thích quá cụ ơi, chúc mừng cụ đã có 1 chuyến đi ý nghĩa nha
ảnh cuối là chỗ cuối đèo ô quy hồ à cụSau khi thả hai anh em cùng đồ đoàn xuống nhà, anh em A Sính quay xe đi đón ba anh em còn lại. Chú T & chú TA, có Thủ lĩnh chỉ huy, soi đèn lếch thếch bước đi trong đêm tối một cách hùng dũng. Đi được khoảng hơn 1km thì bắt gặp hai chàng hướng đạo. Tất cả kéo nhau về, nạp năng lượng để chuẩn bị cho một ngày vất vả.A Sính, có cái họ hơi lạ, lần đầu mới nghe, Khứ A Sính. Em phải hỏi đi hỏi lại mấy lần cho chắc, kẻo lại tự ý đổi họ chú ý sang họ khác. Mới 26 tuổi, nhưng đã có nhà cửa, vợ con tươm tất. Vách nhà được ghép bằng ván. Giường tủ, bàn ghế sạch sẽ. Mấy bì thóc to xếp đầy một góc nhà.
Có lẽ do phong tục người Mông, phụ nữ và trẻ con không chung mâm với khách. Cô vợ A Sính xới mấy bát cơm, gắp thức ăn rồi đem xuống bếp cho bà chị dâu và mấy đứa nhỏ. Cả đoàn quyết nghị phóng tay bữa đầu để bồi dưỡng sức dân. Thủ lĩnh cấp cả trứng, chả, lẫn bắp cải xào cho bữa sáng thêm phần hoành tráng.
Ăn xong thì trời cũng vừa hửng sáng, anh em A Sính làm 2 chuyến xe chở 2 cái lù-cở đầy đồ vào điểm tập kết cách nhà khoảng 3 km rồi sẽ quay về đón anh em sau. Lúc đầu tưởng rằng leo xong sẽ xuống núi trở lại đây nên anh em định gửi lại một số đồ dùng không cần thiết, nhưng khi biết điểm hạ sơn cách những 30 cây số, ở bên kia đỉnh núi thì ai nấy đều ngậm ngùi cho nốt vào túi, người ra đi đầu không ngoảnh lại.
Từ góc sân nhà A Sính nhìn ra khoảng trời trước mặt.
Hàng xóm A Sính lúc này mới ngủ dậy, vợ chồng ra hiên đánh răng. Nhờ ánh sáng của Đảng có khác, văn minh đô thị đã lan đến tận phum sóc bản mường.
Chụp kiểu ảnh cùng với vợ con các gia chủ
Sau khi hoàn thành các thủ tục, Thủ lĩnh dẫn đoàn quân lên đường
Tiễn đoàn chỉ có mẹ con đàn lợn, mà tính đến hôm nay có lẽ đã cùng bọn em âm dương chia lìa đôi ngả. Tiếc là lợn mẹ bị buộc vào cột nên không đưa tiễn ra tận bìa rừng.
"Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông".
Chú chó "bốn mắt" cứ hết chạy từ sân ra cổng sủa theo đoàn như muốn gửi lời chào vĩnh quyết.
Mấy anh em sắp ra tới đường lớn thì thấy A Sính quay xe về đón. A Mịch chắc được phân công ở lại canh đồ. Thủ lĩnh và chú Alex lên trước, ba anh em thủng thẳng đi sau. Mải ngắm cảnh vật nên quyên mất không để ý xe rẽ hướng nào. Nhìn quanh quất không thấy đâu. Chú T. bảo, em thấy rẽ bên phải. Em phân vân mất một lúc mới định được hướng đi về phía Ô Quy Hồ rồi mới tự tin bảo anh em cất bước.
Vừa ra đường lớn được mấy bước, đã thấy ngay trước mặt là cây cầu cùng tên với bản, cầu Chu Va, với đày đủ lý trình, trọng tải, độ dài.... Ba anh em bảo nhau, sao A Sính không dặn bọn mình đến cầu Chu Va thì xuống, có phải tiện hơn không? Lái xe thường để ý đến cầu phà hoặc cột cây số chứ mấy ai để ý đến bể nuôi cá hồi của dân bản bên đường. Thảo nào mà mấy chú tài xế khuyến mại cho đoàn thêm 5-7 cây số mà vẫn không thấy "bể nuôi cá hồi cô Tròn" như lời chỉ dẫn của A Sính đâu cả.
Còn sớm, ít người xe qua lại, chú T & chú TA đứng luôn giữa đường làm kiểu ảnh đánh dấu lãnh thổ.
Một ngôi nhà nằm sát ven đường. Trước sân, người Mông thường trồng một vài cây đào, hoặc mận. Cứ đến độ tết đến xuân về lại trổ hoa. Dường như hương vị ngày xuân vẫn còn vương vấn nơi đây. Một con chó mực nằm sưởi nắng trên tảng đá cao ngang nóc nhà nằm cạnh hàng rào, thấy anh em nghiêng ngó, cất tiếng sủa ông ổng.
Còn chú trâu đang tuổi dậy thì (!?!) thong dong gặm cỏ với bạn tình, nghếch miệng cười hềnh hệch như muốn hỏi: lũ Lừa ưa nặng kia, ngày xuân không chịu ở nhà, lại lỉnh kỉnh cõng đồ lên núi làm gì?
Đi được một quãng thì thấy A Sính phóng vù qua. Mấy anh em vội vẫy tay rối rít, vì tưởng chú không nhìn thấy. A Sính vòng lại, vẫn không chịu dừng xe, nói to: em về nhà lấy tấm bạt. Nhìn trời thế này chắc trên núi có mưa. Màn trời đùng đục mù sương, em nghĩ bụng, nếu mưa thì leo khoai lắm đây. Nhưng đã trót cưỡi lưng hổ rồi thì biết làm được gì. Trong lúc ấy thì Thủ lĩnh và chú Alex ngồi trông đống đồ tại điểm tập kết. Rỗi việc không biết làm gì nên lấy máy ảnh chụp cho nhau chơi, thấy trời mưa lất phất nên trong bụng cũng thấy kinh kinh.
Mấy năm gần đây, phong trào nuôi cá nước lạnh lên cao ở nhiều địa phương, nhất là tại các tỉnh vùng núi phía Bắc. Các hồ nuôi cá hồi, cá tầm được dẫn nước từ núi cao xuống để vừa đảm bảo độ lạnh, lại phải sạch và thơm như … cô gái sông Hương dưới thời dân chủ gấp vạn lần tư bản. Xung quanh trồng đào “Tô Hiệu” để hoa đào, mặt cá soi ánh hồng lên nhau. Em chỉ ước rằng, những đêm trăng sáng, các nàng cá hồi hóa thành những mỹ nhân ngư tung tăng bơi lội rồi rủ nhau lên bờ tình tự cùng mấy chàng trai xê dịch giữa khung cảnh hoang sơ của núi rừng Tây Bắc.
Nó làm em nhớ câu chuyện hoa đào năm xưa….Thời gian (ngắn thôi) em tu nghiệp tại Bắc Kinh Đại Học, bên nước láng giềng. Phần lớn các “lảo sư” đều đứng tuổi và khô héo như các bà gia sư già trong các truyện kinh điển văn học phương Tây mà em đọc hồi còn bé. Giữa đám hoa khô ấy bỗng nhiên lại có một bông hoa tươi lạc vào. W. lảo sư còn lâu mới được gọi là đẹp với những tiêu chuẩn chấm thi sắc đẹp như bây giờ, nhưng lại có nét rất đặc trưng của người phụ nữ Trung Hoa cổ điển. Tròn trịa, hồng hào, cặp má lúc nào cũng đỏ au, thơm phức như hai quả táo Tây. Hôm chia tay, “lảo sư” nhấp vài giọt rượu, má hồng lại càng ửng đỏ, mắt ướt lại càng ngất ngây… Em gọi: Nàng ơi! Và khẽ đọc hai câu thơ cổ (Em ghi ra âm Hán Việt cho đễ đọc):
“Khứ niên kim nhật thử môn trung, Nhân diện đào hoa tương ánh hồng” (Thơ Thôi Hiệu, tạm dịch là: Ngày này năm ngoái trong vườn này; Mặt người đẹp và hoa đào soi bóng hồng lên nhau).
Nàng cười, đưa cặp mắt long lanh, nồng nàn nhìn em, đọc tiếp hai câu sau: “Nhân diện bất tri hà xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu đông phong” (Thần bút Nguyễn Du dịch là: Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông). Em hẹn: năm sau ta tới tìm nàng nhé? Nàng gật, chàng nhất định tới nhé, nhé! Đến bây giờ em vẫn còn ám ảnh bởi ánh mắt và giọng nói của nàng các cụ ạ! Em buông lời Trọng Thủy, nếu một mai hai nước có việc can qua, ta tìm nàng biết lấy gì làm dấu? Thấm thoắt mười mấy năm trời chưa trở lại vườn xưa chốn cũ, chẳng biết người đẹp còn đứng bên hoa đào đợi mình không…?
cụ chủ kể chuyện rất lôi cuốnSau khi thả hai anh em cùng đồ đoàn xuống nhà, anh em A Sính quay xe đi đón ba anh em còn lại. Chú T & chú TA, có Thủ lĩnh chỉ huy, soi đèn lếch thếch bước đi trong đêm tối một cách hùng dũng. Đi được khoảng hơn 1km thì bắt gặp hai chàng hướng đạo. Tất cả kéo nhau về, nạp năng lượng để chuẩn bị cho một ngày vất vả.A Sính, có cái họ hơi lạ, lần đầu mới nghe, Khứ A Sính. Em phải hỏi đi hỏi lại mấy lần cho chắc, kẻo lại tự ý đổi họ chú ý sang họ khác. Mới 26 tuổi, nhưng đã có nhà cửa, vợ con tươm tất. Vách nhà được ghép bằng ván. Giường tủ, bàn ghế sạch sẽ. Mấy bì thóc to xếp đầy một góc nhà.
Có lẽ do phong tục người Mông, phụ nữ và trẻ con không chung mâm với khách. Cô vợ A Sính xới mấy bát cơm, gắp thức ăn rồi đem xuống bếp cho bà chị dâu và mấy đứa nhỏ. Cả đoàn quyết nghị phóng tay bữa đầu để bồi dưỡng sức dân. Thủ lĩnh cấp cả trứng, chả, lẫn bắp cải xào cho bữa sáng thêm phần hoành tráng.
Ăn xong thì trời cũng vừa hửng sáng, anh em A Sính làm 2 chuyến xe chở 2 cái lù-cở đầy đồ vào điểm tập kết cách nhà khoảng 3 km rồi sẽ quay về đón anh em sau. Lúc đầu tưởng rằng leo xong sẽ xuống núi trở lại đây nên anh em định gửi lại một số đồ dùng không cần thiết, nhưng khi biết điểm hạ sơn cách những 30 cây số, ở bên kia đỉnh núi thì ai nấy đều ngậm ngùi cho nốt vào túi, người ra đi đầu không ngoảnh lại.
Từ góc sân nhà A Sính nhìn ra khoảng trời trước mặt.
Hàng xóm A Sính lúc này mới ngủ dậy, vợ chồng ra hiên đánh răng. Nhờ ánh sáng của Đảng có khác, văn minh đô thị đã lan đến tận phum sóc bản mường.
Chụp kiểu ảnh cùng với vợ con các gia chủ
Sau khi hoàn thành các thủ tục, Thủ lĩnh dẫn đoàn quân lên đường
Tiễn đoàn chỉ có mẹ con đàn lợn, mà tính đến hôm nay có lẽ đã cùng bọn em âm dương chia lìa đôi ngả. Tiếc là lợn mẹ bị buộc vào cột nên không đưa tiễn ra tận bìa rừng.
"Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông".
Chú chó "bốn mắt" cứ hết chạy từ sân ra cổng sủa theo đoàn như muốn gửi lời chào vĩnh quyết.
Mấy anh em sắp ra tới đường lớn thì thấy A Sính quay xe về đón. A Mịch chắc được phân công ở lại canh đồ. Thủ lĩnh và chú Alex lên trước, ba anh em thủng thẳng đi sau. Mải ngắm cảnh vật nên quyên mất không để ý xe rẽ hướng nào. Nhìn quanh quất không thấy đâu. Chú T. bảo, em thấy rẽ bên phải. Em phân vân mất một lúc mới định được hướng đi về phía Ô Quy Hồ rồi mới tự tin bảo anh em cất bước.
Vừa ra đường lớn được mấy bước, đã thấy ngay trước mặt là cây cầu cùng tên với bản, cầu Chu Va, với đày đủ lý trình, trọng tải, độ dài.... Ba anh em bảo nhau, sao A Sính không dặn bọn mình đến cầu Chu Va thì xuống, có phải tiện hơn không? Lái xe thường để ý đến cầu phà hoặc cột cây số chứ mấy ai để ý đến bể nuôi cá hồi của dân bản bên đường. Thảo nào mà mấy chú tài xế khuyến mại cho đoàn thêm 5-7 cây số mà vẫn không thấy "bể nuôi cá hồi cô Tròn" như lời chỉ dẫn của A Sính đâu cả.
Còn sớm, ít người xe qua lại, chú T & chú TA đứng luôn giữa đường làm kiểu ảnh đánh dấu lãnh thổ.
Một ngôi nhà nằm sát ven đường. Trước sân, người Mông thường trồng một vài cây đào, hoặc mận. Cứ đến độ tết đến xuân về lại trổ hoa. Dường như hương vị ngày xuân vẫn còn vương vấn nơi đây. Một con chó mực nằm sưởi nắng trên tảng đá cao ngang nóc nhà nằm cạnh hàng rào, thấy anh em nghiêng ngó, cất tiếng sủa ông ổng.
Còn chú trâu đang tuổi dậy thì (!?!) thong dong gặm cỏ với bạn tình, nghếch miệng cười hềnh hệch như muốn hỏi: lũ Lừa ưa nặng kia, ngày xuân không chịu ở nhà, lại lỉnh kỉnh cõng đồ lên núi làm gì?
Đi được một quãng thì thấy A Sính phóng vù qua. Mấy anh em vội vẫy tay rối rít, vì tưởng chú không nhìn thấy. A Sính vòng lại, vẫn không chịu dừng xe, nói to: em về nhà lấy tấm bạt. Nhìn trời thế này chắc trên núi có mưa. Màn trời đùng đục mù sương, em nghĩ bụng, nếu mưa thì leo khoai lắm đây. Nhưng đã trót cưỡi lưng hổ rồi thì biết làm được gì. Trong lúc ấy thì Thủ lĩnh và chú Alex ngồi trông đống đồ tại điểm tập kết. Rỗi việc không biết làm gì nên lấy máy ảnh chụp cho nhau chơi, thấy trời mưa lất phất nên trong bụng cũng thấy kinh kinh.
Mấy năm gần đây, phong trào nuôi cá nước lạnh lên cao ở nhiều địa phương, nhất là tại các tỉnh vùng núi phía Bắc. Các hồ nuôi cá hồi, cá tầm được dẫn nước từ núi cao xuống để vừa đảm bảo độ lạnh, lại phải sạch và thơm như … cô gái sông Hương dưới thời dân chủ gấp vạn lần tư bản. Xung quanh trồng đào “Tô Hiệu” để hoa đào, mặt cá soi ánh hồng lên nhau. Em chỉ ước rằng, những đêm trăng sáng, các nàng cá hồi hóa thành những mỹ nhân ngư tung tăng bơi lội rồi rủ nhau lên bờ tình tự cùng mấy chàng trai xê dịch giữa khung cảnh hoang sơ của núi rừng Tây Bắc.
Nó làm em nhớ câu chuyện hoa đào năm xưa….Thời gian (ngắn thôi) em tu nghiệp tại Bắc Kinh Đại Học, bên nước láng giềng. Phần lớn các “lảo sư” đều đứng tuổi và khô héo như các bà gia sư già trong các truyện kinh điển văn học phương Tây mà em đọc hồi còn bé. Giữa đám hoa khô ấy bỗng nhiên lại có một bông hoa tươi lạc vào. W. lảo sư còn lâu mới được gọi là đẹp với những tiêu chuẩn chấm thi sắc đẹp như bây giờ, nhưng lại có nét rất đặc trưng của người phụ nữ Trung Hoa cổ điển. Tròn trịa, hồng hào, cặp má lúc nào cũng đỏ au, thơm phức như hai quả táo Tây. Hôm chia tay, “lảo sư” nhấp vài giọt rượu, má hồng lại càng ửng đỏ, mắt ướt lại càng ngất ngây… Em gọi: Nàng ơi! Và khẽ đọc hai câu thơ cổ (Em ghi ra âm Hán Việt cho đễ đọc):
“Khứ niên kim nhật thử môn trung, Nhân diện đào hoa tương ánh hồng” (Thơ Thôi Hiệu, tạm dịch là: Ngày này năm ngoái trong vườn này; Mặt người đẹp và hoa đào soi bóng hồng lên nhau).
Nàng cười, đưa cặp mắt long lanh, nồng nàn nhìn em, đọc tiếp hai câu sau: “Nhân diện bất tri hà xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu đông phong” (Thần bút Nguyễn Du dịch là: Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông). Em hẹn: năm sau ta tới tìm nàng nhé? Nàng gật, chàng nhất định tới nhé, nhé! Đến bây giờ em vẫn còn ám ảnh bởi ánh mắt và giọng nói của nàng các cụ ạ! Em buông lời Trọng Thủy, nếu một mai hai nước có việc can qua, ta tìm nàng biết lấy gì làm dấu? Thấm thoắt mười mấy năm trời chưa trở lại vườn xưa chốn cũ, chẳng biết người đẹp còn đứng bên hoa đào đợi mình không…?
trải nghiệm thích quá cụ nhỉKhông sợ lạc đường nên lúc này em bám sát A Mịch đi lên trước hàng quân, chú Alex đi ngay sau.
Đường đi chốc chốc lại phải vắt từ bên này qua bên kia suối, men theo lối mòn lên các nương thảo quả và bãi chăn thả của đồng bào mà đi. Tuy rằng dễ đi, nhưng thỉnh thoảng vẫn phải leo bằng bốn chân. Một bên vách đá trơn trượt, phải lựa chỗ đặt chân vào các gờ nhỏ, một bên đã là khe suối. Thực ra đoạn này chưa đến nỗi nguy hiểm, có sẩy tay thì gẫy chân là cùng thôi chứ chưa đến nỗi phải bó chiếu thả trôi xuôi.
Chú Alex có ve hơi "cậu phao năng" nên leo trèo hơi vất vả
Lại đảo cánh sang bên kia suối. Việc leo núi vào mùa mưa gần như không thể. Một số đoàn tuy trẻ khỏe hơn đoàn em, nhưng đều phải quay lại khi đụng phải dòng suối hung hãn gầm thét, tung bọt trắng xóa, sẵn sàng cuốn đi tất cả trên dòng chảy của nó. Nhóm em, chẳng còn sức đâu mà cậy nên mới phải tính toán thời điểm lên đường, “trẻ dùng sức, già dùng mưu”, nhờ “Cô” thương, nên trong các lần đi, phần lớn đều gặp thời tiết thuận lợi.
Sau bước nhảy hoàn hảo, chú Alex đáp xuống an toàn trên một mỏm đá, tuy có phần hơi loạng choạng.
Thay mặt tổ chức, em chúc mừng chú Alex vượt Vũ Môn thành công. Tuy nhiên không quên nhắc nhở, thắng lợi tuy lớn, nhưng vẫn chỉ là bước đầu, đồng chí cần cố gắng hơn nữa.
Hai anh em bắt chước kiểu bắt tay nhau của Hồng quân Liên Xô hội sư với quân Đồng Minh bên sông Elber khi tiến vào đất Đức trong Thế Chiến II.
Thủ lĩnh tự tin sải một bước dài…nhưng có vẻ đế giày chống đạn bám không chắc nên vội vàng gập người vươn hai tay vồ chặt lấy tảng đá. Phía sau, chú TA vội vàng “chị ngã em nâng”. Đối với những chuyến đi leo núi hay vượt ghềnh đá như thế này thì việc phải thửa đôi giày chuyên dụng tỏ ra hết sức cần thiết. Đế phải chắc để đỡ đau chân, phải bám đá nhưng lại không được bám bùn, bền chắc nhưng lại phải nhẹ, chưa tính chuyện chất lượng cao mà giá phải rẻ… Tóm lại là toàn những đòi hỏi rất oái oăm.
Thuộc ngay bài học của Thủ lĩnh, chú TA ngồi xuống lò dò qua suối cho chắc ăn. Tuy hơi ngượng với bản lĩnh đàn ông ngày nay, nhưng, tránh voi chẳng xấu mặt nào. An toàn mới là quan trọng. Phải lấy câu "Kiềng canh nóng mà thổi cả rau nguội" làm răn sợ. Bọn em không dám thò chân xuống suối chẳng qua sợ phải đi giày ướt thì vừa khó chịu, lại mất sức, giảm mất tốc độ nên thành ra gìn giữ cặp giày thôi chứ không phải yêu cặp giày quá mức như vậy.
Chú TA sau những phút căng thẳng, cứ tưởng bộ trym-kò đã bay đâu mất, hóa ra vẫn còn. Mừng quá!
Cả đoàn an toàn qua suối. Chú Alex lúc này lột hết áo len, khăn, mũ để lấy chỗ cho mồ hôi chảy. Bên này A Mịch cất bước lên đường, bên kia suối A Sính mới thủng thẳng xốc gùi đứng dậy.
Có món trâu rừng nhắm rượu rùi ahihiSau khi thả hai anh em cùng đồ đoàn xuống nhà, anh em A Sính quay xe đi đón ba anh em còn lại. Chú T & chú TA, có Thủ lĩnh chỉ huy, soi đèn lếch thếch bước đi trong đêm tối một cách hùng dũng. Đi được khoảng hơn 1km thì bắt gặp hai chàng hướng đạo. Tất cả kéo nhau về, nạp năng lượng để chuẩn bị cho một ngày vất vả.A Sính, có cái họ hơi lạ, lần đầu mới nghe, Khứ A Sính. Em phải hỏi đi hỏi lại mấy lần cho chắc, kẻo lại tự ý đổi họ chú ý sang họ khác. Mới 26 tuổi, nhưng đã có nhà cửa, vợ con tươm tất. Vách nhà được ghép bằng ván. Giường tủ, bàn ghế sạch sẽ. Mấy bì thóc to xếp đầy một góc nhà.
Có lẽ do phong tục người Mông, phụ nữ và trẻ con không chung mâm với khách. Cô vợ A Sính xới mấy bát cơm, gắp thức ăn rồi đem xuống bếp cho bà chị dâu và mấy đứa nhỏ. Cả đoàn quyết nghị phóng tay bữa đầu để bồi dưỡng sức dân. Thủ lĩnh cấp cả trứng, chả, lẫn bắp cải xào cho bữa sáng thêm phần hoành tráng.
Ăn xong thì trời cũng vừa hửng sáng, anh em A Sính làm 2 chuyến xe chở 2 cái lù-cở đầy đồ vào điểm tập kết cách nhà khoảng 3 km rồi sẽ quay về đón anh em sau. Lúc đầu tưởng rằng leo xong sẽ xuống núi trở lại đây nên anh em định gửi lại một số đồ dùng không cần thiết, nhưng khi biết điểm hạ sơn cách những 30 cây số, ở bên kia đỉnh núi thì ai nấy đều ngậm ngùi cho nốt vào túi, người ra đi đầu không ngoảnh lại.
Từ góc sân nhà A Sính nhìn ra khoảng trời trước mặt.
Hàng xóm A Sính lúc này mới ngủ dậy, vợ chồng ra hiên đánh răng. Nhờ ánh sáng của Đảng có khác, văn minh đô thị đã lan đến tận phum sóc bản mường.
Chụp kiểu ảnh cùng với vợ con các gia chủ
Sau khi hoàn thành các thủ tục, Thủ lĩnh dẫn đoàn quân lên đường
Tiễn đoàn chỉ có mẹ con đàn lợn, mà tính đến hôm nay có lẽ đã cùng bọn em âm dương chia lìa đôi ngả. Tiếc là lợn mẹ bị buộc vào cột nên không đưa tiễn ra tận bìa rừng.
"Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông".
Chú chó "bốn mắt" cứ hết chạy từ sân ra cổng sủa theo đoàn như muốn gửi lời chào vĩnh quyết.
Mấy anh em sắp ra tới đường lớn thì thấy A Sính quay xe về đón. A Mịch chắc được phân công ở lại canh đồ. Thủ lĩnh và chú Alex lên trước, ba anh em thủng thẳng đi sau. Mải ngắm cảnh vật nên quyên mất không để ý xe rẽ hướng nào. Nhìn quanh quất không thấy đâu. Chú T. bảo, em thấy rẽ bên phải. Em phân vân mất một lúc mới định được hướng đi về phía Ô Quy Hồ rồi mới tự tin bảo anh em cất bước.
Vừa ra đường lớn được mấy bước, đã thấy ngay trước mặt là cây cầu cùng tên với bản, cầu Chu Va, với đày đủ lý trình, trọng tải, độ dài.... Ba anh em bảo nhau, sao A Sính không dặn bọn mình đến cầu Chu Va thì xuống, có phải tiện hơn không? Lái xe thường để ý đến cầu phà hoặc cột cây số chứ mấy ai để ý đến bể nuôi cá hồi của dân bản bên đường. Thảo nào mà mấy chú tài xế khuyến mại cho đoàn thêm 5-7 cây số mà vẫn không thấy "bể nuôi cá hồi cô Tròn" như lời chỉ dẫn của A Sính đâu cả.
Còn sớm, ít người xe qua lại, chú T & chú TA đứng luôn giữa đường làm kiểu ảnh đánh dấu lãnh thổ.
Một ngôi nhà nằm sát ven đường. Trước sân, người Mông thường trồng một vài cây đào, hoặc mận. Cứ đến độ tết đến xuân về lại trổ hoa. Dường như hương vị ngày xuân vẫn còn vương vấn nơi đây. Một con chó mực nằm sưởi nắng trên tảng đá cao ngang nóc nhà nằm cạnh hàng rào, thấy anh em nghiêng ngó, cất tiếng sủa ông ổng.
Còn chú trâu đang tuổi dậy thì (!?!) thong dong gặm cỏ với bạn tình, nghếch miệng cười hềnh hệch như muốn hỏi: lũ Lừa ưa nặng kia, ngày xuân không chịu ở nhà, lại lỉnh kỉnh cõng đồ lên núi làm gì?
Đi được một quãng thì thấy A Sính phóng vù qua. Mấy anh em vội vẫy tay rối rít, vì tưởng chú không nhìn thấy. A Sính vòng lại, vẫn không chịu dừng xe, nói to: em về nhà lấy tấm bạt. Nhìn trời thế này chắc trên núi có mưa. Màn trời đùng đục mù sương, em nghĩ bụng, nếu mưa thì leo khoai lắm đây. Nhưng đã trót cưỡi lưng hổ rồi thì biết làm được gì. Trong lúc ấy thì Thủ lĩnh và chú Alex ngồi trông đống đồ tại điểm tập kết. Rỗi việc không biết làm gì nên lấy máy ảnh chụp cho nhau chơi, thấy trời mưa lất phất nên trong bụng cũng thấy kinh kinh.
Mấy năm gần đây, phong trào nuôi cá nước lạnh lên cao ở nhiều địa phương, nhất là tại các tỉnh vùng núi phía Bắc. Các hồ nuôi cá hồi, cá tầm được dẫn nước từ núi cao xuống để vừa đảm bảo độ lạnh, lại phải sạch và thơm như … cô gái sông Hương dưới thời dân chủ gấp vạn lần tư bản. Xung quanh trồng đào “Tô Hiệu” để hoa đào, mặt cá soi ánh hồng lên nhau. Em chỉ ước rằng, những đêm trăng sáng, các nàng cá hồi hóa thành những mỹ nhân ngư tung tăng bơi lội rồi rủ nhau lên bờ tình tự cùng mấy chàng trai xê dịch giữa khung cảnh hoang sơ của núi rừng Tây Bắc.
Nó làm em nhớ câu chuyện hoa đào năm xưa….Thời gian (ngắn thôi) em tu nghiệp tại Bắc Kinh Đại Học, bên nước láng giềng. Phần lớn các “lảo sư” đều đứng tuổi và khô héo như các bà gia sư già trong các truyện kinh điển văn học phương Tây mà em đọc hồi còn bé. Giữa đám hoa khô ấy bỗng nhiên lại có một bông hoa tươi lạc vào. W. lảo sư còn lâu mới được gọi là đẹp với những tiêu chuẩn chấm thi sắc đẹp như bây giờ, nhưng lại có nét rất đặc trưng của người phụ nữ Trung Hoa cổ điển. Tròn trịa, hồng hào, cặp má lúc nào cũng đỏ au, thơm phức như hai quả táo Tây. Hôm chia tay, “lảo sư” nhấp vài giọt rượu, má hồng lại càng ửng đỏ, mắt ướt lại càng ngất ngây… Em gọi: Nàng ơi! Và khẽ đọc hai câu thơ cổ (Em ghi ra âm Hán Việt cho đễ đọc):
“Khứ niên kim nhật thử môn trung, Nhân diện đào hoa tương ánh hồng” (Thơ Thôi Hiệu, tạm dịch là: Ngày này năm ngoái trong vườn này; Mặt người đẹp và hoa đào soi bóng hồng lên nhau).
Nàng cười, đưa cặp mắt long lanh, nồng nàn nhìn em, đọc tiếp hai câu sau: “Nhân diện bất tri hà xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu đông phong” (Thần bút Nguyễn Du dịch là: Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông). Em hẹn: năm sau ta tới tìm nàng nhé? Nàng gật, chàng nhất định tới nhé, nhé! Đến bây giờ em vẫn còn ám ảnh bởi ánh mắt và giọng nói của nàng các cụ ạ! Em buông lời Trọng Thủy, nếu một mai hai nước có việc can qua, ta tìm nàng biết lấy gì làm dấu? Thấm thoắt mười mấy năm trời chưa trở lại vườn xưa chốn cũ, chẳng biết người đẹp còn đứng bên hoa đào đợi mình không…?