vũ khí, riêng giao dịch của 100 công ty quốc phòng hàng đầu đã chiếm 420 tỷ USD trong năm 2018, tăng 4,6% so với năm 2017 và tăng 47% so với năm 2002. Trong giai đoạn 2015-2019, các nhà nhập khẩu vũ khí chính là Saudi Arabia, Ấn Độ và Ai Cập. Tỷ lệ xuất khẩu vũ khí quân sự của Mỹ trong giai đoạn 2015-2019 tăng 23%, tương ứng với tỷ lệ xuất khẩu vũ khí toàn cầu tăng 36%. Các công ty của Mỹ chiếm 59% doanh số bán vũ khí trong Top 100 công ty quốc phòng hàng đầu. Trong giai đoạn 2015-2019, xuất khẩu vũ khí của Mỹ cao hơn 76% so với Nga - nước xuất khẩu vũ khí lớn thứ hai thế giới.
Xếp theo thứ tự về doanh số của công ty quốc phòng toàn cầu năm 2018, thì Mỹ chiếm giữ các vị trí đầu: thứ nhất là Lockheed Martin với 47,2 tỷ USD; thứ hai là Boeing - 29,2 tỷ; thứ ba là Northrop Grumman - 26,2 tỷ; thứ tư là Raytheon - 23,4 tỷ và thứ năm là General Dynamics với 22 tỷ USD.
Ở vị trí thứ sáu là Công ty quốc phòng BAE của Anh, với 21 tỷ USD. Đại diện các quốc gia khác có tên trong danh sách này bao gồm Leonardo (Italy) với 9,8 tỷ, Thales (Pháp) với 9,4 tỷ, Rheinmetall (Đức) với 3,8 tỷ, Tập đoàn Công nghiệp nặng Mitsubishi (Nhật Bản) với 3,6 tỷ và Elbit Systems (Israel) với 3,5 tỷ USD.
Đặc biệt, có 10 công ty Nga lọt vào Top 100, dẫn đầu là công ty thuộc sở hữu nhà nước AlmazAntey - nhà sản xuất hệ thống phòng không và các vũ khí khác. Almaz-Antey xếp thứ tám trong danh sách với doanh số 9,6 tỷ USD. Tất cả các công ty Nga trong Top 100 đều thuộc sở hữu nhà nước và chủ yếu phụ thuộc vào nhu cầu trong nước. Năm 2016, Nga đã đưa ra sáng kiến khuyến khích doanh nghiệp quốc phòng đưa tỷ lệ sản xuất hàng dân sự trong tổng doanh số của các công ty vũ khí lên ít nhất 17% vào năm 2020 và 30% vào năm 2025.
Đáng chú ý, khác với báo cáo trước đó, lần này các nhà sản xuất vũ khí Trung Quốc không xuất hiện trong danh sách Top 100 nhà xuất khẩu vũ khí, vì thiếu dữ liệu để đưa ra ước tính hợp lý, mặc dù Trung Quốc bán sản phẩm của họ ra khắp thế giới. Tuy nhiên, SIPRI ước tính 3 công ty vũ khí của Trung Quốc sẽ được xếp hạng trong top 10 của 100 công ty sản xuất vũ khí và dịch vụ quân sự hàng đầu là AVIC, NORINCO và CETC. Dựa trên thông tin hạn chế, tính đến việc xuất khẩu vũ khí và tăng trưởng chi tiêu quân sự của Trung Quốc, ít nhất 7 công ty vũ khí khác của nước này có thể sẽ nằm trong Top 100 nếu có các số liệu đầy đủ.
Chỉnh sửa cuối: