[Funland] Hồi ký (Phóng tác) về đường ống xăng dầu Trường Sơn.

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Ất luồn qua những lớp cây đổ, vượt qua các hố bom, cùng Đại đội trưởng Đại đội bảo vệ tuyến kiểm tra lại tình hình tổn thất. Anh nhận ra rằng: việc giữ tuyến ống ở khu vực trọng điểm Ngã Ba là vô kế khả thi. Anh ghi chép cẩn thận số ống và phụ kiện thu hồi và phương án chuyển những ống này đến tuyến tránh. Mấy ngày công tác ở trọng điểm Ngã Ba, việc ra tuyến phải lựa theo quy luật đánh phá của địch. Thời gian yên tĩnh trên trọng điểm rất hiếm hoi. Cứ nằm trong hầm mà chờ thì tiếc thời gian quá. Vốn rất khéo tay, trong ba lô của Ất lúc nào cũng có mấy cái dụng cụ nho nhỏ để chế tác các vật dụng xinh xinh từ ống phóng bom bi hay ống pháo sáng của Mỹ. Ất rất hứng thú với việc cưa, dũa, gò mài, để rồi say sưa ngắm nghía tác phẩm của mình. Có lẽ chính cái tài khéo tay và sự cần cù của chàng kỹ sư trẻ này đã làm nhiều cô gái chú ý. “Có phúc thợ mộc thợ nề, vô phúc thầy đề thầy thông”. Anh ấy là “thầy”, lại có tay thợ. Điều ấy làm cho Liên lo lắng.

Thời gian rảnh rỗi của mấy ngày công tác, Ất đã làm được một cái lược rất đẹp từ ống pháo sáng. Trên thân của chiếc lược, anh khắc hình vầng mặt trời đang lặn xuống sau dãy núi, vài cánh chim trời, và chữ “Kỷ niệm Trường Sơn”. Đây là món quà anh mang về cho Liên. Ngắm nhìn bức tranh ấy, bất giác anh nhớ đến lần đầu nhìn thấy em bên bờ sông Lam sau đêm thi công đường ống vượt sông. Giọng hò xứ Nghệ đằm thắm, suối tóc óng ả, cái lưng thon đã hớp hồn anh, đã làm anh mơ mộng và ước ao. Rồi số phận không phụ anh: Em nhập ngũ, trở thành lính của công trường 81. Đối với anh, em đâu phải mối tình đầu, mà sao khi tỏ tình anh lại run rẩy thế. Em đã đón nhận tình yêu của anh đằm thắm và dung dị. Rồi chúng mình đã bên nhau trong mọi nỗi vui buồn, gian truân ác liệt. Và mỗi chúng mình cảm thấy cuộc sống không thể thiếu nhau. Anh có thể buông vài lời bông đùa với các cô gái, có thể liếc ngang liếc dọc một chút, đó là chuyện thường tình của mấy thằng con trai mà em, nhưng với anh, em là một phần không thể thiếu trên cuộc đời này. Bốn năm, từng ấy thời gian thử thách để chúng mình có thể kết tóc xe tơ, sống với nhau đến trọn đời.

Buổi sáng, khi Ất khoác ba lô trở về thì chuông điện thoại của Đại đội đổ hồi. Tin dữ được thông báo trên đường dây: B52 đánh vào Tiểu đoàn bộ Tiểu đoàn 31, tám người hy sinh. Tiểu đoàn không thông báo cụ thể danh sách nhưng người hy sinh. Ất vừa đi vừa chạy, mong sao về được Tiểu đoàn bộ tiểu đoàn 31 nhanh nhất. Cầu mong cho em an toàn. Anh đang về với em đây, Liên ơi.

Tiểu đoàn bộ Tiểu đoàn 31 dựa lưng vào vách núi đá, ẩn mình dưới tán rừng già, giờ đã tan hoang. Những cổ thụ bị chém ngang, chẻ dọc bầm dập bên miệng các hố bom. Ất nhào tới hầm của cô gái thống kê Ban Tham mưu. Trời ơi, nơi căn hầm ấy giờ là một hố bom rộng hoác. Ất quỵ xuống:
- Liên ơi, sao không chờ anh về hả em?
Một bàn tay ai đó đặt lên vai, Ất quay lại. Đó là trợ lý Tham mưu tiểu đoàn:
- Cô gái thống kê đã hy sinh, còn Liên chỉ bị sức ép thôi, vì lúc đó, cô ấy đang làm việc với chỉ huy Tiểu đoàn ở hầm bên cạnh.

Sau trận B52, những người bị thương nặng đã được chuyển đến trạm phẫu thuật. Những người bị thương nhẹ hoặc sức ép được đưa vào các căn hầm làm tạm ở vị trí sơ tán của Tiểu đoàn.
Ất lách qua cửa hầm hẹp, nhẹ nhàng ngồi xuống bên giường của Liên. Anh nắm lấy bàn tay xanh xao của nàng, đưa lên môi. Liên nặng nhọc mở mắt. Từ đôi khóe mắt nhung, hai hàng nước mắt trên má:
- Anh đã về rồi hả anh. Mấy hôm, chúng nó liên tục đánh phá trọng điểm Ngã Ba, em lo quá.
- Anh chẳng dễ chết đâu em ạ. Cả em cũng vậy. Em đã thoát chết như là có bàn tay phù hộ.
- Anh Ất ơi.
- Anh nghe đây em.
- Chúng mình yêu nhau bốn năm rồi. Chiến tranh ác liệt, em chẳng giữ mãi được xuân sắc, bây giờ lại bị sức ép thế này, anh còn yêu em nữa không?
Ất hôn lên đôi mắt đẫm nước của nàng:
- Em đừng nghĩ dại. Chúng mình đã thuộc về nhau rồi. Em biết không, những ngày ở trọng điểm Ngã ba, cứ đặt mình xuống là anh lại nhớ em.
Nói rồi, Ất lấy chiếc lược từ trong ba lô:
- Quà của em đây. Anh đã làm nó giữa một vùng đất hiểm nghèo. Anh ước ao chiếc lược này được chải lên mái tóc óng ả của em suốt cuộc đời.
- Vậy anh có đi cùng em đến hết cuộc đời không? Em vừa nghe tin người ta sắp điều anh lên Bộ Tư lệnh. Lên đó rồi, liệu anh còn nhớ đến em không?
Ất nâng Liên ngồi dậy. Anh ôm nàng trong vong tay của mình:
- Nếu em đồng ý, anh sẽ đề nghị chỉ huy đơn vị tác thành cho chúng ta. Rồi chúng ta sẽ có cuộc sống hạnh phúc, sẽ có những đứa con.
Liên thổn thức ép vào ngực chàng:
- Em yêu anh. Chúng mình sẽ đi cùng nhau đến hết cuộc đời, anh nhé.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Tổ khảo sát của Hành cắt góc phương vị tìm tuyến tránh trọng điểm Ngã Ba. Đường đi ngày càng rậm rạp. Hết rừng dây leo chằng chịt, lại đến rừng giang. Đã là rừng nguyên sinh thì qua rừng giang là gian nan nhất. Những thân cây giang bò trên mặt đất, đan chéo vào nhau rối như canh hẹ, chẳng biết đâu là đầu, đâu là cuối, phát mỏi tay mà không thành ra được lối đi. Vượt qua khu rừng nguyên sinh, đến khu nương rẫy cũ của dân. Chắc họ bỏ đi đã lâu, cây Cộng sản mọc lên, đã kết thành rừng lút đầu. Giữa ngày nắng, vượt rừng giang vất vả, nhưng chẳng mấy khi phải chịu khát, vì trong nhiều đoạn ống giang rừng chứa đầy nước trong, uống mát chẳng kém gì nước dừa. Còn vượt qua rừng cây Cộng sản giữa mùa khô thì bụi lá và hoa khô của nó bay mù mịt. Những người khảo sát phát tuyến cắt rừng không chỉ ho sặc sụa vì chúng chui vào mũi, mà chúng còn chui qua cổ áo, bết với mổ hôi, tạo cảm giác ngứa ngáy rất khó chịu. Cái cảm giác ấy trở nên tệ hại hơn vì cổ họng khô khát và máy bay trinh sát địch dòm ngó từ trên trời.

Theo kế hoạch, chỉ bốn ngày là cùng, đội khảo sát sẽ đến được đầu kia của tuyến tránh trên đường 18. Vậy mà đến chiều tối ngày thứ tư, đối chiếu với bản đồ, Hành nhận ra mình chỉ mới đi được hơn nửa đường. Anh yêu cầu chia số thực phẩm còn lại thành ba phần để đề phòng thời gian khảo sát kéo dài. Anh không thể ngờ mỗi ngày đội khảo sát chỉ cắt rừng được hơn một cây số. Bây giờ thì bữa ăn phải thêm nhiều rau rừng và cua ốc dưới suối. Sang ngày thứ sáu, bốn xung quanh vẫn mù mịt rừng cây, con đường họ đi vấp vào một triền núi dốc ngược mặt. Nếu đúng là triền dốc mình và Ất đã xác định trên bản đồ, thì nhất quyết phải lên đến đỉnh để quan sát con đường 18 phía bên kia núi. Buổi trưa, Hành cho dừng lại nấu ăn bên bờ một con suối trong mát ở chân dốc, nắm cơm, lấy đầy các bi đông nước để leo lên tới đỉnh. Nghĩ rằng chỉ chừng ba bốn giờ chiều là lên được đến đỉnh. Ai dè, phải cật lực lắm, khi tắt nắng, họ mới tới được đường phân thủy. Trời đã nhọ mặt người, không thể quan sát được, ai cũng đã mệt lử nên họ đành mắc võng, ăn cơm nắm, nghỉ ngơi chờ trời sáng.
Đêm hôm đó, Hành thao thức, giấc ngủ chập chờn. Hết ngày thứ sáu rồi mà không thấy đâu là lối ra khỏi rừng, trên đầu, tiếng máy bay gầm rít, rồi tiếng bom B52, bom tọa độ lúc gần, lúc xa khiến cho trong tổ khảo sát đã có người lo lắng: Hay là chúng mình đã đi lạc? Lạc trong rừng khu vực gần trọng điểm thì rất nguy hiểm vì có thể bất chợt dính vào vệt bom B52, rồi thương vong mà không biết hướng nào để đưa người đi cấp cứu. Mình đã cắt đúng phương vị, mà sao đi mãi chẳng tới đích thế này? Hay là có gì đó chưa ổn trong cách đi? Nếu lạc trong rừng, không chỉ nguy hiểm cho mọi người mà còn ảnh hưởng đến kế hoạch chung.

Quá nửa đêm, Hành chồm dậy khỏi võng khi nghe tiếng còi ô tô phía chân núi. Vậy là sắp tới đường 18 rồi. Nếu đúng là đường 18 thì đã tìm được lối thoát tránh trọng điểm Ngã Ba. Hành mừng không sao ngủ được. Ngay khi trời sáng rõ, anh sai một chú lính trẻ trèo lên ngọn cây quan sát. Cậu ta reo lên: “Em nhìn thấy đường ô tô rồi!”. Theo hướng chỉ của cậu lính, Hành cầm địa bàn leo lên một cái cây khác. Con đường màu đỏ uốn lượn giữa núi đồi, hai bên lỗ chỗ hố bom. Xa xa, chếch về phía nam là trọng điểm Ngã Ba đỏ quạch, đen đúa. Hành định hướng lại phương vị, rồi nhắm theo hướng đường 18 thẳng tiến. Cả tổ khảo sát mừng khôn tả vì đã trút được mối lo bị lạc trong rừng sâu. Họ thay nhau phát cây, phăm phăm tiến lên phía trước. Xế chiều, họ ra đến đường ô tô, và không khó khăn gì, họ tìm đến được cửa van gần nhất của bộ đội đường ống. Cậu Tiểu đội trưởng canh van reo lên:
- May quá. Các anh đã về. Tiểu đoàn đang rất lo lắng, sợ các anh gặp chuyện chẳng lành-Nói rồi cậu ta đưa cuốn sổ ghi điện cho Hành- Đây là bức điện của Tiểu đoàn vừa báo xuống.
Hành lướt qua:
Gửi các cửa van và trạm bơm khu vực trọng điểm Ngã Ba.
Tổ khảo sát do kỹ sư Đặng Phúc Hành dẫn đầu tìm tuyến tránh qua trọng điểm Ngã Ba đã xuất phát được một tuần. Theo kế hoạch, sau bốn ngày là về đến Tiểu đoàn. Tuy nhiên nay đã bảy ngày mà vẫn chưa thấy tin tức gì. Yêu cầu các tổ canh van, các trạm bơm khu vực trọng điểm Ngã Ba liên hệ với các đơn vị công binh, cao xạ và giao liên xem có tin tức gì không, rồi báo ngay về Tiểu đoàn để có kế hoạch tìm kiếm.
Ký điện: Tiểu đoàn trưởng -Rạng


Té ra không chỉ anh, mà ở nhà rất lo lắng cho chuyến khảo sát này, Không tìm được tuyến tránh thì không thể có xăng cho Trung đoàn 952 và các đơn vị ở phía Tây Trường Sơn. Hành liên lạc về Tiểu đoàn 21, mới biết mấy hôm trước B52 đánh vào Tiểu đoàn bộ. May mắn cả Liên và Ất đều không việc gì. Khi anh gọi điện về Trung đoàn. Đầu dây bên kia, Đặng Văn Thế không dấu nổi niềm vui: Chúc mừng các cậu đã hoàn thành nhiệm vụ trở về. Có tuyến tránh này, chúng ta nắm chắc phần thắng trong tay rồi.

Cho dù địch đánh phá ngăn chặn quyết liệt, với kinh nghiệm dạn dày của mình, Đặng Văn Thế luôn có cách để vượt qua khó khăn. Sau khi thi công tuyến tránh trọng điểm Ngã Ba, nhờ nắm chắc quy luật đánh phá của địch, Trung đoàn 967 đã đảm bảo xăng liên tục cho Trung đoàn 952 bơm tiếp vào phía trong.


Những ngày cuối năm 1972, cuộc đánh phá ngăn chặn của Mỹ xuống các kho tàng, bến bãi, các trục đường bộ, đường sông, đường ống trở nên vô cùng quyết liệt. Cơ quan Bộ Tư lệnh không chỉ phải căng ra để chỉ đạo công tác vận tải ở các hướng chiến trường, mà còn phải theo dõi rất sát hàng từ hậu phương chuyển vào để có kế hoạch điều phối. Ngọc về đến cơ quan đúng ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, cũng là những ngày cao điểm chiến dịch đánh phá bằng B52 của Mỹ xuống Thủ đô Hà nội. Thủy đang ngồi tư lự uống trà bên cái bàn nhỏ trước hầm Ban Đường ống.
- Thủy, sao lại ở nhà một mình thế này?
- Mình trực ban đêm qua, hôm nay ngủ bù, nhưng không sao ngủ được.
- Sao vậy?
- Đài sáng nay báo đêm qua chúng nó đánh tan hoang Bệnh viện Bạch Mai. Hàng trăm quả bom rơi vào bệnh viện. Nhiều người chết lắm. Gia đình mình sống trong bệnh viện, không biết sao đây.
- Thử gọi điện ra Cục hỏi xem tình hình thế nào. Nhóm mười tám tên của mình có Dương đang làm Trợ lý cho Cục trưởng. Bảo nó chạy đến bệnh viện xem sao.
- Đã gọi rồi, nhưng Dương đang đi công tác, mai mới về. Những người khác, mình chẳng quen ai, đành nhờ các anh ấy chuyển giúp lời nhăns của mình đến Dương.
- Cầu mong mọi việc yên ổn. Bố cậu là một trong những người đứng đầu bệnh viện. Xin tha tội cho mình, nếu cụ mệnh hệ gì, chắc đài cũng sẽ đưa tin.

Cả ngày hôm ấy, Đài tiếng nói Việt Nam có rất nhiều tin bài nói về tổn thất và tấm gương cứu người của các thầy thuốc và nhân viên Bệnh viện Bạch Mai, nhưng chưa thấy tên của bất kỳ ai trong gia đình Thủy. Sáng ngày 23 tháng 12, đến giờ Bản tin thời sự mà không bắt được sóng của Đài. Thủy sốt ruột chạy sang Ban Cung cấp, Ban Chính trị, đều không bắt được Đài tiếng nói Việt Nam. Thế là có chuyện rồi. Chắc Đài Hà Nội bị B52 phá hủy. Đối với bộ đội Trường Sơn, Đài tiếng nói Việt Nam là kênh thông tin nhanh nhất, tin cậy nhất để mọi người biết được tình hình trong nước và thế giới. Không chỉ vậy, tiếng nói Việt Nam trên làn sóng điện thiêng liêng như tiếng nói của Tổ quốc. Giờ không có đài, không phải chỉ có Thủy, mà tất cả mọi người đều lo lắng. Chừng mười phút sau, từ hầm Ban Chính trị có tiếng reo: “Có đài rồi!”. Từ những chiếc ra đi ô bé nhỏ lại vang lên giọng quen thuộc: “Đây là Đài tiếng nói Việt Nam, phát thanh từ Hà Nội, Thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa…”. Cũng giọng đọc ấy, sao hôm nay nghe nó thiêng liêng thế. Mỗi người đều cảm thấy trong giọng đọc sang sảng của nữ phát thanh viên có hào khí của dân tộc. Anh trợ lý tuyên huấn nghẹn ngào kín đáo lau giọt nước mắt bên khóe mắt.

Đến trưa, cơ quan nhận được báo Nhân Dân và Quân đội Nhân dân. Một tấm ảnh lớn ngay trang nhất chụp hình ảnh tan hoang của Bệnh viện Bạch Mai sau trận B52. Thủy bàng hoàng nhìn thấy căn nhà nơi gia đình anh ở, đã sập một nửa. Mọi người đến chia sẻ với Thủy. Họ an ủi anh hãy bình tĩnh, vì rất có thể những người trong gia đình đã sơ tán, hoặc lúc đó mọi người đã xuống hầm trú ẩn. Thủy cảm thấy như kiệt sức vì hai ngày lo lắng, và không thể ngủ được vì chờ tin từ Hà Nội. Anh định ngả lưng cố tự dìu vào giấc ngủ, thì chuông điện thoại đổ hồi. Thủy vồ lấy máy.
- A lô. Tôi Dương ở Cục Xăng Dầu đây, xin cho tôi gặp anh Thủy kỹ sư.
Thủy reo lên:
- Thủy đây. Cậu có nhận được lời nhắn của mình không?
- Có. Nhưng dù không có lời nhắn, mình vẫn có trách nhiệm phải đến xem thế nào để báo cho cậu.
- Cậu đến Bệnh viện chưa?
- Đến rồi. Mọi người trong nhà đều bình an. Cả nhà hỏi thăm sức khỏe cậu đấy. Ông cụ nhắn rằng cứ yên tâm mà công tác. Vài hôm nữa mình tháp tùng Cục trưởng vào đấy sẽ kể chi tiết nhé.
Thủy đặt máy thở phào nhẹ nhõm. Dương là người nhiệt tình với tất cả những đứa thuộc nhóm mười tám tên đang ở sâu trong Trường Sơn. Hắn thường đến các nhà lấy thư hoặc quà gửi vào khi có người vào công tác. Thủy thầm cảm ơn Dương. Anh không biết rằng, chính những ngày khó khăn đó, Dương thường lui tới giúp đỡ gia đình anh, rồi sau này trở thành con rể trong gia đình.
 
Chỉnh sửa cuối:

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Đăng Tùng vươn vai nhìn những tia nắng đầu tiên đang nhuộm vàng tán lá. Lại thêm một đợt vận hành thành công. Từ khi Mỹ leo thang trở lại miền Bắc, Trọng điểm Pha Bang và tuyến của Trung đoàn 952 có phần dễ thở hơn. Dù giàu có đến mấy thì bom đạn của người Mỹ cũng không thể là vô tận để vừa rải kín Miền Bắc, vừa rải kín các trọng điểm trên Trường Sơn. Những trận đánh phá hủy diệt của B52, cường kích và cả đạn từ các pháo hạm ngoài biển chắc làm cho Trung đoàn 967 vô cùng vất vả, vì có những đợt vận hành phải hoãn lại do xăng từ ngoài không bơm đủ lượng cần thiết cho Q200. Hôm qua, 27 tháng 1 năm 1973, tức ngày 24 tháng chạp năm Nhâm Tý, ngay sau ngày ông Công, ông Táo lên trời, Hiệp định Pari đã được ký kết. Vậy là từ nay, sẽ không còn máy bay Mỹ trên bầu trời tổ quốc. Như vậy, việc thi công và vận hành sẽ vô cùng thuận lợi. Mấy hôm nay, niềm vui đón hòa bình đã làm cho không khí chuẩn bị tết trở nên rộn ràng hơn trong cơ quan Trung đoàn bộ. Có vẻ như những tia nắng giọi qua tán lá rừng vàng tươi hơn, màu lá cũng xanh hơn. Mấy cô cậu nhà bếp vừa rửa lá rong bên bờ suối vừa hát véo von. Ban Chính trị đang động viên cán bộ chiến sỹ sáng tác các tiết mục tự biên tự diễn cho buổi liên hoan đón tết hòa bình đầu tiên. Đăng Tùng châm một điếu thuốc. Bất giác ông nhìn lên tấm bản đồ tuyến ống của Trung đoàn. Bốn năm đã trôi qua. Bốn năm máu lửa theo đúng cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Những cuộc quần lộn với bom đạn địch để tìm đường đưa tuyến ống vượt qua đỉnh Trường Sơn, rồi đoạn tuyến tử thần qua trọng điểm Pha Bang. Những cuộc đấu lực, đấu trí. Biết bao mét khối xăng nhọc nhằn từ hậu phương gửi vào đã bốc cháy, biết bao sỹ quan, biết bao người lính trẻ đã ngã xuống. Mai đây, khi thắng lợi, tuyến ống của Trung đoàn hết vai trò lịch sử, người ta sẽ tháo tuyến ống này đi. màu xanh cây lá sẽ phủ lên những hố bom và những vùng đen cháy dọc theo tuyến ống. Đại ngàn Trường Sơn sẽ chẳng còn dấu vết gì của trung đoàn. Liệu còn ai nhớ đến, biết đến những nỗi cực nhọc của những người lính cả trai và gái đã hy sinh tuổi xuân để bào vệ cho dòng sông mang lửa vào tận chiến trường?
- Em chào Thủ trưởng- Tiếng một cô gái lanh lảnh vọng vào từ ngoài cửa sổ.
Đăng Tùng dứt khỏi dòng suy nghĩ. Ông nhìn ra. Vi, cô y tá xinh đẹp vừa ngang qua cửa . Cô nhoẻn cười:
- Anh Quảng Ban Tham mưu mấy hôm nay sốt quá, em phải sang xem anh ấy thế nào.
Chưa dứt lời, cái lưng thon thả của cô gái đã khuất sau khóm cây trên lối mòn xuống suối. Cũng chính lúc ấy, trời đất bỗng nhiên tối sầm, không gian chao đảo, khói bụi mịt mù, những tiếng nổ chát chúa nối nhau như tiếng búa đang nện lên một cái đe thợ rèn vĩ đại. Bom rồi. Ý nghĩ vụt qua đầu. Đăng Tùng lao về phía hầm chữ A, ông bỗng cảm thấy trời đất lộn vòng. Có cái gì như một khối màu vàng chụp xuống.

Đăng Tùng mở mắt. Mình đang ở đâu đây.? Đúng rồi, vẫn là căn nhà âu mình làm việc, nhưng bây giờ nó đã tan hoang. Mái đã bị thổi bay gần hết. Tấm bản đồ tuyến ống đã bị xé tơi tả. Ông sờ khắp mình. Không bị thương, chỉ ngất vì sức ép. Ông khó nhọc đẩy mấy thanh tre đổ lên mình, ngồi dậy. Mùi lá cây bị băm vụn, mùi khói bom xộc vào mũi. Cái mùi quen thuộc của bãi bom sau mỗi trân đánh. Khát quá. Ông với tay lấy cái bi đông đang lăn lóc. Nó đã bị thủng một lỗ, may mà trong bi đông vẫn còn nước. Ông dốc một hơi. Dòng nước làm ông tỉnh táo. Có tiếng chân người chạy. Có bốn tiếng súng rất gần. Ông bắt đầu trở về đúng với thực tại: Trung đoàn bộ đã bị B52 rải thảm. Đã có những người hy sinh.
- Thủ trưởng Tùng bị thương rồi- Tiếng cậu Quốc, Trưởng Tiểu ban Kỹ thuật. Chốc lát, Tùng đã thấy tiếng dao chặt mấy cây cột đổ chắn ngang cửa hầm.
- Mình không sao đâu, tình hình anh em sao rồi?
- Vệt bom chính quét qua cơ quan thủ trưởng ạ. Anh em đang tìm và cứu chữa người bị thương.
Khi được dìu lên mặt đất, Tùng bàng hoàng nhìn quang cảnh hoang tàn của cơ quan. Hố bom chi chít. Những thân cây cổ thụ bị phạt ngang đổ gục, bật rễ. Những căn nhà đổ sập hoặc bị bay mái. Quang cảnh thật tiêu điều, xơ xác. Như thế này thì chắc thương vong sẽ nặng nề lắm. Cái cảm giác đau như dần toàn thân lúc nãy bỗng tan biến. Tùng ra lệnh:
- Gọi ngay thủ trưởng các bộ phận lên gặp tôi.
Lập tức, Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Chính trị và Chủ nhiệm Hậu cần Trung đoàn đã có mặt. Tham mưu trưởng báo cáo:
- Vệt bom chủ yếu càn qua Ban Tham mưu, Ban Hậu cần và nhà bếp. Nặng nhất là khu bếp: Một quả rơi trúng nhà bếp, một quả rơi trúng chỗ anh chị em đang chuẩn bị bánh chưng tết cho đơn vị. Các bộ phận đang khắc phục hậu quả.
Việc hội ý chỉ diễn ra trong vài phút. Đăng Tùng ra các mệnh lệnh ngắn gọn: điều một đại đội của Tiểu đoàn 66 lên giúp cơ quan khắc phục hậu quả, yêu cầu thông tin giữ vững liên lạc đến các đơn vị. Yêu cầu các đơn vị gần Trung đoàn bộ có ngay phương án sẵn sàng nếu B52 mở rộng khu vực đánh phá. Cho một lực lượng đến vị trí dự phòng đào các công sự tạm để di chuyển Sở chỉ huy. Khi các cán bộ tản ra triển khai thực hiện mệnh lệnh, Đăng Tùng chống gậy xuống thẳng khu bếp. Chỉ qua khỏi bụi cây trên lối mòn xuống suối, ông đã bàng hoàng nhận ra chiếc túi quân y đẫm máu cùng một cánh tay vương trên cành cây. Vi đã hy sinh. Tội nghiệp quá. Mới mấy phút trước, tiếng em còn lảnh lót, hai bím tóc đung đưa theo từng bước chân, vậy mà bây giờ đồng đội phải gom từng mảnh thi thể của em.

Bếp ăn của Trung đoàn bộ chỉ còn là một đống ngổn ngang giữa hai hố bom lớn. Tất cả Tiểu đội nuôi quân đang làm việc đều hy sinh. Máu bác Nhân, Tiểu đội trưởng tràn trên mớ lá dong đang lau dở. Thi thể các cô gái đang xay bột, rửa lá dong, nhặt gạo, nằm bên bờ suối. Hố bom bên suối xâm xấp một thứ nước pha cả màu trắng của bột, mà màu đỏ máu của họ. Đăng Tùng xót xa nhìn thi thể các cô gái được xếp lại thành hàng. Họ còn trẻ quá, khi vào đây, có cô mới mười sáu, khai tăng tuổi để được vào bộ đội. Hơn một năm ở Trung đoàn, họ đâu đã tròn mười tám. “Vân ơi, em ở đâu?”. Đăng Tùng nhìn về phía có tiếng gọi. Những người lính đang gạt lớp đất bom, một chàng trai vừa khóc, vừa lấy tay cào liên tục. Tiếng khóc vừa nghẹn ngào, vừa xót xa, nó không còn sức để có thể gào lên . Chủ nhiệm Hậu cần báo cáo: Còn thiếu đồng chí Vân chưa tìm thấy. Cậu ấy là người yêu của Vân. Đăng Tùng nhận ra đó là cậu Thăng, giọng ca nam hay nhất của Trung đoàn. Còn Vân, cô nuôi quân lại có giọng nữ cao vút, trong vắt. Đăng Tùng không sao quên được nước da trắng muốt, khuôn mặt bầu với đôi má lúm đồng tiền hay thấy ở các cô gái gốc Hoa. Vậy mà bây giờ em nằm đâu? Sao đồng đội tìm không thấy. Hay là khi bom đánh, Vân đang đứng bên ngoài. Mọi người lại bới tìm trong các búi cây, các đống cành cây, mái lá mà bom đã vo viên lại, vẫn không thấy. Bỗng ai đó kêu lên: “Có khi Vân ở trong cái chảo này”. Bây giờ họ mới phát hiện thấy mấy sợi tóc đen vương ra từ trong chiếc chảo quân dụng đang úp sấp. Họ lật chảo lên. Không ai cầm lòng được. Vân nằm đó, co quắp, không biết em chết vì bỏng của chảo nước đang sôi, hay vì sức ép bom. Mùi khói bom, mùi lá cây bị băm vụn trộn với mùi ngai ngái của lớp đất rừng ẩm ướt bị quật lên, và cả mùi máu, khiến không gian trở nên đặc quánh. Trận B52 sáng nay đã cướp đi của cơ quan Trung đoàn mười hai cán bộ chiến sỹ. Không ai có thể ngờ ngày đầu tiên đón tin vui hòa bình lại là ngày tang tóc.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Quốc dốc bi đông tu một hơi cho dòng nước mát lạnh chảy qua cổ họng đang khô cháy. Anh nằm vật xuống chiếc sạp trong hầm chữ A, Bây giờ mới thấm mệt sau gần bốn giờ đồng hồ đào bới, tìm tử sỹ, sơ cứu và chuyển thương binh đến trạm phẫu thuật. Nghỉ một chút để chuẩn bị di chuyển đến vị trí sơ tán. Mới tối qua, anh và các cô gái còn cùng nhau tập văn nghệ chuẩn bị đón tết, vậy mà bây giờ họ đã vĩnh viễn nằm lại đại ngàn. Quốc bỗng cảm thấy may mắn là tổng đài thông tin đã thoát hiểm trong trận bom vừa rồi. Không biết từ lúc nào, giữa mấy chàng kỹ sư, cán bộ kỹ thuật của Tiểu ban đã có sự gắn bó với các cô gái tổng đài. Chưa thể nói đó là cái gì, nhưng rõ ràng nếu đi công tác mấy ngày, họ cứ thấy nhớ về ngọn đồi, nơi đặt tổng đài thông tin của Trung đoàn bộ. Và bây giờ, Quốc lại vu vơ nhớ về bên ấy. Nhớ sang đấy lại nhớ Xuân. Người ta bảo con gái Hải Phòng ghê gớm lắm, vậy mà sao em lại dịu dàng thế. Nghe tiếng em trên đường dây, biết bao anh chàng cứ muốn một lần qua tổng đài xem mặt. Mái tóc buông xõa bờ vai, và nhất là đôi mắt trong vắt với cái nhìn đăm đắm khiến trái tim anh cứ đập liên hồi. Em thon thả, xinh đẹp, nhưng chẳng nề hà bất cứ việc gì, kể cả chặt cây làm hầm, đi vác ống tăng cường cho đơn vị. Anh nhớ mãi cái hôm anh chỉ huy thi công gấp một đoạn tuyến, em nằm trong số người của Trung đoàn bộ tăng cường. Đường dốc, ống nặng, thân em thì mảnh mai, vậy mà thấy anh, em vẫn cười rất tươi. Tóc bết mồ hôi vương trên trán, hai má đỏ rực như trái bồ quân. Giá đừng có cái hôm gặp ấy, thì đâu đến nỗi anh lại bồn chồn nhớ giữa lúc ác liệt thế này.


Đã quá trưa. Khu cơ quan Trung đoàn rợp bóng cây, giờ đã trống hoác vì hố bom, nắng bắt đầu hầm hập, mùi khét bom vẫn chưa tan hẳn. Quốc nhoai ra khỏi hầm lấy tay làm loa gọi sang hai căn hầm khác của Tiểu ban: “Mọi người chuẩn bị lên đường, nhớ kiểm tra cho đủ hồ sơ, tài liệu, ngày mai lại vận hành rồi”. Chưa kịp nghe tiếng đáp lại, Quốc đã thấy tối tăm mặt mũi vì những tiếng rít ghê rợn và tiếng nổ bốn bề. Anh lăn vào hầm. Căn hầm như đưa võng. Không biết do tai ù đặc hay bom nổ quá gần mà Quốc chỉ thấy những tiếng ịch, ịch. Khói lùa vào hầm sặc sụa. Rồi im lặng, rồi lại chao đảo, đúng theo quy luật của những trận B52. Một phút im lặng nặng nề trôi qua. Lại có tiếng súng. Trời ơi, tiếng súng từ trạm tổng đài thông tin. Quốc lao ra khỏi hầm, hét lớn: “ Tổng đài bị rồi!”. Anh vớ lấy cái xẻng và túi thuốc cá nhân lao về phía đó. Quanh anh, tiếng người chạy rầm rập. Họ chạy vòng qua các hố bom, chui qua những thân cây đổ. Những người đang chạy về phía tổng đài, bỗng khựng lại rồi rẽ làm đôi khi nghe bốn phát súng vọng lên từ phía Ban Hành chính.

Quốc không thể tin vào mắt mình. Căn nhà của tổng đài tan nát giữa những hố bom. Phải vất vả lắm, mọi người mới dỡ được tấm mái lá sập để lách vào trong. Cả kíp trực tổng đài đã hy sinh. Hai cô gái Ninh Liễu chắc đang nối máy cho một cuộc gọi nào đó. Máu nhuộm đỏ cuốn nhật ký điện thoại và những búi dây, phích cắm. Quốc lặng người khi thấy Xuân gục trên bàn, bàn tay nõn nà mà đã vài lần anh nhìn trộm, giờ đã xanh tái, đang nắm chặt tổ hợp. Anh nhẹ nhàng gỡ chiếc tổ hợp , bế Xuân lách qua những cột kèo đổ ngổn ngang. Ra khỏi căn nhà đổ nát, anh đặt Xuân lên một vạt cỏ hiếm hoi. Bây giờ Quốc mới nhận ra một mảnh bom đã găm lên đầu em. Máu bết lại dưới mái tóc đen dày. Em nằm thiêm thiếp như đang ngủ. Tình cờ, từ trong úi áo quân phục của Xuân rơi ra một mảnh giấy nhỏ. Quốc nghẹn ngào khi nhận ra nét chữ của mình: Xuân ơi. Tối nay tập văn nghệ lúc bảy giờ ở phòng họp cơ quan,. Em nhớ nói các bạn đến đúng giờ nhé. Dưới dòng chữ đó là nét chữ của Xuân: Anh Quốc ơi, anh chỉ viết được cho em mấy chữ ngắn ngủi thế này thôi sao?. Quốc nghẹn ngào ôm chặt thi thể cô gái vào lòng. Dòng nước mắt nóng bỏng của anh tuôn lên khuôn mặt đã lạnh ngắt của cô gái. Xuân ơi, anh muốn viết cho em nhiều điều lắm. Chúng mình đã không kịp nói điều muốn nói. Chiến tranh sắp kết thúc rồi, sao em không ráng thêm chút nữa, Xuân ơi!
Có ai đó đặt tay lên vai Quốc:
- Thôi, Đứng dậy đi Quốc ơi. Chúng ta còn quá nhiều việc phải làm.
Quốc như tỉnh cơn mơ. Anh nhận ra Đăng Tùng và mọi người đang đứng vây quanh. Những khuôn mặt lấm lem đất và khói bom. Những khuôn mặt khắc khổ, kiệt sức vì chỉ trong vòng hơn bốn tiếng đồng hồ, họ đã phải chịu hai trận B52 nặng nề.

Hai mươi người, cả sỹ quan và những cô gái trẻ đã hy sinh trong ngày đầu tiên sau hiệp đinh Pari. Lễ truy điệu họ kết thúc lúc xế chiều. Đơn vị đang di chuyển đến vị trí mới. Đăng Tùng bỗng cảm thấy phải ngồi thêm một lát bên những ngôi mộ mới. Họ là lính của ông đấy. Họ trẻ quá, nhiều người trong họ chưa biết nói một tiếng yêu. Họ đã chiến đấu vì những điều cao cả, và còn cả vì màu cờ kiêu hãnh của Trung đoàn. Ông ngước nhìn những đám mây đã ngả thành ráng chiều ở phía tây ngọn núi. Chiến tranh thật tàn khốc. Còn một giờ chiến tranh là còn đổ máu. Hiệp định Pari có hiệu lực trên đất Việt Nam, còn trên đất nước Triệu voi này, không hiểu tuyến đường ống của Trung đoàn sẽ còn chịu đựng bao lâu nữa đây?
Gửi Đại đội vận tải và các tiểu đoàn.
Theo thông báo của trên, ngày 21 tháng 2 năm 1973, Hiệp đinh về việc lập lại hòa bình ở Lào sẽ được ký kết. Dự kiến từ ngày 22 tháng 2, Mỹ sẽ chấm dứt việc đánh phá trên tuyến chi viên chiến lược. Đây là thời cơ quý báu để chúng ta nhanh chóng đẩy hàng vào chi viện cho tiền tuyến lớn. Trung đoàn nhắc các đơn vị:
Một: Tiếp tục tăng cường giữ bí mật các kho, trạm bơm và tuyến.
Hai: Kiểm tra, củng cố lại tuyến, các trạm bơm, các trạm cấp phát, tình trạng kỹ thuật của xe và các trang bị, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu xăng cho vận tải lớn.
Ba: Nhắc nhở cán bộ, chiến sỹ không được chủ quan, mất cảnh giác.
Ngày 20 tháng 2 năm 1973

Trung đoàn trưởng Nguyễn Đông ký dưới bức điện, đưa cho Trần Thắng, Tham mưu phó Trung đoàn:
- Anh chuyển cho Trực ban đọc bức điện này qua đường dây hữu tuyến, rồi cùng tôi đi kiểm tra các đơn vị. Tôi dự kiến, bắt đầu từ ngày hai mươi hai, Bộ Tư lệnh sẽ triển khai vận tải lớn. Mình không chuẩn bị tốt , không hoàn thành nhiệm vụ là khuyết điểm to lắm đấy.

Trần Thắng đón bức điện trên tay Trung đoàn trưởng, đáp “rõ”, làm động tác đằng sau quay, và nhanh nhẹn đi về phía hầm trực ban. Đông trìu mến nhìn theo dáng cao gầy của người sỹ quan dưới quyền. Thắng chỉ kém ông vài tuổi, gầy gò, nhưng sức chịu đựng thật dẻo dai. Đông nhớ những ngày đầu thi công tuyến trên dãy Phu Đô Tuya, Thắng đã có mặt ở những điểm nóng nhất: nơi tập kết ống cạnh đường ô tô thường xuyên bị bom đánh, những nơi ác liệt có thương vong, điều chuyển vật tư, lực lượng để tuyến thi công đúng hạn. Đêm trên dãy Phu Đô Tuya trời rét căn cắt, đốt lửa không được vì bọn AC-130 đi tuần suốt đêm. Đông đã cùng Thắng và các cán bộ Tham mưu, Kỹ thuật rải lá chuối khô cuộn mình trong tấm chăn lính mỏng manh. Những đêm như thế, họ tâm sự với nhau suốt đêm, và Đông hiểu hơn về Thắng: ra đi từ một làng quê nghèo khó của tỉnh Thừa Thiên, làm lính trinh sát suốt những năm kháng chiến chống Pháp, lăn lộn ở chiến trường Bình Trị Thiên gian khổ, mười mấy năm xa gia đình, không biết cha mẹ trong ấy giờ sống chết thế nào.

Đông và Thắng đến kho Q8B khi đã tắt nắng chiều. Đây là kho bể sắt trữ lượng hàng ngàn mét khối, với một bãi cấp phát lớn, có tên là CP11 cấp phát xăng cho nhiều hướng vận tải quan trọng. Tiểu đoàn trưởng đón họ trong hầm chỉ huy của Đại đội kho:
- Báo cáo thủ trưởng, do có tán rừng già nên đến nay, bãi cấp phát của ta vẫn giữ được bí mật. Nếu không có gì thay đổi thì ta chỉ cần giữ được vài ngày nữa là có thể mở toang bãi cấp phát mà tiếp hàng trăm xe một lúc.
Tiếp lời tiểu đoàn trưởng, Đại đội Trưởng Giá báo cáo tình hình cấp phát xăng, những bất cập về việc ngụy trang, giữ bí mật mà đại đội đang ra sức khắc phục:
- Đã vào giữa cao điểm mùa khô, vết xe vào bãi ngày càng rõ. Mấy hôm nay, OV10 cứ quần đảo phía trên kho. Chúng tôi đã ngụy trang cẩn thận, đào thêm hầm trú ẩn, vẫn chưa thấy yên tâm. Ban ngày tuy xe không chạy, nhưng bụi đã phủ trắng dọc theo tuyến đường. Ban đêm, bọn AC130 quần đảo ráo riết. Sau Hiệp định Paris, cánh lái xe có vẻ như ít thận trọng hơn.
Trên trời, tiếng OV10 lại vè vè. Giá bước ra khỏi hầm nhìn qua tán lá:
- Thằng tàu càng này hôm nay sao cần mẫn thế. Muộn rồi mà cứ luẩn quẩn ở đây- Rồi anh nói vọng vào hầm- Xin phép các thủ trưởng, tôi ra kiểm tra bãi cấp phát. Mấy bố lái xe mà chủ quan là không biết điều gì xẩy ra đâu.
Dứt lời, Giá đã khuất trên lối mòn ra khu cấp phát. Đông bắt đầu bồn chồn khi thấy chiếc tàu càng đang thu dần vòng lượn trên bãi cấp phát xăng. Một quả đạn khói bắn xuống. Một bầy phản lực như mọc lên ở đường chân trời. Tiếp theo đó là tiếng rít của bom phá, từng loạt bom bi nổ ran , rồi đạn tên lửa từ máy bay bắn xuống. Bãi cấp phát CP11 đang bị công kích dữ dội. Lửa bùng lên từng cột, khó đen bốc lên ngút trời. Vài quả bom bi lạc vào khu hầm đại đội.
Dứt đợt đánh phá, Đông, Thắng và Tiểu đoàn trưởng lao ra bãi cấp phát. Những chiếc ô tô vẫn cháy ngùn ngụt. Cả thảy mười tám chiếc xe đang chờ, đang nhận xăng, bốc cháy hoặc bị phá hủy hoàn toàn. Một số chiến sỹ cấp phát và lái xe không kịp xuống hầm hy sinh hoặc bị thương. Cả lính lái xe và lính kho đang khẩn trương giải quyết hậu quả, đưa thương binh đi cấp cứu. Ống bị đánh đứt, xăng từ trên kho tự chảy tràn ra bãi khiến đám cháy càng dữ dội. Nếu không có gì chặn lại thì xăng sẽ theo ống tự chày xuống bãi cấp phát đến hết cụm bồn một trăm mét khối mới thôi. Tuy vậy rõ ràng dòng xăng đã được chặn lại ở đâu đó, vì lượng xăng tuôn từ trong ống ra không nhiều. Hay là đã có một vị trí nào đó trên tuyến ống bị đứt khiến xăng chảy theo hướng khác?- Tiểu đoàn trưởng lo lắng - Nếu quả vậy thì thật tai họa, vì ngày mai, 22 tháng 2, Mỹ sẽ ngừng ném bom trên đất Lào, xe nối nhau vào ăn xăng, thì sẽ ra sao đây? Nỗi lo của Tiểu đoàn trưởng cũng chính là nỗi lo của Đông và Thắng. Họ đi kiểm tra dọc theo tuyến ống. Khi cách bãi cấp phát khoảng hai trăm mét, họ nhận ra một người đang nằm phủ phục trên chiếc van chặn tuyến.
- Trời ơi, cậu Giá!- Tiểu đoàn trưởng nhào tới.
Một mảnh bom xuyên vào lưng Giá. Chắc cậu ta đã cố mang chút sức tàn để đóng van trước khi kiệt sức. Máu của Giá đọng thành một vũng quanh van. Dòng xăng đã được chặn lại, nhưng Giá đã hy sinh.
Giá được mai táng cùng các chiến sỹ hy sinh tại bãi cấp phát CP11 chiều nay. Họ là những người lính ngã xuống trong trận oanh tạc cuối cùng của máy bay Mỹ lên tuyến ống trên đất nước Triệu Voi này. Đông đặt lên mộ Giá một cành hoa rừng, ông nhớ lại câu chuyện Ngọc kể về những ngày khảo sát Phu Đô Tuya, biết trên đường Phỉ rải mìn díp, Giá cứ khăng khăng đòi đi trước. Giờ thì anh đã mãi nằm lại đây mà không được cùng anh em hưởng những ngày trời đầy nắng, không còn tiếng tàu càng, không còn những trận bom hủy diệt của không quân Mỹ từ trên trời dội xuống.
 
Chỉnh sửa cuối:

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Chương VIII

MÙA HOA ĐỎ

Hội nghị Quân chính của các trung đoàn Đường ống diễn ra sau Hiệp định Paris hơn một tháng. Đây là lần đầu tiên, cán bộ từ cấp tiểu đoàn trở lên của cả ba trung đoàn đường ống họp mặt tại Bộ Tư lệnh 559. Trung đoàn 967 vừa trải qua gần một năm khốc liệt bởi mọi thứ hỏa lực trên trời và ngoài biển trong cuộc chiến tranh phá hoại Miền Bắc lần thứ hai của Mỹ. Trung đoàn 952, trung đoàn anh cả của bộ đội Đường ống Trường Sơn thì đã dạn dày bom đạn qua bốn năm quần nhau với địch cả trên không và mặt đất. Còn Trung đoàn 953, trung đoàn ở thời điểm này đang nằm sâu nhất của tuyến ống. Sau Hiệp định Paris trung đoàn 952 và 953 ở phía tây Trường Sơn còn phải chịu đựng áp lực đánh phá của không quân Mỹ thêm một tháng.
Đang giữa mùa khô, những chiếc xe cùng các sỹ quan vượt qua những nẻo đường tây Trường Sơn, đều phủ trắng bụi đường. Sức sống của hòa bình thật kỳ diệu. Miền núi đông Trường Sơn đang mùa xuân. Trên các triền núi, hoa vàng hoa đỏ như những mảng màu rực rỡ của một bức tranh thủy mạc khổng lồ. Các hố bom đã san lấp, các ngầm vượt sông đã được khôi phục. Các trọng điểm giao thông tuy vẫn trơ trụi, nhưng những mầm xanh bắt đầu bật lên trên những thân cây tả tơi sau nhiều ngày bom đạn. Những đoàn xe vận tải đang tranh thủ mùa khô nối nhau đưa hàng vào tiền tuyến. Sự ra đi của người Mỹ đã làm cho cục diện cuộc chiến tranh Việt Nam chuyển sang một thời kỳ mới. Ai cũng cảm thấy ngày chiến thắng đang đến gần.

Hội nghị ngành Xăng dầu - Đường ống là một phần của Hội nghị Quân chính Đoàn 559 nhằm đánh giá lại hoạt động của bộ đội Trường Sơn sau mười bốn năm làm nhiệm vụ vận tải chiến lược, và quán triệt nhiệm vụ trong tình hình mới. Bộ đội Đường ống tuy “sinh sau đẻ muộn”, nhưng những gì họ làm được thật đáng tự hào. Đó là cảm giác của những sỹ quan đường ống đã dạn dày trận mạc. Cách đây năm năm, họ còn bỡ ngỡ trước những thước đường ống đầu tiên của X42, thì nay, họ đã hiểu tất cả những gì giá trị nhất, vinh dự nhất và xương máu nhất của đường ống trên mọi địa hình, mọi thời tiết và mọi khốc liệt trong bom đạn của quân thù. Từ bốn mươi hai cây số đầu tiên, nay đường ống đã kéo dài từ Mục Nam Quan đến gần ngã ba biên giới Việt Nam-Lào- Campuchia. Biết bao xương máu đã đổ xuống để có tuyến ống như ngày nay.

Lê Trọng thay mặt cơ quan Tham mưu vận chuyển phổ biến kế hoạch phát triển tuyến ống và đảm bảo xăng dầu trong tình hình mới:

- Việc Mỹ rút khỏi cuộc chiến tranh ở Việt Nam đang đặt ra những thời cơ mới cho toàn ****, toàn dân và toàn quân ta tến lên giành toàn thắng. Sắp tới, việc chuyển quân và binh khí kỹ thuật trên Trường Sơn sẽ tăng lên gấp bội. Các phương thức vận chuyển đang được cơ giới hóa, cùng với đó là việc các binh chủng hiện đại tham gia tác chiến. Tình hình mới đặt bộ đội xăng dầu đường ống trước nhiệm vụ hết sức nặng nề. Để thực hiện được nhiệm vụ bảo đảm xăng dầu, Bộ Tổng tư lệnh quyết định trong hai năm tới, phải kéo dài tuyến đường ống vào tận chiến trường Nam bộ. Đồng thời, cần mở thêm một tuyến chạy theo triền núi ở đông Trường Sơn nhằm đảm bảo cho các lực lượng hành quân theo hướng này. Trên cả hai hướng Đông và Tây Trường Sơn, sẽ hình thành dọc theo tuyến ống một hệ thống cấp phát cho các đơn vị vận tải cơ giới và binh khí kỹ thuật…

Sau khi Lê Trọng trình bày xong toàn bộ kế hoạch, các đại biểu thảo luận rất sôi nổi. Họ phấn khởi vì sắp được góp sức mình vào những chiến dịch cuối cùng đề giành toàn thắng. Tuy nhiên cũng có ý kiến đặt ra các vấn đề rất thực tế: Trách nhiệm bộ đội đường ống nặng nề vậy, nhưng việc bảo đảm vật tư từ hậu phương vào có đáp ứng kịp không, vì đây vẫn là khó khăn môn thuở của bộ đội đường ống Trường Sơn. Theo bản đồ, tuyến ống sẽ đi qua một vài nơi địch còn chiếm đóng, đặc biệt là cứ điểm Đắc Pét đang chắn ngang đường 14 ở phía nam Khâm Đức. Đây là một cứ điểm mạnh, ta đã đánh vài lần mà chưa nhổ được. Vấn đề hỏa lực không quân địch cũng được một số đại biểu đề cập tới. Quân đội Sài Gòn chắc chắn không đủ khả năng triển khai không quân đánh phá tuyến ngoài, nhưng đoạn tuyến từ Ngã ba biên giới trở vào vẫn có thể vấp phải sự ngăn chặn quyết liệt của chúng, vì sau khi Mỹ rút, số máy bay và bom đạn khổng lồ mà Mỹ để lại cho cuộc chiến tranh Việt Nam hóa lớn đến mức quân đội Sài Gòn trở thành một trong những đội quân sở hữu nhiều máy bay chiến đấu nhất thế gi ới. Các ý kiến trao đi đổi lại đã làm sáng tỏ hầu hết các vấn đề. Sự đánh phá hủy diệt với công nghệ ngày càng hiện đại của không quân Mỹ, lại bồi thêm những khó khăn về địa hình thời tiết, còn chẳng ngăn nổi bộ đội Đường ống Trường Sơn, thì chẳng sá gì sự ngăn chặn của quân đội Ngụy Sài Gòn.

Chiều cuối cùng của Hội nghị, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên đến dự và phát biểu. Cả hội trường vang lên tiếng vỗ tay không ngớt khi Tư lệnh bước vào. Sau khi trao đổi, giải đáp thắc mắc cho các cán bộ trong Hội nghị, ông đưa ra nhận xét:
- Bộ đội đường ống là một binh chủng hiện đại, một binh chủng trẻ nhất ra đời trong cao trào chốn Mỹ cứu nước vẻ vang nhất, lại được thử thách trên một chiến trường sôi động hào hùng nhất nên đã trưởng thành nhanh chóng và liên tiếp giành được những thắng lơi có giá trị chiến lược.
Kế đó, ông phân tích những đặc điểm tình hình mới và nhiệm vụ nặng nề của bộ đội xăng dầu đường ống, và nhấn mạnh:
- Đường ống là một mũi tiến công vô cùng lợi hại vì tốc độ nhanh, khối lượng đến đích lớn, chống được sự phá hoại của địch một cách hiệu quả, hạn chế được tổn thất đến mức thấp nhất…Vì vậy, đường ống trên tuyến chi viện chiến lược là để đáp ứng những nhu cầu chiến lược, là để tạo thế chiến lược, là để giành những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược.

Lời phát biểu của người chỉ huy cao nhất của Bộ đội Trường Sơn làm nức lòng các sỹ quan đường ống. Trên tuyến lửa Trường Sơn này, cái tên Đồng Sỹ Nguyên luôn được nhắc đến một cách trìu mến, đôi khi như huyền thoại. Ông xuất hiện ở những nơi gian khổ, ác liệt nhất, đưa ra các quyết định khiến cho mọi sự bế tắc đều có hướng ra. Chỉ huy hàng vạn người trên suốt tuyến vận tải chiến lược dài hàng ngàn cây số trên đại ngàn Trường Sơn, với nhiều binh chủng, phương thức vận tải khác nhau, trong điều kiện địch đánh phá vô cùng ác liệt, nhưng mọi diễn biến của tình hình đều nằm trong tầm kiểm soát của ông. Cách đây bốn năm, các cán bộ Tiểu đoàn 66 đã được đón Tư lệnh ở Bản Cọ. Đó là lúc dòng xăng đầu tiên vượt qua bao gian nan thử thách ở cao điểm 911, trọng điểm Pha Bang. Bốn năm gian khổ trên Trường Sơn, từ Tư lệnh đến mỗi sỹ quan, tóc đã thêm nhiều sợi bạc, nhưng sự lạc quan và quyết tâm trong họ thì vẫn vẹn nguyên. Những ngày đã qua cực kỳ cam go, gian khổ. Nhiều người trong họ đã ngã xuống giữa đại ngàn. Đoạn đường phía trước chắc chắn còn nhiều gian truân, nhưng từ Hội nghị Quân chính trở về đơn vị, lòng mỗi người đều náo nức.


Ngay sau Hội nghị Quân chính, kế hoạch xây dựng tuyến ống được triển khai rất khẩn trương. Đoạn tuyến ống từ ngã ba đường 10 trên đất Quảng Bình, qua Q200, vượt đỉnh 911, trọng điểm Pha Bang đã trải qua bốn năm bị đánh phá ác liệt, lại vượt qua địa hình quá phức tạp nên xuống cấp nặng nề, đã được thay thế bằng một tuyến ống mới theo trục dường 16, vượt Trường Sơn ở gần đầu nguồn sông Sê Bang Hiêng vào thẳng đường số 9. Đây là trục đường hành quân gần nhất của các đoàn quân vào Nam sau khi Mỹ rút khỏi cuộc chiến tranh. Ở phía nam, tuyến của Trung đoàn 953 được phát triển lên phía trước với tốc độ tối đa.


Trung đoàn trưởng Nguyễn Đông cùng cán bộ Tham mưu và Kỹ thuật đi dọc theo tuyến kiểm tra thi công. Ông hiểu rất rõ tình hình hiện nay, việc phát triển nhanh tuyến ống vào phía nam giữ vị trí rất quan trọng trong nhiệm vụ chính trị của Trung đoàn. Qua hai năm, việc vận hành đã đi vào nề nếp. Thậm chí Kỹ sư Thu, Tiểu ban kỹ thuật đã làm được một việc tưởng như không thể đối với tuyến đường ống trên Trường Sơn: sử dụng hệ thống điều chỉnh tự động của máy bơm trong vận hành. Ngay sau khi Mỹ ngừng ném bom trên đất Lào, ý định sử dụng hệ thống tự động điều chỉnh của máy bơm trong vận hành đã được Thu trình bày một cách thuyết phục. Bộ tự động điều chỉnh được thiết kế trên máy bơm để đảm bảo tính ổn định của toàn tuyến khi vận hành, và nó sẽ tự động điều chỉnh áp suất bảo vệ cho cả tuyến ống và máy bơm. Tuy nhiên, để có thể vận hành bằng thiết bị tự độngnày, có hàng loạt việc phải làm: Bố trí lại vị trí đặt máy, căn chỉnh lại máy, kiểm tra và sửa chữa lại thiết bị tự động, Điều chỉnh lại một số điểm trong quy trình vận hành …Ban chỉ huy Trung đoàn đã nghe báo cáo, phản biện, và thấy đây là một việc nên làm để đảm bảo cho vận hành đạt kết quả cao nhất. Nhờ sử dụng bộ tự động điều chỉnh, việc vận hành của tuyến ống Trung đoàn luôn ổn định, đạt hiệu suất trên chín mươi phần trăm. Với một Tiểu ban kỹ thuật đã dày dạn kinh nghiệm qua hai năm đánh phá ác liệt của không quân Mỹ, thì việc chỉ huy và xử lý các tình huống trong vận hành đã có thể coi là nhuần nhuyễn. Bây giờ, Trung đoàn trưởng có thể yên tâm tập trung cao vào việc đôn đốc, chỉ đạo thi công phát triển tuyến ống.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Mùa khô này, Trung đoàn 953 phải thi công và vận hành tuyến ống qua một vùng rừng khộp kéo dài hàng trăm cây số. Giữa mùa khô, những cây khộp trụi lá, lớp cỏ dưới tán rừng mùa mưa xanh ngắt, giờ đã chết khô thành một lớp dày phủ kín mặt đất. Không có màu xanh, đi cả ngày trời có khi không gặp một khe nước. Mọi thứ ở rừng khộp đều khô khát. Cái nắng như thiêu đốt. Bầu tời lúc nào cũng xanh ngăn ngắt. Ngay cả mây trên trời cũng cho ta cảm giác chúng bị nứt nẻ vỡ ra từng mảng trắng. Trong mùa khô khắc nghiệt như vậy, chỉ một tia lửa nhỏ là có thể gây nên đám cháy lớn không thể kiểm soát được. Đoạn tuyến đang thi công và vận hành của Trung đoàn luôn bị uy hiếp bởi nạn cháy rừng. Trung đoàn đã có phương án phòng hỏa và cứu hỏa rất chặt chẽ, nhưng cũng không thể tránh được tổn thất. Trong cuộc chiến đấu chống giặc lửa, đã có người hy sinh.

Đông trải tấm bản đồ lên mặt đất, kiểm tra lại hướng tuyến và các đường tập kết vật tư. Ông hỏi:
- Với tình hình này thì bao nhiêu ngày nữa có thể bơm xăng?
- Theo hiệp đồng, các đơn vị vận tải đang chuyển ống và phụ kiện vào đúng tiến độ. Tôi đã cố gắng tìm cách để xe đưa ống đến gần tuyến nhất, giảm thiểu công vác ống cho bộ đội. Tuy vậy, do ta phải dành một lực lượng cho vận hành nên có thể tiến độ thi công chậm hơn vài ngày so với kế hoạch-Tham mưu phó Trần Thắng báo cáo.
- Sao có thể chậm được? Anh không thấy từng trung đoàn ô tô đang chạy rầm rập trên đường sao? Không có xăng là tội chúng mình to lắm đấy- Ông quay sang hỏi Danh- Tiểu ban Kỹ thuật có ý kiến gì không?
Danh báo cáo:
- Tôi đã bàn kỹ với anh Thắng. Số ống tập kết ở các điểm đã được tính kỹ theo phương pháp vận trù. Sau khi lắp xong ống, ta còn phải có hai ngày thử rửa mới có thể đưa xăng vào kho phía trước.
Đúng lúc ấy, có mấy chiếc ZIL157 đang đưa ống vào điểm tập kết vật tư. Đông hỏi:
- Sao không nói cánh lái xe chở ống lên đến đây mà lại dỡ ống ở đấy?
- Báo cáo. Lực lượng vận tải chỉ chở ống đến tuyến. Còn rải ống lên tuyến là việc của Trung đoàn Đường ống- Trần Thắng trình bày.
- Có văn bản nào của Bộ Tư lệnh quy định rõ như vậy không?- Trung đoàn trưởng phác một cử chỉ không hài lòng.
- Báo cáo anh, từ trước đến nay, đó là quy định không thành văn rồi.
Sau vài giây đăm chiêu, nét mặt Đông bỗng trở nên nghiêm khắc. Ông đứng lên chỉ tay về phía trước:
- Các cậu xem. Đường ống chúng ta đang đi trên cao nguyên. Giữa mùa khô, xe chở ống có thể đi dọc theo tuyến. Trước đây, việc thi công tuyến phải tuyệt đối giữ bí mật với máy bay Mỹ nên ta hạn chế cho xe chạy vào tuyến ống. Bao nhiêu năm ác liệt, điều ấy dần dần được coi như nguyên tắc. Bây giờ theo yêu cầu thần tốc, địch trên không không còn khả năng ngăn chặn như trước nữa. Hoàn cảnh khác rồi, ta cũng phải làm khác trước. Hãy mạnh dạn đưa tuyến ống ra gần đường ô tô. Tôi yêu cầu các đơn vị tạo mọi điều kiện tốt nhất cho xe chạy dọc theo tuyến để rải ống. Nói mấy cô gái mang nước uống và thức ăn ra động viên cánh lái xe. Tôi sẽ trao đổi thêm việc này với chỉ huy đơn vị vận tải. Các anh rõ chưa?
- Rõ- Các cán bộ đáp và họ đều nhận ra sự cứng nhắc trong suy nghĩ của mình.
Đông quay sang phía Danh:
- Còn vấn đề thử rửa tuyến trước khi bơm xăng. Đó là việc đúng, nhưng xem ra không phù hợp trong điều kiện thần tốc hiện nay. Tôi đề nghị lắp xong ống, bơm xăng luôn. Muốn vậy, việc thi công phải hoàn toàn đảm bảo chất lượng, không được để hở các mối nối, và phải đảm bảo tất cả mọi ống lắp lên tuyến không có đất cát và dị vật. Việc này không làm được là lỗi của kỹ thuật đấy.
- Vâng. Báo cáo Trung đoàn trưởng, chúng tôi sẽ biên soạn và gửi ngay xuống các đại đội quy trình kiểm tra ống trước khi lắp lên tuyến.

Danh báo cáo vậy, nhưng vẫn canh cánh lo. Tuyến ống giã chiến trong điều kiện địa hình và chiến trường Việt Nam không thể dùng máy nén khí và thiết bị dò tìm bằng phóng xạ để phát hiện điểm tắc ống như của quân đội Liên Xô. Do đó, thử rửa tuyến bằng nước là cách tốt nhất để kiểm tra lần cuối chất lượng thi công. Tuy ở một vài đoạn tuyến tránh của Trung đoàn 952 đã bỏ qua thử rửa, nhưng đó là đoạn tuyến ngắn, giữa lúc chiến tranh ác liệt. Còn bây giờ, hỏa lực trên không của địch đã giảm đáng kể, bỏ qua một khâu trong quy trình thi công, vận hành thế này lỡ vỡ ống, xăng chảy tràn ra ngoài thì trách nhiệm của cơ quan kỹ thuật sẽ rất nặng nề. Tuy vậy, câu nói của Trung đoàn trưởng khiến Danh suy nghĩ rất nhiều: Bây giờ hoàn cảnh khác rồi, ta cũng phải làm khác trước. Đợt vận hành lần đầu sau khi thử rửa, nước đi trước, xăng đi sau. Đoạn tiếp giáp giữa chúng, xăng nước lẫn lộn. Một phần hỗn hợp nước-xăng được xả ra khỏi ống, theo địa hình, chảy xuống suối. Xuống đến suối, xăng tách ra thành một lớp trên mặt nước. Ở Trường Sơn, nhiều đoạn suối là đường ô tô. Danh bỗng nhớ lại một tai nạn đáng tiếc đã xẩy ra trong một đợt vận hành giáp tết. Khi cả khúc suối đang nồng nặc mùi xăng thì xe chở hàng tết của đơn vị chạy tới. Lửa từ ống xả của xe đã làm lớp xăng đang nổi trên mặt suối bùng cháy. Hai chiếc xe chìm trong biển lửa, những người trên xe nếu thoát chết thì cũng bị bỏng rất nặng. Một tai nạn như vậy sẽ không xẩy ra nếu không có công đoạn xả nước lẫn xăng ra ngoài. Nghĩ vậy, Danh vững tâm cầm bút viết Quy trình thi công để không cần thử rửa bằng nước, mà có thể bơm xăng ngay.


Đã qua mười ngày kể từ ngày Thục chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh 559, đưa Tiểu đoàn hỗn hợp lấy quân từ các Tiểu đoàn của Trung đoàn 952 hành quân sang đất Quảng Trị để cùng Trung đoàn 967 thi công tuyến sườn Đông Trường Sơn. Anh và kỹ sư Đặng Phúc Hành, người của Trung đoàn 967 cùng nhận bàn giao tuyến từ kỹ sư Ngọc. Tuyến vượt qua núi Đá Bàn có địa hình phức tạp nhất mà anh từng gặp. Sườn vách đá dốc đứng. Từ đỉnh đổ xuống phía nam, tuyến dựa theo một con suối. Con suối này nhìn trên bản đồ không có vẻ gì khác những con suối trên Trường Sơn, mà sao trên thực địa nó ghê gớm đến vậy. Dòng suối như một cái rãnh thiên nhiên sâu hoắm, hai bên là vách đá dựng đứng. Nước trong khe chảy ra rồi rơi theo vách đá từ trên cao hàng trăm mét đổ xuống thành một con thác. Tất cả như còn nguyên sơ: Rừng đại ngàn ẩm ướt, dây leo chằng chịt. Nghe Ngọc kể rằng hôm khảo sát tuyến, đến bên ngọn thác thì trời đã tối, buộc phải ngủ lại giữa rừng. Chỉ có hai anh em với một khẩu súng ngắn của Ngọc. Khi đêm xuống, nghe cả tiếng gầm của thú dữ, Hai người phải thay nhau giữ cho bếp lửa không tàn. Hôm nay chắc Ngọc đang ở Hà Nội. Cầu mong lá thư ấy đến tay em.

Đứng từ trên đỉnh Đá Bàn, Thục phóng tầm mắt nhìn về bốn phía. Phía đông là biển. Lâu lắm rồi mới được thấy biển. Không phải là sự cảm nhận biển bởi những đợt sóng vỗ bờ hay cảm giác dịu dàng từ lớp cát mịn dưới chân. Biển nhìn từ trên đỉnh cao này gồm một dải cồn cát như một đường viền vàng cho mảng màu xanh xa tít đến tận chân trời cong cong huyền ảo. Chếch về phía nam là cánh đồng thẳng cánh cò bay của vùng duyên hải Quảng trị. Phía tây là triền núi Trường Sơn tít tắp. Nơi anh đã qua năm năm lửa đạn, năm năm chiến đấu và năm năm sống trong tình yêu và nỗi nhớ. Còn phía bắc, nhìn từ đây chỉ thấy một màu xanh tía. Xa lắm. Đâu là thủ đô Hà Nội nơi em đang ở? Không nhìn thấy, và không đến được. Nhưng chắc chắn hướng ấy là Hà Nội. Hướng ấy có em, người anh yêu, anh nhớ. Mỗi khi đứng trên đỉnh núi, cái cảm giác ấm áp ấy đãlàm cho Thục quên đi bao nhọc nhằn vất vả khi phải thi công qua vùng núi non hiểm trở này.
Tuyến ống vượt đỉnh đá Bàn chênh vênh bò qua từng mỏm đá. Đây không phải là đá Tai mèo, mà là một thứ đá cát kết màu đỏ trơn tuột, không có chỗ đặt chân. Thục phải dùng bộc phá đánh đá thành từng bậc. Ngay cả có bậc rồi thì một người vác ống leo lên cũng rất nguy hiểm, vì dốc cao ngược mặt, cái ống sáu mét luôn có xu hướng muốn tuột khỏi vai, lao xuống dốc, và nó hoàn toàn có thể lôi luôn cả người lăn xuống. Sức trai trẻ chẳng mấy khi chịu hai người vác một ống leo dốc, ngay cả dốc đá tai mèo trên tuyến vượt Cổng Trời, hay triền dốc đất vượt đỉnh 911. Ở đây thì người chỉ huy không cho phép họ làm như vậy. Cứ hai người vác một ống thận trọng bước từng bước trên dốc chênh vênh. Một tay bám chặt vào lan can bắng sợi dây song. Khi ống rời khỏi vai, phải lựa thế để ống không lao xuống. Những người lính buộc mình vào cây để lắp ống, vì nếu không như vậy, họ có thể lăn xuống vách đá.
Lắp ống đã khó. Đưa máy bơm vào vị trí cũng vô cùng nan giải. Ngày cuối năm ở miền Trung trời mưa rả rích, đường trơn như đổ mỡ, xe vận tải cày xuống đường thành những con hào sâu hoắm. Họ phải phá đá mở đường và kéo máy bơm vào vị trí như các chiến sỹ Điện Biên kéo pháo ngày xưa
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Đoạn ống vượt qua hai bờ con suối Ka Ti dốc dựng đứng là một thử thách lớn. Vách đá cao tới ba mươi lăm mét, Khoảng cách giữa hai bờ vách dễ thường tới một trăm mét, lòng suối là những khối đã lớn, không thể chôn ống xuống đáy, bắc ống trên các tảng đá, lũ sẽ cuống trôi. Chỉ còn cách làm đường ống treo qua hai vách đá. Hành đo đạc, tính toán, và thấy: muốn làm ống treo thì phải có hai trăm năm mươi mét dây cáp lụa phi mười hai. Anh đề xuất lên Trung đoàn, Trung đoàn báo cáo Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên. Vài ngày sau, Hành được đi cùng Chính ủy Trung đoàn lên gặp Tư lệnh.
Đây là lần đầu tiên được làm việc với Tư lệnh, nhưng Trung úy kỹ sư Đặng Phúc Hành đã trình bày ý tưởng một cách lưu loát và tự tin, vì anh tin rằng trong trăm ngàn công việc trên hàng ngàn cây sô tuyến vận tải chiến lược, mà Tư lênh quan tâm đến việc đường ống vượt một con suối, thì chắc chắn nhu cầu của anh được đáp ứng.
Nghe Hành báo cáo xong, Tư lệnh yên lặng giây lát, rồi ông hỏi:
- Các anh có biết trong chiến dịch Điện Biên, bộ đội ta kéo pháo bằng gì không?
- Báo cáo, bằng dây thừng, dây chão.
- Điều kiện hồi ấy, không có đủ dây thừng, dây chão đâu. Họ không bó tay. Họ kéo bằng dây song, dây mây. Đồng bào dân tộc làm cầu treo làm gì có dây cáp. Họ làm bằng dây cóc mẳn. Cũng như ta bây giờ, nếu Bộ Tư lệnh không có cáp lụa phi mười hai như các anh đề nghị thì chẳng lẽ ta chịu bó tay?
Hành tiếp tục trình bày:
- Báo cáo Tư lệnh. Tuyến đường ống khi vận hành có thể rung lắc nên tải trọng không ổn định. Vả lại, nếu chỉ dùng các vật liệu ấy, hậu quả không thể lường được nếu xẩy ra sự cố cháy.
- Cháy ư?
Dường như ý kiến của chàng kỹ sư trẻ làm cho tư lệnh chú ý. Ông trầm ngâm:
- Nhưng chúng ta kiếm đâu ra dây cáp bây giờ?- Rồi như nghĩ ra điều gì, ông tươi cười hướng về người kỹ sư trẻ- Tôi sẽ nói bên thông tin cấp dây thép ba ly cho các anh. Còn làm thế nào để đưa ống vượt suối, đảm bảo an toàn là việc của kỹ thuật. Tôi muốn nhắc điều này: Không có đủ điều kiện như sách vở, mà vẫn biết cách vượt qua để thành công, đó mới là bộ đội Trường Sơn.

Hành cảm ơn Tư lệnh và hứa sẽ hoàn thành nhiệm vụ. Anh bỗng cảm thấy một chút xấu hổ trước lời động viên của Tư lệnh. Anh tự trách mình, trong mọi hòan cảnh khó khăn chưa bao giờ chịu bó tay: từ việc đóng cọc cố định ống dưới đáy các con sông và suối lớn, các giải pháp giảm thiểu thiệt hại của vòng bi 304, rồi việc giải các bài toán phân lưu khi cấp phát tự chảy trong điều kiện địa hình Trường Sơn…, vậy mà bây giờ cứ khăng khăng đòi Bộ Tư lệnh phải cấp cáp lụa để treo ống qua vách đá. Không có cáp lụa, nhưng đã có những sợi dây trần thông tin bện lại, cũng có thể thay cáp được chứ.

Nhận dây thông tin về. Hành thức trắng hai đêm vùi đầu suy nghĩ, tính toán. Bao nhiêu vấn đề đặt ra: Làm sao cho các sợi dây trần cùng tham gia chịu lực tương đương như một sợi cáp? làm sao kiểm tra được độ võng của dây treo ống? biện pháp thi công sao cho an toàn? Giữa rừng Trường Sơn, tài liệu hiếm hoi quá, khi tính toán xong rồi, vẫn chưa thấy yên tâm. Anh đi tìm những người có kinh nghiệm hỏi hoặc thảo luận với bất kỳ ai anh cảm thấy có thể góp ý kiến, dù là một chi tiết nhỏ. Các cán bộ đại đội, trung đội giúp anh rất nhiều sáng kiến trong thi công. Mọi cái khó đều lần lượt được tháo gỡ. Những sợi dây trần thông tin được bện lại thành “cáp”, mố cầu và hệ thống tời được chế tạo từ thân cây gỗ lim trong rừng; Độ võng của dây được tính toán cẩn thận và trên thực địa, được xác định bởi một đoạn trúc có gắn với một ống nước cất của Quân y thay cho bọt thủy. Cầu được gia cố bằng dây song mây, có lát ván cho bộ đội đi tuần tra bảo vệ tuyến. Sau nửa tháng trời vất vả, với tất cả những gì có trong tay, một chiếc cầu treo “hiện đại kiểu Trường Sơn” đưa ống vượt qua vách đá đã hoàn thành. Bàn tay khéo léo của những người lính đã tạo nên một chiếc cầu treo thơ mộng. Những đêm trăng, nam nữ chiến sỹ có thể đứng trên cầu ngắm trăng, ngắm núi rừng hùng vĩ và cả dòng suối phía dưới đang tung bọt trắng. Ngày thử rửa , nước từ trên đỉnh Đá Bàn lao xuống, sôi réo trong ống, vượt qua cầu treo. Đây là thời khắc cầu chịu tải lớn nhất. Hành lo lắng đến nghẹt thở. Chỉ đến khi hai tuyến ống qua cầu oằn mình, rồi trở lại vị trí thăng bằng trong tiếng reo hò của bộ đội đứng hai đầu cầu, Hành mới thở phào nhẹ nhõm. Anh lại nhớ đến câu của Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên: Không có đủ điều kiện như sách vở, mà vẫn biết cách vượt qua để thành công, đó mới là bộ đội Trường Sơn.


Ngọc và Quang được ra Hà Nội cùng Lê Trọng. Tuyến ống trên Trường Sơn đã vào đến chiến trường Tây Nguyên. Còn ở Miền Bắc, Một tuyến ống kéo dài hàng ngàn cây số, từ Hữu Nghị Quan đến điểm đầu của Bộ đội Đường ống Trường Sơn, không chỉ là đường ống dã chiến, mà có cả đường ống hàn hiện đại. Những ngày ác liệt của cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai, cả Miền Bắc đã gồng mình để đưa xăng ra tiền tuyến. Lê Trọng muốn cán bộ kỹ thuật của mình hiểu rõ điều ấy và học hỏi thêm ở hậu phương những kiến thức cần thiết khi lắp các tuyến ống song song.

Lần này Quang ra Hà Nội có thêm việc kết hợp cưới vợ. Mai Anh, vợ chưa cưới của Quang đã chuẩn bị rất chu đáo cho việc này. Ngay từ lần đầu tiên gặp Mai Anh ở nhà Quang, Ngọc đã cảm thấy thật gần gũi. Chuyện tình cảm giữa Quang và cô nàng từ cái đêm đầu “Khi đàn sếu bay qua”, có gì mà Quang không kể. Ngược lại, chắc những câu chuyện của hai thằng bạn thân trên tuyến lửa Trường Sơn luôn là đề tài tâm sự của cặp uyên ương này. Không chỉ là chuyện chung của hai đứa, mà cả những chuyện riêng của Ngọc, có vẻ như Mai Anh đều biết cả. Mai Anh là một cô giáo văn mới ra trường. Nước da trắng, đôi mắt to, mái tóc buông nhẹ đến bờ vai, rồi cuộn lại ôm vào cái cổ cao ba ngấn. Mai Anh là một cô gái Hà Nội thực sự. Quang dẫu đẹp trai, tài hoa, thì vẫn là một anh lính chiến trường, chẳng biết sống chết ra sao. Nhớ đến câu chuyện mà mẹ cô bé hàng xóm nói với Ngọc lần về Hà Nội trước, Ngọc nhận ra rằng trong chiến tranh khốc liệt này, những người con gái đem lòng yêu những anh lính ở chiến trường, bên cạnh tình yêu, niềm tin, còn phải có chút gì lãng mạn. Đám cưới của Quang và Mai Anh diễn ra giản dị và ấm cúng. Chỉ có Lê Trọng và Ngọc thay mặt đồng đội đến dự. Khách mời ngoài họ hàng, chủ yếu là bạn học của Mai Anh và bạn cũ của Quang.

Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Ngọc trong lần ra Hà Nội này là gặp Khanh để chuyển thư của Thục. Lá thư rất ngắn Thục viết vội trong một buổi chiều cùng Ngọc nghỉ giữa rừng trên đường chuẩn bị thi công tuyến ống vượt núi Đá Bàn. Khi biết sắp được ra Hà Nội. Ngọc tự xác định cho mình trách nhiệm phải gặp Khanh và làm cho Khanh hiểu được tình yêu của Thục. Một tình yêu thật đẹp và vị tha, yêu đến quặn thắt như vậy mà không được đáp lại thì thật sự không công bằng.

Ngọc đến phòng của Khanh trong ký túc xá giáo viên của trường vào một buổi chiều sau giờ lên lớp. Nghe bạn đồng nghiệp cùng dãy nhà tập thể nhắn có khách, bạn của anh Thục từ Trường Sơn ra, Khanh cho lớp nghỉ sớm, tất tả chạy về.
- Em chào anh, Anh đợi em lâu chưa ạ?- Nàng thân mật hỏi, rồi mở cửa phòng mời anh vào nhà.
Vẻ tự nhiên, cởi mở của Khanh ngay từ đầu đã giúp Ngọc xua tan cảm giác ngại ngùng. Căn phòng của Khanh giản dị, ngăn nắp. Nó vẫn đúng như những gì Thục mô tả trong những câu chuyện tâm sự ở Trường Sơn. Thời sinh viên thế. Bây giờ là giáo viên, vẫn vậy. Ngọc nhận ra cái ống bút làm bằng thân tre để ngay ngắn ở góc bàn.Bên ngoài ống bút khắc hình dòng sông với một cánh buồm đơn độc. Xa xa là dãy núi xanh, mấy cánh chim trời đang bay về phía ráng chiều, nơi vầng mặt trời bắt đầu khuất dần sau dãy núi. Dưới bức tranh đơn sơ ấy là nét chữ nắn nót của Thục: “Tặng Khanh mừng sinh nhật”. Theo thời gian, màu xanh của núi, màu đỏ của cánh buồm không còn tươi mới, nhưng những nét khắc vẫn còn nguyên sự sắc sảo, tỷ mỷ. Nó cho thấy người làm ra chiếc ống bút này đã gửi vào đây biết bao tình cảm và trân trọng. Nhìn chiếc ống bút, Ngọc cảm thấy tự tin hơn khi đến đây với tư cách là sứ giả của Thục.
- Anh ra lâu chưa ạ? Các anh ở trong ấy chắc gian khổ, vất vả lắm?- Khanh bưng chén trà nhỏ mời Ngọc.
- Tôi là Ngọc, bạn chiến đấu của anh Thục. Tôi mới ra được vài hôm- Ngọc đón chén trà từ tay cô gái và bất chợt bắt gặp đôi mắt của cô. Một đôi mắt to trong với cái nhìn sâu thẳm - Ngọc thầm nghĩ, chắc hẳn tình yêu say mê của Thục bắt đầu từ ánh mắt hút hồn này đây!- Đôi chút bối rối vì ý nghĩ vừa thoáng qua, Ngọc điềm tĩnh nói tiếp - Khanh này, Anh Thục có gửi cho Khanh một lá thư. Khanh hãy đọc thư, rồi tôi sẽ kể cho Khanh chuyện của chúng tôi trong ấy.
Ngọc đưa lá thư cho Khanh, rồi lặng lẽ bước ra ngoài. Anh muốn để Khanh có một khoảng riêng tư trọn vẹn khi đọc những dòng tâm sự của Thục. Trời đã sang hè. Trên vài cây phượng bắt đầu bung ra những chùm hoa đầu tiên đỏ như lửa. Dãy bằng lăng cũng đã khoác màu xanh biếc. Ngọc bỗng thấy nhớ và thương Thục. Thời gian trôi đi. Bao nhiêu mùa cây trên Trường Sơn thay lá. Bao nhiêu lần mưa rừng suối lũ chuyển sang mùa khô khát bỏng. Và cả bao nhiêu lần băng qua hiểm nguy bom đạn. Tình yêu trong con người Thục như một thứ ước ao cứ lớn dần lên theo năm tháng. Không biết người con gái này có hiểu ra điều đó không.

Khanh nâng niu lá thư của Thục. Cô đọc từng dòng thư Thục viết mà như đang nghe giọng nói trầm ấm của anh hôm nào:
Khanh ơi!
Lâu quá rồi, anh không biết tin tức gì về em. Trong này anh vẫn khỏe. Gian khổ, ác liệt, nhưng anh vẫn bình an.
Anh nhớ em rất nhiều.
Anh cầu mong em khỏe mạnh, hạnh phúc. Và có thể, em sẽ có, đang có một tình yêu thật đẹp. Mặc dù vậy, anh vẫn thầm ao ước, có một lúc nào đó sẽ được nắm bàn tay của em. Có một lúc nào đó, em sẽ hiểu tình cảm sâu sắc, thầm lặng của anh. Em sẽ đặt bàn tay em vào tay anh và nói: Anh Thục ơi. Em đã đến bên anh rồi!
Các cụ đang phù hộ cho anh sống để chờ ngày đó đấy, em ạ.
Thục
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Khi Ngọc quay lại, anh nhận ra Khanh đang ngồi yên lặng với lá thư trên tay, trầm tư nhìn vô định vào một nơi xa lắm.
- Khanh đọc xong thư anh Thục chưa?- Ngọc lựa lời.
- Em đọc xong rồi anh ạ. Nhưng đọc lá thư này, em có cảm giác như anh ấy chưa hề nhận được lá thư trước em gửi. Không biết lá thư đã lưu lạc nơi nào trên tuyến đường Trường Sơn.
- Chắc chắn anh ấy chưa nhận được lá thư nào của Khanh từ ngày vào Trường Sơn. Kỷ vật duy nhất có chữ của Khanh mà anh ấy còn giữ là lá thư Khanh nhờ anh Sơn chuyển vì Khanh đang thực tập không về tiễn anh ấy được. Tôi còn nhớ trong thư có lời chúc anh ấy vào tuyến lửa chân cứng đá mềm
- Em sẽ viết một lá thư khác để hôm nào anh vào, nhờ anh chuyển đến anh Thục giúp em nhé! Lần này thì không còn sợ thư bị thất lạc nữa. Anh Thục trong ấy dạo này có khỏe không anh?
- Anh ấy vẫn khỏe. Tất nhiên chúng tôi ai cũng phải qua vài trận sốt rét. Nhưng Thục có sức khỏe tốt nên đôi khi chẳng chịu giữ gìn. Chưa cắt sốt, anh đã chống gậy ra tuyến, nhất là những đoạn bị địch đánh. Ác liệt thế, nhưng hình như bom đạn nó tránh anh ấy. Bao nhiêu lần chôn cất đồng đội, nhưng anh ấy thì không hề hấn gì.
- Trời ơi, anh nói làm em xót xa quá! Biết bao giờ chiến tranh kết thúc để các anh được trở về! Anh Thục vẫn thế. đấy anh ạ. Anh ấy đã định làm gì thì quyết làm cho bằng được.
- Đúng thế đấy Khanh! Tình yêu của anh ấy cũng vậy đấy. Anh ấy đã yêu thì không có gì lay chuyển được. Thục đã tâm sự với tôi rất nhiều. Tôi có cảm giác mọi thứ ở Trường Sơn đều gợi cho anh ấy nhớ về Khanh.
Khanh cúi đầu, im lặng hồi lâu. Rồi cô nói nhỏ, vừa đủ cho Ngọc nghe, như đang tự sự với chính mình:
: - Em và anh ấy chơi với nhau từ ngày em còn bé xíu. Anh ấy chăm sóc, che chở em như với một cô em gái nhỏ. Còn em thì luôn coi anh ấy như một người anh trai thân thiết của mình vì anh ấy là bạn của anh trai em. Em đã vô tâm quá, không đủ nhạy cảm để nhận ra tình yêu của anh ấy. Có lẽ cũng vì em chưa kịp nhận ra tình cảm của chính mình. Em thật có lỗi khi anh ấy ngỏ lời trước khi vào mặt trận, mà em thì không thể đáp lại. Em lại còn nói những điều bộc bạch thật chẳng ra sao để anh ấy phải mang thêm nỗi buồn. Đọc lá thư này của anh ấy, em càng thấy mình đáng trách quá!
- Trong câu chuyện của chúng tôi, không bao giờ thấy anh ấy trách Khanh điều gì. Chỉ có tình yêu, giống như một sự tôn thờ, anh ấy đã dành cho Khanh trọn vẹn mà thôi!
Ngọc chỉ chiếc ống bút trên bàn:
- Đây có phải là vật kỷ niệm của anh Thục tặng Khanh? Có lần tôi đã được nghe Thục kể về nó đấy.
- Vâng. Anh ấy tặng em nhân sinh nhật lần thứ mười tám.
- Tôi thực sự cảm động về tình cảm của Thục dành cho Khanh khi nghe anh ấy kể về cái ống mực này. Đó là những ngày lớp sỹ quan của anh ấy đi chặt nứa ở tận sát chân núi, cách nhà Khanh ở những hai mươi cây số. Anh ấy đã chọn một dóng tre đẹp nhất, hì hụi, nắn nót suốt mấy buổi chiều để gọt, khắc cái ống bút tặng Khanh kịp mừng sinh nhật. Chờ đến chủ nhật, Đại đội cho phép các học viên ra ngoài, nhưng phải có mặt điểm danh lúc sáu giờ chiều. Thời gian chỉ có vẻn vẹn mấy tiếng trong ngày.Anh ấy đã chạy bộ từ nơi chặt nứa để về tặng Khanh cái ống bút này, rồi lại phải chạy bộ về cho kịp điểm danh.
- Trời ơi. Thế mà em không hề biết gì về điều đó - Khanh thảng thốt- Vậy mà hôm ấy em lại còn nhờ anh ấy giúp em phần việc mẹ giao cho là róc vỏ một đống những cây sắn ra để phơi làm củi, rồi vô tư bỏ đi chơi với mấy đứa bạn. Khi em về thì anh ấy đã trở lại nơi dã ngoại rồi. Em thật là vô tâm quá!

Đôi mắt Khanh rưng rưng.

Ngọc muốn nói với Khanh thêm một điều gì đó, nhưng anh thấy hình như không còn cần thiết nữa. Đôi mắt ngấn nước kia, cái nhìn xa xăm và những lời bộc bạch tâm sự của Khanh đã nói lên tất cả rồi. Tình yêu của Thục không còn đơn phương nữa. Dù chưa biết, nhưng anh ấy đã có một tình yêu thực sự. Một tình yêu đầy mộng mơ và thật đẹp: Tình yêu nhân đôi, nỗi nhớ nhân đôi. Ngọc bỗng nhớ đến câu nói của Thục trong đêm tâm sự ở Trường Sơn: Mọi nỗi buồn, mọi hiểm nguy đối với tôi nào có nghĩa gì. Trên đời này có em là tôi còn cảm thấy đáng sống lắm. Bất giác anh ngẩng lên nhìn người con gái. Khanh đang đi về phía chiếc bàn con ở góc phòng lấy phích nước pha thêm vào ấm trà mời anh. Cô gái xinh đẹp thật. Nước da trắng mịn, dáng người óng ả, mái tóc mềm mại tự nhiên bồng bềnh buông nhẹ lên bờ vai thon thả. Anh bỗng thấy tràn ngập trong lòng một cảm giác tươi vui, thanh thản lạ thường. Có lẽ anh mừng cho Thục và cảm thấy hài lòng vì đã hoàn thành vai trò sứ giả của mình.
Rời nhà Khanh, Ngọc đạp xe lang thang qua các phố. Những ngọn đèn đường đã bật sáng. Ngọc bỗng cảm thấy mình lẻ loi giữa dòng người xuôi ngược. “Nhóm mười tám tên” bây giờ hầu hết đã có vợ. Người lấy vợ ở quê, người tình cờ bén duyên với một nàng xinh đẹp của một làng quê tuyến ống đi qua. May mắn như Quang thì cưới được một cô giáo xinh như mộng. Ngay cả người như Thục, tưởng chỉ khắc khoải với tình yêu đơn phương, rồi cuối cùng cũng sẽ nhận được tình yêu ngọt ngào của người con gái. Chuyện với cô hàng xóm, phút chao lòng với Lam rồi cũng lùi xa. Ngọc bỗng cảm thấy mình chống chếnh, ước được có một người con gái để yêu thương. Ngày trong tuyến, mẹ đã gửi thư kể với anh: có một nàng sinh viên trường đại học Y rất dễ thương, gia đình mình quen trong một lần đi nghỉ mát. Cha mẹ muốn nếu có dịp ra Hà Nội, sẽ giới thiệu. Anh đã viết thư trả lời rằng: Xin Cha mẹ đừng làm vậy, người ta cười cho. Con bây giờ gầy yếu, xanh xao vì những trận sốt rét, lại chẳng biết sống chết thế nào. Vậy mà ra đến Hà nội, khi nghe cô em gái kể: Chị sinh viên ấy tên Hạnh, đọc mấy bài thơ của anh, ngưỡng mộ anh, thì Ngọc lại tò mò muốn gặp.
Về đến nhà, Ngọc nói với cô em gái:
- Trang. Hôm nay em dẫn anh đến nhà chị Hạnh, được không?
Cô em gái tròn mắt nhìn ông anh từ đầu chí chân:
- Anh có làm sao không đấy? chẳng quen biết gì, đến nhà người ta, biết ăn nói thế nào?
- Trang cứ bảo: Anh Ngọc mới ở chiến trường ra, muốn xem Hà Nội dạo này đổi thay thế nào. Em dẫn anh ấy đi lòng vòng, tình cờ qua nhà chị, em ghé vào chơi. Sau màn giới thiệu đó, anh sẽ tự biết làm gì.
Trang gật gù:
- Có thể chấp nhận được. Ta cứ thử, nhưng em không chịu trách nhiệm nếu có hậu quả xẩy ra đâu nhé.
- Được rồi. Tin anh đi.
Kế hoạch diễn ra đúng như dự định. Không chỉ Hạnh mà cả bố mẹ cũng ra tiếp hai anh em Ngọc. Bố mẹ nàng và bố mẹ Ngọc là chỗ quen biết nhau từ hồi kháng chiến chống Pháp nên câu chuyện thoải mái và cởi mở. Hạnh mảnh mai, giản dị, đặc biệt giọng nói dịu dàng và luôn nhìn thẳng với người nói chuyện. Chính cái nhìn ấy đã có lúc làm cho hai ánh mắt chạm nhau, khiến con tim Ngọc đập liên hồi. Khi chia tay, Hạnh nói:
- Anh ở Hà nội, khi nào rảnh, em mời anh đến chơi.
- Anh sợ đến nhiều, sẽ làm phiền Hạnh-
- Không sao đâu anh. Hai gia đình mình quen biết, thân thiết với nhau mà.

Ngay từ hôm ấy, đôi mắt và hình ảnh Hạnh cứ luẩn quẩn trong đầu Ngọc. Lần trước về Hà Nội, Ngọc thấy cô đơn, chỉ mong sao nhanh được về đơn vị. Vậy mà lần này, anh bắt đầu ước gì thời gian ở Hà Nội kéo dài ra. Ngọc nhẩm tính: Chỉ còn hai ngày nữa lại lên đường rồi. Làm sao bây giờ? Ngọc bỗng thấy trân trọng người con gái này. Một sinh viên xinh đẹp, học giỏi, gia đình khá giả, nhưng chân thành, quý trọng các anh bộ đội, nhất là bộ đội ở chiến trường.
Hôm sau, Ngọc đến nhà Hạnh.Bố mẹ nàng chào hỏi đôi câu rồi lặng lẽ rút lên gác. Hạnh không ngớt hỏi Ngọc về chuyện ở Trường Sơn, về những điều mà nàng đọc được trên báo. Ngọc kể cho nàng nghe vẻ đẹp của Trường Sơn, về những ngọn núi, những dòng suối trong vắt, về những người bạn gắn bó với nhau trong gian khổ ác liệt.

Trước khi ra về, Ngọc lấy hết can đảm đề nghị:
- Hạnh này.
- Gì cơ anh?
- Anh thấy chúng mình ngồi nói chuyện trong nhà thế này làm phiền bố mẹ em quá.
- Không sao đâu anh. Bố mẹ em luôn tôn trọng các con.
- Dù sao cũng không thoải mái cho cả các cụ và cả chúng mình. Anh đề nghị thế này được không?
- Anh định sao ạ?
- Tối mai, bảy giờ anh đợi em ở đầu phố, rồi chúng mình đi lòng vòng trên phố nói chuyện.
Hạnh lưỡng lự một chút, rồi gật đầu:
- Thế cũng được anh ạ.
Tối hôm sau, họ sóng đôi bên nhau thong thả đạp xe qua các phố. Dường như họ có rất nhiều chuyện để nói với nhau mà không đủ thời gian. Nàng đưa anh qua con phố mình thường đến trường. Còn anh thì kể cho nàng nghe những chuyện thời niên thiếu, rồi chuyện Trường Sơn. Chuyện mối tình đơn phương, yêu đến thắt lòng của Thục. Thời gian trôi vùn vụt. Nhìn lại đã gần mười giờ đêm. Khi tiễn Hạnh đến cửa nhà, Ngọc nói:
- Tiếc là chúng mình gặp nhau quá muộn. Theo kế hoạch, mai anh trở lại Trường Sơn. Tuy nhiên, vẫn có thể thêm một ngày nữa, do công việc. Nếu có được cơ hội ấy, chúng mình có được gặp nhau nữa không?
- Được chứ anh. Em cũng muốn thế mà.
- Vậy anh đề nghị: Nếu mai còn được ở Hà nội, anh sẽ vẽ lên trên thân cây trước cửa nhà em một cái vòng tròn. Đầu giờ chiều, nếu em thấy cái vòng tròn ấy thì tối mai, đúng giờ hẹn hôm nay, mình lại gặp nhau đầu phố nhé.
- Vâng. Em sẽ chờ.
Chia tay em, Ngọc ra về thấy trong lòng lâng lâng. “Em sẽ chờ”. Giọng nói của em sao ngọt ngào đằm thắm vậy. Phải chăng năm năm trời gian khổ, ác liệt để anh xứng đáng được nghe những lời ngọt ngào ấy. Ước gì lại có đêm mai. Anh sẽ nói hết những điều tự đáy lòng.
Có lẽ số phận đã không nỡ để cho chàng trai phải rời Hà nội trong nỗi cô đơn như hai năm trước. Đầu giờ làm việc sáng hôm sau, Lê Trọng báo cho Ngọc biết phải lên đường chậm một ngày vì một số việc chưa xong. Nghe vậy, chàng vội vàng phóng xe về phía phố cổ. Đến trước nhà nàng, chàng nhìn trước ngó sau, rồi vẽ lên thân cây trước cửa nhà nàng một cái khoanh tròn nho nhỏ. Cái khoanh tròn giống như nét vẽ nghịch của trẻ con, nhưng đủ để nàng mở cửa là có thể nhìn thấy.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Tối hôm ấy, đôi trẻ lại thong thả đạp xe qua từng con phố. Đường Hà Nội như ô bàn cờ. Không biết đã bao lần bóng họ in trên phố như hai cái khoanh tròn dưới chân những cột đèn đường. Rồi cuối cùng, họ đã sóng đôi đến đến nơi những đôi tình nhân thường tình tự: Đường Thanh niên. Đêm thượng tuần, trăng lưỡi liềm mỏng mảnh treo giữa vòm trời đầy sao. Họ ngồi trên thềm đá bên tượng Lý Tự Trọng. Ngọc chỉ về phía ngôi trường Chu Văn An:
- Đó là mái trường anh học cuối cùng của tuổi học trò. Mười năm rồi, bạn cùng lứa với anh, một số đã hy sinh ngoài mặt trận. Trong những người đã ngã xuống, có người học giỏi lắm. Anh cứ nghĩ nếu đất nước thanh bình, họ có thể trở thành nhân tài. Chiến tranh không chỉ tàn phá làng mạc, thành phố, chùa chiền, mà nó còn cướp đi biết bao nhân tài của đất nước.
- Vâng. Em cũng nghĩ vậy. Em mong anh luôn bảo trọng.
Ngọc nắm lấy bàn tay cô gái. Nàng để yên trong bàn tay run rẩy của anh.
- Hạnh này- Ngọc nói trong hơi thở.
- Em nghe đây anh.
- Anh vào trong ấy, giữa thủ đô phồn hoa, liệu em còn nhớ đến anh?
- Em nghĩ mấy hôm nay anh đã hiểu lòng em. Em sẽ mong từng ngày anh trở về.
Nàng ngả vào vai chàng. Họ trao nhau nụ hôn đằm thắm. Ngọc ôm nàng rất chặt.
- Mai anh lên đường rồi. Em hát tặng anh mọt bài hát nhé-Hạnh thì thầm.
- Cảm ơn em. Anh nghe đây.
Nàng khe khẽ hát:
Người chiến sỹ trước giờ phút xuất chinh
Nhìn người yêu đưa tiễn mình
Mờ trong đêm chiếc thềm đá xinh xinh
Lòng lưu luyến anh giã từ…

- Anh không ngờ em có giọng hát hay thế.
- Em hát trong tốp ca của trường mà anh
- Anh cảm ơn em – Họ lại hôn nhau- Bầu trời sao hôm nay sẽ chứng kiến cho tình yêu của chúng mình. Tình yêu của em như một cột mốc đánh dấu cuộc đời anh. Từ nay, trong gian nan ác liệt, anh đã có một phương trời để thương, để nhớ. Và anh biết chắc rằng, ở phương trời ấy cũng có một nỗi nhớ đang dõi theo mình.
Đêm ấy lần đầu tiên Hạnh về nhà rất khuya.

Ngày hôm sau, Ngọc lên đường. Anh trở lại chiến trường mang theo một tình yêu. Anh bỗng thấy cuộc đời mình như đã đổi khác. Một cơn mưa bất chợt kéo đến. Cái gạt nước xe quay liên tục mà chẳng xua được nỗi nhớ đang dâng đầy. Bất giác, anh nhớ đến những câu thơ của Vũ Đình Văn:"Nếu phải chia cho người yêu một nửa, thì em ơi, nhận lấy khoảng đời đầu"
. Nửa trước cuộc đời anh chưa có em, dường như số phận đã cho anh sống để có đêm qua. Mong em hãy nhận lấy quãng đời gian truân mà anh đã vượt qua, để rồi từ nay, nửa còn lại của cuộc đời anh là của cả hai chúng mình. Anh cảm ơn một ngày lỡ việc của anh Lê Trọng, để chúng mình bắt đầu có cái khoanh tròn tình yêu nho nhỏ trên thân cây trước cửa nhà em. Anh ước cái khoanh tròn nhỏ đó từ nay luôn ở bên em. Nó là cái chao đèn em học ban đêm. Nó là cái vành xe theo em đến lớp. Mong sao tình yêu của chúng mình cũng vẹn tròn cho đến hết cuộc đời này. Và mừng hơn nữa, lần này trở vào, anh đã mang theo một lá thư của Khanh gửi Thục. Ngọc tin rằng sau lá thư này, cuộc sống tình yêu của Thục sẽ là môt cuộc sống ngập tràn hạnh phúc. Hôm qua Khanh đã đến nhà Ngọc gửi thư cho Thục. Không chỉ có vậy, em còn gửi cho Thục một túi muối vừng đen thơm phức. Nàng nói: Các anh trong ấy ăn uống kham khổ, một chút này để các anh nhớ đến quê hương. Những gì cần nói, em đã nói trong lá thư này. Nhưng em vẫn nhờ anh nói với anh Thục rằng em chờ và mong ngày anh ấy trở về.
Phải chăng đây là một chuyến trở về Hà Nội thật có hậu: Anh biết được thêm nhiều điều về tuyến ống ở hậu phương. Quang cưới vợ. Còn anh và Thục đều đã có được một tình yêu thật đẹp.
Ngày….
Anh Thục ơi. Lá thư trước em gửi đã không đến được tay anh.Chắc là nó đã bị thất lạc ở một nơi nào đó trên tuyến đường đầy trắc trở của Trường Sơn Giờ đây, vẫn là những dòng cảm xúc đó, em chỉ muốn được nói với anh rằng em nhớ, thương, và yêu anh biết bao.
Anh có nhớ về Hà Nội nhiều không anh? Em đang sống giữa lòng Hà Nội mà sao vẫn thấy nhớ đến nao lòng về một Hà Nội năm xưa, nơi anh và em đã đi qua biết bao kỷ niệm. Nhớ những chiều bằng lăng tím ngát dài mái phố. Nhớ con đường nho nhỏ thân thuộc em dạo bước bên anh mỗi lần anh đến thăm và em tiễn chân anh trở về. Đi bên anh, em nhớ có những đêm trời thu thật đẹp. Em thường lặng im. Lặng im đi bên anh để thưởng thức vẻ đẹp riêng có của mùa thu Hà Nội, nghe sao trời và gió nói những điều xao động đến bâng khuâng…Tiếc rằng ngày đó em chưa kịp hiểu và đón nhận tình yêu của anh, chưa kịp đến với những cảm xúc chân thực trong sâu thẳm lòng mình. Khi em nhận ra em không thể thiếu anh, thì anh đã xa em vào nơi chiến trườnglửa đạn
Năm năm đã trôi qua kể từ ngày anh rời xa Hà Nội. Cảnh vật vẫn y nguyên không có gì thay đổi. Vẫn nét luợn mặt hồ in dáng cũ. Vẫn con đường về Nam xa hút đó. Đêm đêm, nghe tiếng còi tàu khuya cô tịch vọng lại, hướng về phương anh nơi ấy mà em thấy trong lòng mênh mông nỗi nhớ…
Anh ơi! Cuộc chiến tranh rất có thể còn dài. Nhưng em mong và tin tưởng rằng anh sẽ vượt qua được tất cả những khắc nghiệt, hiểm nguy và sẽ sớm trở về cùng em. Em mong mỏi ngày em được đón anh trở về,. Khi đó, em sẽ được đặt bàn tay của mình vào bàn tay tin cậy, ấm áp của anh mà nói những lời hệ trọng nhất của đời mình rằng: Anh Thục ơi, em yêu anh, em cần anh biết bao! Em vô cùng cám ơn anh vì anh đã trở về.
Hãy tha thứ cho sự nông nổi và vụng dại của em bao tháng năm qua anh nhé! Cho dù thời gian xa cách bao lâu, cho dù sẽ đi qua bao mùa hoa bằng lăng nở, thì em vẫn nhớ, vẫn sẽ đợi chờ anh.
Hứa với em là anh sẽ luôn giữ gìn sức khoẻ và luôn bảo trọng anh nhé!
Nhớ và yêu anh rất nhiều.
Em Khanh

Thục thấy trong lòng tràn ngập một cảm giác ấm áp. Trời ngoài kia thật đẹp, trong xanh kỳ lạ. Vậy là một ngày mới tốt lành lại đến.


Cục trưởng Nguyễn Điền chăm chú nhìn lên tấm bản đồ vận tải. Đến cuối năm 1974, tuyến đường ống dẫn dầu của bộ đội Trường Sơn đã đi hết cực nam trung bộ và đang tiến vào chiến trường Đông Nam bộ. Tuyến ống từ hâu phương vào đến Long Đại thì rẽ thành hai nhánh chạy về hai phía đông và tây của dãy Trường Sơn. Hai nhánh đó gặp nhau ở Plei Khốc, ngã ba biên giới Vệt nam- Lào- Cam pu chia. Hai tuyến đường ống đó chính là hai trục đường hành quân của bộ đội ta từ Bắc vào Nam. trên tuyến đường ống ở phía Tây Trường Sơn, gian nan nhất là những đoạn cửa khẩu vượt qua biên giới, như 050, 911. Đây là nơi thời tiết phân chia hai vùng mưa nắng. Đây cũng là nơi địa hình hiểm trở, địch đánh phá vô cùng quyết liệt để ngăn chặn. Vượt qua biên giới rồi, sẽ là những trọng điểm như Ngầm bản Lắc, Pha Bang, Đường 9…Đoạn tuyến phía đông Trường Sơn từ Quảng Trị trở vào thi công khi không còn sự uy hiếp của không lực Mỹ, nhưng lại quá cơ cực với điều kiện địa hình thời tiết. Hơn bốn trăm cây số tuyến ống đều phải vượt qua những ngọn núi, con đèo hiểm trở như Đá Bàn, A Dớt, A Tép, Đèo Lò Xo…, những con suối hai bên bờ dựng đứng như Ka Ti, những dòng sông mưa về nước xiết như Đakrông, sông Bung…Vượt qua địa hình ấy trong điều kiện mùa mưa, việc vận chuyển ống, kéo máy bơm vào vị trí, chuyển những chiếc bể sắt cồng kềnh vào kho có những lúc tưởng như không thể. Chẳng những thế, tuyến vượt qua những cứ điểm cũ của địch và những vùng địch từng đánh phá ác liệt, một số bộ đội thương vong do vấp phải mìn , bom bi, bom vướng còn sót lại. Để thi công được tuyến đông Trường Sơn, Bộ Tư lệnh đã phải điều thêm lực lượng của hai Trung đoàn 952 và 953 sang tăng cường cho Trung đoàn 967. Sau Hiệp định Paris, tốc độ thi công của bộ đội đường ống cũng thần tốc như bước tiến của đại quân. Chỉ riêng mùa khô 1973-1974, bộ đội đường ống Trường Sơn đã thi công được hơn bảy trăm cây số ống và hơn một vạn mét khối kho, bằng toàn bộ khối lượng thi công cả năm trước cộng lại. Với chiều dài tuyến đó, lực lượng bộ đội đường ống Trường Sơn đã phát triển thành bốn trung đoàn. Ngoài các trung đoàn 952,953,967 đã qua những năm tháng lửa đạn ác liệt, còn có thêm Trung đoàn 973 thi công và vận hành đoạn tuyến tiếp giáp chiến trường Nam Trung bộ và Đông Nam bộ. Với quy mô ấy, Bộ Tổng tham mưu đã thành lập Cục Xăng Dầu thuộc Bộ tư lệnh 559 để thống nhất chỉ huy hệ thống đường ống và đảm bảo xăng dầu cho các mặt trận, đồng thời là cơ quan tham mưu cho Bộ Tư lệnh về công tác đảm bảo xăng dầu. Nhìn tấm bản đồ tuyến đường ống hiện đại dài hàng ngàn cây số, Nguyễn Điền chạnh lòng nhớ tới những ngày Binh trạm 112 của ông gian truân bắc đường ống bằng cây lồ ô để đưa xăng vượt trọng điểm 468, nhớ thương những chàng trai cô gái bỏng lưng gùi xăng qua trọng điểm, những người đã ngã xuống khi vần xăng qua suối Trà Ang. Bây giờ thì đường ống hiện đại đã có quy mô một sư đoàn. Và cơ quan Cục đã có những cán bộ đường ống dày dạn kinh nghiệm nhất: Các cán bộ Trung đoàn như Đặng Văn Thế, Nguyễn Đông, các kỹ sư như Toại, Lê Khôi, Ngọc, Quang, Thủy… Trước đây, đội hình vận tải cơ giới quy mô đại đội, tiểu đoàn chia thành từng tốp bí mật chạy đêm, dưới các tán rừng khi trên trời, không quân Mỹ hoàn toàn làm chủ. Sau Hiệp định Paris, đã chuyển sang vận tải với đội hình trung đoàn, sư đoàn ô tô. Xe chạy ngày. Để đảm bảo cho đội hình như vậy, cứ khoảng một trăm đến một trăm bốn mươi cây số, bộ đội đường ống lại tổ chức một trạm cấp phát. Các trạm cấp phát đều dựa vào nguyên lý tự chảy nên không cần đến máy bơm. Các cán bộ, chiến sỹ đường ống làm việc rất khẩn trương, có ngày mỗi trạm cấp phát cho tám trăm xe. Tuy vậy, không phải mọi viêc đều dễ dàng. Ở khu vực Tây Nguyên, Nam Trung bộ của Trung đoàn 953 và 973, máy bay địch thường đánh phá các kho, khu vực trạm bơm. Thám báo địch đặt mìn phá tuyến ống. Nhiệm vụ của Cục bây giờ là bảo vệ được tuyến đang vận hành và thi công tuyến ống vươn nhanh vào Nam bộ.

Tiếng chuông điện thoại cắt ngang dòng suy nghĩ của Nguyễn Điền:
- Tôi 601 đây. Anh Điền đấy phải không?
- Vâng. Tôi nghe.
- Anh lên gặp tôi ngay!
Tư lệnh gọi giật giọng thế này là có chuyện rồi. Nguyễn Điền lo lắng vơ lấy sổ công tác, đi về phía hầm chỉ huy.
Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên hỏi Nguyễn Điền:
- Đường ống hiện nay đã thi công đến đâu rồi?
- Báo cáo anh, đã đến gần Buprăng.
- xăng thì bơm đến đâu?
- Vẫn chưa vượt qua sông Sê rê pốc.
- Vậy là đường ống đã vào đến cửa ngõ B2 còn xăng thì đi sau hàng trăm cây số. Sao vậy? Các anh có biết ta đang giành giật với thời gian từng ngày không?-
Nguyễn Điền hiểu rằng Tư lệnh bức xúc sốt ruột là hoàn toàn có lý do. Sự chậm trễ của đường ống có thể ảnh hưởng đến đại cục. Mấy tháng đầu mùa khô này, lưu lượng vận tải chiến lược trên tuyến Tây Trường Sơn đã tăng hàng chục lần so với mùa khô trước. Hàng ngày, hàng vạn xe di chuyển trên đường, hầu hết là xe vận tải nặng, xe đặc chủng của các quân binh chủng. Đường toàn đèo dốc, lượng xăng dầu tiêu thụ lớn đến mức chỉ có đường ống mới đáp ứng được. Ông lựa lời:
- Báo cáo. Mấy hôm nay máy bay địch đánh phá khá dữ dội vào một số kho xăng của ta ở nam Tây nguyên. Đồng thời mới xuất hiện những trận mưa trái mùa, khiến lũ một số sông dâng lên đột ngột, cuốn trôi ống. Chúng tôi đang cho kiểm tra.
- Đó là lý do thực tế. Nhưng tôi thực sự không hài lòng về sự chậm trễ này. Sáu năm qua, các anh đã đầy kinh nghiệm chống chọi với mưa lũ Trường Sơn để thi công và vận hành. Còn mấy cái vụ đánh phá của máy bay Ngụy thì ăn nhằm gì với sức chịu đựng của chúng ta thời bom đạn Mỹ. Có vấn đề về kỹ thuật phải không?
- Vâng. Trung đoàn 973 đang tìm nguyên nhân.
- Còn Cục thì định sao?
- Chúng tôi sẽ cử cán bộ vào trong ấy giúp thêm cho đơn vị.
- Không phải là sẽ, mà.phải cử người đi ngay. Cử ai có kinh nghiệm thực sự giúp được đơn vị tháo gỡ. Gặp khó khăn gì thì báo cáo ngay. Bộ Tư lệnh sẵn sàng tạo mọi điều kiện.
- Rõ.

Về phòng làm việc, Cục trưởng triệu Đặng Văn Thế và Toại. Ông nói:
- Tình hình trong Trung đoàn 973 có gì mới không? Cụ Nguyên đang vô cùng lo lắng.
Toại báo cáo:

- Báo cáo Cục trưởng. Mấy hôm nay Trung đoàn 973 đã rút khỏi kho đầu nguồn hàng trăm mét khối xăng để bơm lên tuyến ống, nhưng không hiểu sao, các kho phía trước không nhận được xăng, mà đi dọc tuyến không phát hiện được chỗ xăng chảy ra. Hiện chưa rõ nguyên nhân gì vì mấy hôm nay, máy bay của địch đánh vào một số kho và tuyến ống của Trung đoàn 973, gây một số thiệt hai, nhưng không thể lớn như vậy. Các kỹ sư trong ấy nhận định có thể do nút khí. Nhưng nếu ống không vỡ thì xăng đi đâu?.
- Phải cử người vào trong ấy ngay. Đi ngay trong ngày hôm nay. Đã đi là phải thực sự giúp được cho đơn vị. Nên cử ai?
- Tôi đề nghị cử kỹ sư Ngọc. Cần có một cán bộ cấp Cục cùng vào để có đủ thẩm quyền quan hệ với các đơn vị bạn hoặc trực tiếp xin ý kiến Tư lệnh- Đặng Văn Thế đề xuất.
 
Chỉnh sửa cuối:

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Cục phó Lê Hiền và Ngọc được cử vào Trung đoàn 973. Chiếc Gaz-69 lắc lư trên những con đường uốn lượn qua các triền núi giữa mùa khô của Tây Trường Sơn. Đi giữa ban ngày mới thấy Trường Sơn hung vĩ nhường nào. Những ngọn núi trùng điệp nối nhau đến tận chân trời. Khi xe đi trên đỉnh núi, có thể phóng tầm mắt đến xa tít mà ngắm các sườn núi, hoa vàng, đỏ, trắng đua nhau khoe sắc. khi xe đi dưới lòng khe, không thể không ngây ngất trước những tán cây xòe rợp bóng, những cành phong lan đu đưa trên những thân cổ thụ. Dòng suối trong vắt, không gian ẩm ướt cho ta cảm giác mát rượi nguyên sơ. Tuy nhiên, đi giữa mùa khô ở Tây Trường Sơn, không phải lúc nào cũng mơ mộng. Những con đường không có mặt đá, mặt nhựa hay bê tông. Hàng vạn xe mỗi ngày chạy trên mặt đất tự nhiên, cứ bào dần mặt đường thành lớp bụi. Chỉ đến giữa mùa khô là bụi có thể dày hàng thước. Thậm chí xe con như chìm hẳn xuống lớp bụi đó, không đi được, Cánh lái xe gọi đó là “Pa ti nê bụi”. Những người ngồi trên xe, chỉ đi vài chục cây số là bụi phủ trắng từ đầu chí chân. Bước xuống xe, mỗi người như một ụ mối di động. Đi trong điều kiện ấy, bình quân mỗi giờ, ô tô chỉ đi được chừng mười cây số.Từ Bộ Tư lệnh vào Trung đoàn 973 dự kiến đi hết hai ngày, nhưng phải tới bốn ngày vì bụi đã làm xe bị hỏng máy dọc đường.

Lê Hiền và Ngọc đến bờ sông lúc xế chiều. Nơi tuyến ống vượt sông Sê rê pốc là một khu rừng già bằng phẳng.và mát rượi. Lòng sông tại đây thu hẹp, lác đác có vài tảng đá lớn. Qua điểm tuyến ống vượt vài trăm mét, sông đột ngột goặt về phía trái, đột ngột đến mức ta tưởng chúng biến vào giữa đại ngàn. Những trận mưa bất chợt suốt tuần qua đã mang lũ về khiến dòng sông trở nên hung dữ và ngầu đỏ. Một vài cái lán tạm dựng ở bờ bắc và nam sông. Dường như mọi sự chú ý của Trung đoàn 973 đang tập trung vào con sông quái ác này. Hồ Tân, Chính ủy Trung đoàn, Phạm Đà, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 21, Tiểu đoàn phụ trách đoạn tuyến này, và kỹ sư Danh, mới được điều từ Trung đoàn 953 sang làm Trưởng Tiểu ban kỹ thuật Trung đoàn, đều có mặt tại bờ sông. Gặp Ngọc, Danh mừng lắm:
- Mươi ngày trước, xăng đã vượt qua sông, rồi đột ngột biến mất. Cả tuyến không phát hiện xăng mất đi đâu. Nếu vỡ ống dưới sông, phải có váng xăng nổi lên mặt nước, nhưng ở đây không hề thấy. Các sông suối khác cũng vậy. bộ đội đã kiểm tra dọc tuyến ống, không phát hiện ra bất kỳ chỗ nào có xăng rò ra. Mấy hôm rồi, máy bay địch đánh một số điểm trên tuyến, nhưng ta đã kịp thời nối lại. Với kinh nghiệm bấy nhiêu năm, mình không tin bom địch có thể làm mất hàng trăm mét khối xăng. Suốt tuần vừa rồi, Ban chỉ huy Trung đoàn như ngồi trên đống lửa. Sắp đánh lớn rồi, đại quân đang hành quân như thác lũ mà xăng không theo kịp, bị Tư lệnh Nguyên phê bình gay gắt.
- Mình trên ấy, nghe các cậu nhận định xăng không bơm lên được có thể do nút khí. Mọi người đều đặt câu hỏi: Nếu chỉ là nút khí thì xăng vẫn nằm trong ống. Vậy mà hàng trăm mét khối xăng đã được bơm lên tuyến, nó đi đâu? Bây giờ đã tìm ra nguyên nhân chưa?
- Chưa khẳng định. Có người phản ảnh ở hạ lưu cách đây hai cây số có nhiều cá chết. Nhưng ở đây thì không hề thấy váng xăng, nên vẫn bán tín bán nghi. Bởi vậy mới cần sự chi viện từ Cục.

Ngọc đi về phía mép nước, Anh đặt tay lên đường ống, và cảm tấy có cái gì đó rung giật. Anh áp tai vào ống thì nghe từ dưới đáy sông vọng lên tiếng kịch..kịch, như có ai lấy búa gõ lên đường ống.

Một cuộc họp được tổ chức ngay sau bữa cơm chiều, dưới sự chủ tọa của Chính ủy Hồ Tân. Hồ Tân vốn là lính chiến, tính tình nóng nảy, nên anh em tặng cho ông biệt danh là Hồ Lửa. Vẫn là câu chuyện tranh luận mấy ngày nay: Ống dưới sông có vỡ không? Người thì bảo không phải ống vỡ, vì khi bơm xăng, khúc sông này không hề thấy nổi váng xăng. Lúc đầu, Danh cũng bảo vệ quan điểm này, anh cho rằng có hiện tượng nút khí trên đường ống nên xăng không thể đi được. Nhưng sau suốt mấy giờ vận hành, xăng bơm lên tuyến mà không vượt qua được sông thì chính Danh cũng vô cùng lo lắng. Một số khác thì khẳng định ống đã vỡ. Tiếng gõ ở đáy sông chứng tỏ ống bị nước lũ giật đi giật lại, đập lên một mỏm đá nhọn. Việc cá chết ở hạ lưu là bằng chứng. Có thể vì lũ xiết quá nên xăng bị cuốn đi thật xa trước khi nó nổi lên mặt nước. Ngọc phát biểu:
- Nghe tiến gõ từ dưới lòng sông, tôi cảm thấy ống có thể bị thủng do liên tục bị đập vào đá. Tuy nhiên, để biết chắc chắn, tôi đề nghị đưa một chiếc xe bơm đến bờ sông, bơm nước từ bờ bắc sang bờ nam để kiểm tra. Nếu quả ống đã thủng, ta sẽ lắp một tuyến khác thay thế.
Đề nghị của Ngọc được đáp ứng. Ngay sáng hôm sau, chiếc xe bơm đã đứng trên bờ bắc sông. Đoạn ống vượt sông được cắt ra khỏi tuyến ống ở cả hai bờ để kiểm tra. Khi bơm nước vào đoạn ống vượt sông, thấy nước vẫn xuất hiện ở bờ nam. Ngọc đề nghị cử người theo dõi miệng ra của nước ở bờ nam. Khi ngừng bơm, lập tức nước trong ống tụt xuống rất nhanh. Điều đó khẳng định ống dưới sông đã thủng. Lập tức một tuyến ống vượt sông ngầm dưới nước được lắp thay thế đoạn ống thủng. Mặc dù nước lũ chảy xiết, nhưng bộ đội Tiểu đoàn 21 nhiều người đã có kinh nghiệm được chuyển từ Trung đoàn 953 sang, nên chỉ trong một buổi vật lộn với nước xiết, Một đoạn ống mới được đánh chìm xuống đáy sông gần tuyến cũ. Ngay sau khi đoạn ống mới an vị, lại thấy tiếng gõ từ dưới đáy sông. Và không phải đợi lâu. Hơn một giờ sau, bằng phương pháp bơm thử, đã thấy ống bị thủng nặng. Ngọc và Danh tần ngần đứng bên bờ sông nhìn dòng nước đục ngầu. Chắc dưới đáy sông, rất nhiều khối đá lởm chởm khiến ống chênh vênh giữa các mỏm đá. Giờ mà lắp tiếp một đoạn khác, sẽ chẳng có gì đảm bảo tốt đẹp. Vậy làm sao để đường ống vượt sông đây? Chỉ còn cách treo ống trên không. Nhưng trong tay không có cáp, không có dây thép. Tệ nhất là chuyên ngành của Ngọc và Danh lại không có môn thiết kế cầu treo. Việc thiết kế, tính toán không cẩn thận, có thể đứt dây treo, hoặc khi ống chứa đầy xăng, sẽ võng xuống mặt nước, rồi nước lũ lại cuốn trôi ống. Tuy nhiên, khó cũng phải làm, vì trước khi đi, Cục trưởng đã phổ biến: Khó gì cứ báo về, Bộ Tư lệnh sẽ tạo mọi điều kiện.
Tối hôm đó, Hồ Tân và Lê Hiền chủ trì một cuộc họp bàn cách giải quyết. Chính ủy Hồ Tân nhấn mạnh rất gay gắt:
- Đường ống đã cách đây hàng trăm cây số, xăng mà không vượt qua được sông này thì chúng ta có lỗi rất lớn.

Cuộc họp nhanh chóng nóng lên trước hai luồng ý kiến. Một số cho rằng cần tiếp tục lắp một đường vượt sông chìm khác. Miễn sao ở chỗ đó lòng sông không có đá, hoặc đáy sông không lởm chởm như ở đoạn sông này. Vượt sông chìm là sở trường của bộ đội đường ống, giữ được bí mật với máy bay địch, lại không lo gì thiếu vật tư treo ống. Một luồng ý kiến khác cho rằng cả đoạn sông này đều là bờ đá. Đi tìm đoạn khác sẽ rất xa, vừa tốn ống, và điều quan trọng là nước sông đang đục ngầu, không biết đáy sông thế nào, lỡ lại bị thủng ống, sẽ càng bế tắc. Bởi vậy, nếu có cách nào treo ống qua sông thì mới chắc đảm bảo an toàn cho ống. Cả hai ý kiến đều có lý. Khi cuộc họp nghiêng về phía treo ống qua sông, lập tức, câu hỏi lớn được đặt ra: Lấy dây gì treo ống. Dây song trong rừng được đề cập đến đầu tiên. Tuy nhiên, vì lòng sông rộng hơn một trăm mét nên khó kiếm được dây song dài thế. Nếu dùng dây song, nhất định phải nối nhiều đoạn với nhau. Điều đáng ngại nhất là chưa có tài liệu nào nói về khả năng chịu tải của dây song và dây mây. Nếu không may, khi đang bơm xăng mà đứt dây thì hậu quả còn tệ hại hơn. Bàn đến đây, một hy vọng được nhen nhóm, khi Cục phó Lê Hiền nói:
- Gần đây có một Tiểu đoàn Công binh cầu phà. Tôi sẽ sang bên đó xem họ có giúp gì được mình không. Chỉ cần họ có vật tư ta cần, là ta có thể xin được, vì Tư lệnh đã chỉ thị bằng mọi giá phải nhanh chóng đưa xăng vượt qua sông Sê rê pốc

Sáng hôm sau, Ngọc theo Cục phó Lê Hiền sang Tiểu đoàn công binh. Rất may, tại đây, họ gặp Cục trưởng Cục Công binh của Bộ Tư lệnh đang vào kiểm tra tình hình, và được sẵn lòng giúp đỡ. Hướng dẫn họ là Chiến, một sỹ quan rất trẻ. Ngọc mừng khôn tả khi biết đó là một kỹ sư cầu, người mà anh có thể nhờ cậy về thiết kế cầu treo. Ở đây không có dây cáp, mà chỉ có thép tròn xây dựng. Tất cả mọi người đều chung nhận xét: Trong điều kiện thi công hoàn toàn thủ công, chỉ có thể dùng thép phi sáu và phi bốn. Sau khi nghe Ngọc trình bày yêu cầu treo ống vượt sông, địa hình thực tế, Chiến hý hoáy tính toán một lúc, rồi nói:
- tám sợi thép phi sáu chia làm hai, chạy song song, rồi dùng thép phi bốn nối chúng với nhau thành giàn đỡ là có thể treo ống được. Tuy nhiên, phải tìm cách bện chúng lại để cùng chịu lực. Nếu chúng không liên kết với nhau, ống sẽ kéo đứt từng sợi một cho đến khi phá hủy toàn bộ dàn dây của mình.
- Tôi sẽ làm như vậy. Tuy nhiên, biết căng đến lực nào để khi treo ống vào, rồi bơm xăng mà không bị võng xuống dòng nước xiết?
Chiến nhíu mày:
- Khó thật.Ở đây chẳng có máy móc gì để đo độ võng của dây.
Ngọc nghĩ một lúc rồi đắn đo:
- Tôi có cái địa bàn năm tác dụng, có thể đo được góc nghiêng. Ta thay việc tính độ võng bằng việc tính góc nghiêng của dây ngay đầu trụ.
Chiến reo lên:
- Thế là ổn rồi. Dùng địa bàn đo góc độ chính xác thấp, nhưng bù lại, ta sẽ lấy hệ số an toàn lớn hơn. Anh mang dây thép về, đo đạc cần thận khẩu độ vượt sông, chiều cao trụ hai đầu dây, báo cho tôi, tôi sẽ tính ra góc nghiêng, báo cho anh.
Cục trưởng Công binh bắt tay Lê Hiền rất chặt:
- Tôi đã báo cáo việc này, Tư lệnh 601 chỉ thị tạo mọi điều kiện cho các anh. Chúng tôi có thuyền, dây thép, ô tô, dụng cụ, và cả thợ kỹ thuật. Anh cần gì, chúng tôi sẽ hết sức giúp đỡ.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Trở lại điểm vượt sông, Lê Hiền đề nghi Hồ Tân triệu tập một cuộc họp tất cả mọi lực lượng có liên quan: Ban chỉ huy Tiểu đoàn 21, các cán bộ kỹ thuật Trung đoàn 973, và cả đại diện Tiểu đoàn công binh cầu phà. Sau khi trao đổi với Danh, Ngọc trình bày phương án sơ bộ, và nhấn mạnh rằng, các yếu tố để đảm bảo bắc ống vượt sông là hoàn toàn khả thi bởi có sự giúp đỡ của tiểu đoàn công binh cầu phà. Không ít ý kiến phản biện, lo lắng được nêu ra. Nhưng qua thảo luận, đều tìm được lời giải.

Ngay sáng hôm sau, tất cả mọi người hồ hởi bắt tay vào việc. Đây là lần đầu tiên tuyến ống vượt sông lớn bằng phương pháp treo. Tiểu đoàn trưởng Đà là một người rất tháo vát. Anh cùng Ngọc chọn điểm hẹp nhất để ống vượt sông, bàn kỹ quy trình để có thể kéo những sợi thép qua sông và liên kết chúng lại. Hai bên bờ sông trở thành công trường tấp nập. Tiếng cưa, tiếng đục, tiếng hò kéo những khúc gỗ lớn. Ngọc vừa ngạc nhiên, vừa cảm động về sự khéo tay và sức sáng tạo của bộ đội. Bất kỳ việc gì cũng đều có sáng kiến giải quyết: Trụ dây hai bên bờ sông được làm bằng những thân cây gỗ lớn đặt xuống hố đào đến tận nền đất cứng. Những cuộn thép phi sáu cong queo do vượt qua bao cung đường bom đạn, được dùng ô tô kéo thẳng cho đến khi đạt yêu cầu. Thuyền ván của đơn vị công binh tận tình giúp đỡ mọi việc vận chuyển qua sông.
Ngọc đo chiều cao từ đỉnh trụ đến mặt nước, và đo khoảng cách trụ hai bên bờ, gọi điện báo cho Chiến:
- Anh tính nhanh góc nghiêng dây ở hai đầu trụ, báo cho tôi để thi công. Ở đây mọi việc đã sẵn sàng.
Chỉ ít phút sau, Chiến đã cung cấp các thông số cho Ngọc.

Những chiếc tời tự tạo kéo căng các sợi thép. Ngọc dùng địa bàn năm tác dụng đo độ nghiêng đầu dây cho đến khi đạt yêu cầu thì dừng lại. Tám sợi dây thép phi sáu tạo thành hai tuyến dây chịu lực được cố định vào tời và các gốc cây lớn. Những đoạn ống lắp sẵn ở bờ bắc được từ từ kéo qua sông, gối lên những đoạn dây thép phi bốn đóng vai trò những móc treo ống lên hai tuyến dây chịu lực. Khi mặt trời khuất sau rặng núi, cũng là lúc tuyến ống nối thông giữa hai bờ nam bắc. Ngọc cho bơm nước đầy ống để thử tải. Cả công trường hồi hộp nhìn những sợi thép và những chiếc ống no nước từ từ võng xuống, rồi dừng lại cách mặt nước lũ khỏang ba mét. Thêm mấy phút chờ đợi, rồi cả hai bên bờ sông vỡ òa bởi những tiếng reo hò. Ngọc cảm thấy rưng rưng xúc động. Ý tưởng vẫn chỉ là ý tưởng. Khi triển khai ra, nếu không có sự chỉ huy nhịp nhàng, không có sáng kiến tháo gỡ khó khăn trong quá trình thi công và sự khéo tay của bộ đội, thì không thể thành công được. Anh đề nghị để ống chịu tải nước qua đêm cho hoàn toàn yên tâm, sáng hôm sau mới bơm xăng.
Qua một đêm, đoạn ống treo vẫn hoàn toàn ổn định. Mấy chú lính phấn khởi quá còn đi trên ống, bám vào dây để qua sông như đi trên một chiếc cầu treo. Bây giờ thì không còn lo nước lũ phá ống nữa rồi. Hồ Tân báo về Sở chỉ huy cho nổ máy vận hành. Mọi người áp tai vào ống, lắng nghe tiếng xăng róc rách chảy trong ống với niềm vui khôn tả.
Ba ngày sau khi xăng vượt qua sông Sê rê pốc, nửa đêm ngày 18 tháng 1 năm 1975, xăng đã theo đường ống đến Bu Prăng, cửa ngõ mặt trận B2. Một chiến trường xa khát từng giọt xăng, nay xăng theo đường ống chảy vào như suối đã tạo nên một không khí tưng bừng, náo nhiệt chưa từng thấy. Hàng trăm xe chờ sẵn ở kho để nhận xăng đưa về các đơn vị.

Mười một giờ trưa ngày 11 tháng ba, Sư đoàn 316 đã làm chủ hoàn toàn thị xã Buôn Ma Thuột. Thị trấn Đức Lập đã được giải phóng, mở toang cửa ngõ cho ta tràn xuống miền Đông Nam bộ. Quân địch ở Tây Nguyên hoàn toàn rối loạn. Cục diện chiến trường toàn Miền Nam đã bước sang một bước ngoặt mới.
Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên chăm chú đọc những bức điện báo tin thắng trận dồn dập bay về. Trong ông dâng lên một niềm vui khó tả. Nhanh thật.chỉ hơn một tháng trước, ngày 6 tháng 2, Đại tướng Văn Tiến Dũng trên đường vào chỉ đạo chiến dịch Tây Nguyên, đã vào làm việc với Bộ Tư lệnh Trường Sơn, phổ biến nội dung cuộc họp ngày 9-1-1975 của Thường trực Quân ủy Trung ương đánh giá tương quan lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường; đồng thời, xác định trong mùa khô 1974-1975, hướng tiến công chủ yếu của ta là Tây Nguyên, giải phóng một phần tỉnh Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức gồm 3 thị xã Cheo Reo, Gia Nghĩa, Buôn Ma Thuột. Một Phó tư lệnh bộ đội Trường Sơn được bổ nhiệm làm Phó tư lệnh chiến dịch. Sau đoàn của Bộ Tổng Tham mưu, các đồng chí lãnh đạo cao nhất của **** và quân đội như Nguyễn Văn Linh, Phạm Hùng, Võ Văn Kiệt…từ Miền Nam ra họp Bộ Chính trị mở rộng, trên đường trở về cũng ghé qua làm việc. Những điều các đồng chí lãnh đạo truyền đạt đã thổi vào Bộ Tư lệnh Trường Sơn một không khí rạo rực chuẩn bị. Kế hoạch vận tải quy mô lớn của Bộ Tư lệnh trong mùa khô 1974-1975, lấy tên là “Chiến dịch vận chuyển 19-5” nhằm dứt điểm gọn chuyển quân bổ sung, chuyển hàng cho chiến trường Nam bộ, Cam-pu-chia và Lào; hoàn thành kế hoạch dự trữ chiến lược và tạo chân hàng cho vận chuyển mùa mưa năm 1975, đã được chuyển sang một kế hoạch hoàn toàn mới. Các cơ quan của Bộ Tư lệnh: tham mưu vể tác chiến, vận tải, xăng dầu đường ống, phòng không, thông tin… đã làm việc suốt ngày đêm để hoạch định một kế hoạch đảm bảo về mọi mặt phục vụ chiến dịch Tây Nguyên. Sư đoàn bộ binh 968 được giao nhiệm vụ nghi binh ở bắc Tây Nguyên. Khi giao nhiệm vụ, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã nhấn mạnh với Chính ủy sư đoàn: Tuy là nghi binh chiến dịch, nhưng nhiệm vụ của sư đoàn có ý nghĩa chiến lược, góp phần quyết định thắng lợi. Để đảm bảo hậu cần cho chiến dịch, tất cả vũ khí, nhất là đạn pháo ở các kho tàng được kiểm kê, kiểm tra lại, chuyển cho các lực lượng tác chiến. Các sư đoàn, trung đòan vận tải của Bộ Tư lệnh Trường Sơn được huy động tối đa chuyển quân, hậu cần, binh khí kỹ thuật phục vụ chiến dịch. Các đơn vị công binh được huy động bí mật mở đường cơ động. Để giữ bí mật, những con đường đi trong rừng nếu phải đốn cây thì chỉ cưa sẵn ba phần tư thân sát mặt đất, xóa dấu vết. Một phần tư thân còn lại sẽ được cưa ngay trước giờ nổ súng mở màn chiến dịch. Chỉ qua hơn một tháng mà cục diện ciến trường đã hoàn toàn đổi khác.
Để đảm bảo xăng dầu chuyển quân và cơ động binh khí kỹ thuật, cần có ngay kho xăng lớn tại khu vực Đức Lập. Yêu cầu quá gấp, mà từ trục đường ống ở phía tây đến Đức Lập tới hai mươi tám cây số. Bộ đội Trung đoàn đường ống 973 dùng ô tô rải ống dọc đường. Những đoạn tuyến cắt rừng, họ phải vác ống chạy cho kịp tiến độ. Nhờ đó, một kho xăng với sức chứa một ngàn mét khối nối với tuyến ống đã kịp thời bảo đảm nhu cầu chiến dịch. Bây giờ thì mọi diễn biến trên mặt trận Tây Nguyên đã hoàn toàn như dự kiến, và sự rối loạn của địch đã tạo nên thời cơ mới đẩy nhanh cuộc chiến đến thắng lợi.

Lê Trọng cùng Trung đoàn phó Trung đoàn 973 ngồi trong nhà của Ban chỉ huy kho. Cùng với họ, còn có cả chỉ huy một số đơn vị cơ giới và lãnh đạo chính quyền địa phương. Sự kiện xăng theo đường ống từ miền Bắc vào Nam Bộ như là một phần đảm bảo cho thắng lợi, làm náo nức lòng người. Tính đến thời điểm này, đây là kho cực nam của tuyến đường ống dẫn dầu Trường Sơn. Kho được đặt trong cánh rừng kín đáo của một địa danh gọi là Bù Gia Mập, một căn cứ kháng chiến của bộ đội ta trên chiến trường Miền Đông. Điạ hình không dốc, nhưng đủ để đặt kho cấp phát tự chảy. Ngoài kia, từng đoàn xe vận tải, xe stec đang nối nhau chờ vào nhận xăng.. Ban Mê Thuột đã giải phóng. Các Binh đoàn chủ lực của ta với xe tăng, pháo lớn đã vào đến đây, việc đảm bảo xăng bằng đường ống như một giải pháp đồng bộ bảo đảm cho thắng lợi. Thế trận xăng dầu ở khu vực Miền Đông Nam Bộ đã được chuẩn bị sẵn sàng cho đánh lớn. Hai kho bể hàn với sức chứa hàng ngàn mét khối đã được xây dựng ở Làng Chín và Làng Bảy- Lộc Ninh, trên thượng nguồn Sông Bé. Trước mắt, xăng sẽ được chuyển từ đây sang đó bằng xe stec, sẵn sàng đáp ứng cho đại quân ta tiến về Sài Gòn.

Theo kế hoạch thì đêm nay xăng sẽ được bơm vào đến đây. Mọi việc dường như suôn sẻ, nhưng với kinh nghiệm của mình, Lê Trọng không loại trừ bất kỳ tình huống phức tạp nào, nhất là vào những thời điểm quyết định. Tuyến vượt Cổng trời thử rửa xong thì bị đánh tan hoang, phải hàng tháng sau mới khôi phục được. Tuyến vượt đèo 700, chỉ bơm xăng được vài ngày thì B52 chà đi xát lại. Rồi ngay cả khi không còn chịu sức ép từ trên không, tưởng chừng cứ lắp ống, rồi bơm, là xăng tới đích, thì lại bị nước lũ đập thủng ống dưới lòng sông Sê-rê-pốc. Đoạn tuyến cuối này cũng chẳng là ngoại lệ. Tuyến chỉ ba mươi cây số, thử rửa xong từ giữa tháng hai, vậy mà đủ các nguyên nhân cả thời tiết, cả kỹ thuật, cả sự ngăn chặn của địch, mãi đến hôm nay mới bơm xăng được. Để giảm tối thiểu lượng xăng lẫn nước, Trung đoàn đã ra lệnh cố gắng tháo nước trong ống ở mức tối đa trước khi bơm xăng.
Thời gian nặng nề trôi. Những đoàn xe vào ăn xăng tiếp tục nối nhau chờ ở bãi cấp phát. Trung đoàn phó yêu cầu người trực vận hành cứ mười phút báo cáo một lần tình hình trên tuyến. Có lẽ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ , lúc này thời gian thực sự là lực lượng vật chất. Nhanh một giờ, sức mạnh tăng lên mười lần. Nhanh một ngày sức mạnh tăng lên một trăm lần.
Người sỹ quan trực vận hành báo cáo: “Xăng chỉ còn cách kho chừng một cây số”. Lê Trọng đích thân ra tận cửa xả nước, chờ xăng tới. Và chỉ hơn mười phút sau, cửa ra bắt đầu có mùi xăng. Cậu lính canh van reo lên: “Xăng vào đến nơi rồi!”. Lê Trọng cho đóng van, đưa hỗn hợp xăng-nước vào bồn chứa. Người ta có thể nghe tiếng xăng vào các bồn chứa rào rào như suối chảy. Lê Trọng xem đồng hồ: Hai mươi mốt giờ ba mươi phút ngày 14 tháng 3 năm 1975. Ông hít một hơi thật sâu, ngước nhìn bầu trời đầy sao. Bất giác, ông nhớ đến phút thiêng liêng hứng chai xăng đầu tiên trên tuyến ống X42. Gần bảy năm rồi. Biết bao thăng trầm, gian nan vất vả, biết bao xương máu mới có được giây phút này đây. Có ai đó vỗ vai Lê Trọng. Ông quay lại. Đồng chí Phó Tư lệnh mặt trận cảm động nắm tay Lê Trọng, nói:
- Cảm ơn các đồng chí rất nhiều. Giờ thì các khí tài kỹ thuật có thể yên tâm tham gia chiến đấu được rồi.
- Cảm ơn anh. Đây đúng là dòng xăng tình nghĩa hậu phương và cả bè bạn quốc tế. Những lít xăng vào đến đây đã vượt qua hơn hai ngàn cây số đường ống. Trên tuyến đường ống ấy, biết bao người đã ngã xuống để có dòng xăng hôm nay.
- Thật là một kỳ tích. Xin chúc mừng các anh..
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Nguyễn Điền từ phòng giao ban Bộ Tư lệnh về, triệu tập ngay cuộc họp các nhân vật chủ chốt của Cục. Ông thông báo:

- Quân địch trên chiến trường Tây Nguyên đã hoàn toàn hoảng loạn, chúng chạy theo đường số 7 Cheo Reo – Phú Bổn, bị các đơn vị của ta chặn đánh, không còn sức đề kháng. Chiến dịch Huế-Đà Nẵng đang phát triển rất thuận lợi. Ngày 26 tháng 3, ta đã giải phóng hoàn toàn cố đô Huế. Trước thời cơ mới, Bộ Chính trị đã bổ sung quyết tâm giải phóng Miền Nam trước tháng 4 năm 1975. Hiện nay, hệ thống đường ống của chúng ta là động mạch chủ tiếp xăng không chỉ cho các đơn vị bộ đội tác chiến, mà còn góp phần đảm bảo xăng cho hoạt động của các cơ quan dân sự, cho bạn Lào và Cam- pu-chia. Tuy nhiên, từ nay hướng tác chiến chủ yếu là vùng duyên hải. Diễn biến tình hình sẽ hết sức mau lẹ. Do vậy, bộ đội đường ống phải tách một phần lực lượng quan trọng xuống đó, nhanh chóng tiếp quản các kho xăng dầu của Ngụy quân, Ngụy quyền, phục vụ cho bộ đội ta tác chiến.
Không khí phòng họp bỗng trở nên râm ran. Vậy là chúng ta sắp được xuống đồng bằng, sắp được vào các thành phố lớn. Bõ những ngày gian nan vất vả, mưa rừng suối lũ, sốt rét, bom đạn trên núi rừng Trường Sơn. Chờ cho những tiếng râm ran lắng xuống, Nguyễn Điền nói:
- Điều kiện chiến đấu và công tác của chúng ta sẽ có những thay đổi rất căn bản. Trong chúng ta, đã ai xem vở kịch “Đứng gác dưới ánh đèn nê ông” chưa?
Vài cánh tay giơ lên. Nguyễn Điền tiếp:
- Đó là vở kịch nói về quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc vào tiếp quản Thượng Hải. Một số người rất dũng cảm trước mũi tên hòn đạn ngoài chiến trường, nhưng lại bị ngã ngựa bởi những viên đạn bọc đường. Bởi vậy, nhắc các đồng chí phải rất chú ý vấn đề này, nhất là công tác dân vận trong vùng mới giải phóng.

Quang giơ tay xin nói:
- Điều Thủ trưởng nhắc, chúng tôi xin nhớ. Nhưng mong Thủ trưởng đừng quá lo lắng vì hầu hết anh em trong Cục đều đã sống ở thủ đô rồi mà.
Mọi người cười, có ai đó nói: Không chủ quan được đâu. Nguyễn Điền nhìn chàng kỹ sư trắng trẻo, dong dỏng thư sinh. Lạ thật, hắn ở Trường Sơn sáu năm có lẻ, cũng sốt rét như ai, cũng bom đạn như ai, mà vẫn không hề mất dáng thư sinh. Ông tủm tỉm cười:
- Đẹp trai như cậu, lại là kỹ sư, dễ bị các em nó vây lắm. Lỡ có em Phượng Hoàng nó trói chân thì hậu quả chả biết đường nào mà nói đâu nhé. Là tôi nói vậy thôi. Tôi tin anh em mình là những người kiên định. Bây giờ tôi phổ biến kế hoạch.

Theo kế hoạch này, các cán bộ chủ trì Cục phải tham gia vào Sở chỉ huy Tiền phương của Bộ Tư lệnh Trường Sơn, hoặc Tổng Cục Hậu cần để đôn đốc và giải quyết các vấn đề liên quan đến đảm bảo xăng dầu cho chiến đấu. Các Trung đoàn Đường ống cử một bộ phận xuống đường số 1, hình thành những điểm cấp phát lớn cho các loại xe và binh khí kỹ thuật vào mặt trận. Các kỹ sư cùng một số thợ kỹ thuật phải chủ trì về kỹ thuật tiếp quản các kho xăng của Ngụy quân, Ngụy quyền, cấp phát cho bộ đội.

Hôm sau, các cán bộ Cục đều lên đường. Tuy mang tiếng sống ở Hà Nội từ nhỏ, vậy mà mọi người vẫn ngỡ ngàng khi xe chạy với tốc độ hàng trăm cây số trên đường nhựa phẳng lỳ, không khỏi ngạc nhiên trước những căn biệt thự sang trọng ẩn mình dưới vườn cây, hoặc những ngôi nhà kiến trúc giản dị mà hiện đại với dàn hoa giấy rực rỡ màu hồng, trắng, đỏ. Nhiều nơi họ đến khi quân Việt Nam Cộng Hòa vừa bỏ chạy. Những mâm cơm đang ăn dở, bát đũa chỏng chơ, quần áo vương vãi đầy nhà. Chắc họ đã chạy trong bất ngờ và hoảng loạn, vơ theo được gì thì mang cái nấy. Các căn cứ quân sự xe pháo ngổn ngang, quần áo các sắc lính vứt đầy đường. Nghe nói họ vừa chạy, vừa cởi bỏ quân phục để trà trộn vào dân.

Bộ đội ta nhanh chóng chiếm các cơ sở xăng dầu của quân đội Sài Gòn, của các hãng lớn dọc quốc lộ. Ở những cơ sở xăng dầu của các hãng như Shell, Esso, Total…, một số công nhân tình nguyện ở lại giúp bộ đội vận hành thiết bị. Nhưng ở các căn cứ xăng dầu quân đội thì không một nhân viên nào giám ở lại, các cán bộ kỹ thuật phải vừa làm vừa tìm hiểu. Gặp khó khăn thì mời thợ từ các hãng đến giúp. Nói chung, ngay sau khi tiếp quản, các cơ sở xăng dầu lập tức hoạt động để cấp xăng cho các đoàn xe.
Anh thân yêu!

Em viết lá thư này khi đang trên đường vào Nam. May quá, em tình cờ gặp một anh sỹ quan ở Tổng cục Hậu cần, mới biết các anh và anh Thục cũng đang công tác ở khu vực Đà Nẵng. Em viết vội thư này, mong đến tay anh.
Một số sinh viên năm cuối trường em được đi cùng đoàn cán bộ ngành y tế giáo dục vào tiếp quản các cơ sở ở vùng mới giải phóng. Em xung phong đi, vì em tin rằng trên đường, thế nào cũng có cách gặp được anh. Hai tháng nay em chẳng biết anh đang ở phương trời nào. Đại quân ta đang tiến về Sài Gòn như thác lũ. Lá thư trước anh kể cho em rằng bộ đội đường ống phải đuổi theo để đảm bảo xăng dầu cho kịp bước chân thần tốc của các đoàn quân. Bởi vậy, chắc là những lá thư của em cũng phải đuổi theo anh trên mỗi cung đường. Nhưng anh ơi, số phận đã cho thêm một ngày để chúng mình có nhau, thì em luôn tin những cánh thư của em sẽ đến được anh, để anh hiểu hết nỗi nhớ, và tấm lòng của em.
Còn điều này chắc sẽ làm anh ngạc nhiên lắm: Chị Khanh cũng đi trong đoàn này. Sau ngày anh trở lại Trường Sơn, em đã đến thăm chị ấy. Bây giờ đi cùng đoàn, hai chị em tối nào cũng tâm sự. Anh biết không, chị ấy nói về anh Thục bao giờ cũng rất trân trọng, có lúc chị ấy khóc. Tiếc là chị ấy đang đi họp nên không có ở đây.

Theo lịch trình, năm ngày nữa, đoàn công tác của em sẽ dừng lại làm việc ở Đà Nẵng.
Em và chị Khanh mong ngày được gặp các anh..
Nhớ và yêu anh nhiều lắm.
Em Hạnh

Vậy là chúng mình sắp được gặp nhau rồi Hạnh ơi. Thật bõ gần hai năm xa và nhớ. Tin này mà đến với Thục thì không biết anh ấy mừng đến nhường nào. Ngọc lên xe phóng ngay đến Sở chỉ huy tiền phương của Trung đoàn 952. Thục đang đăm chiêu nhìn lên tấm bản đồ địa hình, thấy Ngọc vào, anh reo lên:
- Anh Ngọc, may quá, tôi cũng đang muốn gặp anh đây.
- Việc gì vậy anh?
- Các kho xăng dầu của địch toàn là kho chìm, dùng máy bơm để cấp phát. Máy làm việc liên tục, nên bắt đầu trục trặc, cấp phát chậm, chỗ xe chờ lại quá chật hẹp, ảnh hưởng đến tốc độ hành quân của các đoàn xe. Mình phải lập thêm kho giã chiến, cấp phát tự chảy thì mới chủ động được.
- Tôi hoàn toàn nhất trí. Hôm qua mấy máy bơm ở kho Shell bị hỏng. Thợ mình không sửa được, tôi phải tốn bao nhiêu công mới tìm được người thợ làm việc ở cây xăng này. Máy thì chữa được, nhưng tôi bị ông Hoàng Trần gọi lên xạc cho một trận. Ông ấy bảo tôi không có quan điểm giai cấp. Qua bao năm gian khổ ác liệt ở Trường Sơn, mọi khó khăn bộ đội ta đều vượt qua. Vậy mà bây giờ chỉ hỏng một cái máy, đồng chí không tin tưởng anh em, mà lại dùng người của Ngụy quân, Ngụy quyền. Nhưng thôi, ta tạm để chuyện ấy lại sau một chút. Tôi có tin cực kỳ quan trọng cho anh đây.
Thục tròn mắt nhìn Ngọc:
- Giữa lúc nước sôi lửa bỏng này, tin nào chả quan trọng?
- Anh sắp được gặp Khanh.
- Anh nói lại đi. Sao có thể vậy được?
- Đó là sự thực đấy. Nếu không có gì đặc biệt, hai ngày nữa cả Khanh và Hạnh của tôi cùng vào đến Đà Nẵng. Mình phải thu xếp công việc thế nào để gặp được họ- Nói rồi Ngọc ấn vào tay Thục lá thư của Hạnh- Anh hãy đọc lá thư này. Tôi hy vọng rồi mọi việc sẽ tốt đẹp
Thục đọc lá thư, tay anh bắt đầu run. Ngọc đoán anh đang đọc đến chỗ Hạnh nói về Khanh.
- Anh Ngọc ơi. Tôi phải làm gì bây giờ. Hai tháng nay suốt ngày ngoài đường, đen đúa, gầy guộc thế này, gặp em sao được?
Ngọc cười phá:
- Đâu phải gầy gò, đen đúa, mà là rắn rỏi. Chàng tôi luyện sáu năm gian truân, lửa đạn trên Trường Sơn, lẽ nào lại không xứng đáng nhận được sự mến phục của nàng.
- Tôi chỉ mong sao em cảm thông cho tôi là được.
Ngọc cảm thấy Thục như đang rơi vào một cảm giác bâng khuâng. Anh quyết định chủ động đề xuất kế hoạch:
- Tôi đề nghị thế này: Ngày mai chúng ta nghiên cứu nơi đặt kho và bãi cấp phát. Tôi sẽ cùng anh thiết kế cụ thể, báo cáo cấp trên, và giao cho cơ quan chuẩn bị. Ngày kia, ta vào thành phố gặp hai em.
- Đồng ý, ta sẽ nghiên cứu vị trí này- Thục lấy bút chì khoanh lên bản đồ. Đó là một mỏm đồi ven quốc lộ số 1.

Sáng hôm sau, Thục, Ngọc và trợ lý Tham mưu lên một chiếc xe Jeep chiến lợi phẩm đi nghiên cứu địa hình. Người Trợ lý Tham mưu khoác theo một khẩu AK. Anh ta nói: Tuy đây là hậu phương, nhưng cảnh giác không bao giờ là thừa.

Chiếc xe Jeep dừng lại ở một bãi rộng dưới chân triền đồi, cây lúp xúp. Thục mở tấm bản đồ:
- Đây là chỗ chúng ta dự kiến - Anh chỉ lên đồi- Chỗ cây gạo kia là triền đồi thoải, có thể đặt những bể hai mươi lăm mét khối. Còn bãi cấp phát sẽ là nơi chúng ta đang đứng. Rất thuận tiện cho các đoàn xe đến ăn xăng.
Ba người đi theo lối mòn lên triền dốc. Quả thật, đây là nơi lý tưởng để tổ chức một kho cấp phát dã chiến: Thuận lợi cho việc lắp đặt bể xăng, các vòi cấp phát tự chảy. Địa hình cũng cho phép các xe stec xả xăng xuống các bồn chứa. Thục trèo lên một thân cây đổ đen cháy, quan sát:
- Anh Ngọc ơi, chỉ cần vài ca máy ủi là chúng ta lắp đặt được kho. Anh lên đây với tôi nhìn cho rõ- Thục cúi xuống, đưa tay kéo Ngọc lên.
Chính vào lúc ấy, một tràng AR-15 rít lên từ bụi cây trên đỉnh đồi. Thục bất ngờ lảo đảo ngã xuống. Ngọc đưa tay ra đỡ. Máu từ lưng, Thục tuôn ra xối xả, ướt đầm áo Ngọc. Người sỹ quan tham mưu theo phản xạ, lăn một vòng, hướng khẩu AK về phía phát ra tiếng nổ, kéo tới nửa băng đạn. Không có loạt đạn bắn trả. Tất cả trở lại yên tĩnh. Ngọc thảng thốt:
- Anh Thục! Anh Thục! Anh đừng làm sao nhé. Khanh sắp vào tới nơi với anh rồi. Cố gắng lên để gặp Khanh, anh Thục ơi!
Thục nặng nhọc mở mắt:
- Đưa cuốn nhật ký cho Khanh. Nói với em, ngay cả khi không còn trên cuộc đời, tôi vẫn yêu em.
Ngọc gào lên:
- Anh Thục ơi. Anh sẽ qua khỏi thôi mà. Sắp đến ngày thắng lợi, sắp được gặp Khanh rồi! Sao lại thế này? Anh không được chết đâu, anh Thục ơi!
Thục tắt thở. Ngọc ôm ghì Thục vào lòng. Dòng nước mắt của anh tuôn xuống, hòa vào máu của Thục. Trời ơi, Giữa biển lửa chết chóc ở suối Trà Ang, bao nhiêu trận B52, bổ nhào, tọa độ, bao nhiêu cơn sốt rét rừng không quật ngã được anh, Giờ chiến thắng đang tính từng ngày, anh lại ngã xuống vì một loạt đạn bắn lén của quân thù. Tức tưởi quá, Thục ơi! …
 
Chỉnh sửa cuối:

DuhocNhatBan

Xe tăng
Biển số
OF-184882
Ngày cấp bằng
12/3/13
Số km
1,182
Động cơ
256,839 Mã lực
Chuyện rất hay cụ Tôm ạ, nhưng lần tới cụ đừng dừng lâu như thế nhé (b)
 

Goodboy76

Xe buýt
Biển số
OF-163947
Ngày cấp bằng
28/10/12
Số km
608
Động cơ
353,210 Mã lực
Nơi ở
Hà đông quê lụa
Đau quá Bác chitom ạ,thế là Anh Thục hy sinh rồi à?bi hùng quá!biết là chuyện phóng tác mà sao vẫn thấy cay hết cả mắt bác ạ!cảm phục thay trước những tấm gương Anh hùng liệt sỹ!xin cảm ơn thể hệ cha anh đã cho ta cuộc sống yên bình này!
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Về chi tiết anh Thục hy sinh em cũng đã về hỏi lại bố em. Trong chuyện thật thì anh Thục ko hy sinh bác ạ, ông vẫn đang sống khỏe mạnh ở Ngã tư Vọng. Người bị bắn thực ra là tác giả, chỉ bị thương nhẹ thôi:D
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Thành phố đã lên đèn, Chiếc xe Jeep phóng nhanh qua cầu Trịnh Minh Thế, rẽ xuống bãi biển Mỹ Khê, dừng lại trước cửa nhà khách, nơi ở của đoàn cán bộ ngành Y tế-Giáo dục mới từ Hà Nội vào. Ngọc bước vào phòng lễ tân, tự giới thiệu, và lặng lẽ ngồi xuống chiếc sô pha màu huyết dụ. Mới qua hai ngày, anh đã xọm đi, khắc khổ. Tưởng rằng hôm nay sẽ là một ngày anh và Thục tràn trề hạnh phúc. Nào ngờ anh phải đến với các em một mình, và mang theo một cái tin tang tóc. Trung đội lùng sục đã phát hiện một vũng máu trên đỉnh đồi nơi Thục hy sinh. Chắc tên địch bắn lén đã dính đạn của người Trợ lý tham mưu. Ngọc không sao quên được lễ truy điệu Thục chiều qua. Những người lính đã cùng anh sống chết có nhau trong những ngày ác liệt nhất trên Trường Sơn, xếp thành đội ngũ. Họ lần lượt đi quanh linh cữu phủ quân kỳ của Thục, tiễn đưa người chỉ huy gan dạ và rất đỗi yêu thương của mình. Những gương mặt đàn ông khắc khổ băm môi lại để ngăn tiếng nấc, mà nước mắt vẫn cứ tuôn trào. Mộ Thục đặt ngay dưới tán cây gạo cổ thụ đang giữa mùa hoa rực đỏ. Những bông gạo lã chã rơi. Một tấm bia làm tạm bằng gỗ hòm đạn, với dòng chữ nắn nót viết tên tuổi, quê quán và ngày hy sinh của Thục. Anh nằm đó, nhìn về phía đông, nơi có những đoàn xe chở quân và binh khí kỹ thuật rầm rập nối nhau đổ vào mặt trận.

Từ bên ngoài, hai cô gái chạy ào vào phòng. Hạnh reo lên:
- Anh Ngọc. Anh giỏi quá, tìm ngay ra được chỗ ở của chúng em!- Nhưng rồi niềm vui của cô gái bỗng khựng lại khi nhìn thấy nét đau khổ trên khuôn mặt người yêu.
- Anh Thục đâu anh?- Khanh run rẩy, dường như cô đã linh cảm về một chuyện chẳng lành.
- Khanh và Hạnh ngồi xuống đây để anh nói chuyện.
Hai cô gái khẽ khàng ngồi xuống. Ngọc lựa lời:
- Bọn anh đang lúc cao điềm bảo đảm xăng dầu cho các đoàn xe chở quân ra trận. Công việc khẩn trương thế, mà khi đọc thư của Hạnh, biết sắp được gặp Khanh, anh Thục mừng đến mụ mị. Bọn anh đã vạch một kế hoạch để vừa hoàn thành nhiệm vụ vừa kịp đến thăm hai em. Sáng qua, khi nghiên cứu địa hình để làm kho dã chiến, anh Thục đã bị địch bắn lén, và anh ấy đã hy sinh. Xót xa quá! Anh ấy đã vượt qua bao nhiêu bom đạn hiểm nghèo, vậy mà lại ngã xuống khi thắng lợi chỉ còn tính từng ngày. Khanh ơi, Anh có lỗi vì đã không mang được anh Thục đến cho em. Em hãy cố gắng bình tĩnh. Anh Thục đã tắt thở trong vòng tay anh. Anh ấy đã dồn toàn hơi sức để nói câu cuối cùng: Đưa cuốn nhật ký cho Khanh. Nói với em, ngay cả khi không còn trên cuộc đời, tôi vẫn yêu em!

Khanh bưng mặt òa khóc:nức nở “Anh Thục ơi. Chỉ còn một ngày nữa thôi mà sao anh không chờ em được. Em có tội với anh rồi. Em có tội rồi. Anh ơi!”. Hạnh vòng tay đỡ ôm lấy Khanh, và nước mắt cũng chẩy ròng ròng trong tiếng nấc. Thục cảm thấy có cái gì chẹn ngang cổ. Tình yêu cháy hết mình của Thục, tình yêu đáp đền của Khanh đã không thắng được sự nghiệt ngã của số phận trong chiến tranh. Anh rút từ trong xắc cốt cuốn sổ bìa nâu, đưa cho Khanh:
- Đây là cuốn nhật ký của anh Thục. Khi nào bình tĩnh lại, Khanh hãy đọc để hiểu hết nỗi lòng anh ấy. Bây giờ tối rồi, em phải ráng nghỉ lấy lại sức. Sáng mai anh sẽ đưa hai em lên viếng mộ anh Thục.

Khanh đón cuốn nhật ký từ tay Ngọc. Cô chỉ kịp nói “Em cảm ơn anh”, rồi ôm cuốn sổ vào lòng khóc nấc. Ngọc và Hạnh dìu Khanh về phòng. Khanh nói:
- Anh và Hạnh chắc có nhiều điều cần nói với nhau. Em xin được ở lại một mình
Nói rồi hai chân cô quỵ xuống. Hạnh và Thục đỡ Khanh. Cô nằm xuống, tay vẫn ôm cuốn sổ bìa nâu trước ngực.

Ngọc và Hạnh nhẹ nhàng khép cửa, bước ra. Bãi biển Mỹ Khê lộng gió. Gần hai năm rồi mà kỷ niệm bên thềm đá Tây Hồ vẫn còn tươi mới. Những tưởng được gặp nhau trên đường ra trận sẽ đầy ắp niềm vui. Ai ngờ cuộc gặp của họ lại phải chứng kiến nỗi đau tận cùng của một mối tình cao thượng và trong trẻo. Ngọc nói:

- Em ạ. Đêm qua anh dã đọc cuốn nhật ký của anh Thục. Không biết có ai trên đời này yêu như anh Thục không. Yêu hết mình. Từ đáy lòng, luôn tôn thờ người yêu như chúa trời, chỉ lo mình vô tình làm điều gì tổn thương người yêu. Ở Trường Sơn, bon anh đã tâm sự với nhau nhiều, nhưng đọc cuốn nhật ký mới hiểu hết tình yêu của anh ấy. Nếu anh ấy không hy sinh thì có lẽ Khanh là người hạnh phúc nhất trên đời. Chiến tranh khắc nghiệt quá.
- Anh ơi. Chiến tranh chưa kết thúc thì vẫn chưa thể lường trước điều gì sẽ đến với mỗi người lính. Sau cái đêm ở Tây Hồ ấy, Tối nào trước khi ngủ, em cũng nhắm mắt cầu nguyện cho anh được bình an. Anh Ngọc ơi. Anh hãy vì em mà bảo trọng nhé.
Ngọc dừng lại, ôm Hạnh vào vòng tay của mình:
- Anh cảm ơn em. Từ khi có em, anh luôn tự nhủ mình phải sống thế nào để xứng đáng với em. Sống chết trong chiến tranh giống như mệnh số, nhưng với người lính, khi có tình yêu của một người con gái, thì họ cảm thấy cuộc sống đẹp hơn, ý chí của họ vững vàng hơn ngay cả khi bom gào đạn réo.
Hạnh tin cậy nép vào ngực Ngọc. Gió biển khua những hàng phi lao lao xao. Bầu trời sao lấp lánh, một vầng trăng mỏng mảnh, sóng mơn man, những bọt nước ngậm ánh trăng vỡ tan trên bờ cát, khiến cho không gian đẹp và buồn một cách thơ mộng, huyền ảo. Ngọc kể cho Hạnh nghe những điều anh biết về Thục, từ những ngày đầu thi công tuyến X42, những gian truân ác liệt trên tuyến Hướng Tây, trong chiến dịch Đường 9-Nam Lào, và tình yêu cháy bỏng được viết trong cuốn nhật ký của chàng trai vừa ngã xuống. Rồi họ kể cho nhau nghe về những ngày qua, những người thân, và chuyện của những người yêu nhau.

Khi Hạnh và Ngọc về phòng, Khanh đang ngồi gục mặt lên bàn. Đôi vai Khanh cứ rung lên từng đợt. Bàn tay Khanh đặt lên cuốn nhật ký đang mở. Ngọc và Hạnh dìu Khanh tới giường:
- Thôi, nghỉ đi Khanh ơi, sáng mai còn lên viếng mộ anh Thục.
- Anh Ngọc ơi. Giá như em trao tình yêu cho anh ấy trước khi anh ấy vào mặt trận, thì đâu đến nỗi ngày này qua ngày khác, anh ấy phải đau khổ, nhớ nhung khắc khoải thế này- Nói rồi Khanh lại khóc, không thể kìm nén. Thiếng khóc bật ra xót xa- Trời ơi, Sao chiến tranh lại khắc nghiệt, tàn nhẫn đến nhường này.

Sáng hôm sau, Ngọc đưa hai cô gái lên viếng mộ Thục. Ngôi mộ mới đắp đơn độc dưới gốc cây gạo cổ thụ. Con dốc hình như dốc hơn, Khanh mấy lần vấp ngã. Mới qua một đêm mà cô đã gầy rốc, đôi mắt trũng sâu, khắc khổ. Lên đến mộ Thục, đôi chân run rẩy của Khanh khuỵu xuống. Cô thắp nhang hương, cắm lên mộ Thục, rồi ôm lấy tấm bia nức nở: “Anh Thục ơi. Em Khanh đây. Em đã đi từ ngoài đó vào, mong được gặp anh để đưa bàn tay ra cho anh và nói: Em cần anh! Em yêu anh! Vậy mà không kịp. Chỉ có một ngày thôi, mà sao không đợi em. Anh ơi!”. Rồi cô run rẩy rút từ trong túi áo một tấm ảnh nhỏ của mình, tấm ảnh cô chụp mang theo vào định để tặng Thục. Cô lấy tay, bới đất và chôn tấm hình xuống đó. “ Em yêu anh, anh Thục ơi. Mai đây dù em có đi đâu thì tấm lòng của em vẫn ở lại cùng anh- Cô ngửa mặt lên trời- Trời ơi. Xin Trời hãy chứng giám cho tôi”
Một cái gì như làn gió xào xạc. Mấy bông hoa gạo lìa cành, lặng lẽ rơi lên ngôi mộ. Khanh lại khóc. Những bông hoa đỏ như máu từng chảy trong con tim của anh, hay đó là đuốc lửa tình yêu đang cháy rực hồng trên mộ người lính?

Chỉ mấy ngày sau khi Thục ngã xuống, lá cờ nửa đỏ nửa xanh với ngôi sao vàng năm cánh đã tung bay trên nóc Dinh Độc lập. Cả đất nước rực màu cờ hoa, cả đất nước vỡ òa trong tiếng reo hò chiến thắng. Cây gạo nơi anh nằm vẫn trổ hoa như hàng trăm bó đuốc đang rừng rực cháy. Trong màu đỏ rực rỡ của chiến thắng, có ai đo đếm được bao nhiêu máu đã đổ ra để có màu đỏ ấy? Có ai hiểu được nỗi đau tận cùng của sự mất mát trong chiến tranh?
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Chương IX

ĐỒNG ĐỘI

Vũ Ngọc chậm rãi đạp xe dọc theo phố Tây Sơn. Hôm nay mấy bạn cũ của Trung đoàn 952 thuở xưa hẹn gặp nhau ở nhà Lê Khôi. Chiến tranh đã kết thúc hơn mười năm, nhưng đất nước còn khó khăn quá. Cái sự xếp hàng ở cửa hàng mậu dịch để mua gạo, thực phẩm và mọi thứ nhu yếu chiếm hầu hết thời gian của những người làm công ăn lương. Rất may, Hạnh, người vợ đảm đang của anh là một người tháo vát, tần tảo, sẵn sàng làm mọi việc để anh yên tâm công tác. Nàng cũng luôn trân trọng tình cảm đồng đội của chồng, nên mỗi khi đồng đội cũ đến chơi nhà, Ngọc luôn cảm thấy tự hào về người vợ của mình.
Khi qua cổng trường Đại học Thủy lợi, Ngọc nhìn thấy một người thương binh ngồi trên xe lăn bán vé số. Anh tạt vào vỉa hè mua vài vé, vừa ủng hộ người thương binh, biết đâu được cái giải bét. Chỉ cần thế là vợ cũng mừng lắm rồi.
- Anh cho tôi mua hai vé. Anh xem vé nào có thể trúng thì chọn hộ tôi nhé - Ngọc vừa hài hước, vừa rút ví lấy tiền.
- Nếu tôi có được khả năng tiên đoán như anh, thì đâu đến nỗi thế này- Giọng người thương binh đượm chút buồn. Tuy nhiên, có lẽ bộ quân phục sờn bạc của người khách khiến anh ta cảm thấy gần gũi hơn- Biết đâu anh nghĩ cũng đúng, xổ số tôi bán tỷ lệ được giải khá cao đấy. Một mình tôi lĩnh một quả bom từ trường mà không chết. Vậy nên tôi đúng là người may mắn. Tôi chọn cho anh nhé.
Một mình một quả bom từ trường? Câu nói ấy khiến Ngọc nhớ về thời chiến tranh. Anh chăm chú nhìn người bán vé số. Bất giác người ấy cũng nhìn anh.
- Anh bị bom ở đâu vậy?
- Bờ sông Sê Bang Hiêng. Tôi là lính đường ống.
Ngọc sững sờ:
- Anh có phải là Đỉnh không?
- Vâng. Tôi Đỉnh đây. Anh…Anh có phải là kỹ sư Ngọc?
- Vâng, Ngọc đây.
Đỉnh đánh rơi tờ vé số trên tay. Anh nhoài ra ôm lấy Ngọc, òa khóc:
- Vậy là tôi gặp lại được đồng đội rồi. Vậy là đã đến lúc mọi người sẽ hiểu đúng về tôi rồi anh Ngọc ơi!
Ngọc không ngờ người lính oai hùng, gan dạ nhất Tiểu đoàn 66 ngày xưa, bây giờ lại đang khóc như một đứa trẻ. Anh ngạc nhiên:
- Sao anh nói vậy? Người ta không hiểu đúng về anh là sao?
- Chúng mình có thể ngồi đâu nói chuyện được không?
- Hôm nay một số bạn cũ của Trung đoàn 952 gặp nhau ở nhà anh Lê Khôi. Chúng mình cùng đến đó nhé. Anh em chúng tôi đều nghĩ anh đã hy sinh. Anh xuất hiện sẽ làm mọi người cực kỳ ngạc nhiên đấy.
- Vậy ta đi thôi. Suốt mười mấy năm qua, tôi luôn mong có ngày này. Nhưng anh vui lòng tạt qua nhà tôi để tôi đưa vé thừa cho mẹ nó đi thanh toán.
Từ chỗ bán vé số về nhà Đỉnh chỉ mấy trăm mét. Đỉnh dẫn Ngọc đi qua cái cổng cổ kính đầu ngõ. Một cô bé chừng mười tuổi chạy ra:
- Cháu chào bác. Sao hôm nay bố về sớm thế? Mẹ vẫn đang ở ngoài chợ.
- Con nói với mẹ là bố đi gặp đồng đội cũ, tối về muộn nhé.
Cô bé lễ phép vâng, rồi nhanh chóng đếm những chiếc vé số còn lại, xếp ngay ngắn vào một chiếc hộp. Vậy là Đỉnh đang có một người vợ và một đứa con ngoan. Mừng cho anh ấy. Ngọc hỏi
- Anh lấy vợ từ bao giờ vậy?-
- Sau ngày tôi bị thương gần một năm. Anh cũng biết cô ấy đấy.
- Ai vậy- Ngọc tò mò.
- Lan Cửa 11.
- Ôi. Vậy là câu chuyện của anh đã kết thúc có hậu. Chúc mừng anh.
- Chuyện dài lắm. Đến nhà anh Lê Khôi, tôi sẽ kể các anh nghe.

Đúng là sự xuất hiện của Đỉnh đã làm nên một không khí vô cùng cảm động. Không ai nghĩ Đỉnh còn sống. Còn Đỉnh, cuộc gặp này đã an ủi anh sau bao ngày xa cách những đồng đội đã gắn bó máu thịt trong lửa đạn. Anh không ngớt hỏi về những người quen biết. Những cái tên Lê Trọng, Trung đoàn trưởng; Khuynh, Chính ủy Trung đoàn; Trần Đình, Chính trị viên Tiểu đoàn 66, và biết bao cái tên lại lần lượt ùa về. Anh hiểu rằng từ khi mình rời khỏi hang Gấu Đen đến nay, đồng đội cũng biết bao thăng trầm. Có người đã nằm lại Trường Sơn. Bên cạnh một số người thành đạt hoặc thuận lợi trong cuộc sống, nhiều người trở về hậu phương với thương tật, ngộ độc xăng chì và nhiễm chất độc da cam. Họ phải vật lộn với đói nghèo bệnh tật, và nhiều đứa con sinh ra tật nguyền, dị dạng. Ngay những người ngồi đây, cũng có người gian nan như thế.
- Thôi, chuyện anh em thì còn nhiều lắm. Bây giờ cậu hãy kể chuyện về mình cho mọi người nghe đi- Lê Khôi nói.



Sau khi bị thương, người ta chuyển tôi qua các quân y viện. Tôi không biết mình nằm mê man bất động đã bao lâu. Khi tỉnh táo hoàn toàn, nhẩm tính từ ngày bị thương, đã qua cả tháng trời. Vết thương ở khắp mọi nơi trên cơ thể. Nhiều khúc xương bị gãy, nội tạng bị tổn thương. Những đêm nghiến răng chịu những cơn đau hành hạ, tôi nhận ra rằng mình bắt đầu phải bước vào một cuộc chiến đấu mới: cuộc chiến đấu chính mình, phải chiến thắng bản thân mình. Các bác sỹ nói với tôi rằng: Anh thoát chết là chuyện thần kỳ. Khi nhận anh vào viện, chúng tôi không giám hy vọng anh sẽ sống. Chúng tôi đã nghe kể chuyện về anh. Anh không chỉ là một người dũng cảm, mà là một người đầy nghị lực. Chính nghị lực của anh đã giúp chúng tôi giằng anh ra khỏi bàn tay thần chết. Do chấn thương sọ não, do bầm dập lục phủ ngũ tạng, do các xương tay, xương chân gãy…, các bác sỹ đã hội chẩn, tiên lượng các khả năng để lại di chứng từ các vết thương. Tôi quyết định khi điều trị xong mới xem nên báo tin cho Lan và gia đình như thế nào. Chưa rõ thì không nên làm cho mọi người lo lắng.
Khi ngồi được xe lăn, tôi bắt đầu được đưa ra ngoài hít thở khí trời. Đó cũng là những ngày tôi biết đôi chân của mình đã hoàn toàn bại liệt. Một đôi chân như vậy với một cơ thể đầy thương tích, rồi tôi sẽ sống ra sao đây? Tôi bắt đầu bi quan. Thậm chí, cái cảm giác không muốn sống bắt đầu luẩn quẩn trong đầu .
Một buổi chiều, tôi đang được cô y tá đẩy xe lăn, đưa đi dạo trên con đường nhỏ trong Trại điều dưỡng thương binh, thì có tiếng gọi:
- Anh Đỉnh ơi, anh có khách.
Tôi quay lại. Từ xa, một người con gái mặc quân phục đang chạy tới. Trời ơi, tôi đã nhận ra cái dáng quen thuộc của Lan. Lan nhào tới, ôm lấy tôi. Em không nói được tiếng nào, chỉ khóc nấc, khóc lâu lắm. Toàn thân cứ rung bần bật trong vòng tay tôi. Tôi có cảm giác mọi sự vất vả, cực nhọc, lo lắng đã dồn nén lại trong em, bây giờ mới được xả ra theo nước mắt và tiếng nấc. Cô y tá ý tứ rút đi để chúng tôi nói chuyện.
- Sao em biết anh ở đây mà tìm?- Tôi lựa lời khi cảm thấy Lan đã bình tĩnh lại.
- Anh ở đâu, dù cùng trời cuối đất, em cũng tìm được. Không có bất kỳ ai, bất kỳ cái gì có thể ngăn được em đi tìm anh.
Lan sờ lên những vết sẹo trên mặt, trên tay tôi, cả đôi chân vô dụng của tôi. em lại khóc.
- Dù sao thế này cũng là may mắn lắm rồi anh ạ. Cả nhà nghĩ rằng anh đã chết . Anh sống được là thần kỳ lắm. Từ nay đến hết đời, em sẽ bên anh.
- Từ khi chúng mình xa nhau, em sống ra sao?.
- Sau khi rời đơn vị, em được đưa đến một Trại điều dưỡng thương bệnh binh. Họ giữ em lại điều trị vì tim của em quá bất ổn. Em cũng muốn khỏe hẳn và muốn chờ xem cái đêm chúng mình chia tay, em có được mang theo giọt máu của anh về với bố mẹ không. Anh ơi. Có lẽ bệnh tật chưa cho em được làm mẹ. Bởi vậy, khi về trình diện bố mẹ, em luôn bị mặc cảm của một đứa con dâu có lỗi, nhất là khi mẹ đọc thư anh.
Nói đến đây, Lan lại khóc. Tôi chẳng biết làm gì hơn là hôn lên mái tóc khô và cháy nắng của em. Lan rút trong túi đưa cho tôi xem lá thư của Miên gửi cho Hiến:
- Bố mẹ nhận được lá thư này trước khi em về. Tội nghiệp bố mẹ quá. Đang lúc nghĩ con trai đã chết, em lại mang thư anh về làm các cụ hy vọng là anh vẫn bình an. Khi phát hiện ra thư anh viết trước lá thư này thì cả hai càng buồn đau và thất vọng. Riêng em, đọc thư anh Miên, em tin anh còn sống và em quyết đi tìm anh.
- Làm sao mà em tìm được đến đây?
- Chiến tranh đang căng thẳng, rất nhiều quân y viện. Em cầm theo lá thư của anh Miên, nó mô tả chân thật nhất về trường hợp bị thương của anh. Và em tin, đọc lá thư này, mọi người sẽ hướng dẫn em tận tình hơn. Em đã vào Bộ Quốc phòng, tìm đến Cục Xăng dầu, nhưng không ai biết. Em đành vào Quảng Bình, đến các bệnh viện quân y và trại điều dưỡng thương binh dò hỏi. Một lần, em tình cờ gặp một thương binh là lính của Tiểu đoàn 66. Anh ấy bảo sau khi anh bị bom, đồng đội đưa anh vào một trạm phẫu thuật tiền phương của Binh trạm 90. Sau đó, một bác sỹ đã hướng dẫn cho em tuyến điều trị thương binh. Em lần theo đó, rồi tìm thấy những bệnh viện anh đã được chuyển qua. Em tìm được anh cũng là vì việc làm của anh nổi tiếng đấy.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Lan âu yếm nhìn tôi. Đôi mắt em vẫn trong trẻo thế, nhưng em đã gầy hơn cả lúc chúng tôi chia tay nhau, gương mặt hốc hác, nước da đen sạm. Tôi xót xa nghĩ đến cảnh em thân gái dặm trường, giữa những ngày miền Trung gió Lào nóng như rang, khô khát.
- Từng ấy đường đất, em đi bằng gì?
- Bằng mọi phương tiện anh ạ- Lan nhoẻn cười rất tươi- Khi thì em vẫy nhờ xe các anh bộ đội, khi thì đi xe khách. Có lúc đi xe trâu, có ngày đi bộ. Ở đâu có manh mối của anh là em đến. Bây giờ, đến đây rồi, em không đi đâu nữa. Em sẽ xin ở lại chăm sóc anh.
Tôi cảm thấy nghèn nghẹn trong cổ. Trời đã thương tôi, cho tôi người con gái xinh đẹp, thủy chung. Nhưng bây giờ tôi đâu còn là Nguyễn Đỉnh lực lưỡng oai hùng ngày xưa nữa. Tôi lựa lời:
- Lan ơi. Anh tàn phế thế này, sợ chẳng mang lại hạnh phúc cho em. Tuổi em còn trẻ. Em xinh đẹp, hạnh phúc còn chờ em phía trước. Anh không muốn làm khổ cả cuộc đời em.
Lan nhìn sâu vào đôi mắt tôi. Hai hàng nước mắt chảy ròng ròng. Tiếng em sao nghe xót xa đến thế:
- Anh còn nhớ ngày xưa anh nói gì với em không? Anh nói dù bom có xé anh thành trăm mảnh thì trong mỗi mẩu thịt xương của anh nằm lại giữa đại ngàn Trường Sơn đều thấm đẫm tình yêu của anh với em. Câu nói ấy đi theo em suốt những ngày qua. Và từng ấy ngày em lặn lội tìm anh, chưa đủ làm anh tin ở tình yêu của em sao?- Em ôm ghì lấy cổ tôi. Nước mắt vẫn tuôn nóng bỏng trên vai tôi- Anh ơi. Chúng mình làm lễ cưới đi. Em muốn làm vợ anh, muốn chăm sóc anh đến hết đời.
Các anh có biết cảm giác của tôi lúc đó thế nào không? Tôi nhìn lên vòm lá, thấy vòm lá xanh hơn. Tôi nhìn lên trời cao, thấy những đám mây đều như ngũ sắc. Tôi như người đang khô khát được tắm mình trong dòng nước mát lành. Vậy là tôi đáng sống lắm. Tôi có em, có hành phúc. Chúng tôi ôm lấy nhau, nước mắt hòa vào nước mắt.

Tôi dẫn Lan vào gặp Ban chỉ huy Trại, giới thiệu Lan là vợ chưa cưới, xin cho Lan ở lại chăm sóc tôi và giúp việc trong Trại. Không những chỉ huy Trại đồng ý theo nguyện vọng của chúng tôi, mà còn ngỏ ý: Nếu muốn, Trại sẽ tổ chức lễ cưới cho chúng tôi.

Lan đã về đón cha mẹ của hai chúng tôi lên. Lan kể rằng khi báo cáo với cha mẹ xin cưới, cả hai đều đắn đo. Con ơi. Quyết định này hệ trọng cả một đời đấy, con hãy nghĩ cho kỹ đi. Lan khóc, kể lại trường hợp bị thương của tôi, và cả mấy tháng trời em lăn lội tìm tôi, thì bố mẹ biết không thể nào khác. Họ càng thương con gái hơn, dặn con đã quyết định thì phải cố trọn vẹn nghĩa tình với chồng. Đó là gia phong của gia đình mình đấy.

Đám cưới của chúng tôi diễn ra giản dị nhưng thật ấm cúng. Các nhân viên Trại điều dưỡng và các thương bệnh binh đều đến chúc phúc cho chúng tôi. Tôi nói với em rằng: Khi chưa được gặp lại em, tôi thấy bi quan lắm. Bây giờ, nhìn những thương binh nặng đến chúc phúc cho mình, mới thấy có bao người còn mất mát hơn mình nhiều, và họ chưa tìm được tổ ấm như mình.

Cuộc sống còn vất vả. Nhưng Trại đã bố trí cho chúng tôi một phòng tân hôn thật tươm tất. Đây không phải là cái nhà âu chật hẹp trên Trường Sơn. Cũng không sợ một loạt bom tọa độ cắt ngang cuộc vui. Giường tân hôn của chúng tôi có chiếu hoa mới, có màn trắng toát với một lẵng hoa xinh xắn ở đầu giường.

Chúng tôi như sống lại những ngày son trẻ ngày xưa. Lan đã làm mọi việc giúp tôi để tôi được hưởng trọn ven niềm vui của một người đàn ông trong đêm động phòng hoa chúc. Bao nhiêu sự chịu đựng mong chờ dồn nén lại. Tôi hôn lên khắp cơ thể của em. Cảm giác khát khao đã đưa chúng tôi như bay lên mãi. Tôi nghe tiếng rên mãn nguyện của em. Nhưng lạ quá, tôi chỉ có thể khát khao, mà không thể được cái cảm giác khoái cảm của người đàn ông. Suốt đêm ấy, mấy lần tôi thử lại, vẫn chỉ như vậy. Tôi vừa đau đớn, vừa tủi thân. Lan động viên tôi: Anh đã mang lại cho em sự mãn nguyện đủ đầy của một cô dâu mới. Có thể vì hôm nay anh mệt đó thôi. Em tin anh cũng sẽ có được cảm giác sung sướng hạnh phúc như em. Tôi hy vọng như vậy. Nhưng niềm vui hạnh phúc ấy đã không bao giờ đến. Có cái gì đó không ổn khiến cho tôi chỉ được ham muốn mà không thể có được cảm giác sung sướng. Một lần, tôi rụt rè hỏi bác sỹ về việc này. Bác sỹ giải thích cho tôi rằng do tôi bị liệt nửa người bên dưới, nên cảm giác cực khoái đã không thể về cơ quan thần kinh trung ương. Bấy nhiêu năm tôi đã phải sống như vậy đấy: ham muốn lúc nào cũng dâng đầy trong cơ thể còn trẻ.. Tôi làm cho vợ hạnh phúc, còn mình thì luôn cảm giác bị bất lực. Điều ấy như một sự tra tấn tàn nhẫn của số phận.
Vợ chồng tôi sống trong trại điều dưỡng khoảng một năm, khi mọi vết thương của tôi đã được chữa và hoàn toàn ổn định, chúng tôi quyết định về nhà. Tôi có phụ cấp thương binh nặng. Còn Lan được hưởng tiêu chuẩn của người hộ lý chăm sóc. Tổng hai nguồn thu ấy chẳng nhiều nhặn gì. Nhưng chúng tôi nghĩ cả hai đều có thể lao động kiếm thêm, đảm bảo một cuộc sống tùng tiệm qua ngày. May mắn thay, trời vẫn thương vợ chồng tôi và cho chúng tôi một cô con gái xinh xắn.

Ngày tôi về, những người hàng xóm sang thăm hỏi, chúc mừng tôi đã sống trở về. Chỉ vài tháng sau, sự có mặt của tôi đã trở nên bình thường. Dân xóm nghèo chúng tôi ai cũng phải căng lên xoay xở cho cuộc sống khó khăn thường nhật. Tôi đã liên hệ và được nhận phần bán vé số cho một đại lý. Hàng ngày Lan sáng đi lấy vé về cho tôi bán, chiều mang vé thừa đến thanh toán cho đại lý. Rồi theo thời gian, đã có những sự thay đổi trong cái ngõ nhỏ của tôi. Một số gia đình dọn đi, một số gia đình mới đến. Bọn trẻ trong xóm lớn lên nhìn tôi với con mắt đơn giản là một chú thương binh tàn phế bán vé số qua ngày.
Một lần, tôi ra chợ giúp vợ xếp hàng mua rau trong cửa hàng mậu dịch. Các anh biết đấy. Rau trong cửa hàng mậu dịch thường là rau già, rau ôi. Các cô mậu dịch viên chẳng mấy khi tưới tắm cho rau như những người gánh rau ra chợ bán. Mặc dù vậy, dây xếp hàng mua rau vẫn dài dằng dặc. Đơn giản là vì giá rau mậu dịch chỉ bằng nửa giá ngoài. Tôi đi xe lăn qua dãy người xếp hàng, len vào gần cô mậu dịch:
- Chị ơi, cho tôi mua một cân, tôi có thẻ thương binh đây.
Mặt cô mậu dịch vẫn lạnh ngắt, như không nghe thấy tiếng tôi nói. Một người đàn ông đứng tuổi nhắc cô ta:
- Chị ưu tiên bán cho anh thương binh đi. Chúng Tôi chờ được mà.
Mặt cô mậu dịch viên đanh lại:
- Thì cũng phải từ từ chứ. Thương binh cũng ba bảy đường thương binh. Có người chỉ vì vô kỷ luật, nghịch bom nghịch đạn bị thương, rồi cũng xoay được thẻ thương binh.
Nghe câu ấy, tôi bàng hoàng. Tôi thì đã đi một nhẽ, nhưng còn trường hợp thương tâm của Miên. Người ta hoàn toàn có thể chụp lên nó những lời như thế. Những người như cô Mậu dịch viên này đâu biết hết cái khốc liệt của chiến trường và sự hy sinh của những người như chúng tôi. Cơn phẫn uất bốc lên trong đầu. Có lẽ lúc ấy, mặt tôi đã trở nên bầm tím. Loại người như thế này thì không thể giải thích cho phí lời. Tôi nhoài tới, vung chiếc nạng thẳng vào cô ta. Cô ta giơ tay đỡ và la lớn:
- Ối giời ơi. Thương binh đánh nhân viên Mậu dịch!
Không khí trở nên nhốn nháo. Hai nhân viên trật tự của chợ xáp đến đưa tôi ra ngoài. Họ không ngớt nói: “Đồng chí thương binh, xin đồng chí bình tĩnh”. Người đàn ông đứng tuổi mang đến cho tôi bó rau, và nói: Anh mang về đi. Đây là chút tình của tôi. Tôi từ chối và cảm ơn thịnh tình của ông. Tôi lặng lẽ rời chợ, đến một góc phố, dừng lại, khóc tức tưởi, khóc rất lâu. Dường như tôi khóc cho cả phần thằng Miên, cả phần những thằng bạn đã nằm lại chiến trường. Chiến tranh qua rồi. Chẳng lẽ cuộc đời lại bất công với những người thương binh chúng tôi đến thế hay sao? Tôi không biết rằng có một người trong xóm nhỏ của tôi đã chứng kiến cảnh nhốn nháo ấy. Bà ta mới dọn về, chẳng biết gì về tôi, cứ vô tư kể lại chuyện ở chợ, và kết luận bằng một câu lập lờ: “Cậu Đỉnh là thương binh, nhưng biết đâu cái điều cô Mậu dịch nói là có lý”. Từ sau hôm ấy, có vẻ như mọi người nhìn tôi với con mắt khác. Tôi làm sao giải thích cho họ hiểu đây? Trung đoàn 952 không còn nữa. Các bạn cũ cùng đơn vị mà tôi gặp lại đều là những người nghèo, chạy ăn từng bữa. Họ không có thời gian, và cũng chẳng biết cách nào làm cho mọi người hiểu đúng con người tôi.


Cả căn phòng lặng đi khi nghe câu chuyện của Đỉnh.
- Bất công quá, chúng mình phải làm gì đi chứ?- Lê Khôi phá vỡ sự im lặng- Sau sự kiện trước hang Gấu đen hôm ấy, Trung đoàn đã đề nghị tặng huân chương Chiến công Giải phóng hạng hai cho cậu. Cậu nhận được chưa?
- Chưa. Tôi đâu biết chuyện này.
- Để giúp Đỉnh, tôi thấy có hai việc phải làm ngay- Ngọc nói- Thứ nhất, phải làm sao để Đỉnh nhận được tấm huân chương mà Trung đoàn đã đề nghị. Thứ hai, việc làm dũng cảm của Đỉnh phải được lưu vào sử sách, ít nhất là của bộ đội Trường Sơn.
- Phải đấy. Có được hai điều đó, chúng ta sẽ mang đến, làm một cái lễ nho nhỏ, mời chính quyền và bà con khối phố đến, công bố cho họ biết- Lê Khôi tiếp lời
Mấy hôm sau, Lê Trọng, Trần Đình và những người quen biết của Đỉnh ở Tiểu đoàn 66 đều biết tin “đã tìm thấy” Đỉnh. Từ đó, căn phòng đơn sơ của đôi vợ chồng thương bệnh binh thường được tiếp những đồng đội cũ. Tình đồng đội đã sưởi ấm cuộc sống của họ. Nhóm bạn chiến đấu Tiểu đoàn 66 quyên góp tiền giúp Đỉnh. Một đơn vị xăng dầu quân đội hỗ trợ tiền sửa sang nhà cho Đỉnh và tặng anh chiếc xe lăn.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Sau hôm gặp gỡ đó, Ngọc viết báo cáo về tấm gương dũng cảm quên mình của Đỉnh, kèm theo lá đơn của những người cùng đơn vị cũ ký tên: Trung đoàn trưởng Trung đoàn 952 Lê Trọng, Chính trị viên Tiểu đoàn 66 Trần Đình, và kỹ sư Vũ Ngọc, nguyên là Trưởng Tiểu ban Kỹ thuật Trung đoàn 952, đề nghị tặng Huân chương Chiến công hạng hai cho Đỉnh. Chắc do hoàn cảnh chiến tranh, công văn đề nghị của Trung đoàn hồi ấy đã không lên được đến Bộ Quốc phòng. Sau khi xem báo cáo về chiến công của Đỉnh, người cán bộ Cục Chính sách thụ lý tài liệu xúc động nói: Đây là trường hợp thật xứng đáng. Chúng tôi sẽ làm rất khẩn trương cho người thương binh này. Chỉ mấy tháng sau, Cục Chính sách báo đã nhận được Quyết định của Chủ tịch nước tặng Huân chương cho Đỉnh. Cũng chính dịp ấy, Tạp chí Lịch sử quân sự đã đăng bài của Ngọc nói về cuộc chiến đấu ác liệt của bộ đội Đường ống Trường Sơn tại khu vực cao điểm 911 và trọng điểm Pha Bang. Tấm gương của Nguyễn Đỉnh cũng được kể chi tiết trong bài báo đó.

Theo đề nghị của Lê Trọng, lễ trao huân chương cho Đỉnh được tổ chức tại phòng họp của Tổ dân phố. Lê Khôi đã chuẩn bị một băng rôn: Lễ trao huân chương Chiến công hạng hai cho đồng chí Nguyễn Đỉnh. Ông Tổ trưởng dân phố, Bí thư Chi bộ và bà con lối xóm của Đỉnh đã được mời đến dự. Nguyễn Đỉnh và Lan đều mặc bộ quân phục từ hồi ở chiến trường. Đỉnh ngồi trên xe lăn. Lan ngồi bên chồng. Cạnh họ là Chính trị viên Trần Đình và những đồng đội cũ. Trần Đình mái tóc đã bạc. Ông trầm tư nhìn đôi vợ chồng thương binh, trong ông vụt hiện về những ngày máu lửa trên trọng điểm Pha Bang. Cả hai vợ chồng đều là những người can đảm bám trụ trên vùng chết chóc ấy. Người con trai mang đầy thương tích và liệt nửa người. Người con gái thì mang trọng bệnh. Ông nhớ lần đầu gặp lại ông, Đỉnh nói: Báo cáo Thủ trưởng, em tàn phế thế này, nhưng còn có cuộc sống gia đình, vợ con. Chỉ thương mấy đứa mãi mãi nằm lại trong ấy. Câu nói ấy khiến ông nghẹn lòng. Tấm huân chương này chỉ là khẳng định sự biết ơn của mọi người với cậu ấy, chứ chẳng thể bù đắp sự âm thầm chịu đựng của họ từ nay đến hết cuộc đời.

Lê Trọng mở đầu buổi lễ:
Thưa các bác ở Chi bộ và Tổ dân phố. Thưa bà con. Hôm nay, Hội Bạn chiến đấu bộ đội xăng dầu Đường ống Trường Sơn tổ chức trọng thể lễ trao Huân chương Chiến công hạng hai cho đồng chí Nguyễn Đỉnh. Thời ở chiến trường, đồng chí Đỉnh đã có một hành động dũng cảm, được nêu gương để toàn Trung đoàn học tập. Đơn vị đã đề nghị tặng huân chương chiến công hạng hai cho đồng chí ấy. Anh em nghĩ Đỉnh đã hy sinh. Sau mười mấy năm tình cờ gặp lại. Lúc đó chúng tôi mới biết anh Đỉnh còn sống, và mới biết do điều kiện chiến tranh, giấy đề nghị của Trung đoàn không về đến Bộ Quốc phòng. Ban Liên lạc Bạn chiến đấu đã cùng nhau đề nghị lại. Đến hôm nay, tấm huân chương mới đến được tay người anh hùng của chúng ta. Sau đây, tôi xin giới thiệu đồng chí Vũ Ngọc báo cáo để bà con biết chiến công của Nguyễn Đỉnh.
Ngọc đứng lên, giơ cao một cuốn sách, và nói:
- Đây là cuốn Tạp chí Lịch sử quân sự Việt Nam. Trong cuốn sách này đã có một bài nhan đề Cửa khẩu đường 18, nơi thử lửa của bộ đội Đường ống Trường Sơn. Bài báo có đoạn kể chi tiết về chiến công của anh Nguyễn Đỉnh. Rồi Ngọc đọc to: Khi đại đội lắp ống vượt qua trọng điểm địch ném bom từ trường dày đặc. Mặc dù tuyến đã được công binh phá hết bom, nhưng đồng chí Đỉnh nghi ngờ vẫn còn bom từ trường bị vùi lấp, nên xin được vác ống kiểm tra lại lần cuối để đảm bảo an toàn cho đại đội triển khai. Rất tiếc, điều Đỉnh lo là sự thật. Đỉnh đã nhận trọn quả bom từ trường bị vùi sâu dưới đất mà công binh không phát hiện được. Anh bị thương rất nặng, còn đồng đội thì được an toàn.
Cả phòng họp xì xào: Không ngờ chú Đỉnh dũng cảm thế, quên mình thế. Sống với chú ấy bao nhiêu năm mà chẳng ai biết, thậm chí còn hiểu lầm người ta. Chờ cho tiếng xì xào lắng xuống, Lê Trọng trịnh trọng:
- Thay mặt Ban chỉ huy Trung đoàn 952, tôi xin trao tấm huân chương cao quý này cho đồng chí Nguyễn Đỉnh.
Ông gắn huân chương lên ngực áo quân phục của Đỉnh, và trao cho anh tấm bằng của Chủ tịch nước trong tiếng hoan hô của mọi người. Ông Tổ trưởng dân phố đứng dậy phát biểu:
- Thưa các đồng chí Cựu chiến binh Đường ống Trường Sơn, thưa bà con. Hôm nay chúng ta được chứng kiến một sự kiện thật cảm động. Chúng ta hiểu hơn về một con người, anh Nguyễn Đỉnh. Một người đã có hành động anh Hùng, nhận mọi nỗi thiệt thòi về mình để đồng đội được sống. Anh Đỉnh sống với chúng ta hằng ngày, vất vả làm ăn, và không bao giờ tự kể về mình. Đó cũng là sự cao thượng, là chân giá trị của người anh hùng. Chúng tôi cũng rất cảm động về nghĩa tình đồng đội của những người lính xăng dầu đường ống Trường Sơn. Dù cuộc sống của mỗi người còn vất vả, nhưng các anh vẫn trọn nghĩa vẹn tình với đồng đội ngày xưa. Thay mặt bà con , chúng tôi xin hứa quan tâm hơn đến anh Nguyễn Đỉnh, sẽ làm hết sức mình để giúp anh Đỉnh trong khó khăn của cuộc sống.
Lan đẩy xe đưa Đỉnh lên trước mọi người. Đỉnh xúc động nói:
- Thưa các Thủ trưởng, các bạn chiến đấu cũ, thưa bà con. Trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt, khi việc đến, mỗi người đều sẵn sàng làm mà không hề tính toán cho mình. Lúc đó, tôi nghĩ rất giản dị: Phải có một người kiểm tra lần cuối, nếu không, khi đại đội triển khai ra, có thể chết hàng chục người. Tôi nhớ hôm đó, Miên bạn tôi đã giằng lấy ống đòi đi kiểm tra, tôi không cho. Sau hôm tôi bị bom vài tháng, do thương anh em sốt rét, bị thương, không có gì ăn, Miên đã ra suối đánh cá định về nấu cháo cho mọi người. Không may anh bị thương, mù hai mắt, cụt hai tay. Hôm nay nhận tấm huân chương này, tôi vô cùng biết ơn đồng đội. Nhưng cũng lúc này đây, tôi lại nhớ tới Miên. Sau hành động vì đồng đội, anh ấy trở về trong lặng lẽ, một mình chịu đựng mọi thiệt thòi cho bản thân, chẳng những thế, còn bị dị nghị vì một hành động bị coi là vô kỷ luật- Nói đến đây, Đỉnh nghẹn ngào- Chiến tranh khốc liệt quá, xin những người hôm nay đừng bao giờ nhìn thương binh bằng đôi mắt vô cảm. Phần mình, tôi xin hứa sẽ sống tốt hơn để giữ lấy bản chất của anh Bộ đội Cụ Hồ và xứng với sự quan tâm của đồng đội và bà con.
Lời phát biểu của Đỉnh gây xúc động cho mọi người. Trong phòng họp có vài tiếng sụt sịt. Đứng bên cạnh Đỉnh, Lan lấy tay áo lau nước mắt.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Chiếc xe UAZ lắc lư trên con đường quen thuộc, Quốc lộ 15. Đại tá Lê Trọng trầm tư nhìn những cánh đồng, làng mạc, những mỏm đồi hai bên đường. Một thời, tuyến đường ống dẫn dầu đã đi qua đây. Biết bao chàng trai cô gái từ những làng quê này tham gia xây dựng, vận hành tuyến ống. Rồi họ theo tuyến ống đi vào Trường Sơn. Tuyến đường ống dẫn dầu thời chống Mỹ đã hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ của mình. Một tuyến ống đã vượt qua lửa đạn hủy diệt, đưa xăng vào đến tận Nam bộ. Đó là một kỳ tích, thậm chí như một huyền thoại. Nhưng cái gì nổi danh trong chiến tranh đều phải trả giá. Tuyến đường ống cũng không ngoài quy luật đó. Biết bao người lính đường ống đã mãi nằm lại trên đại ngàn. Những người trở về không ít người đã để lại một phần cơ thể trên Trường Sơn, một số bị nhiễm chất độc da cam hoặc nhiễm độc xăng chì. Những đứa con họ sinh ra tật nguyền, quặt quẹo. Những đứa nhỏ không có trí tuệ, liệt chân tay, những đứa trẻ mù lòa…. Nỗi cơ cực của người lính đi qua chiến tranh thì không giấy mực nào nói cho hết. Nhà nước có chính sách đối với họ. Nhưng giàu có như nước Mỹ thì chính sách cũng đâu có bù đắp lại được nỗi đau về tinh thần, thể xác, và nỗi vất vả trong cuộc sống của họ, huống chi đất nước mình, nghèo, chiến tranh chồng lên chiến tranh. Đối với những người lính như vậy, tình đồng đội là chỗ dựa tinh thần cho họ.
- Anh Trọng nghĩ gì mà đăm chiêu vậy?- Câu hỏi của Ngọc cắt ngang suy nghĩ của ông.
Lê Trọng bừng tỉnh trở về với hiện tại:
- Chuyện anh em mình. Họ bị nhiễm chất độc nhiều quá. Tuyến đường ống đi qua những vùng địch rải chất độc hóa học dày đăc, những nơi ma thiêng nước độc trên Trường Sơn. Những anh chị em ngày đêm tiếp xúc với xăng chì độc hại, sẵn sàng tắm mình trong xăng để cứu tuyến. Hậu quả ngày nay đến với họ thật nặng nề.
Ngọc trìu mến nhìn người thủ trưởng cũ của mình. Lê Trọng đã qua tuổi thất thập, tóc đã bạc, da đã có những nốt mồi, nhưng ông còn dẻo dai lắm. Ngay sau khi rời chức Cục trưởng về hưu, ông tham gia vào Ban liên lạc bạn chiến đấu bộ đội Xăng dầu. Ông sẵn sàng đi đến bất kỳ đâu khi nghe tin một đồng đội gặp khó khăn. Chuyến đi này cũng vậy. Một lần, đọc một bài trên báo Lao Động, biết gia đình anh Sầm, hai vợ chồng là chiến sỹ của binh trạm 691, có ba người con gái đều bị mù. Ban Liên lạc đã cử người vào thăm. Họ vô cùng xúc động trước gia cảnh của đồng đội: Một căn nhà lá lụp xụp, xơ xác. Trong nhà không có thứ gì đáng giá quá năm ngàn đồng, lại đang nợ Hợp tác xã một triệu đồng. Mảnh ruộng nhà chỉ đủ cho họ ăn trong năm tháng. Để bù đắp thiếu hụt, nuôi ba đứa con gái tật nguyền, họ phải vào rừng kiếm củi, đào củ mài hoặc đi làm thuê làm mướn. Ban Liên lạc quyên góp được một triệu đồng hỗ trợ vợ chồng anh. Cũng sau bài báo đó, Công đoàn báo Lao động-Xã hội quyên góp được bốn trăm ngàn đồng, nhờ Lê Trọng chuyển. Lê Trọng nói: Chúng tôi chuyển chỉ là tư cách đồng đội giúp nhau. Nếu các đồng chí chuyển số tiền này qua phòng Lao động-Thương binh-Xã hội huyện, từ đó chuyển về xã, thì số tiền dù nhỏ, vẫn mang ý nghĩa của một tổ chức, có thể tạo nên hiệu quả lớn hơn. Tòa báo đã làm như vậy. Đúng như mong muốn của Lê Trọng. Mấy tháng sau, ông nhận được thư của Sầm báo ba cháu đã được Phòng Lao động -Thương binh-Xã hội huyện cho đi học chữ nổi, và có một Nhà hảo tâm đã tài trợ cho con gái họ mổ mắt. Phấn khởi trước kết quả công việc đã làm, Ban Liên lạc lại cùng nhau quyên góp thêm được ba triệu đồng gửi vào cho họ. Sáu tháng sau, Sầm báo tin cháu lớn đã được mổ mắt, bây giờ mắt đã sáng hoàn toàn. Lê Trọng và mấy anh em trong Ban Liên lạc muốn tận mắt chứng kiến niềm vui đó của đồng đội.

Buổi tối, Lê Trọng cùng mọi người nghỉ lại nhà của Hồ, chiến sỹ của Tiểu ban Kỹ thuật Trung đoàn 952. Căn nhà của Hồ khiêm nhường nằm ở ven một cánh rừng phía tây huyện Quỳnh Lưu. Được các Thủ trưởng cũ ghé thăm, vợ chồng tíu tít làm cơm mời khách. Sau bữa cơm, họ ngồi tâm sự bên chén trà. Hồ trầm tư kể về những đồng đội cũ:
- Đa số họ đều nghèo, và mỗi người một hoàn cảnh. Có một anh bạn, sau năm năm trở về, gần như ngất đi khi biết vợ đã có con với bố mình. Người vợ đã quỳ lạy, xin được tha thứ: “ Anh ơi. Cưới nhau chỉ một tuần thì anh đi. Ở nhà chỉ nàng dâu và bố chồng vò võ sống cùng nhau trong một căn nhà chật hẹp, chẳng nhận được tin tức gì của anh. Cả hai đều đã cố gắng, cố lắm mà vẫn phạm tội với anh. Bây giờ em biết em có chết cũng không xứng đáng với anh, nhưng xin anh hãy thương lấy cháu nhỏ, thương người cha đã mười mấy năm gà trống nuôi con để anh nên người”. Anh đau đớn định phá tan hoang căn nhà cho hả giận, nhưng rồi trấn tĩnh lại, anh nhận ra người cha ăn năn xấu hổ đang ngồi như một pho tượng vô hồn. Ông ta cường tráng, tuổi chỉ năm mươi, sống trong một ngôi nhà chật hẹp với cô con dâu trẻ. Còn anh thì năm năm trời, chỉ viết về vài lá thư. Chiến trường ác liệt, thư đã không đến được tay họ. Không biết nói gì, anh lẳng lặng khoác ba lô đi vào rừng. Anh dựng một cái lán nhỏ bên bờ suối, đi hái củi, bẫy chim mang ra chợ bán sống qua ngày. Vất vả lắm, chúng tôi mới tìm được chỗ anh ấy ở. Chúng tôi khuyên anh hãy tha thứ và trở về. Anh lắc đầu nói: Chúng mày hãy để im cho tao. Xem thử thời gian có giúp tao nguôi ngoai nỗi đau không đã.

Câu chuyện Hồ kể đã trùm lên một không khí nặng nề. Những người lính Đường ống Trường Sơn năm xưa hiểu rằng nỗi đau của đồng đội họ thật muôn màu, muôn vẻ. Hồ lại kể:
- Những ngày trong ấy, chúng ta chôn đồng đội thường rất đơn sơ: Họ tên liệt sỹ viết bằng hắc ín hay dùng dao khắc lên một tấm bia bằng hòm đạn hay một khúc gỗ được vạt phẳng. Thời gian trôi đi, mưa gió đã làm mục nát bia mộ, hoặc bom đạn cày xới để thi thể các anh lại lẫn vào trong đất. Họ trở thành liệt sỹ vô danh. Ngay cả những người được chôn tập trung quanh các đội phẫu thuật, các Đội điều trị thì khi quy tập về nghĩa trang, nhiều trường hợp cũng không xác định được danh tính. Cậu Quỳnh ở trạm bơm B6, chính tay tôi chôn. Vậy mà ngay sau khi chiến tranh kết thúc, theo lệnh của Trung đoàn, tôi trở lại nơi đặt Đội Điều trị của bộ đội Cao xạ tìm lại mộ nó. Hài cốt của Quỳnh đã được quy tập, chiếc chăn dù chôn cùng nó bị bỏ lại bên huyệt, Tôi đã mang chiếc chăn đó về đưa cho mẹ nó. Từ bấy đến nay, tôi chưa tìm thấy mộ nó ở đâu. Mỗi lần đến thăm nhà nó, thắt lòng khi thấy người mẹ già cứ ôm chiếc chăn mà khóc.
Lê Trọng nói:
- Có lẽ nơi cần tìm kỹ nhất là Nghĩa trang Trường Sơn. Các cậu hãy cố gắng. Với anh em mình, có cố gắng bao nhiêu cũng không đủ đâu.

Ngọc nhấp chén trà, nói tiếp mạch về những người đồng đội:
- Tuyến đường ống chúng ta xuyên suốt dãy Trường Sơn. Biết bao vùng địch rải chất độc da cam. Thêm vào đó, môi trường xăng chì độc hại cũng góp phần để di chứng cho những người lính. Không chỉ thế hệ này, mà còn thế hệ sau. Nhiều lúc tôi giật mình vì tỷ lệ nhiễm độc trong anh chị em mình lớn quá. Trong chiến tranh, do thiếu hiểu biết, do thiếu các phương tiện phòng hộ nên ta cứ vô tư trước hiểm nguy. Trường hợp của kỹ sư Danh và nhân viên khảo sát Lâm Vinh, thật đau lòng. Gần một tháng trời khảo sát tuyến ở khu vực A Lưới, họ vô tư nấu ăn, uống nước suối và những đìa nhỏ trong rừng. Sau này, có dịp vào đó công tác, khi đọc những biển cảnh báo: Chú ý! Đây là vùng bị nhiễm chất độc Đioxin, được nghe người dân kể về những khu Rừng Ma, tôi mới hiểu nguyên nhân của những nỗi đau mà các anh ấy gánh chịu: Lâm Vinh đã qua đời, để lại hai đứa nhỏ tật nguyền, còn Kỹ sư Danh thì vất vả vì cô con gái bị thần kinh suốt ngày đập phá. Lần giỗ đầu của Lâm Vinh, Đào Văn Quốc thay mặt anh em dâng hương trước di ảnh, và nói: “Lâm Vinh ơi, hầu hết anh em trong Tiểu ban Kỹ thuật đã về đây với em. Em đã sống qua những ngày lửa đạn ác liệt nhất, nhưng đã không thể qua nổi sự nghiệt ngã của số phận do chiến tranh để lại. Xin em hãy yên nghỉ và phù hộ cho các con em vợi bớt nỗi đau trong cuộc sống”. Thắp hương lên bàn thờ mà chúng tôi không ai cầm được nước mắt.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top