Giai đoạn 1979-1989, Binh chủng Đặc công hoạt động liên tục ở chiến trường K. Hoạt động theo kiểu độc lập, hình thái đặc thù riêng của đặc công.
Trích sử Binh chủng Đăc công, ở MT479, 779, 979... trong khoảng 1983-1986:
Những trận đánh trên và hàng loạt trận đánh khác của đặc công ở phía Nam trong năm 1982 đã hạn chế những hoạt động quân sự quấy phá của bọn tàn quân Pôn Pốt ở vùng này. Xuất phát từ yêu cầu của nhiệm vụ quốc tế, theo chỉ thị của Bộ Tổng Tham mưu, ngày 3 tháng 3 năm 1982, Tư lệnh binh chủng ra quyết định thành lập Đoàn A382 làm nhiệm vụ chiến đấu ở Cam-pu-chia. Lực lượng của Đoàn A382 gồm Tiểu đoàn 27 của Trung đoàn 113 và 1 đội của Đoàn 1 gồm 26 cán bộ, chiến sĩ. Lực lượng trên được biên chế thành 4 đội và cơ quan đoàn bộ. Đồng chí Lê Văn Cát - phó trung đoàn trưởng Trung đoàn 113 được cử làm đoàn trưởng; đồng chí Lê Văn Khoát - tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 27 được cử làm đoàn phó quân sự; đồng chí Đặng Bá Minh - tiểu đoàn phó chính trị Tiểu đoàn 27 được cử làm đoàn phó chính trị.
Sau một tuần lễ làm công tác chuẩn bị, ngày 21 tháng 3 năm 1982, toàn đoàn xuất phát hành quân sang Cam-pu-chia. Ngày 30 tháng 3 năm 1982, toàn đoàn tới Mặt trận 479, đóng quân tại khu vực huyện Sàm Rông, tỉnh Xiêm Riệt và tỉnh ối ĐÔ Mến Chay. Tại đây Đoàn A382 vừa khẩn trương xây dựng căn cứ, ổn định nơi ăn ở, vừa tổ chức đi trinh sát mục tiêu trên các hướng Tà Vựng, bắc Tờ Rôm, An Long Viếng.
Ở Mặt trận 479, cuối tháng 12 năm 1982, Đoàn A382 được lệnh di chuyển về huyện Mông Côn Bờ Rây thuộc tỉnh Bát Đom Boong. Địa hình ở đây là rừng già, núi đá, cây cao rậm rạp, tre gai dày đặc, mùa khô thiếu nước, mùa mưa ngập lụt, thực phẩm và rau xanh khan hiếm. Khí hậu ở vùng Mông Côn Bờ Rây rất độc hại. Hầu hết cán bộ, chiến sĩ trong đoàn bị sốt rét và sốt xuất huyết. Vì thế nhiệm vụ huấn luyện và nghiên cứu tìm địch và đánh địch với xây dựng căn cứ nơi ăn, ở và tăng gia sản xuất bảo đảm sức khoẻ cho bộ đội đều được chú trọng lãnh đạo thực hiện. Đối với địch, vùng Mông Côn Bờ Rây là địa bàn thuận lợi, địch đóng quân dọc đường biên từ điểm cao 555 đến Cao Mê Lai. Hằng ngày chúng tổ chức tập kích vào các điểm tựa của ta trên tuyến Bua, Năm Sấp, điểm cao 230, đồng thời đưa lực lượng vào lập căn cứ lõm rong Biển Hồ, tây bắc Lô Vi A, tây Tơ Rôm, quấy phá đường 58, đường 5 và hoạt động quấy phá một số khu vực trong nội địa.
Nhiệm vụ của Đoàn A382 là đánh sâu vào căn cứ hậu cứ địch ở khu vực đường biên và đánh địch trong nội địa làm trong sạch địa bàn, bảo vệ thành quả cách mạng của nhân dân.
Tháng 3 năm 1983, đoàn tổ chức đi trinh sát tìm địch ở vùng sâu biên giới nhưng không đạt kết quả. Tiếp theo là hàng chục lần đi trinh sát cũng không tìm thấy địch. Vì thế đoàn không thực hiện được kế hoạch đánh địch ở ngoại biên.
Ở nội địa, công tác trinh sát tìm địch cũng vô cùng khó khăn vất vả. Thủ đoạn đối phó của địch rất tinh khôn xảo quyệt Một mặt chúng sử dụng mọi biện pháp để giừ bí mật căn cứ, kho tàng, lực lượng; mặt khác chúng tìm mọi cách để tiêu hao, tiêu diệt lực lượng ta. Thủ đoạn thường dùng của địch là hên tục cơ động lực lượng, nghi binh đánh lừa ta. Khi trinh sát của ta phát hiện được địch, trở về đưa lực lượng chiến đấu đến, chúng đã chuyển đi nơi khác. Ngược lại khi phát hiện được ta, chúng gài mìn phục kích, tổ chức lực lượng tập kích, đánh lén để tiêu hao lực lượng ta. Quyết tâm đánh địch ngay trên hành lang, đoàn đã sử dụng phương pháp trinh sát vũ trang. Khi gặp địch, ta tổ chức bám địch và chiến đấu ngay.
Ngày 3 tháng 3 năm 1984, Đội 4 tổ chức một bộ phận 15 người do đại đội trưởng Trần Minh Quý chỉ huy phục kích địch trên hành lang từ biên giới vào nội địa. Kết quả, khi phát hiện được toán địch khoảng 30 tên, ta lập tức bao vây đánh ngay, loại khỏi vòng chiến đấu 12 lính Khơ-me đỏ, thu 16 súng các loại. Ta an toàn. Ngày 26 tháng 3 năm 1983, bộ phận trinh sát của đoàn phát hiện được hành lang của địch ở khu vực Năm Sấp. Ngày 21 tháng 4, Đại đội 1 phục kích đánh địch trên hành lang, phá hủy 1 đại liên.
Song song với nhiệm vụ nghiên cứu tìm địch và đánh địch, Đoàn A382 đã tổ chức huấn luyện bổ sung. Nội dung huấn luyện chủ yếu là sử dụng bản đồ, địa bàn, đi góc phương vị, phương pháp trinh sát tìm địch và chiến thuật tập kích, phục kích. Thời gian này đoàn đã tổ chức trồng rau, chăn nuôi lợn và gia cầm. Năm 1983, toàn đoàn đã thu hoạch hàng chục tấn rau xanh, hàng tấn thịt cá, hàng trăm lít mật ong. Những sản phẩm do đơn vị lao động sản xuất được sử dụng ngay trong các bữa ăn hằng ngày, góp phần bảo đảm sức khoẻ cho bộ đội.
Đầu năm 1984, Đoàn A382, tiếp tục tìm địch và đánh một số trận. Ngày 3 tháng 2, đoàn phục kích đánh một toán địch trên hành lang. Ngày 10 tháng 3, đoàn tập kích căn cứ lõm của địch ở Bua, phá hủy 4 nhà bạt và toàn bộ căn cứ. Trong 2 ngày 6 và 12 tháng 4, đoàn đánh 2 trận, diệt và làm bị thương hàng chục tên, thu 2 súng AK, phá 1 đại liên. Tiếp theo, ngày 12 tháng 5, đoàn đánh địch trên hành lang, diệt 15 tên, thu 6 súng. Từ ngày 20 tháng 5 đến 20 tháng 7, đoàn đánh liên tục 6 trận, diệt hàng chục tên, thu 2 súng. Những trận chiến đấu thắng lợi của Đoàn A382 đã góp phần làm giảm mật độ hoạt động quấy phá của địch ở khu vực Bua.
Ở Mặt trận 979, ngày 12 tháng 12, Tiểu đoàn 209 tập kích quân địch ở núi Mây, diệt 20 tên, trong đó có tên tư lệnh vùng 31 quân khu Tây Nam, thu 9 khẩu súng AK, 100 viên đạn, 20 lựu đạn, phá hủy một số vũ khí, quân trang. Sau trận đánh 2 ngày, 6 tên địch còn lại ra hàng.
Hơn 2 năm làm nhiệm vụ quốc tế trên đất Cam-pu-chia, cấp ủy, chỉ huy và cán bộ, chiến sĩ Đoàn A382 đã thường xuyên quán triệt nhiệm vụ, khắc phục khó khăn, chịu đựng gian khổ, chiến đấu thắng lợi. Trong quá trình hoạt động, toàn đoàn đã đánh thắng 16 trận, diệt hàng trăm tên, thu 48 súng, được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công, 2 Huân chương Chiến công, được Nhà nước Cam-pu-chia tặng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất. Nhiều cán bộ, chiến sĩ được tặng thưởng Huân chương Chiến công và bằng khen.
Theo chỉ thị của Bộ, cuối tháng 8 năm 1984, Đoàn A382 đưa lực lượng về nước. Tiểu đoàn 27 trở về đội hình của Trung đoàn 113, Đội 4 về Đoàn 1 tiếp tục xây dựng và sẵn sàng chiến đấu.
Theo yêu cầu của Chính phủ và nhân dân Cam-pu-chia, ngày 27 tháng 11 năm 1982, Bộ Tổng Tham mưu ra Quyết định số 387/QĐ-TM thành lập Đoàn A383 làm nhiệm vụ quốc tế Lực lượng của đoàn gồm Tiểu đoàn đặc công 41 Quân khu 3, Đại đội 6 của Tiểu đoàn 45 Trung đoàn 113 và Đội 1 của Đoàn 1 tăng cường cho Mặt trận 779.
Sau thời gian làm công tác chuẩn bị, ngày 16 tháng 1 năm 1983, Đoàn A383 xuất phát hành quân và ngày 29 tháng 1 toàn đoàn đến mặt trận về trực thuộc Sư đoàn 339 đóng quân tại khu rừng già thuộc huyện Ca Ra Vàng, tỉnh Pua Sát. ở đây khí hậu vô cùng độc hại; ruồi vàng, muỗi, vắt ve cùng với bệnh sốt rét, sốt xuất huyết đã trở thành nạn dịch triền miên. Trong 2 tháng đầu, toàn đoàn có hơn 90% quân số bị sốt rét và xuất huyết. Năm 1983, bệnh sốt rét và xuất huyết đã cướp đi của đoàn hàng chục sinh mạng cán bộ, chiến sĩ, riêng Đội 6 có 12 đồng chí bị chết.
Khó khăn gian khổ, bệnh tật lúc đầu đã làm cho sức khoẻ của cán bộ, chiến sĩ giảm sút. Song do đảng ủy, chỉ huy có biện pháp phòng chống tích cực, anh em tự giác rèn luyện và quen dần với khí hậu thời tiết, bệnh tật tuy chưa tắt hẳn, nhưng sức khoẻ của bộ đội đã được phục hồi. Vì thế các hoạt động của đoàn đã được triển khai theo kế hoạch. Tháng 6 năm 1983, toàn bộ hệ thống hầm hào, công sự chiến đấu của đoàn đã làm xong. Ngày 13 tháng 7, một mũi chiến đấu của Đội 6 phục kích đánh địch tại hàng rào căn cứ lõm trong nội địa, thu toàn bộ hàng hoá gồm vũ khí và quân trang.
Ở Mặt trận 479, ngày 29 tháng 1 năm 1984, Tiểu đoàn 15 đặc công thuộc Sư đoàn 309 tập kích quân địch ở điểm cao 383 (tọa độ 80. 28), diệt 10 tên, thu 1 đại liên, 1 cối 60mm, 1 súng K63, đốt cháy 12 nhà và nhiều quân trang quân dụng. Ta hy sinh 2, bị thương 6 đồng chí. Ngày 23 tháng 7, Tiểu đoàn 47 tập kích quân địch ở tọa độ X, diệt 13 tên, thu 3 súng AK, phá sập 3 nhà ở. Ta bị thương 1 đồng chí.
Chấp hành mệnh lệnh số 23/ML-TM ngày 21 tháng 12 năm 1983 của Bộ Tổng Tham mưu, tháng 1 năm 1984, Tư lệnh binh chủng ra quyết định điều động 2 đoàn A5 và A9 đi làm nhiệm vụ quốc tế ở Cam-pu-chia tăng cường cho Bộ tư lệnh 479.
Đoàn A9 là Tiểu đoàn 9 thuộc Trung đoàn 113. Lực lượng có 4 đội. Thiếu tá Nguyễn Huy Liệu - phó trung đoàn trưởng Trung đoàn 113 được cử làm đoàn trưởng, đại úy Nguyễn Đức Thi - tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 9 được cử làm đoàn phó quân sự, thượng úy Nguyễn Hữu Bằng - tiểu đoàn phó chính trị Tiểu đoàn 9 được cử làm đoàn phó chính trị.
Đoàn A5 là Tiểu đoàn 51 của Trung đoàn 780. Lực lượng có 3 đội và các phân đội trực thuộc. Thiếu tá Hồ Đức Tý làm đoàn trưởng.
Sau thời gian làm công tác tổ chức và huấn luyện bổ sung, ngày 19 tháng 2 năm 1984 cả 2 đoàn xuất phát hành quân sang Cam-pu-chia hoạt động ở khu vực bắc và tây bắc hai tỉnh Bát Đom Boong và Xiêm Riệt. Như vậy đến thời điểm này ở Mặt trận 479, lực lượng đặc công có các đơn vị A5, A9, các tiểu đoàn 13, 14, 15, 47.
Về tác chiến, hội nghị kết luận: Năm 1983 và mùa khô 1983-1984, tất cả các đơn vị đặc công đều tìm được mục tiêu và tổ chức chiến đấu. Các đơn vị đã tổ chức trinh sát tìm địch 113 lần, đánh 91 trận bằng tập kích bí mật, phá hủy bí mật, phục kích, phản kích, đánh hiệp đồng với bộ binh. Kết quả đã diệt hàng trăm tên, thu 159 súng và 12.642 viên đạn các loại, 100 ki-lô-gam thuốc nổ, 40 quả mìn ĐH10 và 31.550 ki-lô-gam gạo; phá hủy 126 khẩu súng, 10 tấn đạn, 8 xe quân sự. Qua thực tiễn xây dựng và chiến đấu, hội nghị đã nêu lên một số ưu điểm, khuyết điểm, phân tích nguyên nhân, rút ra một số kinh nghiệm về xây dựng thế đứng, thế đánh, cách đánh và quản lý, giáo dục bộ đội.
Ở Mặt trận 479, các đoàn đặc công A5, A9, các tiểu đoàn 13, 14, 15, 47 đã tổ chức đi trinh sát 19 đợt, đánh 13 trận, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên.
Tại các mặt trận 779 và 979, các đơn vị đặc công đều triển khai nhiệm vụ chiến đấu rất tích cực, đánh nhiều trận trên hành lang và các căn cứ lõm. Tiêu biểu là trận đánh tiêu diệt căn cứ địch ở điểm cao 255 của Tiểu đoàn 208 Mặt trận 979 (19- 12-1984), diệt 25 tên, thu 1 súng cối 100mm, 10 khẩu AK, 2 súng B40, 1000 viên đạn AK và 400 viên đạn cối 100mm.
Bước vào mùa mưa năm 1985, đặc biệt trong mùa khô 1985-1986, lực lượng đặc công trên chiến trường tiếp tục xây dựng thế đứng, thế đánh, đồng thời tăng mật độ các trận chiến đấu tiêu diệt địch trên hành lang ở các căn cứ lõm.
Tại Mặt trận 479, các đơn vị A5, A9, các tiểu đoàn 15 và 47 đã đánh 17 trận, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, thu 30 súng AK, 1 cối 60mm, 1 máy thông tin, 60 viên đạn B40, B41, phá 17 nhà ở. Ta hy sinh 7, bị thương 19 đồng chí. Tiếp theo ngày 17 tháng 1 năm 1986, đặc công Mặt trận 779 lại tập kích căn cứ quân Pôn Pốt ở tọa độ 99.06, loại khỏi vòng chiến đấu 18 tên, phá hủy 1 nhà tôn, 1 xe ô tô. Ta an toàn.
Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ ở chiến trường và trong nước, tháng 6 năm 1986, hai đơn vị A5, A9 được lệnh rút về nước làm nhiệm vụ xây dựng và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tiểu đoàn 9 (A9) về lại đội hình Trung đoàn 113. Tiểu đoàn 51 (A5) về lại đội hình Trung đoàn 780. Hơn 2 năm làm nhiệm vụ quốc tế, đứng chân và hoạt động ở khu vực bắc và tây bắc hai tỉnh Xiêm Riệt và Bát Đom Băng, vừa xây dựng căn cứ, vừa huấn luyện và chiến đấu, hai đoàn A5, A9 đã thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến đấu.
Đoàn A9 đã đánh 13 trận, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 100 tên, bắt 3 tên, thu 23 khẩu súng và 259 ki-lô-gam thuốc nổ, phá hủy 2 nhà kho gần 10 tấn đạn, 1 xe Ô tô, 50 nhà ở, bảo đảm an mình chính trị, tính mạng và tài sản của nhân dân. Đơn vị và cán bộ, chiến sĩ được tặng thưởng 21 Huân chương Chiến công, được Bộ tư lệnh Mặt trận 479 đánh giá là đơn vị có kỷ luật nghiêm, hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu.
Đoàn A5 đánh 7 trận tập kích, phục kích và 23 lần đánh địch tập kích, bảo vệ căn cứ, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, bắt 1 tên, gọi hàng 11 tên, thu 21 súng, phá hỏng 3 nhà tôn, 1 xe máy. Ta hy sinh 14, bị thương 34 cán bộ, chiến sĩ. Đơn vị và cán bộ, chiến sĩ được tặng thưởng 10 Huân chương Chiến công, 35 bằng khen, có 21 Chiến sĩ thi đua.
Chiến công chung của hai đoàn trong quá trình xây dựng, chiến đấu là đã xây dựng được thế đứng, thế đánh, hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ chính quyền, bảo vệ nhân dân và thành quả cách mạng của quân dân Cam-pu-chia trong khu vực được phân công.