Lịch sử và hình ảnh logo của các hãng xe trên TG !!!

CỬU VĂN LONG

Xe container
Biển số
OF-1829
Ngày cấp bằng
6/10/06
Số km
6,182
Động cơ
629,549 Mã lực
Nơi ở
Sài Gòn <=> Mũi Né
Thương hiệu Hummer sắp về tay người Trung Quốc




General Motors (GM) - hãng xe vừa nộp đơn xin phá sản của Mỹ - vừa đạt thỏa thuận sơ bộ nhằm bán lại thương hiệu Hummer cho một công ty Trung Quốc nuôi mộng sản xuất xe hơi.


Được GM mua lại vào năm 1999, Hummer đã trở thành biểu tượng của những sai lầm mà GM cũng như ngành công nghiệp ôtô Mỹ nói chung đã mắc phải, đó là những chiếc xe lớn, cồng kềnh và ngốn xăng như nước lã.





Thông tin ban đầu phát đi từ GM cho biết, thương hiệu xe đa dụng có tính năng thể thao (SUV) và bán tải cỡ lớn Hummer sẽ được sang tay cho Công ty Máy công nghiệp nặng Sichuan Tengzhong, có trụ sở ở Thành Đô, miền Tây Trung Quốc. Hiện mức giá cụ thể của vụ mua bán này chưa được tiết lộ, nhưng giới phân tích đồn đoán rằng, GM sẽ không chịu nhường lại bộ phận Hummer ở mức giá dưới 500 triệu USD.
Dự kiến được hoàn tất trong quý 3 năm nay, thỏa thuận này sẽ đưa Tengzhong trở thành công ty Trung Quốc đầu tiên có xe bán ở thị trường Bắc Mỹ, mặc dù toàn bộ hoạt động của Hummer sẽ tiếp tục được duy trì ngay tại thị trường Mỹ thay vì chuyển về Trung Quốc.
Thỏa thuận này cũng sẽ đánh dấu lần đầu tiên một công ty Trung Quốc mua lại một thương hiệu xe hơi nổi tiếng của Mỹ. Trước đây, các hãng xe Trung Quốc đã mua lại hai trong số những thương hiệu xe hơi nổi tiếng nhất trong lịch sử ngành công nghiệp ôtô của Anh quốc là MG và Rover.
Thương hiệu Hummer đồng nghĩa với sự phiêu lưu, tự do và niềm vui. Chúng tôi dự kiến sẽ nối dài di sản đó bằng cách đầu tư vào Hummer, cho phép thương hiệu này tăng thêm năng lực sáng tạo và tăng trưởng theo những cách thức mới dưới sự quản lý của ban lãnh đạo hiện có”, ông Yang Yi, Giám đốc điều hành của Tengzhong, tuyên bố.
Hummer là một trong 4 thương hiệu mà GM có ý định loại bỏ, cùng với Saturn, Saab và Pontiac. GM cũng cho biết, hãng đã nhận được 16 lời chào mua dành cho Saturn và Saab. Các thương hiệu mà GM giữ lại bao gồm Chevrolet, Cadillac, Buick và GMC.
Nhà Trắng hoan nghênh thỏa thuận bán lại Hummer của GM, đồng thời nhanh chóng khẳng định, chính quyền Tổng thống Barack Obama hoàn toàn không có liên quan gì tới vụ mua bán này. Vụ giao dịch “là thông tin tốt cho 3.000 người Mỹ đang làm việc cho Hummer, hai nhà máy và hơn 100 nhà phân phối của thương hiệu này tại Mỹ”, người phát ngôn Bill Burton của Tổng thống Obama nhận định.
Ông Burton nói thêm: “Như Tổng thống đã nói, Chính phủ Mỹ sẽ không can thiệp vào những quyết định hàng ngày của GM, và đây là một ví dụ về cam kết này”.
Tengzhong là một công ty tư nhân của Trung Quốc, nhưng vụ mua lại thương hiệu Hummer của công ty này sẽ cần tới sự thông qua của Chính phủ nước này. Trung Quốc có quy định, Chính phủ có quyền phủ quyết bất kỳ vụ mua lại doanh nghiệp nước ngoài nào với giá từ 100 triệu USD trở lên của bất kỳ công ty Trung Quốc nào.
Tại thị trường nội địa, Tengzhong nổi tiếng với nhiều sản phẩm là các thiết bị giao thông, từ rầm cầu tới các loại máy xây dựng và bảo dưỡng đường bộ. Trước khi nhảy vào mua Hummer, công ty này đã có những bước tiến vào lĩnh vực sản xuất xe tải hạng nặng, bao gồm xe rơ-moóc và xe téc chở dầu.
Nhìn chung, chúng tôi cảm thấy hài lòng. Tongzheng là một công ty đáp ứng được các tiêu chuẩn mà chúng tôi mong muốn ở người chủ mới của thương hiệu Hummmer. Họ có thành tích kinh doanh đã được chứng minh trên thị trường quốc tế, có chiến lược dài hạn cho Hummer, có vốn để đầu tư phát triển những mẫu xe hiệu quả hơn, tất cả những gì cần thiết để phát triển thương hiệu này lên”, người phát ngôn Nick Richards của Hummer nhận xét.
Được GM mua lại vào năm 1999, Hummer đã trở thành biểu tượng của những sai lầm mà GM cũng như ngành công nghiệp ôtô Mỹ nói chung đã mắc phải, đó là những chiếc xe lớn, cồng kềnh và ngốn xăng như nước lã.
Năm 2009, doanh số của các mẫu xe Hummer tại Mỹ sụt giảm 51%, tệ nhất trong ngành công nghiệp ôtô nước này, và tiếp tục lao dốc thêm 67% từ đầu năm 2009 tới nay.





Logo Hummer


































































 

CỬU VĂN LONG

Xe container
Biển số
OF-1829
Ngày cấp bằng
6/10/06
Số km
6,182
Động cơ
629,549 Mã lực
Nơi ở
Sài Gòn <=> Mũi Né






























































Hummer M4 SWAT



điện thoại xe Hummer HT2 (xài 2 sim)








Hummer HQ1





HQ2

 
Chỉnh sửa cuối:

QuangMaybach

Xe điện
Biển số
OF-48535
Ngày cấp bằng
12/10/09
Số km
2,764
Động cơ
486,290 Mã lực
Nơi ở
♥Sơn Tây
Bài viết của bác có chất lượng và có ý nghĩa lắm ạ..mời bác một ly..(b)(b)
 

CỬU VĂN LONG

Xe container
Biển số
OF-1829
Ngày cấp bằng
6/10/06
Số km
6,182
Động cơ
629,549 Mã lực
Nơi ở
Sài Gòn <=> Mũi Né
Lịch sử của Huyndai
























Chung Ju Yung ( 25/10/1915 - 21/03/2001)





Hyundai ban đầu chỉ là một công ty xây dựng dân dụng do ông Chung Ju Yung sáng lập vào năm 1947 và là một trong những công ty xây dựng hàng đầu Hàn Quốc trong suốt thập kỷ 50.

Ông sinh ra trong môt gia đình nông dân nghèo có 8 người con thuộc tỉnh Tongchon, Triều Tiên (hiện nay thuộc cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên một tỉnh giáp với biên giới Hàn Quốc).
Cha ông là một người nông dân thuần túy, luôn muốn cho con mình sau nay lớn lên là một người nông dân chăm chỉ, và tuổi trẻ của ông Chung đã vất vả trong nghề nông nghiệp. Nhưng nhiều năm mất mùa, cùng với khổ cực cậu bé Chung ngày nào đã quyết chí bỏ đồng ruộng ra đi kiếm sống, từ năm 14 tuổi vừa tốt nghiệp tiểu học ông đã trốn nhà đi nhiều lần, và đều bị cha bắt về, nhưng ý chí ra đi lập nghiệp trong ông vẫn không hề thay đổi, lần thứ tư ông đã thành công. Ông trốn lên Seoul làm việc trong của hàng bán gạo. Nhờ tính cần cù chịu khó uy tín của mình khi làm việc nên khi ông chủ tiệm gạo già không còn kinh doanh nữa đã giao lại cho Chung Ju Yung cửa hàng và cho ông tự kinh doanh. Nhưng sau 2 năm chiến tranh sảy ra, nhà nước cấm các xưởng mua bán gạo vì thế ông đành phải bán cửa tiệm gạo. Đứa con bất hiếu năm nào nay đã trở về quê, ông đã mua ruộng đất cho cha rồi lại tiếp tục lên seoul vay tiền bạn bè mua lại gara ô tô A-DO và đặt tên là Hyundai nhờ tài năng của mình từ một gara ô tô ông lần lượt đưa thương hiêu Huyndai (có nghĩa là hiện đại) và hàng chữ made in Korea nổi tiếng trên toàn thế giới về ô tô, điện tử và nhất là ngành xây dựng. Cuộc đời của Chung Ju Yung có công rất lớn cho sự phát triển của Hàn Quốc.


Cuối những năm 1960, ông Chung quyết định chuyển hướng sang lĩnh vực ô tô. Vào thời điểm đó Chính phủ Hàn Quốc cho rằng nhập khẩu ô tô sẽ tốt hơn là sản xuất trong nước. Tuy nhiên ông Chung vẫn lựa chọn thực hiện theo ý tưởng riêng của mình, thành lập nên công ty ô tô Hyundai vào năm 1967.



Pony, chiếc xe đầu tiên do Hyundai tự thiết kế và sản xuất năm 1974

Công ty nhanh chóng được xây dựng với sự hợp tác của Ford - một trong những nhà sản xuất xe hơi lâu đời nhất. Hợp đồng liên doanh chia sẻ công nghệ lắp ráp có thời hạn 2 năm được ký kết vào năm 1968 và đã cho ra sản phẩm đầu tiên là chiếc xe nhãn hiệu Cortina. Sau đó, với sự hỗ trợ về công nghệ của hãng Mitsubishi, Nhật Bản, chiếc xe đầu tiên của Hyundai được thiết kế và chế tạo tại Hàn Quốc có tên là Pony được tung ra thị trường vào năm 1974.

Hyundai bắt đầu thâm nhập thị trường Mỹ vào năm 1986 bằng việc tung ra dòng xe hạng nhỏ Excel. Sau bảy tháng đầu tiên có mặt trên thị trường, doanh số của Excel đã lên mức đỉnh điểm với hơn 100.000 chiếc được tiêu thụ. Đến năm 1988, sau khi tích luỹ đủ kinh nghiệm, Hyundai bắt đầu sản xuất các loại xe sử dụng công nghệ của chính hãng và chiếc xe Sonata hạng trung là thành quả đầu tiên của nỗ lực này.

Tuy nhiên, hình ảnh mới nổi của Hyundai trên đất Mỹ đã nhanh chóng bị mờ nhạt, doanh số sụt giảm do sản phẩm có sức bền và độ tin cậy kém. Trong thập kỷ 90, hãng đã kiên quyết bám trụ thị trường Mỹ bằng việc tích cực đầu tư, cải tiến, thiết kế các sản phẩm mới với chất lượng và độ tin cậy cao. Quyết định này của hãng đã đem lại những thành công đáng kể ngay trong những năm đầu của thiên niên kỷ mới qua việc ngày càng có nhiều người muốn sở hữu sản phẩm của Hyundai.

Công ty đã dần xoá tan những băn khoăn và nghi ngờ về chất lượng sản phẩm của mình nhờ ban hành một chế độ bảo hành lâu dài đặc biệt (10 năm và 160 ngàn km cho hệ truyền động, động cơ và hộp số!). Mặc dù dòng sản phẩm của Hyundai ít hơn so với các nhà sản xuất khác nhưng hãng vẫn chiếm được thị phần lớn qua nhãn hiệu Kia, một thương hiệu ô tô của Hàn Quốc được hãng mua lại năm 1998. Thời điểm hiện tại, Hyundai đã nổi tiếng là nhà sản xuất những loại xe có giá trị cao với giá cả hợp lý.


-------------------------------



Tất cả bắt đầu với chiếc Excel xấu số. Khi công ty sản xuất xe hơi Hyundai ở Hàn quốc bắt đầu rao bán mẫu xe có dẫn động trước đầu tiên ở Mỹ vào khoảng giữa những năm 1980 người tiêu dùng đã thực sự bị ấn tượng bởi khả năng đáp ứng căn bản và phù hợp với người mới sử dụng xe hơi, và Hyundai đã phá vỡ những kỷ lục về khối lượng bán trong suốt năm đầu tiên bán hàng tại Mỹ.






Tiếng Hàn: 현대, Hanja: 現代; âm Hán Việt: Hiện Đại) do Chung Ju-yung thành lập năm 1947, lúc đầu là một công ty xây dựng, và từng là Tập đoàn (chaebol) lớn nhất Hàn Quốc. Công ty được chia nhỏ ra 5 lĩnh vực kinh doanh vào ngày 1 tháng 4 năm 2003, gồm Tập đoàn Motor Hyundai, Tập đoàn Hyundai, Tập đoàn Bách hoá Hyundai và Tập đoàn Phát triển Hyundai.

Hyundai trong tiếng Hàn có nghĩa là "hiện đại". Cái tên này thường bị phát âm sai thành "hun-day" ở Mỹ, "high-oon-die" ở Anh và "hee-yun-day" ở Úc. Nó cũng thường bị phát âm thành "hyun-dai", với âm "dai", thay vì phát âm đúng là "dae". Một mẩu quảng cáo sáng ở Mỹ, khi nói về xe hơi Hyundai Excel đã nói với độc giả rằng "tên này có vần với ngày chủ nhật (Sunday)". Theo đúng phát âm tiếng Hàn, tên này có 2 âm tiết, và nghe như "hyun-deh", "hyun" có vần với "shun". Nếu phiên âm một cách chính xác từ tiếng Hàn sang tiếng Anh, thì nên được viết là "Hyeondae" hơn là "Hyundai".

Lịch Sử Hyundai

Trước khi cuộc cải tổ bắt đầu năm 2000, những lĩnh vực hoạt động chính của Hyundai gồm có đóng tàu, sản xuất xe hơi, xây dựng, bán lẻ, tài chính và điện tử. Sau khi người sáng lập qua đời năm 2001, các công ty cấu thành Hyundai đã bị chia nhỏ thành những công ty riêng lẻ. Mặc dù phần lớn tài sản của Hyundai đã mất đi, nhưng tập đoàn Hyundai vẫn hoạt động. Phần lớn là do Hyundai Asan điều hành, bao gồm cả các dự án đầu tư ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Một vài tài sản đáng lưu ý khác gồm Hyundai Elevator, Hyundai Merchant Marine, Hyundai Logistics, Hyundai Heavy Industries, Hyundai Corporation, Hyundai Construction và Hyundai Securities. Chủ tịch hiện nay là Hyun Chung-eun, goá phụ của cố chủ tịch Chung Mong-hun. Hyundai cũng nổi tiếng về sản xuất xe ôtô và môtô ở một vài quốc gia; Hoa Kỳ là thị trường chính của những chiếc xe này.

Nhưng chiếc Excel đã không thực đúng với tên gọi của nó. Hệ thống thoát hơi và nhiên liệu, bộ làm tan băng, và máy dao điện chỉ là một vài thành phần làm tiêu điểm của những phản hồi suốt cuối những năm 80 và đầu những năm 90. Sau hiện tượng tăng vọt khối lượng bán hàng ban đầu, bây giờ bạn có thể nghe tiếng dế kêu tại cái doanh nghiệp phân phối xe hơi trên cả nước.

Nhưng có lẽ còn tệ hơn sự rớt giá của công ty là bộ khung chống hết sức tồi tệ mà danh tiếng Hyundai đã dùng. Chiếc Excel đã bắt đầu xuất hiện trong danh sách “ Chiếc xe tệ nhất từng được làm”, và thậm chí công ty chỉ trở thành chủ đề cho chương trình truyền hình những trò đùa vào đêm khuya (David Letterman nổi tiếng đổ xô vào nhãn hiệu bị phê bình trong một số bản top ten đếm ngược từ trên xuống của ông ấy), hiểu một cách đơn giản, Hyundai đã đối mặt với cơn ác mộng PR (quản bá với công chúng)

Vào thời điểm này, nhãn hiệu đã lặng lẻ lui về Seoul, những cuộc bàn cãi gay gắt tại đại hội các cổ đông trong công ty được tổ chức 3 tháng một lần. Nhưng Hyundai đã quyết định sản xuất xe hơi mà không quan tâm đến thương hiệu làm việc một cách sôi nổi và quyết tâm phía sau hậu trường kinh doanh để nâng cao chất lượng và một lần nữa lấy lại lòng tin của người tiêu dùng. Thậm chí công ty đã thêm vào việc bảo hành hệ thống truyền lực chưa từng có trước đây là 100000 dặm trong vòng 10 năm-cam đoan với người mua là chiếc xe không bị tháo rã từng bộ phận khi được chuyển nhanh tới cửa thuế quan.

Ngày nay, công ty hãnh diện với 9 mẫu mã, được xắp xếp từ mẫu Accent cấp độ thấp nhất cho đến chiếc Veracruz đắt đỏ và chất lượng hơn. ở khoảng giữa thì có các mẫu Elantra nhỏ gọn, Santa Fe và Tucson SUVs: các xe cỡ trung Sonata và Azera, dòng xe thể thao Tiburon và kể cả dòng xe tải nhỏ đều được thừa nhận là có chất lượng tốt (dòng Entourage- thật lỳ lạ là chiếc xe này bạn không thấy nó trên các con đường mà lại đang cạnh tranh với dòng Honda Odyssey và dòng Toyota Sienna mặc dù nó có vị trí xếp hạng tuyệt vời).

Và, nhờ có những nỗ lực của Hyundai, nhãn hiệu hoàn toàn xâm nhập vào cả việc bán hàng và nhận thức công chúng trong 2 thập kỷ vừa qua. Hyundai được gọi là công ty sản xuất ô tô lớn thứ 6 trên thế giới bởi khảo sát của Automotive News, và công ty cũng được xếp thứ 72 trong bảng khảo sát những nhãn hiệu tốt nhất trên toàn cầu năm 2007 của Interbround & Business Week. J.D. Power & Associate liệt kê Hyundai vào hàng công ty sản xuất ô tô không có phí bảo hiểm số một trong chất lượng phương tiện chuyên chở mới (và chỉ đứng sau Porsche và Lexus, bao gồm cả việc vượt lên nhãn hiệu Toyota toàn năng chỉ đứng ở vị trí thứ 4). Trong một blog tường thuật về sự tiêu thụ xe hơi đăng vào tháng 9 năm 2007, Jeff Travers chọn chiếc Elantra như là sự lựa chọn hàng đàu cho ô tô mui kín nhỏ gọn.

Nghe cứ như là nhãn hiệu Hyundai được dẫn đầu lại hướng về con đường rộng lớn ở nước Mỹ. Nhưng theo tờ Business Week, chỉ 23% trong số tất cả người mua xe trong năm 2006 cân nhắc về việc mua một chiếc Hyundai, trong khi 65% nói là họ sẽ trả tiền cho chiếc Toyota, 50% cho Honda. Và theo J.D.Power thuật lại thì lời khen ngợi có quá hào phóng cho chất lượng của Hyundai không? Các công ty cùng ngành đã liệt kê Hyundai vào nhóm tiếng tăm tồi tệ nhất với Jeep, Land Rover và Kia.

Cú nhảy mạnh vào sự tiện lợi và sang trọng

Vì nhãn hiệu của chiếc xe mà công ty tự hào về hiệu quả có thể mang lại, nó dường như kỳ lạ là bây giờ công ty có 2 mẫu đến gần với mức giá 30 ngàn đôla Mỹ (dòng xe Azera và dòng xe lai tạo với Veracruz), cũng tương đương với giá của chiếc xe Genesis sắp ra đời tại triển lãm xe hơi ở New York vào năm nay. Dòng xe Genesis, với các tiện nghi được nâng cấp và giá thành đi kèm, được đặt vị trí ngang với dòng Lexus ES 350 và loạt xe BMW 5, các nhà cạnh tranh dữ dội đang cân nhắc lịch sử của Hyundai. Nhưng có lẽ lối nói chuyện thân mật của công ty với nhóm cùng ngành như đối thủ Toyota và dòng Beemer chỉ là loại khởi động xe thông qua việc kết nối Pin với Pin của xe khác. Các nhà sản xuất xe Hàn quốc cần thay đổi quyết định của công chúng mua xe người Mỹ. Bằng cách tách công ty ra khỏi vỏ bọc của việc nó bị thất bại và thất bại là hoàn toàn xưa cũ, tự xác lập lại vị trí như là một nhãn hiệu bảo hiểm xe hơi mà vẫn đưa ra một giá trị to lớn hơn cho những nỗ lực bạn đặt vào đó mà Hyundai được biết đến như vậy, cuối cùng công ty có cơ hội được thoát ra khỏi khuôn đúc có chất lượng trung bình.

Những nỗ lực của Hyundai trong việc thay đổi cho phù hợp với mục đích mới của công ty là bắt đầu với chiến dịch in ấn, phát sóng trực tuyến các mẫu quảng cáo được tạo ra bởi Goodby, Silverstein & Partners. Sử dụng chủ đề “ nghĩ về nó”, chủ động lôi cuốn trí óc người tiêu dùng bằng việc cung cấp độ sáng tạo vào thiết kế, độ tin cậy và những tiêu chuẩn an toàn trong công nghiệp ô tô. Vào trang web(www.think-about-it.com) các bạn sẽ tìm thấy bảng thống kê từ cục quản lý an toàn giao thông quốc gia( bạn có biết các tú khí bung ra khi va chạm ở phía trước giảm thiểu các tai ương cho tài xế đến 26%?), các thông tin thú vị từ các nguồn không xác định ( như việc 12% đàn ông lái xe “thường” hoặc “đôi khi” cầm lái bằng chân, hoặc là việc những lái xe thuộc cung Bạch Dương thì dính líu nhiều vào các vụ tai nạn hơn là những lái xe thuộc bất cứ cung khác của cung hoàng đạo). Một trong số các điểm tin sớm trên truyền hình, khan giả được hỏi là “ 1 chiếc xe có nên có nhiều túi khí hơn là các chỗ giữ cốc hay không?”

Cái tên Hyundai không được bao gồm trong URL ( cũng như trong thời kỳ đầu của phần chiến dịch quảng cáo còn lại) không phải là sơ xuất. Khi Goodby thực hiện việc nghiên cứu ban đầu sử dụng chiếc Veracruz SUV như là vật thí nghiệm, theo bài báo Business Week đăng vào tháng 5 năm 2007, 71% số người đã xem xét chiếc xe không có logo của Hyundai nói là họ sẵn sàng lái xe ra khỏi phòng trưng bày. Một khi logo được phô bày trên xe thì con số trên đã giảm xuống còn 52%. Trong khi ấy, logo của Toyota trên một chiếc xe không được xác định thì có 20%người tiêu dùng chắc chắn mua nó.

Logo Hyundai ( chữ H bị nghiêng) được giải thích là để đại diện cho 2 người đang bắt tay nhau-công ty và người tiêu dùng. Hyundai hy vọng nhãn hiệu được hồi sinh và được tái vị là kết quả trong nhiều cái bắt tay kinh doanh gần gũi hơn.










 

CỬU VĂN LONG

Xe container
Biển số
OF-1829
Ngày cấp bằng
6/10/06
Số km
6,182
Động cơ
629,549 Mã lực
Nơi ở
Sài Gòn <=> Mũi Né
Logo Huyndai






























Logo mà Hyundai gắn trên Genesis.




 

CỬU VĂN LONG

Xe container
Biển số
OF-1829
Ngày cấp bằng
6/10/06
Số km
6,182
Động cơ
629,549 Mã lực
Nơi ở
Sài Gòn <=> Mũi Né
Lịch sử của Jaguar



































William Lyons ( September 4, 1901 – February 8, 1985)









Ngày 04/09/1922, tại một thị trấn phía nam bờ biển vùng Blackpool (Anh), hai thanh niên trẻ tuổi nhưng rất say mê motor William Lyons và William Walmsley đã thành lập nên Swallow Sidecar với tham vọng sản xuất những chiếc xe 3 bánh (sidecar). Lúc đầu, Swallow Sidecar Company chỉ có hai tầng gác tại Blackpool để làm trụ sở và xưởng. Toàn bộ công việc được thực hiện bằng tay. Nhắc đến Jaguar không thể không nhắc đến Arthur Whittaker, người đã giúp những chiếc xe đầu tiên của Swallow Sidecar đến với khách hàng một cách nhanh chóng và ấn tượng nhất.








Năm 1926, do nhu cầu phát triển kinh doanh, Swallow Sidecar đổi tên thành Swallow Sidecar and Coachbuilding Co. và tìm kiếm một xưởng sản xuất mới. Tại đây, hãng đã sản xuất thân xe cho rất nhiều nhà sản xuất xe hơi khác, trong đó có Morris, Fiat, Wolseley, Swift, và Standard.

Bằng cách dùng nhôm dập để sản xuất vỏ sidecar, Swallow Sidecar nhanh chóng trở nên nổi tiếng với doanh số không ngừng tăng vọt. Năm 1927, khi Herbert Austin cho ra đời chiếc xe hạng nhỏ Austin Seven giá rẻ, dễ lái và tiện dụng nhưng thiếu cá tính, Lyons chế tạo một chiếc xe 2 chỗ, gắn thân Swallow Sidecar trên khung gầm của Austin Seven. Ngay lập tức, một đơn đặt hàng 500 chiếc được đặt lên bàn Arthur Whittaker.



Đây cũng là điểm khởi đầu cho mối liên minh mới giữa Lyons và Bertie Henly, người điều hành garage nổi tiếng nước Anh, Henlys. Với giá 175 bảng hay 185 bảng cho phiên bản mui cứng, Austin Seven Swallow luôn “cháy hàng”. Không dừng lại ở đó, Lyons còn tiếp tục cho ra mắt mẫu xe có vỏ Swallow gắn trên khung gầm lớn hơn, mang tên Morris Cowley. Ảnh hưởng của Swallow ngày càng lớn khi Austin Seven Swallow Saloon trình làng năm 1928 và tiếp tục gặt hái thành công.









Một chiếc SS1





Sau một thời gian liên kết sản xuất với các hãng xe khác, Lyons không muốn chế tạo vỏ xe của mình trên khung gầm của mẫu xe khác nữa: ông muốn nhắm tới những chiếc xe cá tính chứ không đơn thuần chỉ sản xuất xe thể thao. Lyons đã khôn ngoan liên kết với Standard Motor Company để chế tạo chiếc xe hoàn chỉnh đầu tiên - chiếc SS1, được chế tạo đựa trên động cơ 6 Standard xi lanh và sự thừa hưởng đầy sáng tạo của thân xe Standard. Chiếc xe này được ra mắt công chúng năm 1931 tại triển lãm xe hơi London.












Năm 1933, tên của công ty một lần nữa lại được đổi thành SS Cars Ltd dưới sự điều hành của Giám đốc Lyons. Năm 1936, SS Cars hoàn toàn thuộc sở hữu của Lyons.

Năm 1935, lần đầu tiên cụm từ "Jaguar" được biết đến trên các mẫu xe của hãng. SS Cars bắt tay vào chế tạo nhiều hạng xe khác nhau, bao gồm limousine, xe mui trần, xe thể thao, với động cơ 1.5l, 2.5l và 3.5l, đồng thời nỗ lực nâng công suất động cơ từ 75hp lên 105hp. Không chỉ có vậy, Lyons còn tập trung thiết kế vỏ xe sao cho thật ấn tượng, khác biệt hoàn toàn so với các mẫu trước đó.


Chiến tranh Thế giới thứ 2 nổ ra, SS Cars tập trung cho chiến tranh và quay trở về sản xuất dòng xe sidecar. Khi chiến tranh kết thúc, Lyons quyết định đổi tên SS Cars thành Jaguar Cars Ltd do tên viết tắt của hãng trùng với tên gọi của lực lượng phát xít Đức.

Jaguar là tên gọi loài báo đốm nổi tiếng châu Mỹ, biểu tượng của sức mạnh và quyền lực trong văn hóa các nước Nam Mỹ. Người dân ở đây tin rằng, Jaguar là điểm nối giữa sự sống và cái chết. Jaguar sinh ra để bảo vệ các hoàng đế. Dù Lyons không thực sự thích nhưng cuối cùng, cái tên "Jaguar" vẫn được thông qua. Ngay sau khi ra mắt tại khách sạn Mayfair, London, SS Jaguar nhận hàng loạt đơn đặt hàng bởi nó có giá chỉ bằng một phần tư Bentley dù không hề thua kém về chất lượng. Thế nhưng, mãi 11 năm sau, Lyons mới chính thức đưa biểu tượng chú báo đốm Bắc Mỹ đang vồ mồi lên chiếc Jaguar Mark VIII 1956. Biểu tượng đó đã đi theo Jaguar 30 năm sau và là hình mẫu để các kỹ sư thiết kế theo đúng vóc dáng mạnh mẽ, tràn trề nhựa sống và hoang dã của loài vật được mệnh danh là chúa tể rừng xanh.
Năm 1966, William Lyons giữ chức Giám đốc Điều hành kiêm Chủ tịch và Tổng Giám đốc. Ngày 11/07/1966, Jaguar Cars Ltd. tuyên bố hợp nhất với British Motor Corporation Ltd. Chỉ 2 năm sau đó, sự sát nhập của Jaguar với Leylang biến nhà sản xuất xe hơi này trở thành tập đoàn sản xuất xe hơi lớn nhất nước Anh.









Năm 1972, Lyons nghỉ hưu, khiến cho cả một thời gian dài sau đó hãng gặp khá nhiều sóng gió với những chiến lược không rõ ràng. Mãi đến tháng 04/1980, “vị cứu tinh” của Jaguar mới xuất hiện, đó là John Egan – người được coi là đã hồi sinh Jaguar. Vị giám đốc 40 tuổi này thực sự đã đem lại hơi thở mới cho hãng sản xuất xe hơi Jaguar. Bởi vậy, năm 1985, việc Jaguar ổn định và phát triển trở lại không hề khiến ngành công nghiệp xe hơi ngạc nhiên.

Cuối năm 1989 đầu năm 1990, Ford mua lại Jaguar và đến năm 1999, hãng trở thành một trong những nhãn hiệu xe độc lập của Ford Motors, giống như Aston Martin và Volvo.

Trong suốt 84 năm lịch sử nghiên cứu và chế tạo, Jaguar đã cống hiến cho ngành sản xuất xe hơi hàng loạt mẫu xe cũng như các sản phẩm khác nhau. Đến nay, Jaguar vẫn luôn tự hào với triết lý chế tạo những chiếc xe đẹp nhất, nhanh nhất trên cơ sở kết hợp giữa trí thông minh công nghệ với sự sang trọng đương đại.





---------------------------------

Khó có ai ngờ được rằng khi chào đời tại Anh vào năm 1922, Jaguar chỉ là một cơ sở sản xuất các loại sidecar rất bình thường. Ngày nay, Jaguar là một thương hiệu xe nổi tiếng về thiết kế và sản xuất những kiểu xe sedan và thể thao thanh lịch, kiểu dáng đẹp, chạy nhanh và an toàn nhất thế giới.
Và cũng ít người biết rằng lãnh đạo Jaguar Cars, trực thuộc Premium Automotive Group, tức nhánh xe deluxe của tập đoàn Ford Motor (kể từ năm 1989), hiện nay lại là Bibie Boerio, một phụ nữ. Dưới sự chỉ huy của người phụ nữ mê cơ khí này, trong thời gian từ cuối năm 2003 đến nay Jaguar đã trải qua một giai đoạn đổi mới rất đáng nể, trong đó có việc củng cố các phiên bản dòng xe compact X-Type, phát triển dòng salon S-Type và dòng sport XK tuyệt đẹp. Ngoài ra còn phải kể đến việc trình làng dòng XJ làm toàn bằng nhôm mà nổi nhất có X-Type Estate thanh lịch và XJ Long Wheel Base rất đẹp. Ngoài ra còn có các phiên bản diesel của hai dòng X-Type và S-Type.






Từ 1932 - 1935: Ông William Lyons, người sáng lập Jaguar và sau này được triều đình Anh phong cho tước hiệp sĩ, đã gây sốc dư luận châu Âu khi loan báo vào tháng 7/1931 rằng "Hãy đợi đấy, SS đang đến gần!". Thời ấy, chủ nghĩa quốc xã Đức đang phát triển, từ SS nghe rất ghê, nên mọi người nóng lòng chờ đợi. Họ hoàn toàn được thỏa mãn khi xem hai mô hình coupé SS I và SS II tại triển lãm xe hơi London 1931. Sàn xe thật thấp như bám sát mặt đường, còn phần mũi thì dài ngoằng. Chúng là hai kiểu xe khởi đầu cho thời kỳ vàng son của Jaguar mà trong đó, vai trò thiết kế của kỹ sư trưởng William Heynes mang tính quyết định trong suốt 35 năm liền.









Từ 1979 - 1989: Năm 1980, Jaguar lăn bánh vào một giai đoạn mới khi John Egan, một chuyên gia từng làm việc ở nhiều nhà sản xuất xe khác như GM, Triumph Cars, Unipart… được mời về làm chủ tịch kiêm tổng giám đốc điều hành. Ông đã chứng tỏ tài năng của mình khi vực dậy uy tín của xe Jaguar trong lòng người tiêu dùng sành điệu ở khắp thế giới, đặc biệt là ở Mỹ.
Dư âm cuộc khủng hoảng dầu mỏ thế giới lần thứ nhất diễn ra trong thập niên 80 trở thành động cơ thúc đẩy Jaguar phải chế ra loại động cơ mới tiết kiệm nhiên liệu hơn, nhưng vẫn có sức mạnh hơn hẳn mọi đối thủ khác. Đó là các động cơ V12, công trình nghiên cứu kéo dài 5 năm sau này ứng dụng rất hiệu quả với dòng xe đua XJ-S của Jaguar.
Sau đó, Jaguar còn tiêu tốn hết 21 triệu bảng Anh để chế ra được động cơ mới mang tên AJ6 với 24 valve, dung tích 3.580 cc, 225 mã lực. Đến năm 1984, lần đầu tiên trong lịch sử, Jaguar được niêm yết tại thị trường chứng khoán London. Nhưng chỉ đến tháng 2/1985 thì Sir William Lyons qua đời.







Từ 1989 - 1996: Jaguar gặt hái thêm nhiều thành công và John Egan cũng đã có thêm tước Sir trước họ tên của mình. Với chi phí 52 triệu bảng Anh, Jaguar xây dựng trung tâm nghiên cứu mới ở Whitley, Coventry.
Nhưng lịch sử thế giới đã chuyển sang thời toàn cầu hóa. Gặp khó khăn về ngoại tệ và phải đối đầu với nhiều đối thủ mạnh ở nhiều thị trường, Jaguar hiểu rằng đã đến lúc cần phải hợp tác với một nhà sản xuất khổng lồ thuộc đẳng cấp thế giới để có thể tồn tại mà tiếp tục phát triển. Các cuộc thương thảo được tiến hành với General Motors và Ford Motor, nhưng cuối cùng vào ngày 1/12/1989, hội đồng quản trị của Jaguar đồng ý cho Jaguar trở thành một công ty thuộc Ford nhưng vẫn được giữ nguyên thương hiệu cũ.







Tháng 2/1990, theo Sài Gòn Tiếp Thị, cổ phiếu Jaguar Cars không còn được mua bán ở London Stock Exchange nữa. Sir John Egan chính thức nghỉ hưu vào tháng 6 năm ấy. Người thay ông lãnh đạo Jaguar là William J. Hayden, một chuyên gia công nghiệp xe ở Anh và đã được triều đình Anh phong cho danh hiệu Commander of the British Empire (CBE). Những năm cuối thập niên 90, kinh tế toàn cầu suy yếu nên Jaguar bị ảnh hưởng, số lượng xe tiêu thụ giảm hẳn.
Từ 2000 trở đi: Đầu thiên niên kỷ mới, Jaguar chính thức tham gia các cuộc đua Thể thức 1 với chiếc Silverstone XKR. Dòng X-Type sedan 4 cửa, động cơ V6 các loại 2.5l và 3.0l được trình làng tại triển lãm xe hơi quốc tế Geneva 2001. Tại triển lãm xe hơi Paris 2002, chiếc XJ bằng nhôm được giới thiệu. Sang đến tháng 6/2003, thông qua một liên doanh với Ford Motor và PSA Peugoet Citroen, lần đầu tiên trong lịch sử Jaguar bắt đầu có xe sử dụng động cơ diesel. Từ đầu năm 2005, Jaguar lại bước vào một giai đoạn mới.


---------------------------------

Thành lập năm 1922, hãng xe Sawllow Sidecar, viết tắt là SS, phải đổi tên thành Jaguar bởi trùng với tên của lực lượng phát xít Đức. Trải qua 84 năm, Jaguar vẫn giữ triết lý sản xuất những chiếc xe đẹp nhất, mạnh mẽ, tinh khôn và hoang dã như loài báo đốm Mỹ.
Năm 1922, tại một thị trấn phía nam bờ biển vùng Blackpool, Anh quốc, một gã trai mê mô-tô chưa đủ 21 tuổi, Bill Lyons, gặp William Walmsley, 29 tuổi, kẻ có sở thích không hề thua kém. Walmsley vừa chế tác xong chiếc sidecar (xe 3 bánh) đặc biệt cho riêng mình và dẫn người bạn mới quen về xem nó. Ngay lập tức, Bill Lyons cảm nhận được tiềm năng thương mại của mẫu xe này. Với sức trẻ, Lyons và Walmsley thành lập Swallow Sidecar Company vào tháng 9/1922 với số vốn 1.000 bảng.





Biểu tượng Jaguar lấy từ loài báo đốm Mỹ.





Lúc đầu, Swallow Sidecar Company chỉ có hai tầng gác tại Blackpool để làm trụ sở và xưởng. Toàn bộ công việc được thực hiện bằng tay. Sau khi thành lập vài tháng, một tài năng kinh doanh xuất hiện mang tên Arthur Whittaker, người sau này sẽ giúp những chiếc xe đầu tiên của Swallow Sidecar đến với khách hàng một cách nhanh chóng. Arthur Whittaker đã ở lại cùng Jaguar trong 50 năm sau và trở thành một trong những người kinh doanh sành sỏi nhất quốc đảo sương mù.
Sáng tạo ra phương pháp dùng nhôm dập để sản xuất vỏ sidecar, Swallow Sidecar nhanh chóng trở nên nổi tiếng khi hàng "đắt như tôm tươi" và năng suất nâng cao đến chóng mặt. Tuy nhiên, tham vọng của Lyons không dừng lại ở đó. Năm 1927, khi Herbert Austin cho ra đời chiếc xe hạng nhỏ Austin Seven giá rẻ, dễ lái và tiện dụng nhưng thiếu cá tính, Lyons có ý tưởng sản xuất một chiếc xe 2 chỗ, gắn thân Swallow Sidecar trên khung gầm của Austin Seven. Ngay lập tức, một đơn đặt hàng 500 chiếc được đặt lên bàn Arthur Whittaker.
Đó cũng là điểm khởi đầu cho mối liên minh mới giữa Lyons và Bertie Henly, người điều hành garage nổi tiếng nước Anh, Henlys. Với giá 175 bảng hay 185 bảng cho phiên bản mui cứng, Austin Seven Swallow luôn “cháy hàng” và không dừng lại ở đó, Lyons còn tiếp tục cho ra mắt mẫu xe có vỏ Swallow gắn trên khung gầm lớn hơn, mang tên Morris Cowley. Vùng ảnh hưởng của Swallow ngày càng lớn khi Austin Seven Swallow Saloon trình làng năm 1928 và tiếp tục gặt hái thành công.






Thiết kế phần mũi XKR luôn cụp xuống kiểu vồ mồi.




Sau một thời gian liên kết sản xuất với các hãng xe khác, đột nhiên Lyons không muốn chế tạo vỏ xe của mình trên khung gầm của mẫu xe khác. Điều đó làm giảm tiêu chí thiết kế và hơn hết, ông muốn nhắm tới những chiếc xe cá tính chứ không đơn thuần chỉ sản xuất xe thể thao. Nếu đi theo kế hoạch của Lyons, Swallow Sidecar sẽ phải tự sản xuất khung gầm trong khi không có kinh nghiệm và nguyên liệu sản xuất.
Để giải quyết khó khăn đó, Lyons đã khôn ngoan liên kết với Standard Motor Company và “nhờ” hãng này sản xuất khung gầm theo thiết kế của Swallow Sidecar nhưng lại vừa với động cơ Standard. Năm 1931, chiếc SS được Swallow Sidecar tung ra bằng chiến dịch quảng cáo rầm rộ và thu lời lớn. Tiếp sau SS là SS I và SS II Coupe, tất cả đều có gầm thấp và nắp ca-pô dài.
Tới 1934, William Walmsley, người không thích những chiếc mối liên kết và mất thú hứng thú đầu tư, đã quyết định cắt đứt với Swallow Sidecar. Lyons liền chuyển hướng chú ý sang cải tiến kỹ thuật, đào tạo nhân công, xây dựng cơ sở hạ tầng để sản xuất toàn bộ thiết bị của xe mà không phải “đẻ nhờ” như trước. Đầu tiên, ông tới Harry Weslake, một trung tâm tư vấn gồm nhiều chuyên gia thiết kế lốc máy. Sau đó, Lyons thành lập văn phòng kỹ sư và bổ nhiệm nhân viên trẻ, William Heynes làm trưởng phòng. Heynes là người đóng vai trò quan trọng trong Jaguar suốt 35 năm sau đó.






Không còn biểu tượng linh vật, Jaguar thay bằng logo hình mặt báo.



Năm 1935, lần đầu tiên cụm từ "Jaguar" được nhắc tới trên mẫu xe mà William Heynes phát triển. Các kỹ sư cố gắng nâng công suất chiếc động cơ từ 75 lên 105 mã lực trong khi Lyons tập trung thiết kế vỏ xe sao cho thật ấn tượng, khác biệt hoàn toàn so với các mẫu trước đó. Ban đầu, Sawllow Sidecar định đánh số sau chữ SS nhưng văn phòng quảng cáo để nghị thêm từ "Jaguar".
Jaguar là tên gọi loài báo đốm nổi tiếng châu Mỹ, biểu tượng của sức mạnh và quyền lực trong văn hóa các nước Nam Mỹ. Người dân ở đây tin rằng, Jaguar là điểm nối giữa sự sống và cái chết. Jaguar sinh ra để bảo vệ các hoàng đế. Dù Lyons không thực sự thích nhưng cuối cùng, cái tên "Jaguar" vẫn được thông qua. Ngay sau khi ra mắt tại khách sạn Mayfair, London, SS Jaguar nhận hàng loạt đơn đặt hàng bởi nó có giá chỉ bằng một phần tư Bentley dù không hề thua kém về chất lượng.
Hoạt động kinh doanh của Sawllow Sidecar đang diễn ra suôn sẻ thì chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra. Như tất cả các nhà máy khác của Anh, Sawllow Sidecar được lệnh tập trung cho chiến tranh và quay trở về sản xuất dòng xe sidecar. Khi thế chiến kết thúc, việc đầu tiên mà Lyons quyết định là đổi tên Sawllow Sidecar (thường được viết tắt thành SS trên mũi các mẫu xe) thành Jaguar. Lý do đơn giản bởi từ SS trùng với tên gọi của lực lượng SS của Đức quốc xã trong thế chiến thứ 2.
Sau khi đổi tên thành Jaguar, 11 năm sau, Lyons mới chính thức đưa biểu tượng chú báo đốm Bắc Mỹ đang vồ mồi lên chiếc Jaguar Mark VIII 1956. Biểu tượng đó đã đi theo Jaguar 30 năm sau và là hình mẫu để các kỹ sư thiết kế theo đúng vóc dáng mạnh mẽ, tràn trề nhựa sống và hoang dã của loài vật được mệnh danh là chúa tể rừng xanh.
Dù có hàng loạt model cũng như các sản phẩm khác nhau qua từng thời kỳ, Jaguar vẫn giữ triết lý chế tạo những chiếc xe đẹp nhất, nhanh nhất trên cơ sở kết hợp giữa trí thông minh công nghệ với sự sang trọng đương đại. Trên con đường hiện đại hóa, Jaguar không làm mất đi những giá trị lịch sử mà Lyons đã theo đuổi tới khi ông mất năm 1985.
 

CỬU VĂN LONG

Xe container
Biển số
OF-1829
Ngày cấp bằng
6/10/06
Số km
6,182
Động cơ
629,549 Mã lực
Nơi ở
Sài Gòn <=> Mũi Né
Logo Jaguar





































































































 

CỬU VĂN LONG

Xe container
Biển số
OF-1829
Ngày cấp bằng
6/10/06
Số km
6,182
Động cơ
629,549 Mã lực
Nơi ở
Sài Gòn <=> Mũi Né



























































mô tô Jaguar









































 

QuangMaybach

Xe điện
Biển số
OF-48535
Ngày cấp bằng
12/10/09
Số km
2,764
Động cơ
486,290 Mã lực
Nơi ở
♥Sơn Tây
Jaguar em thích nhất kiểu logo này



nhìn đẹp thật:):)
 

CỬU VĂN LONG

Xe container
Biển số
OF-1829
Ngày cấp bằng
6/10/06
Số km
6,182
Động cơ
629,549 Mã lực
Nơi ở
Sài Gòn <=> Mũi Né

Lịch sử của ISUZU







Isuzu, với nghĩa là "50 bells" (50 cái chuông) tương tự như tên của một dòng sông chảy qua một tỉnh với những lăng mộ Shinto cổ ở Nhật Bản. Nguồn gốc của công ty có từ năm 1916, khi Công ty Kỹ thuật và Đóng tàu Ishikawajima của Tokyo lần đầu tiên quyết định mở rộng lĩnh vực kinh doanh của mình sang sản xuất ô tô. Công ty hợp tác kỹ thuật với Công ty ô tô Wolseley của Anh vào năm 1918. Buổi ra mắt đầu tiên của công ty dành cho mẫu xe con A9, không lâu sau chiếc xe tải đầu tiên ra đời mang tên CP. Cho tới năm 1949, tên của công ty được đổi thành Isuzu ngắn gọn và súc tích hơn.

Vào những năm sau thời chiến, việc sản xuất xe tải của Isuzu nở rộ. Xe của công ty đóng một vai trò quan trọng trong nỗ lực xây dựng lại đất nước Nhật Bản, và được dùng để chuyên chở quần áo, lương thực và những vật dụng thiết yếu khác. Năm 1953, Isuzu tung ra mẫu xe du lịch Hillman Minx, sản phẩm của sự liên kết với Rootes, một doanh nghiệp của Anh.

Những năm 1960s cũng chứng kiến sự ra đời của những chiếc xe du lịch như Florian, Bellett và Coupe 117, cũng như những chiếc xe tải như WASP. Năm 1971, Isuzu bắt đầu hợp tác với General Motors. Chiếc xe Gemini, ra đời hai năm sau đó, là chiếc xe Isuzu đầu tiên được sản xuất từ sự hợp tác này.

Cho tới những năm 1980, Isuzu đã đặt chân tới bờ biển nước Mỹ. Pup là chiếc xe đầu tiên được bán trên thị trường Mỹ. Trooper, một chiếc xe thể thao đa dụng SUV có cả loại 2 cửa và 4 cửa đã được giới thiệu vào năm 1983 và nhanh chóng trở nên được ưa chuộng ở phân đoạn thị trường mới này. Công ty khởi đầu việc liên doanh với Subaru năm 1987, liên doanh này đã cho ra đời hai loại xe Isuzu Rodeo và Isuzu Pickup. Kém phổ biến hơn những chiếc xe tải này là loại xe con như chiếc sedan I-Mark lỗi thời và chiếc thể thao coupe Impulse rộng rãi, mang thiết kế kiểu Ý.

Doanh số bán hàng của công ty tương đối cao vào những năm 1990, một phần nhờ thành công đáng kể của xe Trooper mà ở thời điểm đó đã phát triển cả về kích cỡ và độ sang trọng. Xe Trooper là một trong những kiểu mẫu chịu trách nhiệm về tính phổ biến có quy mô của chủng loại SUV trong suốt thập kỷ đó. Năm 1999, GM thâu tóm cổ phần của Isuzu để nắm vai trò cổ đông chính của công ty.

Tuy nhiên niên kỷ mới này cũng mang đến tin buồn. Những loại xe bán chạy nhất như Rodeo và Trooper đã bị hạ bệ bởi những loại xe mới hơn, trẻ trung hơn và doanh số của hãng này đã tụt dốc. Dòng xe của Isuzu ngày nay chỉ gồm 2 loại xe – xe tải và xe SUV, cả hai loại này vẫn dựa trên sản phẩm của GM.




-------------------



Isuzu Motors Ltd., một công ty sản xuất ôtô của Nhật Bản, chuyên sản xuất xe thương nghiệp và xe tải hạng nặng. Năm 2005, Isuzu được xem là nhà sản xuất xe tải từ hạng trung đến hạng nặng lớn nhất thế giới. Isuzu là hãng sản xuất xe thương nghiệp và động cơ diesel nổi tiếng. Chỉ riêng năm 2003, hãng đã sản xuất 16 triệu động cơ diesel và được bán trên toàn cầu.
Hầu hết các nước ở Châu Âu, Á, Phi chỉ biết đến Isuzu như là một hãng chuyên sản xuất xe tải với đủ kích cỡ nên sau khi hãng này tung loại xe cỡ nhỏ ra thị trường thì doanh số bán giảm nhanh chóng. Kết quả, Isuzu phải ngừng sản xuất các model xe sedan và compact vào cuối thập niên 90. Tại Mỹ, Isuzu được biết đến là hãng sản xuất các model dựa trên chiếc Chevrolet Colorados như Isuzu i-290 và i-370. Tháng 11/2006, Toyota đã mua 5,9% cổ phần của Isuzu và trở thành cổ đông lớn thứ 3 sau Itochu và Mitsubishi.




2008 Isuzu i-370



Lịch sử hình thành và phát triển


Năm 1916, hai công ty Tokyo Ishikawajima Shipbuilding and Engineering Co., Ltd. và Tokyo Gas and Electric Industrial Co. quyết định hợp tác cùng nhau sản xuất ôtô. Năm 1918, Công ty đã hợp tác với Wolseley Motor Company của Anh về mặt kĩ thuật và cho ra mắt model Wolseley đầu tiên, A-9 vào năm 1922. Hai năm sau đó chiếc xe tải đầu tiên mang tên CP đã ra đời. Đến năm 1933, Ishikawajima Automotive Works sáp nhập với công ty DAT Automobile Manufacturing và đổi tên thành Automobile Industries Co., Ltd.






1924 Wolseley CP

[/CENTER]
Năm 1934, Bộ trưởng Bộ Công thương đã đặt tên cho chiếc xe tải là Isuzu, với nghĩa là "fifty bells" (50 cái chuông), tương tự tên của một dòng sông ở Nhật Bản. Cho tới năm 1949, tên của công ty chính thức được đổi thành Isuzu Motors Ltd.
Với sự hỗ trợ kĩ thuật của Tập đoàn Rootes (Anh), năm 1953, chiếc xe du lịch Hillman Minx đã được sản xuất. Năm 1971, Isuzu kí một hợp đồng về vốn, đánh dấu mối quan hệ hợp tác của hãng với GM. Một năm sau, Chevrolet LUV trở thành chiếc xe đầu tiên do Isuzu lắp ráp được bán tại Mỹ. Isuzu hợp tác sản xuất cùng GM cho ra đời model Gemini vào năm 1973 và được bán tại Mỹ dưới thương hiệu của Opel (thương hiệu con của Buick).







1953 Isuzu Hillman Minx


Đến năm 1981, những chiếc xe dân dụng và thương nghiệp của Isuzu đã được bán rất thành công tại Mỹ và Isuzu P’Up là model đầu tiên tới tay người tiêu dùng Mỹ mang tên Isuzu chứ không phải là Chevrolet hay Buick.



http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/0/02/Isuzu-Pickup.jpg


Isuzu P'Up


Công ty bắt đầu liên doanh với Subaru vào năm 1987. Không lâu sau đó, xưởng lắp ráp tại Lafayette cũng bắt đầu đi vào hoạt động. Năm 1993, Isuzu ngừng xuất khẩu model Stylus (Geo Spectrum), mẫu xe cuối cùng của hãng tại thị trường Châu Mỹ. Một năm sau công ty tuyên bố chương trình trao đổi xe mới với Honda, bắt đầu bằng việc cung cấp cho Honda các model Isuzu Rodeo (được bán với tên gọi Honda Passport) và Isuzu Trooper (Acura SLX). Ngược lại Honda cũng chuyển giao công nghệ lắp ráp cho Isuzu model Honda Odyssey (Isuzu Oasis).
Đến năm 1996, doanh số bán của Isuzu tại thị trường Mỹ tăng vọt. Hai năm sau, công ty quyết định liên doanh với GM để sản xuất động cơ diesel. Lúc này Isuzu cũng bắt đầu khôi phục lại model Amigo rất được ưa chuộng.






1998 Isuzu Amigo


Năm 1999, GM tăng số vốn cổ phần tại Isuzu lên tới 49% và nắm quyền kiểm soát Isuzu. Trong thời gian này công ty giới thiệu phiên bản model VehiCROSS tại Mỹ và đã nhận được những phản hồi rất khác nhau. Dù có phong cách thiết kế độc đáo và kiểu dáng 2 cửa hiện đại nhưng dường như VehiCROSS vẫn không đáp ứng được nhu cầu thị trường do giá của chiếc xe này quá cao. Tuy nhiên model này đã xuất hiện trong bộ phim “Mission to Mars” năm 2000.
Năm 2001, Joe Isuzu, một người bán quán ở vỉa hè rất nổi tiếng với những luận điệu hoang đường đã được công ty thuê để xúc tiến bán model Axiom mới. Doanh số bán của Isuzu bị trượt dốc mạnh do sự lỗi thời của xe Rondeo và Trooper cùng với trình độ quản lí yếu kém và thiếu sự hỗ trợ từ phía GM. Lúc này, Isuzu quyết định đổi tên chiếc mui trần hai cửa Amigo thành Rondeo Sport để khiến người tiêu dùng liên tưởng đến model Rondeo 4 cửa đã được tiêu thụ khá chạy.




http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/9/9b/Isuzu-Rodeo-Sport.jpg



2001 Isuzu Rondeo Sport



Đầu những năm 2000 thực sự là thời kì khó khăn đối với Isuzu khi doanh số bán tại các thị trường trong và ngoài nước đều giảm mạnh, thậm chí phải ngưng sản xuất một số model. Năm 2006, Toyota mua 5,9% cổ phần của Isuzu và hai công ty cùng nhau tập trung nghiên cứu và phát triển sản phẩm, đồng thời sản xuất động cơ diesel, hệ thống kiểm soát khí thải và các công nghệ thân thiện với môi trường khác.
Ngày 30/1/2008, Isuzu tuyên bố hoàn toàn rút khỏi thị trường Mỹ, có hiệu lực từ 31/1/2009. Quyết định này chủ yếu là do doanh số bán của Isuzu bị giảm mạnh và quyết định của GM muốn thay thế model GMC Canyon/Chevrolet Colorado và Chevrolet Trailblazer bằng các model mới không mang tên thương hiệu Isuzu.




 
Chỉnh sửa cuối:

CỬU VĂN LONG

Xe container
Biển số
OF-1829
Ngày cấp bằng
6/10/06
Số km
6,182
Động cơ
629,549 Mã lực
Nơi ở
Sài Gòn <=> Mũi Né
Lịch sử của Alfa Romeo






Alfa Romeo là một hãng sản xuất xe hơi của Ý. Tên khai sinh của công ty là ALFA ( từ viết tắt của Anonima Lombarda Fabbrica Automobili) tiếng Anh là Lombard Automobile Factory. Sau gần 8 thập kỷ, năm 1986, Alfa Romeo đã trở thành thành viên của tập đoàn Fiat Spa.


Theo dòng lịch sử

Vào năm 1907, Cavaliere Ugo Atella - một nhà quý tộc thành Milan đã sáng lập nên công ty và lấy tên là Darracq Italiana. Darracq liên kết với một công ty sản xuất ôtô khác của Pháp là Alexandre, ban đầu công ty chuyên sản xuất xe hơi hiệu Darracq tại Naples. Liên doanh này đã không tồn tại được lâu, các nhà góp vốn phải “ đường ai nấy đi”. Ngay sau khi tan rã, các nhà đầu tư còn lại đã chuyển dây truyền sản xuất sang nhà máy Darracq tại vùng ngoại ô Portello của thành Milan. Công ty được đổi tên thành ALFA (Anonima Lombarda Fabbrica Automobili). Chiếc xe đầu tiên không phải có tên Darracq mà là chiếc 1910 24 HP (lấy tên theo năm sản xuất và công xuất của xe), được thiết kế bởi Giuseppe Merosi. Sau đó Merosi tiếp tục thiết kế những mẫu ALFA mới có công suất lớn hơn ( 40HP-60 HP). Hãng ALFA cũng mạnh dạn thể hiện mình trong lĩnh vực xe đua. Vào năm 1911, hai tay đua Franchini và Ronzoni đã thi đấu trên đường đua Targa Florio với 2 chiếc Model 24 HP. Tuy nhiên do sự bùng nổ của Đại chiến Thế Giới I, việc sản xuất của ALFA đã bị gián đoạn trong 3 năm.

Năm 1916, công ty chịu sự chi phối của một người Naples tên là Nicola Romeo, người này đã hướng công ty sang sản xuất vũ khí hạng nặng cho quân đội. Trên cơ sở các nhà máy và công nghệ sản xuất ô tô của hãng trong thời gian này, các vũ khí như đạn dược, động cơ máy bay, máy nén khí, máy phát điện...đã được hãng sản xuất và cung cấp cho quân đội. Ngoài ra, dầu thô cũng là một sản phẩm quan trọng của công ty trong suốt thời kỳ chiến tranh. Sau khi chiến tranh kết thúc, Romeo nắm toàn quyền quản lý ALFA và dây truyền sản xuất từ năm 1919. Vào năm 1920, tên công ty được đổi thành Alfa Romeo và chiếc Torpedo công suất 20-30 HP là chiếc xe hơi đầu tiên mang nhãn hiệu này. Giuseppe Merosi tiếp tục là nhà thiết kế chính và công ty vẫn tiếp bước thành công khi cho ra đời những mẫu xe thông dụng và xe đua (bao gồm chiếc 40-60 HP và chiếc RL Targa Florio).

Năm 1923, nhờ có sự thuyết phục của tay đua trẻ tên là Enzo Ferrari, nhà thiết kế Vittorio Jano đã quyết định rời bỏ Fiat để thay vị trí nhà thiết kế chính của Merosi tại Alfa Romeo. Chiếc Alfa Romeo đầu tiên được thiết kế bởi Jano là chiếc P2 Grand Prix, chiếc xe này đã giành chiến thắng ở giải vô địch thế giới Alfa Romeo vào năm 1925. Jano đã thay thế những chiếc xe cũ bằng một loạt xe mới kích cỡ từ nhỏ đến trung bình với 4, 6 và 8 xi lanh thẳng hàng. Những chiếc xe này có động cơ dựa trên nền tảng chiếc P2, kiểu dáng cổ điển đặc trưng của động cơ Alfa, cấu trúc hợp kim nhẹ, buồng đốt hình bán cầu, bugi đánh lửa đặt trung tâm, 2 dãy van cho mỗi hàng xi lanh và 2 trục cam đặt phía trên mặt máy. Độ tin cậy, sức mạnh đáng nể của các mẫu Alfa Romeo đã được hiện thực hoá dưới bàn tay tài hoa của Jano.

Enzo Ferrari đã chứng tỏ khả năng quản lý tốt hơn là một tay đua. Khi nhà máy được tư nhân hoá, nó đổi tên thành Scuderia Ferrari. Khi Ferrari rời Alfa Romeo, ông vẫn tiếp tục sản xuất những chiếc xe hơi của chính mình. Tiếp bước Ferrari, Tazio Nuvolari là tay đua cho đội Alfa và đã giành chức vô địch tại rất nhiều giải đua xe trước Đại chiến thế giới II.

Năm 1928, Nicola Romeo rời Alfa và sau khi các hợp đồng quân sự kết thúc, công ty phá sản. Năm 1933 Alfa Romeo phục hồi và được kiểm soát bởi chính phủ. Sau đó Alfa trở thành công cụ của nhà độc tài Mussolini, một biểu tượng của đế quốc Ý. Trong suốt thời gian này, Alfa Romeo sản xuất xe hơi cho giới thượng lưu với kiểu dáng được thiết kế bởi Touring Milan hay Pininfarina. Đây là thời kỳ đỉnh cao của Alffa Romeo, chiếc 2900B Type 35 đã đi vào truyền thuyết trong nghành ô tô.

Trong đại chiến thế giới II, nhà máy Alfa bị không kích nặng nề, hãng đã đưa ra giải pháp để sinh lợi nhuận bằng cách loại bỏ các mẫu hạng sang, thay vào đó là sản xuất hàng loạt những mẫu xe nhỏ và rẻ hơn.
Thập kỷ 70 đánh dấu thời kỳ suy thoái tài chính của Alfa. Chính phủ Ý đã cho phép Fiat mua lại hãng này và thành lập nên một tổ hợp mới tên là Alfa Lancia Spa để sản xuất những chiếc Alfa và Lancia.


Logo Alfa


Năm 1910, một kiến trúc sư tên là Romano Cattaneo, người được giao nhiệm vụ thiết kế logo cho trụ sở ALFA tại Milan. Câu chuyện bắt đầu khi ông đang đứng chờ một chiếc xe khách tại ga cuối Piazza Castello ở Milan. Đột nhiên ông nẩy sinh cảm hứng từ phù điêu từ hình chữ thập của gia huy dòng họ Visconti và hoạ tiết trang trí trên cửa chính lâu đài Sforzesco .
Với sự tư vấn của nhà thiết kế Giuseppe Merosi, bản phác thảo của Romano Cattaneo đã kết hợp giữa biểu tượng của thành phố Milan và những nét hoa văn trên phù điêu dòng họ Visconti. Biểu tượng được bao quanh bởi vòng kim loại màu xanh sẫm bao gồm 2 dòng chữ "ALFA" và "MILANO" được tách biệt bởi 2 thắt nút kiểu vương triều Savoy.


Alfa Romeo một biểu tượng văn hóa


Tại Ý, người sở hữu chiếc Alfa Romeo gọi là Alfista, một nhóm các Alfista được gọi là Alfisti. Alfa Romeo đôi khi còn được tôn thờ bởi chính chủ nhân của nó thậm chí nhiều model đã trở thành biểu tượng văn hóa. Có không ít những câu lạc bộ Alfa Romeo đã được thành lập.

Vào những năm 60, Alfa Romeo nổi tiếng với những chiếc model nhỏ được thiết kế riêng cho cảnh sát Ý. Trong các model đó phải kể đến chiếc Panthers, Carabinieri, chiếc Giulia Super hạng sang hay chiếc 2600 Sprint GT với tên gọi là “Inseguimento”, chiếc xe này đôi khi được hiểu nhầm là đã được tay cảnh sát nổi tiếng Armandino Spadafora lái lao từ trên “ Những Bậc Thang Tây Ban Nha” xuống khi truy đuổi bọn cướp, thực tế Spadafora đã lái chiếc Ferrari 250 GT/E.

Vào năm 1967, tài tử Hollywood, Dustin Hoffiman trong bộ phim nổi tiếng “The Graduate” đã lưu danh trên toàn thế giới cho chiếc “Spider” (được biết đến với cái tên Duetto, Osso di Seppia hay Round-tail) bởi hình dáng độc đáo của nó. Chiếc Spider này được thiết kế bởi Pininfarina.

Trước khi bị Fiat mua lại, Alfa Romeo luôn có những chính sách thương mại táo bạo, liên tục có giải pháp mới và áp dụng chúng vào các dây truyền sản xuất bất chấp nguy cơ bị mất thị phần. Alfa cũng thường thiết kế những kiểu dáng gây nhiều tranh cãi và lập dị gây ra nhiều thách thức đối với doanh số của hãng.

Alfa Romeo với đất Mỹ

Năm 1995, Alfa Romeo ngừng xuất khấu ôtô vào thị trường Mỹ. Đã có những tin đồn về sự quay lại của họ, tuy nhiên FAQ trên website UK của Alfa đã tiết lộ: “Sự trở lại thị trường Mỹ được mong đợi từ rất lâu của Alfa Romeo có thể diễn ra vào năm 2007 với một loạt các model mới”. Những model được hi vọng sẽ đến Mỹ đầu tiên là Alfa Romeo 159, Brera, 8C Competizione và Spider. Những model này ban đầu được thiết kế để luồn lách những quy định về an toàn giao thông của Mỹ.

Ngày 5/5/2006, CEO của Fiat, Sergio Marchionne đã xác nhận sự trở lại của Alfa Romeo tại Mỹ sẽ diễn ra vào năm 2008. Họ sẽ bắt đầu bằng việc tung ra thị trường chiếc 8C Competizione vào đấu năm. Sau đó, vào khoảng năm 2010 và 2011 Alfa sẽ giới thiệu chiếc 159, Brera và chiếc Spider kiểu dáng mới. Alfa Romeo sẽ được bán tại các đại lý Maserati trên khắp nước Mỹ.




------------------------------------

Alfa Romeo là một công ty sản xuất ô tô của Ý, do Cavaliere Ugo Stella, một quý tộc đến từ Milan hợp tác với hãng sản xuất ô tô Alexandre Darracq thành lập nên với tên ban đầu là "Darracq Italiana". Các sáng lập viên đã cải tổ lại thành một nhà máy Darracq lý tưởng ở Portello, ngoại ô của Milan, nhưng khi Thế chiến thứ nhất bùng nổ, nhà máy này đã chuyển sang chế tạo vũ khí phục vụ cho quân sự và sự hợp tác trước đây chấm dứt. Từ năm 1987, công ty này trở thành thành viên của Fiat SpA. Fiat đặt kế hoạch hợp nhất Alfa Romeo với một bộ phận khác của hãng là Maserati để thành lập nên phân nhánh sản xuất xe sang và xe thể thao trong Tập đoàn Fiat. Công ty này có tên là ALFA, là từ viết tắt của Anonima Lombarda Fabbrica Automobili.

Sản phẩm đầu tiên của A.L.F.A. do Merosi thiết kế mang tên 1910 24HP. Mẫu xe du lịch cỡ lớn này cũng như những thiết kế tiếp sau của Merosi rất ổn định và không phiêu lưu, tuy nhiên vẫn đạt chất lượng và độ tin cậy cao. Doanh số của A.L.F.A. đã gia tăng, nhưng sự bùng nổ của Thế chiến thứ nhất đã đánh một dấu chấm hết cho quá trình sản xuất ô tô của hãng.

Năm 1915 Nicola Romeo mua lại ALFA sau khi gắn tên họ của mình vào phần đầu tên hãng. Đến năm 1916 công ty thực sự thuộc quyền kiểm soát hoàn toàn của nhà tư bản công nghiệp kiêm toán học này.

Mẫu xe đầu tiên được thiết kế bởi hãng Alfa Romeo “mới” là G1 vào năm 1920, một loại xe du lịch cỡ lớn. Với một số cải tiến trong động cơ loại xe này đã cho ra đời mẫu xe G2 năm 1921. Năm 1922 những mẫu xe con serie RL, với động cơ OHV 3000 sáu kỳ đã được giới thiệu trước công chúng bao gồm RLN (21/70hp) 'Normale', RLT (22/70hp) 'Turismo', RLS và RLSS (22/90hp). Những mẫu tiếp theo vào năm sau đó thuộc serie RM, một phiên bản nhỏ hơn với động cơ bốn kỳ 2000 và các phiên bản RM, RMS 'Sport' and RMU 'Unificato' (15/50hp và 15/55hp). Trong những số liệu của những mẫu xe trên, số đầu chỉ mã lực, số thứ hai chỉ tốc độ tối đa và đây là những thiết kế cuối cùng của Merosi.

Trong một vài năm khi Nicola Romeo nắm quyền, công ty bắt đầu tham gia các cuộc đua ô tô ở Grand Prix. Guiseppe Merosi, một kỹ sư tự học đã được kỹ sư trưởng của hãng thuê về.

Năm 1923 Jano bắt đầu làm việc cho Alfa Romeo, và thiết kế đầu tay của ông là xe con công thức 1 rất thành công mang tên P2. Không lâu sau, những mẫu xe con ra đời, năm 1927 bắt đầu sản xuất mẫu 6C 1500, sử dụng động cơ sáu kỳ 1500cc. Năm 1929, phiên bản 1750 lớn hơn ra đời với cả hai công thức SOHC (45bhp) và DOHC (55bhp), một lần nữa phiên bản xe với bộ siêu nạp 85bhp xuất hiện.

Trong suốt quá trình khủng hoảng của thời đại Romeo năm 1929, hãng đã phải gánh chịu hàng loạt các khó khăn về tài chính và những tổn hại nghiêm trọng. Romeo đã từ bỏ vai trò Giám đốc vào năm 1928 và chẳng bao lâu sau sự sụp đổ của nó công ty đã thuộc quyền sở hữu của Chính phủ.

Alfa Romeo giành được nhiều thành công vang dội trong tất cả các dòng xe của nó: xe công thức 1, xe nguyên bản, xe độ và xe độ tốc độ cao. Nhiều tay đua cũng đạt được kết quả rực rỡ trong các cuộc đua xe cá nhân.

Năm 1954 xuất hiện mẫu xe đầu tiên với động cơ 1290cc mang tên Giulietta, tiếp theo mẫu Berlina (4 cửa) và Spider (mui trần) ra đời. Sau đó là mẫu 1900 tiếp tục được chế tạo ra rồi lại được cải tiến thành mẫu 2000. Mẫu 2600 được giới thiệu năm 1962 tại Berlina, những biến thể mới Spider và Sprint khác biệt so với mẫu Alfa Romeo “to lớn”, và mẫu Alfa đầu tiên sử dụng phanh đĩa đã được sản xuất.

Một mẫu xe du lịch mới hoàn hảo, Alfa Romeo 1900 đã chào đời vào năm 1950 và năm 1954 mẫu Giulietta đã được tung ra. Đây thực sự là chiếc xe đánh dấu sự khởi đầu của kỷ nguyên hiện đại trong lịch sử xe của Alfa Romeo.

Năm 1950 Nino Farina đã giật giải xe công thức 1 trong Cuộc đua quán quân thế giới với mẫu xe 158 compressor, năm 1951 Juan Manuel Fangio đã giành chiến thắng khi lái chiếc Alfetta 159 (một cải tiến của động cơ 158 compressor 2 kỳ). Năm 1960 Alfa Romeo đã được chính phủ Ý mua lại và trở nên nổi tiếng nhờ những thiết kế đặc biệt cho an ninh nước này.

Năm 1967 bộ phim nổi tiếng của Dustin Hoffman mang tên "The Graduate" đã đem lại danh tiếng cho chiếc xe "Spider" (được biết đến với tên hiệu tiếng Ý "Duetto", hoặc "Osso di Seppia" hay Round-tail). Sau giai đoạn 1970, Chính phủ nước này gặp một số vấn đề về kinh tế nên đã bán lại Alfa Romeo cho Fiat, hãng đã từng sở hữu nhãn hiệu này.

Năm 1972 đánh dấu một sự thay đổi cách mạng đối với Alfa Romeo khi giới thiệu mẫu Alfasud, là chiếc Alfa có hệ dẫn động cầu trước đầu tiên, do Rodolfo Hruska thiết kế và lắp đặt động cơ ngang 4 xi lanh. Cùng năm ra đời của Alfetta, một sự thay đổi công nghệ đáng kể nhất từ trước tới nay cho hệ giảm xóc sau, bộ ly hợp, hộp số và bộ truyền động vi sai. Công nghệ này được áp dụng cho mẫu Alfetta GT vào năm 1974 do Giugiaro thiết kế.

Năm 1976 mẫu xe Alfa động cơ diegel đầu tiên được chế tạo ra, đó là Giulia. Cái tên Giulietta đã hồi sinh vào năm 1977 khi đặt cho chiếc xe con sản xuất dựa trên phiên Alfetta với động cơ 1300 và 1600 và tiếp sau đó là mẫu 2000. Một mẫu xe Alfa mới hàng đầu đã ra đời vào năm 1979 dưới bóng dáng của chiếc Alfa 6, lắp đặt động cơ V6 - 2492cc và hệ giảm xóc tương tự Alfetta. Một phiên bản coupe GTV6 cũng được tung ra.

Cho tới những năm 1980, tất cả xe của Alfa Romeos, trừ Alfasud, đều có hệ dẫn động cầu sau. Năm 1995 Alfa Romeo ngừng xuất khẩu xe cho thị trường Mỹ. Hãng cũng dự định quay trở lại thị trường đó nhưng cho tới nay chưa có kế hoạch chính thức nào. Với sự hỗ trợ của Maserati, Alfa Romeo 159 và Alfa Romeo Brera là những model tiên phong trên thị trường Bắc Mỹ.


----------------------------------





Cũng như nhiều mác xe danh tiếng khác của Ý, Alfa Romeo mang trên mình nét phong cách thời trang và rất đặc trưng. Có thể gặt hái không thành công vang dội như Ferrari hay Lamborghini, nhưng những chiếc xe Alfa Romeo với vẻ đẹp kiêu sa vẫn đậm chất lãng mạn từ tên gọi đến kiểu dáng thiết kế.





Alfa Romeo là mác xe thể thao hạng sang nằm trong số 3 thương hiệu xe hơi chính của tập đoàn Fiat. Tập đoàn này coi Alfa Romeo tương tự như vị thế của BMW trên thị trường ngày này, nhưng chú trọng hơn tới hình thức và cảm xúc. Do hiếm hơn các thương hiệu xe Đức cao cấp khác và mang nhiều đặc tính Latinh, Alfa Romeo được nhiều người hâm mộ xe hơi xem như một mác xe chủ đạo đáng được sở hữu nhất. Mặc dù vậy, so về uy tín cũng như qui mô sản xuất, Alfa Romeo vẫn kém xa BMW.











Lịch sử của Alfa Romeo có thể chia thành 2 giai đoạn – trước và sau Chiến tranh thế giới thứ II. Alfa trước chiến tranh tập trung vào sản xuất xe thể thao và xe đua mà không áp dụng qui trình sản xuất hàng loạt. Alfa – viết tắt của cụm từ Anonima Lombarda Fabrica Automobili (Công ty Sản xuất Xe hơi Lombardy) được Cavaliere Ugo Stella, một nhà quí tộc Milan, thành lập năm 1906 thông qua thỏa thuận hợp tác sản xuất xe cho hãng Alexandre Darracq của Pháp.
Thiếu sức hấp dẫn và khách hàng, do xuất xưởng những chiếc xe Pháp “mỏng mảnh”, năm 1910, Alfa đã chia tay với Darracq để chuyển sang làm ăn riêng. Lịch sử của Alfa chỉ sang trang khi thương nhân người Naples, Nicola Romeo, nắm quyền kiểm soát hãng này năm 1915. Ông chính là phần sau trong tên gọi Alfa Romeo.
Phải đến năm 1920, thương hiệu Alfa Romeo mới nổi tiếng khi hãng này tung ra một loạt các mẫu xe thể thao hấp dẫn - 6C1750, 6C2300, 8C2300 và 8C2900. Những chiếc xe này được ứng dụng công nghệ tiên tiến như động cơ đốt trong hemi, hệ thống van DOHC, tăng áp, kết hợp với kiểu dáng ấn tượng và sự khéo léo ở đẳng cấp cao. Thời điểm trước khi có thương hiệu Ferrari, Alfa Romeo được xem là mác xe thể thao có uy tín nhất trên thế giới.
















Cái tên Alfa Romeo luôn gắn liền với các cuộc đua. Trong thập kỷ 1920 và 1930, Alfa Romeo liên tục giành chiến thắng trong các cuộc đua danh giá và nổi tiếng nhất như Targa Florio, Mille Miglia, Le Mans và Công thức I. Cũng chính tại Alfa Romeo, tay đua trẻ Enzo Ferrari đã chứng tỏ tài năng sau tay lái cũng như trong vai trò nhà quản lý, điều đã giúp ông tạo dựng thương hiệu xe đua “Con ngựa tung vó” nổi tiếng thế giới ngày nay. Còn dưới thời Mussolini, Alfa Romeo là một biểu tượng dân tộc. Trong thời gian này, Alfa Romeo xuất xưởng những chiếc xe đắt giá dành cho tầng lớp giàu có, tác phẩm của các xưởng thiết kế nổi tiếng như Touring hay Pininfarina. Kỷ nguyên này kết thúc với đỉnh cao là chiếc xe đua huyền thoại Alfa Romeo 2900B Type 35.


















Sau khi thuộc sở hữu của Fiat vào năm 1986, việc sử dụng chung chassis đã khiến những người hâm mộ Alfa cho rằng thương hiệu này đã đánh mất bản sắc chỉ tới khi chiếc GTV được giới thiệu năm 1995.
Ưu điểm lớn nhất của Alfa chính là hình thức hấp dẫn ngay từ cái nhìn đầu tiên. Thiết kế luôn đóng một vai trò quan trọng trong suốt quá trình lịch sử của Alfa Romeo. Các dòng xe của Alfa thường gắn liền với tên tuổi của các nhà thiết kế hay các cá nhân thiết kế nổi tiếng như Pininfarina, Bertone, Zagato, ItalDesign và Giugiaro. Các mẫu xe Alfa nhận được rất nhiều giải thường về thiết kế, nhưng rút cục vẫn không thể bán chạy, phần nào do Alfa không có uy tín về độ bền đồng thời giá trị bán lại của xe Alfa sau khi qua sử dụng cũng khiến nhiều khách hàng tiềm năng do dự.
Người hâm mộ luôn muốn Alfa là thương hiệu có thể đồng cảm, nhưng họ cũng muốn Alfa có đặc điểm và phong cách thiết kế đặc trưng để có thể nhận diện ngay lập tức. Vì vậy xe của Alfa vừa phải sàng điệu lại vừa không thể đánh mất đi những bản sắc truyền thống vốn có của mình. Bộ phận thiết kế của Alfa Romeo xác định rằng những chiếc xe mà họ sáng tạo phải vừa nhẹ nhàng nhưng cũng đầy cơ bắp, với hình thức đẹp, mạnh mẽ, tràn đầy sức quyến rũ. Và chỉ cần thoáng qua cũng có thể nhận ra.











Không giống như Lancia, mác xe cũng thuộc tập đoàn Fiat, Alfa Romeo có xưởng thiết kế, bộ phận nghiên cứu và phát triển (R&D) tách biệt với Fiat. Do đó xe của Alfa Romeo tương đối ít dùng chung linh kiện với Fiat và Lancia. Đây là đặc điểm rất quan trọng để duy trì bản sắc cho Alfa Romeo. Tuy vậy, trong những năm gần đây, mặc dù đã tung ra thêm nhiều mẫu mã nhưng doanh số tiêu thụ xe của Alfa hầu như vẫn giậm chân tại chỗ trong khi thị trường xe hạng sang đã có sự tăng tốc đáng kể. Giám đốc điều hành của Alfa Romeo, Antonio Baravalle, cho biết trong năm nay thương hiệu này có thể vượt mục tiêu đề ra là bán hơn 160.000 xe. Tuy nhiên, để đảm bảo cho tương lai của mình, Alfa Romeo vẫn còn rất nhiều việc phải làm.






CÁC MẪU XE HIỆN NAY CỦA ALFA ROMEO









Alfa Romeo 147





Được sản xuất từ năm 2000, Alfa Romeo 147 là chiếc hatchback có ngoại hình lôi cuốn đặc trưng kiểu Italia. Mẫu xe này là sản phẩm của nhà thiết kế lừng danh người Italia Walter Maria de’ Silva, người hiện đang điều hành mọi công việc thiết kế của tập đoàn Volkswagen. Alfa 147 đã giành được các giải “Car of the Year” của châu Âu năm 2001; Giải “Tay lái vàng” của BILD am SONNTAG (Đức) năm 2000; giải Auto Europa 1 của một ban bình chọn đứng đầu là tạp chí Auto Bild của Đức năm 2001 và giải thưởng thiết kế của Automobile Magazine (Pháp) năm 2000.








Alfa Romeo 159






Chiếc xe bốn cửa lộng lẫy ra đời năm 2005 với vô vàn chi tiết thiết kế thú vị (kể cả tay nắm cửa) mà bất kỳ tay chơi nào cũng phải say mê. Alfa 159 là tác phẩm hợp tác với nhà thiết kế lừng danh người Italia Giorgetto Giugiaro. Năm 2006, Alfa 159 đã nhận được các giải thưởng về thiết kế của tạp chí Auto Bild và Fleet World Honours và năm 2007 nhận giải Die Besten Autos ở phân khúc xe nhập khẩu.








Alfa Romeo GT






Bắt đầu xuất xưởng vào năm 2004, Alfa Romeo GT là chiếc coupe thể thao do xưởng tiết kế tiếng tăm Gruppo Bertone chắp bút. Được chế tạo dựa trên chassis của sedan 159, GT được xếp vào phân khúc xe coupe thể thao sang trọng của Alfa Romeo, ngang hàng với chiếc Brera mạnh mẽ hơn và được xem là chiếc xe thay thế cho dòng xe GTV danh tiếng.







Alfa Romeo Brera và Spider





Ra đời năm 2005, Romeo Brera là chiếc coupe 4 chỗ ngồi do Giorgetto Giugiaro thiết kế và được chính Pininfarina lắp ráp tại San Giorgio Canavese. Trước khi được tung ra thị trường, mẫu concept Alfa Brera đã được tạp chí Autoweek bình chọn là chiếc xe triển lãm đẹp nhất (Best of Show) tại triển lãm ôtô quốc tế Geneva. Mẫu xe này đã nhận giải Automotive Design Award 2006 của châu Âu và giải Best Design Award 2006 của tạp chí Autocar, Anh. Năm 2007, Brera được bầu chọn là chiếc “xe châu Âu của năm” (European Car of the Year) ở Nhật Bản. Phiên bản mui trần Spider của chiếc Brera cũng được Pininfarina lắp ráp tại San Giorgio Canavese.






Alfa Romeo 8C Competizione





Chiếc coupe thể thao tuyệt đẹp này trình làng tại Frankfurt Motor Show năm 2003. Hình thức phản ánh những đường nét thiết kế của Alfa trong thập niên 1930, 1940, và cái tên "Competizione" bắt nguồn từ chiếc 6C 2500 Competizione danh tiếng đời 1948 đã góp mặt trong giải đua Mille Miglia vào các năm 1949 và 1950. Với 8C Competizione, Alfa muốn khách hàng liên tưởng tới những trang sử rất hào hùng quá khứ của họ. 8C Competizione sẽ xuất hiện trên thị trường vào năm 2008 nhưng chỉ với số lượng hạn chế – 500 chiếc.





 

CỬU VĂN LONG

Xe container
Biển số
OF-1829
Ngày cấp bằng
6/10/06
Số km
6,182
Động cơ
629,549 Mã lực
Nơi ở
Sài Gòn <=> Mũi Né
Logo Alfa Romeo














































































 

CỬU VĂN LONG

Xe container
Biển số
OF-1829
Ngày cấp bằng
6/10/06
Số km
6,182
Động cơ
629,549 Mã lực
Nơi ở
Sài Gòn <=> Mũi Né
Lịch sử của Jeep





http://xe360.vn/chuyen-xe/xe-va-cuoc-song/di-tim-coi-nguon-cua-jeep/2680
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Ngay nay, ten tuoi xe Jeep da tro nen noi tieng khong chi trong quan doi My ma con tren toan the gioi. Tuy nhien, khong phai ai cung biet lich su ra doi va phat trien cua mac xe noi tieng nay. Cho den tan bay gio, rat nhieu nguoi van hieu sai rang nhung mau xe Jeep dau tien ra doi la do hang xe Willys.[/FONT]

[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Su that khong phai vay. Mau xe Jeep dau tien duoc thiet ke boi mot cong ty oto nho, khong may danh tieng o My: American Bantam Car Company, co tru so tai Butler. American Bantam Car Company ban dau thuoc chi nhanh cua Austin Car Company, mot nha san xuat xe hoi Anh, luc do duoc goi la American Austin Car Company.[/FONT]






Jeep Willys 1941.





[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Austin thuong san xuat xe hoi co nho, tiet kiem nhien lieu, mang ten Austin Seven, rat thong dung tai Anh. That khong may cho Austin Car Company, nhung chiec Austin Seven chang bao gio xuat hien va ghi dau ten tuoi tai My va vi vay, cong ty nay gan nhu pha san. Trong nhung no luc cuu van doanh nghiep, ong chu tich cua Austin Car Company da doi ten cong ty thanh American Bantam Car Company (Bantam).Cong ty nay san xuat nhung mau xe Austin Seven duoc cai tien theo huong to hon nhung mau xe tai Anh de phuc vu thi hieu nguoi tieu dung My.[/FONT]





Bantam Jeep, chiec xe dau tien duoc chon phuc vu quan doi.





[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Moi su cu lay lat ton tai cho den khi Bantam tro thanh mot trong nhung nha san xuat dau tien nam bat duoc nhu cau su dung xe hoi co nho cua quan doi My. Cong ty da lap mot nhom bao gom mot so chuyen gia oto cua minh toi Cuc Canh ve Quoc gia My de gioi thieu nang luc san xuat xe quan su cua minh. Sau nhieu no luc khong met moi, cuoi cung, phia quan doi cung dong y de Bantam dam trach thiet ke cac mau xe nho, nhe, phuc vu cac cong tac quan su vao nam 1940 voi yeu cau thiet ke mot mau xe 4x4 hybrid nang khong qua 600 kg.[/FONT]





Bantam Jeep 4x4.





[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Nam 1941, Bantam thanh lap mot bo phan nghien cuu chuyen trach de dam nhan va phuc vu theo cac yeu cau tu phia quan doi. Mau xe ra doi dau tien duoc mang ten Jeep, sau nay duoc san xuat boi Willys voi cai ten Willys MB va Ford, mang ten GPW.[/FONT]



Ford Pygmy.




[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Thuc ra, quan doi My da tung lo lang ve nang luc san xuat san pham voi so luong nhieu cua Bantam va ho da quyet dinh moi them mot so nha san xuat khac cung tham gia du an nay. De thuc hien dung yeu cau tien do cua phia quan doi, nha san xuat can thiet ke va hoan thien san pham mau trong vong 49 ngay. Neu san pham mau duoc chap thuan, nha san xuat se phai hoan thanh 70 san pham trong vong 75 ngay. Yeu cau ve thoi han cung voi viec gioi han trong luong xe trong khi van phai dam bao chat luong tot cho mot chiec xe quan su tu phia quan doi da khien nhieu nha san xuat bo cuoc. Chi con Bantam, Willys va sau nay la Ford tiep tuc quyet tam thuc hien du an.[/FONT]





Ford Pygmy 1941.




[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Mau thiet ke cua Bantam dap ung gan nhu day du cac yeu cau cua quan doi My, tuy co doi chut van de ve trong luong xe. Chiec xe mau duoc cong ty ban giao dung thoi han. Sau khi kiem tra ky cang, phia quan doi da chap thuan mau xe nay va chinh thuc dat hang 70 chiec.[/FONT]

[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Nhung, nhu da noi o tren, quan doi rat lo lang ve nang luc san xuat cua Bantam boi day thuc su la mot cong ty nho va nang luc han che nen ho quyet dinh cho Willys cung voi Ford tham gia du an, san xuat nhung chiec xe theo mau thiet ke cua Bantam va cua rieng ho, cho du truoc do cac mau xe cua Willys khong dap ung duoc yeu cau ve trong luong xe, con Ford khong the giao xe dung han.[/FONT]





jeep bantam bcr40.





[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Ca Ford va Willys deu phai chap thuan sua va trinh nhung mau xe cua minh. Mau Quad cua Willys va Pygmy cua Ford co duoc mot quang thoi gian rieng de hoan thien. De de be lam hai long quan doi, ca hai mau nay deu su dung nhieu duong net thiet ke cua mau xe Bantam da duoc chap thuan. Ve phia minh, Bantam da giao nhung chiec Bantam GPV (General Purpose Vehicle) dung hen va ho da duoc phia quan doi danh gia cao ve mau xe nay. Hop dong da duoc ky ket va day duoc coi la don dat hang lon nhat tu truoc den nay va hang da tung thuc hien.[/FONT]




Jeep Willy 1952.




[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Nhung gi dien ra sau do that khong may cho Bantam. Phia quan doi xem xet ca 3 mau xe mot cach binh dang va dua ra ket luan: Xe cua Bantam tuy co thiet ke dat yeu cau song khong manh me. Xe Quad (Willys) nang nhung dong co khoe. Con chiec Pygmy cua Ford co dong co yeu, he thong lai khong on dinh nhung ve tong the lai trong on nhat. Don hang dau tien gom 1.500 xe duoc giao cho Bantam va Willys voi mot dieu chinh ve trong luong xe tu 600kg len 1.000 kg. Ca ba hang san xuat deu tiep tuc dieu chinh nhung thiet ke cua minh theo huong hoan thien hon tu thiet ke ban dau cua Bantam.[/FONT]

[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Giua nam 1941, phia quan doi cham dut viec cung ton tai 3 mau xe rieng biet bang cach chi chon mau xe cua Willys boi no co gia thanh thap hon ca va coi day la mau xe co so. Willys nhan duoc don dat hang 16.000 chiec va nhung chiec xe nay duoc mang ten Jeep.[/FONT]





[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Bantam tiep tuc san xuat nhung san pham cua rieng minh cho quan doi, mang ten Bantam 40 BRC nhung phia doi tac khong chap thuan boi no khong dung chuan. Nhung chiec xe nay duoc chuyen cho quan doi Anh va Xo Viet. Dieu dang thu vi la sau khi thu nghiem, Hong quan Lien Xo quyet dinh chon nhung chiec Bantam, bo qua nhung chiec Willys va Ford.[/FONT]





[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Ve thuc chat, nhung mau xe Willys duoc quan doi chon giong het nhu nhung chiec Bantam 40 BRC. Vao mua dong nam 1941, phia Quan doi muon phat trien the he xe thu hai boi Willys khong the dap ung duoc cac don dat hang lien tiep duoc chuyen den. Thang 11/1941, Quan doi My chuyen don dat hang 15.000 chiec toi Ford, theo mau thiet ke cua Willys. Nhung chiec xe do Ford san xuat mang ten GPW (G la Government Vehicle, P la co banh, con W bieu dat dong co Willys). Tu thoi diem nay, quan doi lay mau xe cua Ford lam mau co so, thay cho mau truoc do cua Willys.[/FONT]




Jeep abre.





[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Voi su gop mat cua Ford va Willys, nhung chiec Bantam 40 BRC cham dut su mang cua minh voi quan doi My. Trong The chien lan thu II, co 500.000 chiec Willys MB va Ford GPW duoc chuyen giao cho quan doi. So xe Bantam 40 BRC duoc quan doi su dung la 2.675 chiec. Sau "cu lam an" khong co hau nay, Bantam cham dut "cong cuoc" san xuat xe hoi cua minh. Hop dong san xuat xe voi quan doi cua cong ty nhu anh lua ngon nen bung len lan cuoi truoc khi tat.[/FONT]

[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Vay la da ro ai la nguoi thiet ke va san xuat nhung chiec xe Jeep noi tieng dau tien, do la American Bantam Car Company. Nhung chiec Jeep dau tien do Karl Probst, truong du an xe cua Bantam thiet ke tai nha may cua hang o Butler. Willys va Ford dam trach phan phat trien sau nay.[/FONT]

[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Neu ban la nguoi choi xe va yeu nhung chiec Jeep phong tran, tien dung va an tuong, hay co tim mot trong so 2.675 chiec Bantam 40 BRC[/FONT]

---------------------------------------------------------






Cái tên Jeep ra đời trong Thế chiến thứ II, là tên của loại xe quân sự với hệ dẫn động bốn bánh đặc trưng của thời đó do Willys-Overland và Ford sản xuất phục vụ cho Quân đội Mỹ. Nguồn gốc của cái tên này rất bí ẩn; nhiều người tin rằng nó xuất phát từ chữ "GP," hay "general purpose" (mục đích chung) trong khi một số khác nghĩ rằng đó là một tên hiệu có nguồn gốc từ tên của một nhân vật trong bộ phim hài Popeye thời kỳ đó.

Khoảng giữa những năm 1940 chiếc xe Jeep dân dụng đầu tiên mang tên CJ-2A đã xuất hiện. Chiếc xe này có nhiều nét đặc trưng riêng mà phiên bản xe quân sự không có được, chẳng hạn như có cửa sau xe, nắp xăng phía ngoài và lốp dự phòng treo cạnh xe, và dòng xe này chủ yếu hướng vào đối tượng khách hàng là người làm nông và công nhân xây dựng.

Những chiếc xe Jeep dân dụng này rất hợp thị hiếu người tiêu dùng, và tới những năm 1950, những mẫu xe mới tiếp theo ra đời như CJ-3B và CJ-5. Xe CJ-5 có quá trình sản xuất lâu dài nhất so với bất cứ chiếc xe Jeep nào khác, quá trình này kéo dài 30 năm sau đó kể từ buổi ra mắt đầu những năm 50. Công ty đã thay đổi chủ sở hữu trong thập kỷ đó vì Willys-Overland đã được bán cho Kaiser năm 1953.

Vào những năm 1960, Jeep mở ra một giai đoạn mới với việc cho ra đời xe Wagoneer. Nhắm vào những gia đình năng động, chiếc xe SUV này là xe có hệ dẫn động bốn bánh đầu tiên được trang bị hộp số tự động. Động cơ "Dauntless" V6 xuất hiện là một lựa chọn mới cho xe CJ-5 và CJ-6 trong năm 1965. Đây là lần đầu tiên chiếc xe Jeep CJ được lắp động cơ V6. Động cơ này với 155 mã lực, khỏe gấp đôi so với động cơ bốn xi lanh tiêu chuẩn.

Đến những năm 1970, Jeep một lần nữa thay đổi chủ sở hữu, lần này Kaiser-Jeep được Tập đoàn Ô tô của Mỹ mua lại. Những mẫu xe mới như CJ-7 và Scrambler được tung ra. Ngoài ra, Công ty còn giới thiệu một số công nghệ mới thông qua việc cho ra đời hệ thống dẫn động 4 bánh toàn thời gian tự động đầu tiên trên thế giới. Hệ thống này có tên là Quadra-Trac, được lắp đặt trong xe CJ-7 cũng như xe tải Jeep cỡ lớn và dòng xe wagon. Trong suốt thập kỷ đó, sự thịnh vượng của Jeep lớn mạnh chưa từng có nhờ những chiếc xe dẫn động 4 bánh ngày càng được ưa chuộng bởi số đông người mua ở Mỹ.

Những năm 1980 được chứng kiến việc giới thiệu hai mẫu xe Cherokee và Wrangler. Xe Cherokee là một trong những hạt giống mới của xe thể thao đa dụng SUV – loại xe wagon hạng trung rất phổ biến cùng với sự tiến triển của thập kỷ đó. Xe Wrangler ra đời năm 1987 thay thế cho serie CJ trước đây, mẫu xe này mang chức năng cơ bản của xe CJ cũ, ngoài ra có nhiều nét đặc trưng hơn được thiết kế nhằm tăng tính tiện lợi cho chiếc xe hầm hố này. Năm đó cũng được chứng kiến việc mua lại hãng Ô tô Mỹ của Chrysler, và Jeep thuộc về phân nhánh Jeep/Eagle của Chrysler.

Với sự sát nhập giữa Chrysler và Daimler-Benz năm 1998, ngày nay Jeep đã là một phần của dòng xe DaimlerChrysler. Mặc dù luôn là một hãng sản xuất có doanh số tương đối thấp, Jeep vẫn duy trì được một nhóm khách hàng trung thành nhờ tập trung vào việc chế tạo được những chiếc xe mạnh mẽ vượt mọi địa hình.



-------------------------------



Jeep - cái tên đã trở thành quen thuộc đối với rất nhiều người không chỉ trên thế giới mà cả ở Việt Nam. Ý nghĩa hơn, nhãn hiệu Jeep còn khai sinh ra nhiều tác phẩm được ghi sử sách với niềm tự hào là các dòng xe tiêu biểu của thế kỷ 20.






Đối với nhiều nhãn hiệu xe hơi trên thế giới, vinh dự này thật khó có thể tưởng tượng. Nhưng thực chất, thời đại nào đã tạo nên kỳ tích cho Jeep? Hãy cùng chúng tôi quay ngược kim đồng hồ trở về 70 năm trước.


Sự ra đời của Jeep


Năm 1938, chiến tranh Tây Âu nổ ra, quân đội Mỹ thông báo cho tất cả các nhà sản xuất xe hơi Mỹ , họ đang muốn tìm một mẫu xe mới với nhiệm vụ thông tin liên lạc và trinh sát, đồng thời có thể thay thế chiếc môtô 3 bánh truyền thống.
Yêu cầu của chiếc xe này là nhẹ, vững chắc, dễ điều khiển, đáng tin cậy, thao tác linh hoạt và quan trọng là phải phù hợp tiêu chuẩn thiết kế mà phía quân đội đưa ra. Khi đó chỉ có 3 công ty sản xuất xe hơi: Willys Overland, Ford và Bantam đề xuất những động thái tích cực bằng việc tiến hành đầu tư nghiên cứu khoa học kỹ thuật.




Willys MB


Tuy nhiên, cuối cùng chỉ có những chiếc xe MB của Willys Overland là được phía quân đội đồng ý (giá khi đó khoảng 738,74 USD). Và đây cũng là hình thái đầu tiên của Jeep. Sau đó, chiếc xe này được ứng dụng một số ưu điểm của những mẫu xe mà Ford và Bantan sản xuất.
Ngày 23/7/1941, công ty Willys Overland ký một bản hợp đồng sản xuất xe Willys MB với quân đội Mỹ để sử dụng trong thời gian chiến tranh thế giới thứ 2. Cột mốc này đã đánh dấu sự ra đời của một loại xe hoàn toàn mới. Từ đây, Jeep bắt đầu một quá trình lịch sử huyền thoại huy hoàng.
Loại xe việt dã này vừa đưa vào sử dụng đã có được những chiến công hiển hách. Từ “Jeep” cũng do đó mà ngày càng thịnh hành trong chiến tranh thế giới lần thứ 2. Tuy nhiên, nguồn gốc liên quan đến cái tên này thì vẫn chưa có sự thống nhất.
Phiên bản đầu tiên có liên quan tới một con vật rất đáng yêu luôn đem lại may mắn. Thập niên 30 của thể kỷ 20, trong bộ phim hoạt hình nhiều tập “Popeye” có miêu tả một loài động vật nhỏ rất đáng yêu và tinh nghịch có tên gọi là “ Eugene the Jeep”. Nó thích chạy nhảy khắp nơi, lanh trí, dũng cảm và có thể ứng phó linh hoạt trong các hoàn cảnh nguy hiểm, khiến cho người xem luôn tấm tắc khen ngợi.
Khi chiếc xe mới xuất xưởng, một người đàn ông sau khi lái thử đã cảm thấy thật sự hồ hởi và liên tưởng ngay đến con vật đáng yêu Eugene the Jeep. Sau đó, có người hỏi ông ta tên của chiếc xe là gì, người đàn ông đó buột miệng nói “Jeep”.




Willys MB & Wrangler


Từ đó, cái tên “Jeep” dần dần được thịnh hành tại Mỹ và châu Âu. Đương nhiên, còn một cách giải thích khác cũng có phần hư cấu liên quan đến cách đọc của từ Jeep. Nó vốn xuất xuất từ cách gọi tắt chữ cái đầu tiên từ General Purpose (GP) - tên xe trinh sát của quân đội Mỹ.
Nhưng bất luận nguồn gốc như thế nào, Jeep vẫn cho thấy vai trò quan trọng của mình trong đại chiến thế giới thứ hai. Và với việc hơn 600 nghìn chiếc ra đời, đây được coi là một chiến tích huy hoàng minh chứng cho thành công của nhãn hiệu Jeep.
Nhận thức được tầm ảnh hưởng to lớn của Jeep, năm 1950, công ty Willys đã công bố với toàn thể giới “Jeep” đã đăng ký thương hiệu. Trải qua phong ba mấy chục năm, danh tiếng của mẫu xe này ngày càng lớn mạnh, tác động không chỉ bó hẹp trong phạm vi Mỹ và châu Âu nữa mà đã lan rộng ra khắp nơi trên thế giới.



Vệ sĩ hoà bình


Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, những chiếc xe Jeep mạnh mẽ trong chiến đấu đã được người dân thời bình đón nhận. Sau khi rút khỏi ánh hào quang của chiến trường, ngay lập tức, Jeep được sử dụng vào việc khai hoang đất nông lâm nghiệp.
Bắt đầu từ đó, nó đem theo những đặc tính xuất sắc nhất của mình bước vào một thời đại hoà bình. Qua rất nhiều lần cải tiến, mẫu xe này ngày càng trở nên hoàn mỹ hơn. Đương nhiên, những cảm xúc về dáng vẻ mạnh mẽ, những tính năng việt dã vốn có ngay từ khi ra đời vẫn được bảo lưu cho đến ngày nay, góp phần tô điểm cho bức tranh tươi đẹp của nền công nghiệp ôtô thế giới.







Năm 1953, Willys Overland sáp nhập với Henry Kaiser. Tuy nhiên, công ty mới vẫn lấy tên gọi Willys. Và bắt đầu từ đây, Jeep CJ-3 được phủ lên một sắc thái truyền kỳ; trong đó, nổi tiếng nhất là cái tên CJ-3b sản xuất 1953.
Mặc dù quãng đời tồn tại của CJ-3b chỉ vỏn vẹn trong đúng 15 năm nhưng nó lại hình thành lên một dạng văn hoá xe hơi được truyền bá rộng rãi. Rất nhiều tác phẩm điện ảnh về đề tài chiến tranh xuất hiện bóng dáng của CJ-3b như Deer Hunter, Patton, Good Morning Vietnam…



Thành quả xe việt dã và khơi dậy hình mẫu SUV
Thành công của Jeep đã dấy lên một trào lưu xe việt dã trên toàn cầu. Tuy nhiên, ngoài mẫu xe việt dã, Jeep Wagoneer còn mở ra một kỷ nguyên mới cho dòng xe SUV.
Năm 1953, công ty Willys tung ra chiếc CJ-5 dẫn động 4 bánh được rất nhiều người đón nhận. Trong những năm sau đó, mẫu xe này không ngừng cải tạo nhưng kiểu dáng và đặc tính cơ bản vẫn được duy trì cho đến năm 1983.



Wrangler - Kẻ kế thừa nét tinh hoa của Jeep


Nhờ sự tôn sùng từ đông đảo công chúng, CJ-5 nhanh chóng trở thành mẫu xe được ưa thích nhất của nhãn hiệu Jeep. Thập niên 60 của thế kỷ 20 trở thành thời kỳ có ý nghĩa nhất trong lịch sử nhãn hiệu xe Jeep, bởi thị trường xe thương mại thể thao đa dụng chính thức ra đời.
Đại biểu cho giai đoạn này chính là mẫu Jeepster. Đây là một mẫu xe thể thao mui trần, bắt đầu thể hiện rõ nét hình thái đầu tiên của dòng SUV thập niên 60. Jeepster là mô hình căn bản đặt nền móng cho hướng phát triển sau này của Jeep.
Năm 1962, Jeep Wagoneer chính thức được đưa vào thị trường. Nó vẫn duy trì tính năng kỹ thuật tiên tiến của xe dẫn động 4 bánh. Nét tạo hình mới lạ, nội thất sang trọng hợp thời trang và thân xe rộng rãi thoái mái là 3 đặc điểm nổi bật. Có thể nói, Jeep Wagoneer chính là điểm bắt đầu cho viễn cảnh vô hạn của dòng xe SUV, đồng thời đặt một dấu ấn quan trọng trong lịch sử dòng xe thể thao đa dụng.




CJ-7 Renegade 1977



Năm 1976, Công ty Motor American mua lại thương hiệu Jeep và cho ra mắt CJ-7 – mẫu xe đáng tự hào nhất của Jeep từ trước tới nay. Hầu hết các mẫu CJ-7 sau này đều sử dụng cánh cửa khung thép và trang bị nóc xe bằng tấm nhựa.
Hơn thế, một vài mẫu trong đó thậm chí sử dụng kết cấu thân xe với xà thép và bạt mềm để thể hiện tinh hoa của sự khéo léo, linh hoạt. Vì vậy, nét tạo hình với thiết kế cá tính mang tính đột phá của CJ-7 đã nhận được sự yêu chuộng của phần lớn người mê xe Jeep.




Grand Cherokee



Năm 1974, Jeep Cherokee ra đời. Cái tên Cherokee được lấy theo tên của người thổ dân Cherokee thuộc bộ tộc Indian, châu Mỹ, nhằm nhấn mạnh khả năng leo qua các hố nham thạch, vượt qua các bãi đầm lầy, chinh phục những trở ngại khó khăn. Năm 1978, Chrysler sáp nhập với Motor American.
Từ đó, nhãn hiệu Jeep được quy về Chrysler và chịu sự quản lý của công ty này. Thế hệ Cherokee thứ 2 trình làng năm 1984 đánh dấu bước ngoặt với sự xuất hiện của chiếc xe đa dụng SUV 4 cửa đầu tiên.



Compass

Ngay sau khi xuất hiện, mẫu xe này nhanh chóng thịnh hành trên toàn thế giới. Cuối năm 1997 200.000 chiếc Cherokee đã đến tay khách hàng, biến nó thành “mẫu xe dẫn động bốn bánh của năm” tại thời điểm đó.
Quay trở lại với hiện tại, trải qua sự phát triển và hoàn thiện không ngừng, hiện sản phẩm của Jeep chủ yếu có 4 dòng: Wrangler, Grand Cherokee, Compass và Commander.



Commander


Trong đó, Wrangler chính là mẫu xe kế thừa nhiều nét tinh tuý nhất của Jeep. Còn Grand Cherokee - mẫu SUV 4 cửa có khả năng việt dã dũng mãnh - vẫn truyền tải huyết thống thuần chất của nhãn hiệu Jeep.
Compass đi theo hướng thời trang diễn tả quá trình phát triển qua các thời đại. Commander là chiếc xe đầu tiên trang bị 3 hàng ghế, lan toả hơi thở Jeep trong vẻ đẹp sang trọng và tinh tế.
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top