[Funland] Hồi ký (Phóng tác) về đường ống xăng dầu Trường Sơn.

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Tháng 7 năm 1970, khi tuyến đường ống giã chiến đã chứng tỏ được sức sống của mình trên những vùng ác liệt nhất, chân hàng xăng viện trợ của các nước Bạn đảm bảo được ở phía Bắc, Chính phủ giao cho Bộ Quốc phòng xây dựng và vận hành hệ thống tuyến đường ống từ biên giới vào đến chiến trường. Trên tuyến hướng Đông, tiểu đoàn 66 vẫn bám trụ kiên cường, đặc biệt là trọng điểm Pha Bang. Xăng đã vào Q7, tuyến tiếp tục phát triển về phía trong. Đường ống dẫn dầu là một phương thức vận tải hiện đại, đòi hỏi tính thống nhất và tính hệ thống rất cao. Nhưng tuyến đường ống ở đây đang có sự quản lý, chỉ huy khá phân tán: Binh trạm 90 chỉ huy tiểu đoàn. Các vấn đề kỹ thuật lại được giải quyết bởi Công trường 181, nay lại có thêm tiểu đoàn 96 do Bộ tư lệnh 559 mới điều từ Hướng Tây sang. Để phát huy hết sức mạnh của phương thức vận tải đường ống, đến cuối mùa mưa, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập trung đoàn 952, trung đoàn đường ống đầu tiên của Đoàn 559. Trung đoàn sẽ gồm tiểu đoàn 66, tiểu đoàn 96 và bổ sung về thêm một tiểu đoàn, tiểu đoàn 69.

Hôm tập trung ra mắt Ban chỉ huy trung đoàn, Lê Trọng rất mừng vì hầu hết mọi người đều đã biết nhau trên tuyến X42, Tuyến Hướng Tây và Hướng Đông. Hầu hết bộ máy của Công trường 181 được chuyển về trung đoàn 952. Ban Kỹ thuật trừ Hải và Thanh được điều ra tuyến ngoài, còn lại đều được điều động về trung đoàn. Trung đoàn trưởng Lê Trọng, Trung đoàn phó Đặng Văn Thế, đều là những cán bộ dày dạn kinh nghiệm ngay từ khi đặt những chiếc ống đầu tiên của bộ đội đường ống Việt Nam. Họ cũng là những người đủ sức chịu đựng những thử lửa khốc liệt nhất. Chủ nhiệm chính trị không ai khác, là ông Hoàng Trần. Hoàng Trần đã chữa khỏi vết thương ở hông, giờ lại phương phi, béo tốt. Khuynh, Chính ủy Trung đoàn là một gương mặt mới. Dáng người nhỏ nhắn, tính tình vui vẻ. Đã qua một số đơn vị ở nơi ác liệt, nên ông rất dạn dày bom đạn..

Việc đầu tiên mà Trung đoàn 952 phải giải quyết là tìm cách để xăng có thể bơm qua trọng điểm Pha Bang với hiệu suất chấp nhận được, vì mấy tháng nay, các đợt vận hành đều đạt hiệu suất dưới năm mươi phần trăm, nghĩa là hơn nửa số xăng rút khỏi Q200 đã cháy hoặc đổ xuống các hố bom, sông suối.

Cuộc họp chỉ huy trung đoàn mở rộng bàn việc đưa xăng vượt qua “cửa tử” Pha Bang, kéo dài hết buổi sáng. Tấm bản đồ tuyến ống qua trọng điểm Pha Bang đã trở nên quen thuộc với hầu hết những người trong cuộc họp, nhưng mỗi người chỉ hiểu trọng điểm theo chức năng, vị trí của mình. Hôm nay, lần đầu tiên, họ được nghe Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 66 báo cáo lại toàn bộ diễn biến tình hình kể từ ngày 22 tháng 12 năm 1969, khi dòng xăng lần đầu vào kho hang Bản Cọ. Những trận đánh phá ác liệt, thương vong của bộ đội ta, việc nắn tuyến ra sau lèn đá ở phía bắc, thủ đoạn đánh phá của địch… được tiểu đoàn trưởng trình bày lại mạch lạc một cách hệ thống. Phần cuối báo cáo, tiểu đoàn trưởng nhấn mạnh:
- Mùa khô 1969-1970, đường 18 là hướng nghi binh mà các trọng điểm Pha Bang, 900, 700 đã bị đánh phá rất nặng nề. Mùa khô này, khi đường 18 được sửa sang cơ bản, và trở thành một hướng vận tải chủ yếu thì mật độ đánh phá của địch càng quyết liệt hơn. Chỉ riêng tháng 11, địch huy động 387 lần chiếc máy bay B52 rải thảm lên trọng điểm, trong đó có 91 lần trúng tuyến ống. Việc bơm xăng vượt qua trọng điểm Pha Bang đang vô cùng khó khăn. Số ống phải thay cộng lại đã dài gấp đôi chiều dài tuyến ống qua trọng điểm. Thậm chí, nếu cứ giữ nguyên tuyến và chiến thuật vận hành như hiện nay thì có nguy cơ đường ống không hoàn thành việc đảm bảo xăng cho các nhiệm vụ trong mùa khô này.

Sau báo cáo của tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 66, các cơ quan lần lượt tham gia ý kiến. Lê Trọng chăm chú nghe, ghi chép cẩn thận, đánh dấu các ý kiến cần lưu ý. Ông không hề cắt ngang các ý kiến phát biểu. Ông từng chỉ huy thi công, vận hành tuyến Hướng Tây, làm Phái viên của Tổng Cục hoạch địch tuyến Q5 đến Q6. Ông hiểu rất rõ nhiệm vụ nặng nề của mình. Tháng 6 năm 1970, Quân ủy Trung ương đã ra Nghị quyết củng cố vững chắc tuyến 559 với các phương thức vận chuyển đường bộ, đường ống, đường sông. Một số đơn vị cấp sư đoàn của bộ đội Tình nguyện Việt Nam ở Lào cũng được sáp nhập vào 559. Mùa khô này, toàn Đoàn có trên 6500 đầu xe hoạt đông, trên 1000 thiết bị làm đường, rà phá bom mìn và hàng nghìn thiết bị kỹ thuật khác. Đó là chưa kể những đoàn xe và binh khí kỹ thuật chạy thẳng từ hậu phương qua tuyến vận tải 559, vào các chiến trường. Vấn đề đảm bảo xăng dầu không còn là câu chuyện của những chiếc xe chở phuy hay xe stec đơn độc chạy trên đường, mà phải được cung cấp với cường độ của phương thức vận chuyển đường ống. Việc thành lập trung đoàn 952 là một biện pháp trong tổng thể các biện pháp đồng bộ để cung cấp xăng dầu từ hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn. Cấp trên đã tin tưởng đặt ông vào nơi nóng nhất, khó nhất. Điều đó thể hiện sự tín nhiệm đối với ông, nhưng cũng đặt lên vai ông trách nhiệm rất nặng nề. Ông đã cùng anh em vượt qua thử thách khốc liệt ở trọng điểm 050. Cũng những con người ấy, nay đã dạn dày bom đạn, dạn dày kinh nghiệm xử lý kỹ thuật, không có lý do gì cam chịu thất bại. Ông chăm chú nhìn lên tấm bản đồ trọng điểm Pha Bang. Trên đó, đường ô tô đã được nắn đi, nắn lại qua các trận đánh phá, như một búi dây màu đỏ, còn đường ống như một sợi chỉ màu đen luồn qua các bãi bom nổ chậm, bom từ trường dày đặc. Sự ác liệt của trọng điểm Pha Bang không phải lạ lẫm gì đối với ông, vì ông đã vài lần ngồi xe vượt qua trọng điểm, và chính ông đã đối mặt với cái chết, chứng kiến sự hy sinh của trung tá Quang Trung. Ông khâm phục sự dũng cảm, chịu đựng và khôn ngoan của các cán bộ chiến sỹ trên tuyến ống. Tuy nhiên, rõ ràng làm như vừa rồi vẫn là chưa đủ trước sự ngăn chặn hủy diệt của không lực Hoa Kỳ. Sau khi tổng hợp mọi ý kiến, ông kết luận cuộc họp một cách chậm rãi:
- Pha Bang là nơi đụng đầu giữa hai khối quyết tâm. Chúng ta quyết tâm bơm xăng đường ống vượt qua trọng điểm. Ngược lại, không lực Hoa Kỳ quyết tâm ngăn chặn bằng tất cả mọi biện pháp có thể. Bởi vậy, sự hy sinh ác liệt tại đây là đương nhiên. Vấn đề bây giờ là ta phải bàn tới các biện pháp khôn ngoan hơn nữa, gan góc hơn nữa mới hy vọng giành phần thắng. Chúng ta không thể tham vọng không có xăng cháy, không có hy sinh. Điều quan trọng bây giờ là phải cố gắng để nâng cao hiệu suất vận hành, không thể để ở tình trạng hai mươi, ba mươi phần trăm, thậm chí mất trắng như hiện nay. Các đồng chí cũng phải hiểu cho, mỗi lít xăng vào đến đây là kết quả của sự thắt lưng, buộc bụng của hậu phương, của sự chi viện vô cùng quý báu từ các nước anh em, xương máu bộ đội, Thanh niên Xung phong và nhân dân.
Nói đến đây, ông không kìm nén được xúc động. Biết bao người lính đã ngã xuống dọc tuyến đường ống. Và bây giờ đây, trước mắt ông, những sỹ quan, kỹ sư vẫn còn nguyên vẹn nhiệt huyết, quyết tâm, nhưng hốc hác, xanh xao vì thiếu ăn, vì phải qua những trận chiến đấu căng thẳng, vì sốt rét rừng. Rồi đây, ông lại cùng họ lao vào một cuộc chiến đấu mới không cân sức với bom đạn kẻ thù. Lê Trọng nói tiếp:
- Để có thể thắng trong trận này, ta phải giải quyết đồng bộ cả ba vấn đề: Chiến thuật, kỹ thuật và chính trị tư tưởng- Ông chỉ lên tấm bản đồ dày đặc các ký hiệu bom đạn- Tuyến ống đã nắn ra phía sau lèn đá phía bắc trọng điểm Pha Bang. Nhưng đã bị lộ, và vẫn khó tránh được vạ lây khi B52 đánh vào các đoàn xe. Đã hơn một năm nay, đường sông qua đây ngừng hoạt động nên trọng điểm tập trung ở phía bắc sông Sê Bang Hiêng. Bây giờ chúng ta nắn tuyến sang phía nam sông. Ở đó có một rẻo đất tương đối phẳng chạy dọc sông, có thể dấu tuyến, hy vọng giảm được sự vạ lây khi bom đánh đường ô tô và dễ khắc phục khi có sự cố. Về chiến thuật vận hành, chúng ta cũng phải điều chỉnh lại: không lót nước giữa các đợt vận hành nữa, vì việc lót nước sẽ làm mất thời cơ vận hành và làm ảnh hưởng đến chất lượng xăng. Vấn đề cuối cùng: vấn đề tư tưởng. Chúng ta đã vài lần nắn tuyến, nhưng đã không thành công. Lần này, phaỉ thi công bảy cây số trong điều kiện địch đánh phá cực kỳ ác liệt, OV-10 liên tục trinh sát trên không, cần quán triệt tốt hơn nữa nhiệm vụ đến từng cán bộ, chiến sỹ trên công trường. Tôi yêu cầu cán bộ chỉ huy, cán bộ kỹ thuật, cán bộ hậu cần, chính trị tất cả các cấp phải thay nhau có mặt trên công trường để chỉ huy bộ đội, giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh. Cả trung đoàn phải coi đây như một chiến dịch.
Kế đó, Lê Trọng giao nhiệm vụ cho từng cơ quan về lập kế hoạch chi tiết. Ông đã thổi vào những người dự họp một khí thế mới cho nhiệm vụ mới.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Lan lên công tác ở cơ quan trung đoàn được vài tháng thì nhận được quyết định phục viên. Tính đến hôm nay, cô đã phục vụ trên tuyến đường ống được ba năm. Gần hai năm bám trụ trên trọng điểm Pha Bang đã làm Lan thay đổi nhiều quá. Nước da nõn nà xưa, nay đã xanh xao, mái tóc gội bom, gội đạn, gội gió gội sương, đã rụng mất nhiều sau những cơn sốt rét, còn đâu óng mượt như xưa. Những lần vác ống thi công, cứu tuyến đã lấy đi cái eo thon thả . Cũng không còn đâu đôi bàn chân mà các bạn cùng lớp hay gọi là “gót sen” đài các. Nó đã nứt nẻ, chai sạn vì băng qua đạn bom, trèo đèo lội suối. Không ít lần, soi bóng xuống dòng suối, Lan giật mình bàng hoàng vì sự thay đổi của mình. Em đã thay đổi nhiều quá rồi anh ơi, nhưng em vẫn thấy cuộc đời đẹp quá. Em đã có anh. Những lúc được trong vòng tay anh, những lúc được nhớ anh, cả những lúc cận kề cái chết, em vẫn có anh. Mấy người con gái Trường Sơn được như em đâu anh. Em biết ơn anh nhiều lắm. Bây giờ, cầm trong tay quyết định này, sao em chẳng thấy vui. Em bỗng rùng mình, lo sợ tình yêu tuột khỏi tay. Tình yêu của chúng mình được nhen lên từ khói đạn, từ gian khổ, ác liệt, đâu có giống thứ tình yêu mộng mơ dễ vỡ như pha lê. Nhưng anh ơi, em vẫn lo lắm. Em có giữ được anh mãi mãi trong cuộc đời này không, khi mà bom đạn có thể cướp anh của em đi bất cứ lúc nào. Rồi nữa. sau đây sẽ có một lớp con gái trẻ đẹp vào thay thế chúng em. Anh đẹp trai thế, kiêu hùng thế, trước những ánh mắt khát khao của mấy cô gái trẻ, anh còn nhớ đến em nữa không. Xa hơn nữa, cuộc chiến tranh này còn dài lắm, mai ngày anh trở về, tuổi xuân của em đã qua đi, anh còn thương yêu em nữa không…Trời ơi. Sao ruột gan em rối bời thế này. Không hiểu khi biết em nhận được quyết định phục viên, anh sẽ ra sao? Ôi. Giá như chúng mình đã thành chồng vợ, giá như em có với anh một đứa con. Cuộc đời người con gái trong chiến tranh cũng mong manh lắm anh ơi.

Nhận được tin báo Lan đã có quyết định phục viên, Đỉnh đi như chạy về Trung đoàn bộ. Lòng anh cũng ngổn ngang không kém. Anh mừng vì em đã hoàn thành nhiệm vụ, trở lại hậu phương yên bình. Anh sẽ không còn phải lo bom đạn cướp mất em của anh. Em ơi, đường từ đây ra ngoài ấy cũng còn gian truân lắm. Mong sao em được bình an. Thế là từ nay, trong cuộc sống luôn đối mặt với cái chết này, anh không còn em bên cạnh. Anh không còn được nghe những lời lo lắng ngọt ngào của em mỗi khi bom đánh về phía cửa 10. Anh sẽ không còn được nghe những lời hờn giận cùng những giọt nước mắt xót xa của em khi em biết anh liều lĩnh trong bom đạn. Từ nay, mỗi khi tìm được nhành phong lan rừng, anh cũng chẳng còn cơ hội đến tặng em trong lấm lem bùn đất và khói bom. Và nữa. Em xinh đẹp thế, ra hậu phương, khi những cơn đói, cơn sốt rét rừng đã lui đi, em lại óng ả, nõn nà, liệu rồi em còn nhớ đến anh?...
Họ gặp nhau bên bờ suối. Nàng khóc nấc. Họ ôm chặt lấy nhau như sợ bỗng có một lý do nào đó, họ mất nhau.
- Anh ơi. Em đi rồi, anh còn nhớ đến em nữa không?
- Em đừng nói thế. Anh yêu em như thế nào, em biết rồi mà.
- Mai đây, những cô gái khác trẻ đẹp vào thay chúng em, anh có còn nhớ em không?
- Anh đang rối lòng vì phải xa em, sao em cứ hỏi những câu như thế.
- Anh có giữ mình để còn trở về với em không?
- Bom đạn biết thế nào mà nói hả em. Nhưng em tin rằng, từ nay, trong mạng sống của anh, có một phần của em đó. Em lại khóc rồi. Cuộc sống của anh, từ cái hôm anh và Hiến mang bao gạo vào cho trung đội gái, em đã là một phần không thể thiếu của anh rồi.
- Anh ơi. Em muốn làm vợ anh.
Nghe câu ấy, Đỉnh như nghẹt thở. Anh ôm chặt nàng vào lòng hơn. Hơi thở của nàng trở nên gấp gáp. Đỉnh cảm thấy không gian bỗng trở nên xanh ngắt lạ thường. Không còn tiếng vo ve của chiếc tàu càng, không còn tiếng bom gầm thét. Tất cả sao đáng yêu thế. Dòng suối róc rách, tiếng chim, tiếng gió. Trời ơi, bõ những ngày anh mong, anh đợi:
Lan ơi, anh biết ơn em. Nếu em đồng ý, mình sẽ đề nghị đơn vị tổ chức lễ cưới trước hôm em đi. Hiếm lắm ở chiến trường có một đám cưới như của chúng mình.
- Anh ơi, em là của anh, anh là của em. Mình hãy giữ gìn cho nhau anh nhé. Ngay ngày mai, chúng mình sẽ lên báo cáo thủ trưởng.

Chàng trai và cô gái quân phục chỉnh tề đứng trước phòng làm việc của Chủ nhiệm Chính trị Trung đoàn. Ai đi qua cũng khen họ đẹp đôi. Chàng trai cao lớn, mặt vuông cữ điền, đôi mắt sáng và quả cảm. Cô gái khuôn mặt trái xoan, lông mi dài, dáng cao dong dỏng. Chiếc áo quân phục bó sát người, tuy không còn thật thon gọn, nhưng vẫn còn dáng dấp của một người thắt đáy lưng ong. Họ gõ cửa. Phiá sau cánh cửa, một giọng nói oai vệ và lịch sự:
- Mời vào.
Đôi trai gái rụt rè bước vào:
- Chúng em chào thủ trưởng.
- Cô cậu có việc gì vậy?
- Báo cáo thủ trưởng, tôi là Nguyễn Đỉnh, tiểu đội trưởng ở Cửa 10, trọng điểm Pha bang. Tôi lên có mang theo thư của Chính trị viên Tiểu đoàn. Còn đây là đồng chí Phạm Hoàng Lan, trước canh van ở Cửa 11, mới lên công tác ở cơ quan Chính trị Trung đoàn. Chúng tôi yêu nhau đã được hai năm. Nay Lan có quyết định phục viên, chúng tôi lên báo cáo, và đề nghị Thủ trưởng cho chúng tôi tổ chức lễ cưới để Lan yên tâm trở về hậu phương.
- Thế hả. Tốt. Mời cô cậu ngồi- Chủ nhiệm Chính trị Hoàng Trần chỉ cho họ ngồi xuống chiếc gế bằng hai dây bương ghép lại, rồi ông chăm chú đọc lá thư của Chính trị viên tiểu đoàn 66.
Kính gửi anh Hoàng Trần. Tôi giới thiệu với anh cậu Đỉnh, tiểu đội trưởng ở cửa 10, và cô Lan ở Cửa 11, nay là nhân viên Ban Chính trị. Họ đều là những chiến sỹ rất dũng cảm, xông xáo. Hai năm nay, Đỉnh và Lan đã tìm hiểu và yêu thương nhau. Tôi đã biết điều này và ủng hộ cho hai đứa. Nay cô Lan có quyết định phục viên, hai đứa muốn đơn vị tổ chức lễ cưới để cô Lan về hậu phương yên tâm. Tôi thấy đây là nguyện vọng chính đáng. Mong anh ủng hộ việc này. Nếu anh đồng ý thì cấp cho chúng một cái giấy chứng nhận. Lễ cưới có thể tổ chức ở Tiểu đoàn hoặc Trung đoàn thì tùy anh. Chúc anh Khỏe. Kính thư.
Trần Đình


Hoàng trần đặt lá thư xuống, lặng lẽ quan sát đôi trẻ. Cậu thanh niên này đẹp trai quá. Cô bé cũng khá xinh, nhưng trông đã già hơn so với cậu ta. Bây giờ đã vậy, sau này sẽ ra sao? Khi cái tuổi nó đuổi xuân đi rồi thì cô ấy có còn hạnh phúc nữa không? Chắc chắn là không. Còn nếu chúng nó thực sự yêu thương nhau thì để hòa bình, trở về, lúc ấy cưới đâu có muộn. Thêm nữa, giữa lúc bom đạn bời bời, cán bộ, chiến sỹ của trung đoàn ngày nào cũng có thương vong, thì việc tổ chức lễ cưới tránh sao khỏi ảnh hưởng tới tinh thần bộ đội. Bởi vậy, không thể để chúng nó cưới nhau ở đơn vị được. Cái cậu Trần Đình này bị tình cảm chi phối quá. Chỉ thấy cái trước mắt, mà không thấy cái lâu dài xa hơn cho bọn trẻ. Hoàng Trần hít một hơi dài và nói hết ý nghĩ của mình. Ông đinh ninh đôi trẻ sẽ biết ơn ông. Nào ngờ, khi ông dứt lời, mặt cô gái tái đi, xuýt nữa quỵ xuống. Ông không biết một trong những lý do để cô gái được phục viên, chính là bệnh tim của cô. Đỉnh đỡ cô gái ngồi dựa vào vách. Chính anh cũng không thể hình dung câu chuyện lại diễn ra như thế này.
- Baó cáo thủ trưởng. Chúng tôi đã yêu thương nhau cả lúc vui và lúc cận kề cái chết. Chúng tôi đã thề trọn đời bên nhau. Ngay cả cho dù ngay hôm nay, hay ngày mai, một trong hai chúng tôi không may bị thương, mù mắt, cụt tay chân, thì chúng tôi vẫn có nhau. Mong Thủ trưởng cho chúng tôi một cái giấy của đơn vị xác nhận chúng tôi đã là vợ chồng.
- Này Đỉnh ơi. Xét về kinh nghiệm sống thì chắc chắn cậu không bằng tôi. Cậu còn lý thuyết lắm. Tôi đã chứng kiến nhiều sự bất hạnh của những cô gái lấy chồng trẻ. Nếu cậu thực sự thương cô ấy, thì hãy cho cô thời gian để chiêm nghiệm. Biết đâu, ra hậu phương cô ấy lại tìm được một hạnh phúc bền lâu hơn. Cậu thấy tôi nói đúng chứ? Hứ!
Đến lượt Đỉnh tái mặt. Ông ta đã xúc phạm em Lan của anh, xúc phạm cả anh nữa. Đỉnh quên hết lễ tiết trên dưới:
- Thưa thủ trưởng. Tình yêu của chúng tôi đâu phải do thủ trưởng quyết định. Cái mảnh giấy chứng thực của đơn vị, dù có hay không thì chúng tôi cũng đã thuộc về nhau rồi. Vả lại, chúng tôi yêu nhau có gì là bất chính đâu. Chính trị viên Tiểu đoàn cũng ủng hộ tình yêu của chúng tôi.
- Sao? Cậu coi Chính trị viên tiểu đoàn của cậu hơn tôi? Tôi có thể cách chức cả Chính trị viên của cậu, cậu hiểu không, hứ? Thôi. Tôi không nói lại nữa. Cô cậu hãy về suy nghĩ những điều tôi nói, hứ!
Đôi trai gái lặng lẽ ra khỏi phòng của Chủ nhiệm Hoàng Trần. Người Lan đã rũ xuống như tàu lá héo. Hoàng Trần bỗng cảm thấy thương họ. Họ trẻ quá, đâu hiểu hết sự đời. Chắc chắn, theo thời gian, họ sẽ hiểu ông hơn. Ông tự thấy hài lòng vì mình đã làm một việc đúng. Làm công tác chính trị là phải biết nhìn xa như vậy.
 
Chỉnh sửa cuối:

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Đỉnh dìu Lan về tận lán, âu yếm đỡ cô nằm xuống. Lan run rẩy:
- Anh ơi. Anh đừng bao giờ bỏ em, anh nhé.
Đỉnh nắm chặt tay nàng trong bàn tay thô ráp của mình, anh hôn lên những ngón tay thuôn dài, xanh xao:
- Thôi, đừng buồn nữa. Họ có nói gì thì chúng mình cũng đã thuộc về nhau rồi. Nói dại, em ra ngoài ấy, ở trong này, dù bom có xé anh thành trăm mảnh thì trong mỗi mẩu thịt xương của anh nằm lại giữa đại ngàn Trường Sơn này đều thấm đẫm tình yêu của anh với em.

Ngày hôm sau, Lan lên đường trở về. Chính trị viên đại đội cho phép Đỉnh tiễn cô gái đến hết địa phận của Tiểu đoàn. Đó là một việc làm vượt quyền, nhất là trước đó, Đỉnh đã bị kỷ luật cảnh cáo vì dung túng cho đồng đội bỏ ngũ.
Con đường về của họ vẫn là lối đi quen thuộc dọc theo tuyến ống. Họ đi qua những nơi đã in dấu ấn của tình yêu. Đây là nơi lần đầu em tiễn anh và anh Hiến. Đây là nơi em đã quỵ xuống vì anh đã thoát chết trong loạt bom tọa độ, mang đến cho em cành hoa phong lan bê bết đất và khét mùi khói bom. Lan bẻ một nhành hoa rừng cắm lên mộ Thoan. Thoan ơi, chúng ta đã có ở đây một đoạn đời tuổi trẻ gian lao mà hào hùng. Nhưng em đã nằm đây mãi mãi với tuổi mười tám. Chị thì trở về, mang trong mình bệnh tim, sốt rét, nhan sắc tàn phai, nhưng chị có tình yêu, chị có anh Đỉnh. Thế là so với em và những người mang tuổi xuân xuống lòng đất, mà chưa biết đến một cái hôn, một cái nắm tay của người con trai, thì chị đã hạnh phúc lắm rồi. Lan nghẹn ngào: Thoan ơi. Nằm lại đây em nhé. Dù năm tháng có qua đi, dù chiến tranh rồi sẽ lùi xa, thì những người thắt lòng chôn đồng đội cùng tuổi xanh của họ trên đại ngàn này, chẳng biết nỗi đau rồi có nguôi ngoai.

Đêm xuống, đôi trẻ nghỉ lại trong một cái lán cũ bên dòng suối. Đỉnh lấy tăng lợp lên cái khung của căn nhà âu. Anh dọn dẹp thật sạch sẽ cái sạp nằm.Không ai có thể ngăn cấm tình yêu. Ánh trăng lọt qua tán lá, vẽ lên mái tăng những khoanh tròn như những bông hoa trang điểm cho giường tân hôn của họ. Họ đã trao cho nhau tất cả niềm yêu thương, tận hưởng mọi hạnh phúc mà cả hai cùng cố dồn nén bấy lâu, vì sợ bị kỷ luật, vì sợ cái điều người ta vẫn kiêng kỵ ở chiến trường. Không còn bất kỳ một sức mạnh nào có thể ngăn nổi họ. Họ thuộc về nhau, để rồi từ đây, dù chiến tranh diễn ra thế nào, dù bất hạnh đến với mỗi người ra sao, họ vẫn có nhau để đi hết cuộc đời.

Tiếng những con chim rừng ríu rít đánh thức Đỉnh dậy. Bên anh, Lan vẫn say trong giấc ngủ. Khuôn mặt xanh xao, nhưng tràn đầy hạnh phúc và mãn nguyện. Chẳng có giấy chứng nhận của đơn vị, anh sẽ gửi lá thư này về cho cha mẹ để em được nhận làm con dâu. Cầu trời, đêm qua, đêm hạnh phúc, thần tiên của chúng mình sẽ đơm hoa kết trái. Đỉnh mơ thấy khi anh trở về, bước qua cái cổng xây cổ kính phía sau lăng Hoàng Cao Khải, sẽ có một cậu bé lon ton chạy ra chào bố. Anh sẽ ôm cả nó và lan vào vòng tay trận mạc của mình. Anh vừa viết thư về nhà, vừa ngắm Lan. Mong sao em ra đến hậu phương bảo trọng và cố gắng gìn giữ những gì chúng mình đã có.


Ngọc được giao nhiệm vụ dẫn đầu một tổ khảo sát lên đường tìm tuyến tránh sang bờ nam sông Sê Bang Hiêng. Theo báo cáo của Tiểu đoàn 66 thì bờ nam sông lâu nay ít bị dính bom B52 hơn vì tuyến đường ô tô và tuyến ống có xu hướng đi sát chân núi phía bắc. Tuy nhiên, bờ nam sông là khu vực dày đặc bom nổ chậm và bom từ trường, hàng năm nay chưa được phá. Giữa buổi chiều qua, Lê Trọng lên cơn sốt dữ dội. Ông quàng chăn cho đỡ lạnh, điều khiển cuộc họp với Ban Tham mưu và kỹ thuật Trung đoàn để bàn kế hoạch thi công tuyến tránh bờ nam sông. Suốt đêm qua, ông sốt bốn mươi độ. Một chút cháo bữa chiều và thuốc uống đã theo những cơn nôn thốc tháo ra hết cùng mật xanh mật vàng. Cơn sốt đến, người ông run bần bật, mồ hôi vã ra như tắm. Ông đã từng qua những cơn sốt rét trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. ở tuyến Hướng Tây, ông cũng đã sốt, nhưng sao lần này, cơn sốt lại đến dữ dội vậy. Bác sỹ trung đoàn cử một y tá luôn ở bên ông, đề phòng sốt chuyển sang ác tính.

Lê Trọng tỉnh dậy sau một giấc ngủ mê man. Hôm nay tổ khảo sát bờ nam sông lên đường. Ngọc là một cán bộ khảo sát dũng cảm và giàu kinh nghiệm. Tuy nhiên, đoạn tuyến phía nam sông biết bao hiểm nguy rình rập. Cầu mong chúng nó đi an toàn. Ông gọi cậu Diễn, công vụ đến:
- Hỏi giúp tổ khảo sát của Ngọc lên đường chưa?
Diễn nhấc điện thoại gọi xuống Ban Kỹ thuật, rồi đáp:
- Báo cáo. Các anh ấy bắt đầu xuất phát.
- Lấy giúp mình cái ba lô – Trọng chỉ lên chiếc ba lô trên giá –Trong túi cóc có hai lọ sâm Triều Tiên. Đúng nó đấy.
- Thủ tưởng định uống cho lại sức ạ?
Cậu y tá chạy lại. Cậu ta nhận ra ngay đây là lọ sâm viên chỉ phát cho bộ cấp trung đoàn trở lên trên tuyến Trường Sơn:
- Thủ trưởng đang bệnh. Nếu Thủ trưởng muốn uống, xin để tôi mời bác sỹ đến hướng dẫn.
- Không. Mình không uống đâu. Đưa cho bọn thằng Ngọc.
Diễn nhanh nhảu:
- Giờ các anh ấy sắp qua ngõ mình rồi. Thủ trưởng để tôi mang ra cho họ
- Không được, phải là mình trực tiếp đưa.
Lê Trọng đứng dậy. Diễn và cậu y tá chạy lại đỡ cho ông khỏi ngã.
- Diễn ra ngõ, nếu anh em đi qua, bảo đứng đấy chờ mình.
Ông chống gậy run rẩy bước ra ngoài. Cậu y tá dìu ông đến ngã ba đúng lúc tổ của Ngọc đi tới.
- Ngọc ơi - Ông gọi bằng một giọng yếu ớt - Lần này đi vất vả và nguy hiểm đấy. Mình chẳng có gì ngoài mấy viên thuốc bổ này. Anh em đi, mệt quá thì ngậm cho lại sức.
Ngọc và anh em tổ khảo sát xót xa nhìn trung đoàn trưởng hốc hác, xanh xao, đứng không vững:
- Thủ trưởng ơi. Thủ trưởng mệt thế, xin thủ trưởng giữ lấy những viên thuốc này bồi dưỡng. Chúng tôi là thanh niên, lại chịu đựng gian khổ quen rồi.
- Hãy cầm lấy cho mình vui đi. Ở nhà, mình ốm đã có quân y.
Ôi. Lê Trọng ơi. Anh có mặt ở mọi nơi gian khổ ác liệt nhất. Biết anh nhiều rồi, mà vẫn chưa hiểu hết. Anh là người chỉ huy, hay là người cha đang lo lắng cho những đứa con trước khi lâm trận. Ngọc đón hai lọ sâm trong tay trung đoàn trưởng mà không sao cầm đươc nước mắt. Anh nghẹn ngào:
- Xin thủ trưởng yên tâm. Chúng tôi nhất định hoàn thành nhiệm vụ.

Tổ khảo sát của Ngọc có ba người. Tiểu đoàn 66 cử thêm Đỉnh, Tiểu đội trưởng ở Cửa 10 cùng đi để dẫn đường. Hai năm bám trụ, Đỉnh là một trong số ít người hiểu rõ từng khúc suối, mô đá, hố bom trên trọng điểm. Ngọc đặt tấm bản đồ lên một mỏm đá:
- Đây sẽ là nơi tuyến tránh gặp tuyến cũ. Như vậy từ Q200 đến Q5 sẽ có hai điểm vượt sông Sê Bang Hiêng. Chỉ đi một đoạn nữa là đến khu vực trọng điểm Pha Bang. Gần hai năm nay, đường sông qua đây đã ngừng vận chuyển nên bom rơi xuống bờ Nam không nhiều như trước. Tuy nhiên, vì mật độ đánh phá của địch quá dày đặc trên trọng điểm ở bờ bắc, thì khó có thể nói trước điều gì.
- Đúng như anh nói- Đỉnh tiếp lời- Để chặn các phuy xăng thả trôi sông, đề phòng có tuyến ống đi qua, địch đã thả rất nhiều bom từ trường, một số đang nằm dưới lòng sông, một số ở trên bờ. Tôi đề nghị đi trên tuyến này, chúng ta không mang theo vũ khí và bất cứ thứ gì có sắt thép. Địa hình tương đối trống trải, mọi người cần ngụy trang kỹ để tránh thằng OV-10.
Đỉnh nói không sai. Bờ nam sông là một rẻo đất hẹp. Chỗ rộng nhất chỉ hơn một trăm mét. Mùa mưa vừa rồi, địch chặn phá đường sông nên hố bom chồng lên hố bom. Những đám cỏ tranh và rau tàu bay bắt đầu nhô lên khỏi mặt đất Tuy vậy, những hố bom mới nối nhau vẫn tạo nên một bờ sông lở lói. Điều đáng ngại ngất là bom nổ chậm và bom từ trường nằm rải rác dọc bờ sông suốt đoạn đối diện với trọng điểm Pha Bang. Trước một cái hang nhỏ, mà Đỉnh gọi là hang Gấu Đen, vì tại đây, họ đã gặp một chú gấu đen phi từ trong hang ra, chạy lên núi, là một bãi bom từ trường. Những cái đuôi bom màu xám đứng thành một đám dày đặc. Cái thì nhô cả thân đuôi lên khỏi mặt đất như hình cái oản. Cái thì những cánh bom xòe trên mặt đất như những bông hoa của tử thần, Cái bị đất của những quả bom sau vùi lấp một phần. Chính Đỉnh cũng không ngờ bom từ trường nhiều đến vậy. Ngọc cho khoanh những vị trí có bom từ trường và bom nổ chậm để có kế hoạch đưa công binh vào rà phá. Công việc phải rất thận trọng. Bom nổ chậm mà nổ bất chợt thì đó là số phận, nhưng thằng Tàu Càng vo ve trên đầu thì là con cú vọ săn mồi độc ác, không được phép để lộ. Tối hôm ấy, Tổ khảo sát nghỉ lại hang Gấu Đen. Một cái hang không lớn, nhưng đủ kín đáo và có thể trải tăng xuống nền ngủ. Không mang theo soong nồi thì ăn lương khô và uống nước bi đông. Đêm, những trận B52 bên kia sông làm hang cũng chuyển rung như đưa võng. Suốt đêm, nằm cạnh Đỉnh, Ngọc nhận thấy cậu ta cứ trở mình liên tục:
- Không ngủ được hả Đỉnh?
- Khó ngủ quá. Tôi nhớ người yêu.
- Ở cơ quan trung đoàn, ai cũng biết chuyện của cậu và Lan. Mọi người đều bất bình với ông Hoàng Trần
- Tôi không hiểu sao ông ấy lại tự cho mình cái quyền quyết quyết định cuộc sống của chúng tôi trong tương lai. Không những vậy, ông còn nói những câu xúc phạm đến Lan. Tội nghiệp cô ấy quá. Từ lúc ra khỏi phòng ông Trần, cô ấy buồn lắm. Đã ốm sẵn, bây giờ người gầy rốc. Ông ấy không những không đồng ý cho chúng tôi lấy nhau, lại còn gieo vaò Lan nỗi lo sau này già rồi, tôi không còn yêu cô ấy nữa.
- Thôi, bỏ qua đi. Tình yêu và lòng chung thủy là ở mình, không thể do ai định đoạt.

Đêm hôm ấy, Đỉnh và Ngọc bỗng trở nên thân thiết. Qua Đỉnh, Ngọc hiểu và khâm phục hơn những người lính bám trụ trên trọng điểm Pha Bang, hiểu sâu hơn về quy luật đánh phá của địch. Đỉnh đã kể cho Ngọc nghe toàn bộ thiên tình sử giữa anh và Lan. Anh nói cho vơi nỗi nhớ. Mỗi tiếng Lan phát ra, anh vẫn cảm thấy nó thiêng liêng, trân trọng. Ngọc cũng kể cho Đỉnh nghe về mình. Họ đều lớn lên ở Hà Nội nên cũng có nhiều điều tâm sự.
Phải mất thêm một ngày cật lực họ mới hoàn thành việc khảo sát bảy cây số bờ nam sông và nơi tuyến ống vượt sông. Ngọc cẩn thận vẽ thành sơ đồ các vị trí có bom, các vị trí có thể đưa ống vượt sông, những chỗ có thể dấu ống. Vậy là việc khảo sát, định tuyến ở nam sông coi như hoàn thành tốt đẹp.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Mất một tuần lễ cho việc lập kế hoạch chi tiết và chuyển ống đến các vị trí. Vừa cắt cơn sốt, Lê Trọng đã xuống Ban Kỹ thuât:
- Ngọc, dẫn mình đi kiểm tra tuyến.
- Báo cáo thủ trưởng, tuyến nguy hiểm lắm, dày đặc bom nổ chậm và bom từ trường. Xin để anh em dọn dẹp xong thủ trưởng hãy đi.
- Đây là việc thành bại trong mùa khô đầu tiên của trung đoàn. Mình đã chỉ thị các cơ quan phải bám tuyến. Trung đoàn trưởng mà có mặt thì không ai còn có thể chối từ. Thêm nữa, mình đã xem phương án tập kết ống của cậu theo nguyên tắc vận trù. Lý thú đấy, vì nó tiết kiệm được sức lao động của bộ đội. Tuy nhiên, ở chiến trường, còn phải xem xét đến các yếu tố địch tình nữa. Đó là trách nhiệm của chỉ huy.
Biết không thể ngăn được Trung đoàn trưởng, Ngọc cùng Lê Trọng và Diễn lên đường. Đỉnh vẫn là người dẫn đường qua đoạn bờ sông dày đặc bom. Lần này chỉ mất một ngày, họ đã thị sát xong tuyến. Buổi chiều, sau khi bơi qua sông, cả bốn người mệt lử. Riêng Ngọc, mất mấy đêm thức rất khuya tính toán phương án tập kết ống, được một tối rảnh, sau khi ăn cơm chiều, anh mắc võng ngủ vùi. Hôm sau, khi mặt trời nhô lên khỏ dãy núi đá, Ngọc mới tỉnh dậy. Anh vươn vai, cảm thấy sảng khoái sau một đêm ngủ bù. Diễn và Đỉnh đang nấu bữa cơm sáng. Ngọc hỏi:
- Thủ trưởng Lê Trọng đâu?
- Cụ ấy đang giặt quần áo dưới suối.
Ngọc nhìn lên cành cây đầu võng. Nơi vắt bộ quần áo lấm lem bùn đất chiều qua trút xuống, định hôm nay giặt, không thấy đâu. Anh toan chạy xuống suối thì thấy Lê trọng đi lên, cười rất tươi, trên tay cầm mấy bộ quần áo, có cả quần áo của anh.
- Ôi. Sao thủ trưởng lại giặt quần áo cho tôi.
- Cậu mệt quá ngủ như chết. Mình không ngủ được, tiện giặt luôn cho cả hai anh em. Có gì sai đâu.
- Thủ trưởng làm tôi khó nghĩ quá. Ngay cả quần áo của thủ trưởng, để Diễn nó giặt, thủ trưởng còn phải làm nhiều việc khác quan trọng hơn chứ ạ.
- Anh em mình cả mà. Buổi sáng là giờ thể dục. Giặt quần áo cũng là thể dục, đúng không?
Ngọc không biết nói gì hơn. Trong anh bỗng trào lên một tình cảm thật lạ. Nó cao hơn sự cảm động, nó có gì đó sâu nặng như tình cha con. Một trung tá giặt quần áo cho một thiếu úy. Thấy như ngược đời quá. Nhưng có lẽ đó là cái tạo nên nét riêng của một vị chỉ huy như Lê Trọng. Có một người chỉ huy như vậy, Ngọc bỗng thấy dù mình cố gắng đến bao nhiêu cũng chưa đủ.

Ngay trong ngày tết dương lịch của năm 1971, trung đoàn ra quân thi công chuyển tuyến từ bờ bắc sang bờ nam ở khu vực trọng điểm Pha Bang. Đoạn tuyến dài bảy cây số. Ống được kết thành từng bè, bí mật chuyển sang phiá nam sông vào lúc tờ mờ sáng và chập choạng tối. Công binh và lính tiểu đoàn 66 tiến hành phá bom từ trường và bom nổ chậm. Qua ba ngày, họ đã phá hết số bom trên tuyến. Riêng trước cửa hang Gấu Đen, Miên đã cùng công binh phá được hai mươi bảy quả bom từ trường. Sang ngày thứ tư, khi ống đã tập kết ở các vị trí theo kế hoạch, các đại đội bắt đầu rải ống, lắp ráp. Để tránh con mắt cú vọ của bọn Tàu Càng, họ đào rãnh, ngụy trang, lắp ống đến đâu lấp ngay đến đó. Cũng may hầu hết tuyến là đất từ hố bom quật lên, nên đào khá dễ dàng. Khi rải ống đến khu vực hang Gấu Đen, Đỉnh bỗng thấy có gì đó bất an. Anh chỉ vùng đất đỏ ối, nói với đại đội trưởng:
- Báo cáo đại đội trưởng. Đoạn tuyến này bây giờ toàn là đất do các quả bom bị kích nổ đào lên. Chẳng có gì đảm bảo dưới lớp đất này không còn những quả bom từ trường bị vùi lấp.
Miên nói:
- Mày yên tâm đi. Trước khi phá, tao đã kiểm tra rất kỹ, đánh dấu từng quả một. Có hai mươi bảy quả cả thảy. Đã đủ hai mươi bảy tiếng nổ rồi. Tao còn đeo súng chạy trên bãi bom vừa phá, không có chuyện gì mà.
- Tao không nghi ngờ mày cẩu thả đâu. Tao hiểu tính mày rồi. Có điều, chỉ sợ có những quả bị vùi lấp mà mình không phát hiện được.
- Vậy bây giờ phải làm thế nào?- Đại đội trưởng hỏi.
- Tôi sẽ vác ống đi dọc đoạn này. Rủi còn sót quả nào thì chỉ một người bị.
- Thôi. Để tao đi cho. Tao chịu trách nhiệm về việc này mà- Miên gạt Đỉnh ra.
- Không nói chuyện trách nhiệm ở đây. Nếu tao hướng dẫn tổ phá bom, thì cũng chỉ có thể làm được như mày thôi. Đây chỉ là kiểm tra cho chắc thôi mà.
Không để Miên kịp nói gì, Đỉnh vác ống xăm xăm đi lên phía trước. Thực ra, nếu không đặt vấn đề ra thì thôi. Khi Đỉnh nêu vấn đề, cả đại đội bỗng cảm thấy căng thẳng. Đoạn tuyến chỉ hơn một cây số, mà mỗi bước chân của Đỉnh đều làm anh em lo lắng đến nghẹt thở. Có vẻ như mọi việc sẽ yên ổn. Cái dáng cao lớn của Đỉnh với chiếc ống trên vai xa dần, rồi khuất sau mỏm đá. Miên nhẩm tính: Đó là điểm cuối của bãi bom. Đúng vào lúc ấy, sau mô đá phát ra một tiếng nổ long trời. Một cột khói và đất đá bốc lên. Trong cái đám hỗn độn ấy có cả thân hình của Đỉnh cùng chiếc ống. Miên quỵ xuống:
- Trời ơi. Tao giết mày rồi Đỉnh ơi.
Tổ cấp cứu của đại đội bới được Đỉnh trong đống đất bom, bên cạnh cái ống thép bị bẻ gập, quăn queo. Cả thân mình Đỉnh như bị vo viên lại, máu trào ra tai, ra mũi. Máu chảy ra từ trên đầu, từ khắp mình, trộn với bột đất, đặc quánh. Cả người Đỉnh chỉ còn như một khối mềm nhũn, bê bết máu trộn với đất bom. Miên vừa khóc, vừa sửa lại chân tay bạn cho ngay ngắn, đặt lên chiếc băng ca. Một chiếc bè kết bằng nứa đưa Đỉnh vượt sông. Mọi người thay nhau cáng Đỉnh đi như chạy đến trạm phẫu thuật.

Miên trở về hang Tiểu đội khi trời đã tối mịt. Mệt và đau khổ, anh đổ vật xuống tấm ván quen thuộc mà Đỉnh vẫn nằm. Đỉnh ơi. Sao mày không để tao đi cho. Mà sao tao lại không nghĩ ra cách kiểm tra như mày cơ chứ. Giờ người ta đưa mày đi rồi, nhưng người ta có cứu nổi mày không? Một mình mày đã thay cả đại đội lĩnh trọn trái bom từ trường. Ô tô còn tan nát huống chi con người. Tao biết nói thế nào với bố mẹ mày đây, Đỉnh ơi? Miên trân trân nhìn lên vòm hang. Cái hang nhỏ bé này đã mấy lần vợi người đi, mấy lần thay người mới. Sao hôm nay bỗng thấy trống trải thế này. Ba thằng lính Hà Nội, bây giờ còn mình Miên. Bỗng nhớ đến Hiến, Miên khơi to ngọn đèn, xé từ cuốn sổ tay một tờ giấy. Anh viết thư về hậu phương.

Hiến ơi. Thằng Đỉnh chắc hy sinh rồi.Trước khi đại đội rải ống, nó cứ nhất định yêu cầu đại đội trưởng cho nó vác ống kiểm tra lại lần cuối bãi bom trước hang Gấu Đen. Một mình nó đã lãnh trọn một trái bom. Tao đau khổ quá. Tao và tổ công binh đã kiểm tra đi, kiểm tra lại mấy lần, mà mà không biết còn một trái bom từ trường bị vùi sâu dưới đất. Mẹ và em gái mày ra sao rồi? Mày đi, thằng Đỉnh đã giải thích cho anh em. Họ cảm thông cho mày. Nhưng nó vẫn bị cảnh cáo vì “dung túng cho bạn đào ngũ”. Ông Trần Đình và Chính trị viên đaị đội lên gặp ông Hoàng Trần xin giảm nhẹ cho nó, nhưng không được. Nó âm thầm chịu đựng. Cả tiểu đội thương nó. Vừa rồi, cái Lan phục viên, hai đứa lên gặp ông Hoàng Trần xin đơn vị tác thành. Ông ấy dứt khoát không đồng ý. Cả tuần vẫn ra tuyến mà nó chẳng thiết ăn uống gì, thật tội quá. Nỗi buồn ấy còn nặng trong lòng mà nó đã...Thôi. Tao chẳng muốn viết gì thêm nữa. Thương nó quá. Mày cố gắng lui tới nhà nó, động viên, an ủi các cụ hộ tao. Cả cái Lan nữa nhé. Giờ ba thằng Hà Nội, chỉ còn mình tao ở trọng điểm. Mày phải về là vì hoàn cảnh gia đình. Tao sẽ tiếp tục ở lại đây bám trụ cho cả phần mày và thằng Đỉnh.

Sau ba tuần lễ vật lộn với bom đạn, hàng chục người nữa ngã xuống vì những trận tập kích bất ngờ, vì những trái bom từ trường dưới lòng sông bất chợt nổ, cuối cùng tuyến tránh nam sông Sê Bang Hiêng đã hoàn thành. Việc thử rửa và bơm xăng vào bản Cọ trót lọt. Từ kinh nghiệm qua hai năm chỉ huy đường ống, Lê Trọng hiểu rất rõ việc bơm xăng trót lọt chỉ là tạm thời. Rồi những trận B52, bổ nhào, tọa độ ở bờ bắc sông sẽ lại có những trái bom rơi xuống bờ nam, lại trúng tuyến, lại cháy, lại bom đạn quần nát. Việc tránh tuyến sang bờ nam sẽ hạn chế đáng kể việc vạ lây khi bom đánh đường ô tô, nghĩa là nó đã giảm được bảy mươi phần trăm cường độ bom rơi lên tuyến ống và hy vọng thời gian tuyến yên ổn sẽ được kéo thêm vài ba giờ giữa hai trận đánh phá. Nếu vẫn giữ chiến thuật vận hành như trước đây, nghĩa là hết mỗi đợt vận hành lại bơm lót nước vào ống, sẽ mất cơ hội đưa xăng qua trọng điểm. Ông đã triệu tập Ban kỹ thuật và Ban Tham mưu để bàn kỹ vấn đề này. Sau những tranh luận, những tính toán, cuối cùng mọi người thống nhất: từ nay không lót nước lên tuyến nữa. Nếu tuyến ống giữa hai đợt vận hành không bị trúng bom, thì đợt vận hành tiếp, sau khi khởi động máy bơm đầu nguồn Q200, chỉ khoảng nửa giờ là xăng chảy vào bản Cọ, thay vì phải chờ tới mười tiếng đồng hồ. Bờ nam cần bố trí thêm các van chặn tuyến để để giảm bớt tổn thất xăng trong ống khi tuyến bị trúng bom. Tất cả những biện pháp đó đã nâng hiệu suất vận hành lên sáu mươi ba phần trăm, rồi trên bảy mươi phần trăm. Nhờ vậy, xăng cấp phát ở Q6 để đưa đến cho các Binh trạm đã dồi dào hơn, và có chân hàng để xăng vào tới Q7.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Chúng nó lại đánh trúng tuyến. Thằng An lao ra đóng van, bị bỏng mặt và hai tay. Thằng Đạt bị một viên bi găm vào bắp chân. Hai đứa còn lại thì đang sốt rét hầm hập. Thằng Hùng lên Đại đội nhận thực phẩm, thuốc quân y chưa về. Cả năm người ở nhà, chỉ còn Miên là khỏe mạnh. Sau khi tuyến nắn về bờ nam sông, Tiểu đội đã chuyển vào hang Gấu Đen. Đỉnh đi rồi, Miên bây giờ là Tiểu đội trưởng. Miên nhìn lên vách hang, còn nguyên mới dòng chữ: Sống, chiến đấu theo gương Nguyễn Đỉnh. Đây là khẩu hiệu được viết lên từ khi Trung đoàn phát động phong trào thi đua noi theo tấm gương quên mình của Nguyễn Đỉnh. Đỉnh ơi. Từ khi xăng bơm ở bờ nam sông, cuộc chiến đấu vẫn còn cơ cực lắm, nhưng chúng tao vẫn vững vàng. Nhìn số gạo hẩm còn lại trong thùng, chút muối trắng và mấy phong lương khô, Miên thấy xót lòng. Thương binh và bệnh binh sao nuốt nổi những thứ này. Anh đưa cho mỗi người một phong lương khô và bi đông nước:
- Chúng mày chịu khó nuốt tạm, chờ tao đi kiếm mấy con cá về nấu cháo. Tao biết có một vũng suối nhiều cá quả lắm.
- Mày đi cẩn thận nhé, đặc biệt là khi nổ bộc phá. Cả tiểu đội trông vào mày đấy.
- Yên tâm đi, tao kinh nghiệm đầy mình trong cái việc đánh cá này rồi.
Miên khoác súng, cầm theo cái túi, thỏi bộc phá, cái kíp và mẩu dây cháy chậm. Anh ngược dòng suối đến bãi đá. ở đó có một vũng nước sâu. Hay quá, những chú cá quả to bằng bắp tay đang vô tư bơi lội. Miên hiểu rằng, bọn này chỉ cần thấy động là chui ngay vào hang. Bộc phá nổ, dù chúng có chết hay bị sức ép cũng chẳng biết đâu mà tìm. Phải cắt dây cháy chậm thật ngắn để chúng không kịp xoay xở. Miên nhìn lên trời, nắng gắt quá. Nắng đến mức khó có thể nhận ra ngọn lửa đã bắt vào dây cháy chậm, Không sao, đoạn dây năm bảy phân, chỉ cần mình thận trọng một chút là được. Khi lửa đã bùng lên đầu que diêm, Miên đưa vào đầu dây cháy chậm. Được rồi, lửa đã xì ra từ đầu dây. Miên nhằm vào chỗ đàn cá đang bơi, ném thỏi TNT vào đó. Thỏi TNT chưa kịp rời khỏi tay anh, đã phát nổ. Miên gục xuống tảng đá. Máu tuôn ra từ hốc mắt, từ hai cánh tay.
Vất vả lắm, những người bạn bị ốm và bị thương mới đưa được Miên về hang. Đôi bàn tay Miên đã bị xé nát, và đôi mắt của anh cũng sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy được nữa. Ba người thương binh được chuyển lên Đội điều trị. Còn lại ba người: Hùng và hai người bạn sốt rét trụ lại.

Dù ở bờ bắc hay nam sông, Cửa 10 vẫn giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ tuyến ống. Giờ còn ba người, trong đó chỉ có một người còn khỏe, phải bổ sung ngay lực lượng. Tuy nhiên, theo Chủ nhiệm Chính trị Hoàng Trần thì cách xử lý của ban chỉ huy tiểu đoàn 66 đối với cậu Miên là không thể chấp nhận được. Ông đề nghị Chính ủy Khuynh triệu tập một cuộc họp để bàn về về việc giữ kỷ luật bộ đội trong điều kiện chiến đấu ác liệt. Chính trị viên Tiểu đoàn 66 và Chính trị viên Đại đội 14 được triệu tập đến để giải trình về những việc xẩy ra. Hoàng Trần mở đầu cuộc họp:
- Vừa qua ở đại đội 14 xẩy ra một số vụ việc vi phạm kỷ luật. Đây là nơi ác liệt, cần giữ nghiêm kỷ luật quân đội , nhưng tôi thấy cả cách giải quyết của Chính trị viên Đại đội và Chính trị viên Tiểu đoàn đều sai lầm. Đầu tiên là cậu Đỉnh dung túng cho bạn đào ngũ, cả anh Trần Đình lẫn anh Nhấn, Chính trị viên Đại đội đều lên xin giảm kỷ luật. Với vi phạm ấy, lẽ ra Đỉnh phải bị khai trừ ****, do ý kiến của đơn vị, cậu ấy chỉ bị cảnh cáo. Có lẽ vì quá nương nhẹ, nên cậu Đỉnh lại phạm một sai lầm nữa – Ông hướng đôi mắt nghiêm khắc về phía Trần Đình và Chính trị viên Nhấn - Riêng cái việc yêu đương, sao nhãng nhiệm vụ chiến đấu đã đáng phê bình rồi, Cậu ấy và cô Lan lại còn đòi đơn vị tổ chức lễ cưới giữa lúc ngày nào đơn vị cũng có người thương vong. Bây giờ lại xẩy ra chuyện cậu Miên mang bộc phá đi đánh cá bị thương. Vô kỷ luật như vậy mà đại đội, tiểu đoàn vẫn đề nghị giải quyết chính sách thương binh cho cậu ấy, có thỏa đáng không?Làm công tác chính trị mà như thế có phải là vị tình không?hứ!
Đây giống như một cuộc họp Thường vụ **** ủy Trung đoàn mở rộng, không phải chỉ có quan hệ cấp trên và cấp dưới như những lần Hoàng Trần gọi lên, nên Trần Đình cảm thấy vững tin hơn khi đứng lên phát biểu. Ông đã phải dằn lòng nghe Trần Đình nói, và để hạ hỏa trong người, ông cố nén, không bật lại phản ứng ngay, cho đến khi được Chính ủy Khuynh chỉ định phát biểu:
- Trước hết, tôi đề nghị chúng ta không nên xúc phạm đến đồng chí Đỉnh- Trần Đình chậm rãi- Đồng chí ấy đã hy sinh tính mạng để cứu cả đại đội. Chúng ta thử hình dung, nếu không có việc Đỉnh vác ống đi trước một mình, thì điều gì sẽ xẩy ra khi cả đại đội nối nhau vác ống đi qua.
- Không nói thế được, việc gì ra việc nấy!- Hoàng Trần nghiêm khắc nói xen vào.
- Tôi đề nghị đồng chí Trần để đồng chí Đình nói hết đã – Chính ủy Khuynh nhẹ nhàng.
- Việc dung túng cho đồng đội đào ngũ là không thể chấp nhận được. Tuy nhiên, Đỉnh là một chiến sỹ rất xông xáo, dũng cảm, thương yêu anh em. Tôi đã trực tiếp đọc lá thư nhà của Hiến. Thương tâm lắm. Chúng ta ở xa cậu Hiến, ta có thể xử một cách lạnh lùng, nhưng Đỉnh là bạn thân của Hiến, cậu ấy không thể cầm lòng. Thêm nữa, cả tiểu đoàn này, có ai không biết Hiến là một trong những người dũng cảm nhất. Cậu ấy bỏ ngũ hoàn toàn không phải vì hèn nhát. Đến bây giờ, cả tôi và đồng chí Nhấn vẫn cho rằng hình thức kỷ luật cảnh cáo đối với Đỉnh có thể giảm xuống đến mức khiển trách.
- Tôi muốn nghe về việc của cậu Miên.. Yêu cầu đồng chí Nhấn báo cáo rõ hơn việc này- Hoàng Trần nghiêm khắc.
- Thưa các thủ trưởng. Đỉnh, Miên và Hiến đều là lính Hà Nội. Họ đều là những người dũng cảm, bám trụ ở điểm ác liệt nhất trên tuyến của Trung đoàn. Sau trận bom của địch cách đây mấy hôm, hai cậu trong tiểu đội bị thương vì cứu tuyến. Hai người sốt rét đang sốt cao. Không có gì bồi dưỡng cho họ, Miên đi đánh cá để nấu cháo cho họ. Rất tiếc do bất cẩn nên cậu ấy đã bị thương nặng. Theo thông báo từ đội điều trị, Miên đã bị cắt mất hai cánh tay, và đã mù hai mắt. Cậu ấy tàn phế vì thương đồng đội, vì muốn chăm sóc họ. Xét cho cùng, là để bảo đảm sức chiến đấu cho đơn vị. Một hành động cao quý như vậy, lẽ nào ta lại bỏ mặc, ném họ ra cuộc đời như một người tàn phế ngẫu nhiên trong xã hội.
- Tôi yêu cầu đồng chí Nhấn nói cho nghiêm túc. Việc giải quyết chính sách thương binh liệt sỹ là chủ trương cao quý của ****, không được dùng từ ngữ tùy tiện như vậy – Hoàng Trần bức xúc.
Chính ủy Khuynh yêu cầu Hoàng Trần giữ bình tĩnh để Chính trị viên Đại đội phát biểu.cho xong
Cuộc thảo luận không quá gay go, vì Miên đã bị thương quá nặng, lại vì xuất phát từ tình thương đồng đội, nên không ai nỡ nói gay gắt như Hoàng Trần. Trợ lý Chính sách của Trung đoàn tỏ ra lúng túng. Một mặt rất thương Miên, nhưng mặt khác chiếu vào các quy định, lại có ý kiến của thủ trưởng trực tiếp, nên anh ta nói nước đôi:
- Trường hợp của đồng chí Miên là rất thương tâm. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định hiện hành, tôi đề nghị các thủ trưởng giải quyết sao cho có lý, có tình.
- Đồng chí là trợ lý chính sách mà nói như người làm từ thiện – Chính ủy Khuynh nhắc – Là người giúp việc cho **** ủy, tôi muốn nghe đồng chí đưa ra phương án của mình.
Trợ lý chính sách rut rè nhìn Hoàng Trần. Hoàng Trần nhìn thẳng vào anh ta:
- Đồng chí nói đi, và luôn nhớ bao giờ cũng phải giữ đúng nguyên tắc của ****. Hứ!
- Báo cáo. Hôm qua tôi đã trực tiếp đến Đội điều trị thăm Miên. Cứ nhìn cái cách anh em cùng tiểu đội chăm sóc cho cậu ấy, thì biết họ yêu quý Miên đến mức nào. Tôi đề nghị các thủ trưởng xét thương binh cho cậu ấy.
Hoàng Trần toan đứng dậy nói thì Chính ủy ngăn lại:
- Anh Trần không phải nói nữa. Đồng chí trợ lý Chính sách kịp thời đến thăm thương binh như vậy là tốt. Tôi đề nghị anh Hoàng Trần khi có điều kiện, nên thu xếp xuống với anh em, kể cả những nơi ác liệt nhất như hang Gấu Đen. Những người đề ra các quy định về kỷ luật là để giữ vững sức mạnh của quân đội. Tuy nhiên, trong cuộc chiến tranh tàn khốc này, mọi quy định đều phải phân tích từ điều kiện chiến đấu cụ thể của từng người lính. Họ là tế bào tạo nên sức mạnh của quân đội. Ta có thể kỷ luật thật nặng một người vi phạm để răn đe. Nhưng nếu việc kỷ luật không thỏa đáng có thể gây bức xúc không chỉ cho bản thân người ấy, mà còn cả cho đồng đội của họ. Với trường hợp của Miên, chúng ta hãy thử đặt câu hỏi: Nếu đó là con trai mình? Hoặc chúng ta hãy đặt mình vào cái nhìn của những người lính sốt rét và bị thương hôm đó đang chờ một bát cháo để lấy lại sức. Họ sẽ nghĩ thế nào khi người đồng đội chỉ vì muốn chăm sóc họ mà cuộc đời đã vĩnh viễn mất đi đôi mắt, đôi tay, bị đuổi về hậu phương trong tình cảnh tàn phế và án kỷ luật? Cả chính sách và kỷ luật trong chiến trường đều mang tính con người rất sâu sắc. Bởi lẽ đó, tôi hoàn toàn nhất trí làm thủ tục thương binh cho Miên. Không những thế, tôi sẽ đích thân đến Đội điều trị thăm cậu ấy.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Ra khỏi phòng họp, Trần Đình và Nhấn cảm thấy trong lòng nhẹ bẫng. Họ là những người lăn lộn cùng anh em trong ác liệt, họ hiểu rất rõ hậu quả sẽ ra sao nếu giải quyết chính sách cho Miên không thỏa đáng.

Từ sau khi thông tuyến tránh phía nam sông và thay đổi chiến thuật vận hành, xăng ở Q6 và Q7 ngày càng dồi dào. Bộ Tư lệnh 559 liên tục biểu dương trung đoàn. Mặc dù vậy, Lê Trọng vẫn chưa cảm thấy thật yên tâm. Đường ống dẫn dầu là một binh chủng kỹ thuật, còn rất nhiều việc phải làm để xây dựng điều lệnh, nề nếp trong quản lý thi công và vận hành. Trên tuyến ống Trường Sơn này, một số quy tắc bước đầu đã hình thành , ví như đường tuần tuyến phải đảm bảo:
Đường đi trên có tán che,
Lên dốc có bậc, qua khe có cầu.

Hoặc khi vận hành, phải thường xuyên kiểm tra tuyến. Khi kiểm tra phải quán triệt:
Tai nghe, mũi ngửi, mát nhìn
Chân đi tận tuyến, tay lần tận nơi…

Ở Sở chỉ huy, chế độ ghi chép, điều lệnh vận hành đã được ông chỉ đạo biên soạn và từng bước cải tiến. Tuy vậy, ông cũng nhận thấy còn rất nhiều việc phải làm. Ông đã yêu cầu tất cả các cơ quan Tham mưu, kỹ thuật, Chính trị, Hậu cần đều phải lập cho mình các tài liệu cần thiết để xử lý tình huống khi vận hành. Ở Sở chỉ huy vận hành, bản đồ, mặt cắt dọc tuyến ống được phóng to, treo lên vách. Các kho, trạm bơm, cửa van, vị trí đóng quân của các đơn vị, các điểm xung yếu các trọng điểm, thường bị địch đánh, các điểm tập kết vật tư dự phòng… đều được đánh dấu rõ ràng để chủ động xử lý khi có tình huống. Khi chỉ huy vận hành, ông không chỉ ngồi đó với tư cách chỉ huy vận hành, mà trong mỗi chi tiết, ông luôn quan sát để xây dựng nề nếp cho đơn vị. Có lần vận hành trong đêm, khi tuyến bị đánh đứt, lửa cháy, một vài người bị thương, cả sở chỉ huy tập trung chỉ đạo giải quyết sự cố. Việc chỉ huy được phát ra từ một máy điện thoại duy nhất. Một máy nói, toàn tuyến nghe. Việc cứu chữa thương binh, chuyển ống và phụ kiện, khắc phục sự cố được ưu tiên giải quyết trước. Khi mệnh lệnh về các vấn đề đó đã được truyền đạt đến nơi thực hiện, ông chuyển máy cho người thay mặt cơ quan Chính trị đang ngồi ở Chỉ huy sở:
- Bây giờ đến cơ quan Chính trị chỉ đạo nghiệp vụ.
Viên trợ lý Chính trị cầm máy:
- Các đồng chí cán bộ chiến sỹ toàn tuyến chú ý. Hiện nay cửa X bị địch đánh trúng tuyến. Bất chấp xăng đang cháy rừng rực, các chiến sỹ Cửa X đã dũng cảm lao vào dập lửa. Mặc dù hai đồng chí bị thương nặng, nhưng tinh thần bộ đội vẫn không nao núng. Đại đội đang khẩn trương chuyển ống đến khắc phục. Chúng ta quyết tâm nhanh chóng nối thông tuyến, vì Miền Nam ruột thịt, vì bà con ta đang rên siết dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
- Nói xong chưa?- Lê Trọng hỏi.
- Báo cáo thủ trưởng, đã xong rồi ạ.
- Nếu một giờ sau lại đứt tuyến, cậu định nói gì?
Viên sỹ quan lúng túng:
- Tùy tình hình thủ trưởng ạ. Chủ yếu là phải động viên tinh thần chiến sỹ.
- Vậy cậu có thể về nghỉ. Tớ thuộc câu của cậu rồi. Câu ấy trung đoàn trưởng nói, chắc lính nghe hơn khi nó được phát ra từ một trợ lý.
Ngay buổi hội ý chỉ huy sáng hôm sau, ông đem việc này trao đổi với Chính ủy. Công tác ****, công tác chính trị vừa mang tính nghiệp vụ, vừa mang tính nhân bản sâu sắc. Vậy mà một số người đã thực hiện nó một cách vô cảm, xơ cứng và hình thức. Ông dẫn ra cách xử lý về khen thưởng và chính sách của Chủ nhiệm chính trị Hoàng Trần với bộ đội, rồi ông kể cho Chính ủy nghe một chuyện vui:
- Có hôm giao ban, cậu đại diện cơ quan Chính trị báo cáo: Hưởng ứng phong trào thi đua, nhà bếp đã liên tục cải thiện bữa ăn. Nhờ ngon miệng, mấy hôm nay, ăn xong, ai cũng cảm thấy thòm thèm. Lát sau, cậu sỹ quan Tham mưu phản ảnh: Đề nghị Hậu cần kiểm tra lại định lượng ở nhà bếp. Chúng tôi đi tuyến về, đói và mệt, vậy mà chỉ hai lưng bát đã hết cơm. Tiêu chuẩn bảy lạng gạo một ngày, mà như thế thì vô lý quá.
Chính ủy Khuynh trầm ngâm:
- Ngoài những điều anh nói, tôi còn biết thêm một số việc nữa. Tôi sẽ cùng anh em xây dựng cho bài bản hơn các quy định về công tác ****, công tác chính trị trong vận hành. Chính cái cách nhìn nhận, xử lý công việc như vậy mà ở một số đơn vị, cán bộ, chiến sỹ thường ngại cán bộ chính trị.


Giữa lúc tình hình vận hành qua trọng điểm Pha Bang được cải thiện rõ rệt thì một tin dữ được báo cáo lên Trung đoàn: Một buổi sáng, trời đầy mây và yên tĩnh. Đây là dịp tốt để bộ đội bảo vệ kho hang Bản Cọ ra khỏi hang hít thở khí trời. Theo quy luật, đây là thời gian địch ít chú ý nhất, nên gần như mọi người đều ra khỏi hang tập thể dục. Nơi họ đứng là một bãi trống trải do bom địch cày đi xới lại. Họ không biết rằng, ngoài OV-10, còn những chiếc máy bay trinh sát phản lực, những chiếc máy bay không người lái. Một chiếc máy bay phản lực rẹt qua. Mọi người chạy vào hang. Nhưng đã muộn. Bom bi bắt đầu rơi xuống, và một quả tên lửa được điều khiển bằng laze, chui thẳng vào hang. Không chỉ những người lính bị đốn ngã, mà trạm bơm B4 đặt trong hang bị phá hủy hoàn toàn. Trận tập kích đã giết chết năm chiến sỹ, và làm bị thương một số người khác.

Trạm bơm B4 đặt trong hang bản Cọ có có vai trò cực kỳ quan trọng. Trạm bơm B5, nơi Quy hy sinh cách trạm bơn B3 tới gần bảy mươi cây số, nếu trạm bơm B3 không với tới B5 được, có nghĩa là dòng xăng đường ống vào đường 9 đã bị đứt. Trạm bơm B4 bị phá hủy giữa cao điểm của mùa khô. Tìm được vị trí đặt máy bơm mới, là hết sức khó khăn, nhưng điều khó hơn bội phần là bao lâu nữa mới chuyển được máy bơm thay thế vào, nhất là trong điều kiện trọng điểm Pha Bang bị địch ngăn chặn quyết liệt.
Trung đòan phó Đăng Tùng đích thân xuống Tiểu ban Ban Kỹ thuật:
- Phải tìm một vị trí mới đặt trạm bơm B4. Tiểu ban cử một người đi ngay sáng nay.
Quang nói:
- Thủ trưởng để tôi đi. Khu vực quanh bản Cọ tôi thuộc như lòng bàn tay.
Ngọc ngăn lại:
- Không được đâu thủ trưởng ạ. Khu vực ấy ác liệt lắm. Quang là con trai duy nhất trong nhà. Nó đi rủi có chuyện gì thì ân hận lắm. Thủ trưởng để tôi đi. Nhà tôi có tới bảy anh chị em, có sao thì cũng chẳng sao.
Thủy, Danh đều sẵn sàng đi. Tùng đã nghe nói về những chàng kỹ sư trẻ của Tiểu ban kỹ thuật Trung đoàn. Vậy mà hôm nay, làm viêc với họ, ông vẫn cảm thấy xúc động vì sự dũng cảm, quên mình và thương yêu lẫn nhau của họ. Thôi, việc này để các cậu ấy bàn với nhau. Quang nói :
- Trạm bơm này cực kỳ quan trọng. Đã đi là phải chọn được vị trí một cách chắc chắn. An toàn hay không là ở chỗ mình nhanh chóng xác định được vị trí. Khu vực này không nên đi đi lại lại nhiều. Mình là người nắm chắc khu vực này nhất, vì mình chỉ đạo thi công lắp đặt trạm bơm và cùng anh Vĩnh chỉ đạo thi công bể hàn. Cứ như trận B52 ở suối Ra Vơ, thì có vẻ như bom nó tránh mình. Để mình đi. Chỉ một buổi là xong. Người khác đi, loay hoay lâu e không ổn.
Đăng Tùng nói với Ngọc :
- Quang nói vậy, có lý đấy. Cứ để nó đi- Ông hướng về phía Quang- Tôi đồng ý cử cậu đi. Đi phải hoàn thành nhiệm vụ, nhưng không được thương vong, được không?
Quang cười :
- Tôi hứa với thủ trưởng, nhất định hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng nếu « không được thương vong » cũng là một vế của mệnh lệnh, thì xin Thủ trưởng dặn thằng Nich xơn – Quang muốn pha trò một chút, vì trong cơ quan Trung đoàn, ai cũng biết Đăng Tùng là người rất hay khái quát theo kiểu chặt chẽ, nhưng đôi khi lại rất khó thực hiện, đại loại như : Tiếp khách sao cho thật trọng thị, nhưng phải đúng chế độ ; Phải làm sao cải thiện bữa ăn cho bộ đội, nhưng không được mang mìn đi đánh cá...
- Phải dặn thế cho cẩn thận, đó cũng là trách nhiệm của tôi, vì cậu là con một.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Chỉ sau một ngày, Quang đã an toàn trở về báo cáo : Về lý thì chỗ đặt máy bơm đã bị lộ, có thể địch tiếp tục xăm vào đó. Nhưng tôi đã cùng cán bộ tiểu đoàn và đại đội đi khảo sát xung quanh. Không có chỗ nào tốt hơn vị trí đã đặt. Ta chỉ cần làm thêm bức tường chắn ngay lối vào hang là được. Phương án của Quang được thông qua. Chiếc máy bơm cháy nhanh chóng được kéo ra. Hang được dọn sạch, ụ đất bảo vệ được thiết kế rất khôn ngoan, chỉ chờ máy mới vào là sẽ được thi công ngay.

Việc trạm bơm B4 bị phá hủy lập tức được báo cáo lên Bộ Tư lệnh 559 và Tổng Cục Hậu cần. Rất nhanh chóng, Trung đoàn nhận được điện báo hai chiếc máy bơm đang được chuyển vào. Một chiếc để thay thế, còn một chiếc để dự phòng . Cùng lúc đó, tin báo đã sắp kiệt xăng trong kho Q6 và Q7 làm cho Lê Trọng cự kỳ lo lắng. Ông nhẩm tính từng ngày xe chở máy bơm đi trên đường. Nhưng rồi ông đã thất vọng khi từ ngoài báo vào: lũ đã cắt đứt nhiều đoạn đường ở Khu Bốn, phải hàng tuần là nhanh nhất mới có thể thông đường. Tình hình bỗng trở nên nghiêm trọng. Trung đoàn trưởng quyết định triệu tập một cuộc họp khẩn cấp.

Khi cán bộ các bộ phận bước vào hầm chỉ huy vận hành của Trung đoàn, đã thấy Lê Trọng ngồi đó. Việc Trung đoàn trưởng có mặt từ rất sớm cho thấy cuộc họp này thật là quan trọng. Lê Trọng đứng trước tấm bản đồ tuyến ống của Trung đoàn, ông chỉ vào vị trí bản Cọ, mở đầu cuộc họp.
- Như các đồng chí biết, trạm bơm B4 đã bị tên lửa địch phá hủy. Theo đó, xăng không thể bơm vào Q6, Q7 để cấp cho các Binh trạm. Đang là mùa vận chuyển cao điểm, không có xăng cho xe vận tải, cho các binh khí kỹ thuật hành quân, thì hậu quả không thể lường hết được. Tổng cục Hậu cần đã chuyển máy bơm thay thế vào cho chúng ta, nhưng mưa lũ đã làm đứt nhiều đoạn đường ở Khu Bốn. Nhanh nhất phải mười ngày nữa mới tới Bản Cọ. Đó là chưa kể rất nhiều bất trắc do thời tiết và do sự đánh phá ác liệt của địch. Ngày hôm qua, Q6 và Q7 báo xăng chỉ cấp phát được hai ngày nữa là hết. Trước tình hình đó, tôi muốn các đồng chí hiến kế xem nên giải quyết thế nào.

Trưởng Tiểu ban kế hoạch chắc đã đau đầu về việc này từ mấy hôm, đứng dậy phát biểu trước. Phát biểu của viên sỹ quan này thể hiện đã được suy nghĩ rất kỹ và có hệ thống. Anh phân tích tình hình địch, các trọng điểm, các tuyến đường chủ yếu trên tuyến chi viện chiến lược, rồi cuối cùng đưa ra một loạt biện pháp tổng hợp: Đề nghị các đơn vị đảm bảo giao thông ở Khu Bốn ưu tiên cho hai chiếc máy bơm này đi trước tại các bến vượt, các nút giao thông; Đối với Bộ Tư lệnh 559 thì phải báo cáo đề nghị Tư lệnh tăng cường xe stec để chuyển xăng từ Bản Cọ đến các binh trạm, đồng thời thông báo yêu cầu các đơn vị chỉ dùng xăng cho các việc quan trọng. Sau ý kiến đó, có một số ý kiến tiêu cực hơn: Báo cáo rõ để Tư lện Đồng Sỹ Nguyên biết, và cho phép chờ máy bơm vào thay thế. Lê Trọng lắng nghe, phân tích, phản biện rất sát sao các phương án. Chẳng hạn như nếu đề nghi tăng cường xe stec thì bao giờ mới có xe, và các xe này liệu có trót lọt qua được sự săn mồi độc ác của bọn máy bay tuần đêm, rồi làm sao để vượt qua các trọng điểm như Thà Khống. Còn ý kiến đề nghị Tư lệnh cho ngồi chờ máy bơm vào để thay thế thì không thể coi là một đề xuất, vì nó thể hiện sự bất lực của Trung đoàn.
Trưởng Tiểu ban Kỹ thuật Vũ Ngọc ngồi dán mắt nhìn vào bản vẽ mặt cắt dọc tuyến treo trên tường. Trong đầu anh luẩn quẩn câu hỏi: Có bơm thẳng từ B3, bỏ qua B4, đến B5 được không? Nếu bơm được thì đây là giải pháp tuyệt vời nhất. Thật may mắn là tháng trước, trong tờ tạp chí của Cục có đăng bài của tác giả Raskazob về vấn đề bơm vượt trạm trên tuyến đường ống giã chiến. Trong bài ấy, cơ sở của cách giải quyết là cho cửa ra của máy bơm vượt trạm luôn chịu áp suất giới hạn: ba mươi lăm cân. Nhưng ở đây, vướng cao điểm 911, nên ống ở suối Ra Vơ đã luôn chịu đựng áp suất tới hạn đó rồi. Đường từ B3 đến B5 gần bảy mươi cây số. Xa quá. Bây giờ mình liều nói bơm vượt trạm được, mà không thành công thì tác hại thật khó lường. Còn nếu không nói đến khả năng này thì có thể bỏ lỡ một cơ hội cho Trung đoàn. Lê Trọng hiểu trong việc này, ý kiến đề xuất của Tiểu Ban Kỹ thuật có nhiều hy vọng nhất. Ông chỉ định Ngọc phát biểu. Trước khi đứng lên, trong đầu Ngọc vụt qua câu dặn dò của bác Bảo: Địa hình Trường Sơn phức tạp quá, ta phải luôn sẵn sàng nghĩ tới những điều sách vở chưa nói tới. Ngọc mạnh dạn bước lên trước bản vẽ mặt cắt dọc tuyến đã phóng to:
- Trong chiến đấu, trên tuyến đường ống giã chiến bị mất một trạm bơm là sự cố hoàn toàn có thể xẩy ra. Tài liệu của Liên Xô đã nói về vấn đề này. Bởi vậy, tôi đề nghị Trung đoàn cho nghiên cứu phương án bơm vượt trạm, nghĩa là từ trạm bơm B3 ở phía bắc đèo 700, bơm vượt qua bảy mươi cây số, đến tận trạm bơm B5 để B5 tiếp sức bơm vào Q6. Nếu vượt trạm được thì đây là biện pháp tuyệt vời, vì thậm chí chúng ta không phải quan tâm đến việc bao giờ máy bơm thay thế vào được B4.
- Hay quá- Lê Trọng reo lên- Thế là có lối ra rồi.
- Tuy nhiên, báo cáo thủ trưởng và các đồng chí, địa hình Trường Sơn, mà cụ thể của chúng ta- Anh chỉ lên bản vẽ trắc dọc tuyến- Ở đây vướng đỉnh 911, lại có vực là suối Ra Vơ khiến cho ta không thể áp dụng dập khuôn cách của Liên Xô được. Do đó đề nghị Thủ trưởng cho một ngày để Tiểu Ban kỹ thuật tính toán lại rôì báo cáo Trung đoàn. Nếu phương án này thực hiện được, có nghĩa là chúng ta buộc phải vận hành liên tuyến. Đề nghị các cơ quan có kế hoạch đảm bảo cho đợt vận hành này.
- Tôi đồng ý với ý kiến đồng chí Ngọc. Ban Kỹ thuật tập trung nghiên cứu, xong lúc nào, báo cáo tôi ngay lúc ấy. Nếu tôi đang ngủ cũng dựng dậy. Gấp lắm rồi. Cơ quan Tham mưu tính toán lại phương án ngụy trang, giữ bí mật và bố trí lực lượng để tiện điều động khi có sự cố. Hậu cần có phương án tốt nhất bảo đảm sức khỏe cho bộ đội khi vận hành. Phương án cứu chữa thương binh. Đề nghị anh Khuynh chỉ đạo cơ quan Chính trị có kế hoạch thật tốt về công tác ****, công tác Chính trị cho đợt vận hành này. Nếu Tiểu Ban Kỹ thuật tính toán thành công thì phải triển khai vận hành ngay, và coi đây là một trận đánh quyết chiến của Trung đoàn, vì nó thể hiện ý chí của chúng ta không bao giờ chịu thua giặc Mỹ.
Cuộc họp giải tán. Chính ủy Khuynh vỗ vai Ngọc: “Cố lên nhé. Cả Trung đoàn đang trông vào cậu đấy”.

Từ hầm chỉ huy vận hành bước ra, Ngọc vừa mừng, vừ lo. Mừng vì đã đề xuất được một phương án có triển vọng. Lo vì lỡ ra tính toán không được thì làm cả Trung đoàn bị động. Anh lôi bài báo đăng trên tạp chí ra, bàn với Quang:
- Thực ra, lý luận của bài toán này không có gì khó hiểu. Bây giờ việc của ta là áp nó vào điều kiện địa hình cụ thể tuyến của Trung đoàn như thế nào. Trong mọi tình huống thì xét về áp suất, cửa VR ở suối Ra Vơ luôn là điểm xung yếu nhất. Ta tạm gọi nó là Điểm Xung, còn đỉnh 850 ở sườn 911 là điểm cao nhất mà xăng phải vượt qua. Ta gọi nó là điểm vượt. Bài toán vượt trạm bây giờ quan trọng nhất là mối quan hệ giữa máy bơm B3, điểm Xung và Điểm Vượt- Ngọc ướm tam giác thủy lực lên trắc dọc tuyến- Cậu thấy không, nếu kéo dài đường đo áp này ra thì ở B4 còn tới mười lăm cân áp suất nữa. Kiếm đâu ra khoảng năm cân nữa là xăng tới được B5.
Hai chàng kỹ sư trẻ reo lên: Nếu vậy, chắc thành công rồi. Đêm ấy, họ loay hoay tính toán. Họ xoay đi, xoay lại các cách tính, phản biện lẫn nhau. Khi phương án vượt trạm chắc chắn thành công, đồng hồ đã chỉ hai giờ sáng. Không kìm được niềm vui, Ngọc nói:
- Cụ Trọng bảo xong bất kỳ lúc nào, báo ngay cho cụ biết, thậm chí đang ngủ cũng dựng cụ dậy. Mình nên thế nào?
- Dựng cụ dậy, vì chắc cụ mừng lắm.
Ngọc quay điện thoại. Chỉ một hồi chuông đã nghe tiếng trả lời của Trung đoàn trưởng.
- Tôi, Lê Trọng nghe đây.
- Báo cáo thủ trưởng, chúng tôi đã tính toán xong phương án vượt trạm. Báo cáo để Thủ trưởng vui, và đề nghị sáng sớm mai cho chúng tôi trình bày.
- Liệu có vượt trạm được không?
- Dạ được.
Vẫn cái giọng Huế nhẹ nhàng:
- Vậy chờ đấy, mình sang ngay, nghe!
Vài phút sau đã thấy ánh đèn pin loang loáng. Trung đoàn trưởng lách qua cửa hầm. Ngọc trình bày vắn tắt kết quả bài toán. Lê Trọng ôm lấy Ngọc cảm động:
- Cảm ơn các cậu. Chúng mình lại thắng chúng nó keo này rồi. Bây giờ đã gần ba giờ sáng. Từ giờ đến trưa, dác cậu ngủ đi cho lại sức. Sáng mai, mình khua các cơ quan khác. Đầu giờ chiều sẽ họp triển khai vận hành.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Quá trưa, cuộc họp bắt đầu. Ngọc trình bày vắn tắt phương án bơm vượt trạm. Đây là cuộc họp đầu tiên, các khái niệm Điểm Xung. Điểm vượt trên đường ống Trường Sơn được đề xuất và nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Rất nhanh chóng, phương án vượt trạm được thông qua. Cùng với đó là kế hoạch triển khai nhiệm vụ của các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần. Cuộc họp kết thúc khá nhanh chóng. Lê Trọng phát lệnh cho hai tiểu đoàn 66 và 96 chuẩn bị triển khai lực lượng vận hành.

Vận hành liên tuyến giữa các tiểu đoàn là một phần trong chiến thuật vận hành. Tuy nhiên, đợt vận hành này mang một đặc điểm hoàn toàn khác. Nó hết sức quan trọng, vì nếu không thành công, toàn bộ việc vận chuyển trên tuyến chi viện chiến lược từ đường số 9 trở vào có nguy cơ bị tê liệt một thời gian. Việc vận hành thành công cũng sẽ chứng minh cho sức mạnh, và ý chí không khuất phục của Trung đoàn trước sự đánh phá hủy diệt của không lực Mỹ. Trong chiến thuật vận hành liên tuyến, nếu một đoạn tuyến bị đánh đứt, việc vận hành có thể được tiếp tục trên các cung mà tuyến đang an toàn. Lần này, đã vận hành, là phải đảm bảo thông suốt từ kho đầu Q200 đến kho cuối Q6 và Q7, tổng chiều dài hơn một trăm cây số. Trong điều kiện địch đánh phá quyết liệt, giữ cho toàn tuyến an toàn, không bị đánh phá, là một việc cực kỳ khó khăn, và có cả yếu tố may mắn.
Lê Trọng ngồi vào vị trí chỉ huy vận hành. Đã là một cán bộ chỉ huy đường ống có kinh nghiệm, mà sao ông vẫn cảm thấy lo lắng, hồi hộp chẳng kém gì so với lần đầu vận hành ở X42 và đợt vận hành đầu tiên vượt đèo Mụ Giạ, đưa xăng vào kho Na Tăng. Ngoài sự chịu đựng bom đạn, lần này, bộ đội của ông phải vượt qua những khó khăn về kỹ thuật trong cuộc đấu trí với địch. Ông kiểm tra lại tất cả mọi kế hoạch chuẩn bị của các đơn vị. Sở chỉ huy có đầy đủ các cơ quan. Ngọc và Quang ngồi bên ông. Họ sẽ giúp ông đưa ra các kiến nghị khi có trục trặc kỹ thuật trên tuyến.
Lệnh vận hành phát ra lúc ba giờ chiều. Như thường lệ, sau khi máy bơm đầu nguồn khởi động, đường dây thông tin vận hành trở về yên tĩnh. Lần này, sở chỉ huy ưu tiên nghe báo cáo áp suất bơm, vòng quay động cơ của máy bơm B3, áp suất ở cửa van VR, và đông thái ở trạm bơm B5. Do đã bỏ chế độ bơm nước lót ống, nên chỉ sau gần một giờ, Cửa van ở lối vào hang bản Cọ đã thấy tín hiệu xăng đi qua. Sự đúng đắn của việc chọn phương án bơm vượt trạm đang bắt đầu được chứng minh.
Giữa lúc ấy, từ Cửa van ở hang Gấu Đen báo về:
- Địch đánh bom bi tọa độ, áp suất tụt, đề nghị ngừng bơm”.
Lê Trọng sốt ruột hỏi:
- Có cháy không?
- Báo cáo. Không thấy cháy. Chúng tôi đã chuẩn bị que tre để nút các lỗ thủng bom bi. Chúng tôi sẽ báo cáo tiếp.
Nét lo lắng hiện rõ trên khuôn mặt Lê Trọng. Ông chắp tay sau lưng, đi đi lại lại. Thời gian dường như ngưng lại. Cả Sở chỉ huy vận hành chờ đợi căng thẳng. Chợt tiếng trả lời của Quang phá tan yên tĩnh:
- Tôi, Quang, kỹ sư trực ở Sở chỉ huy vận hành đây.
Không thể chờ được, Lê Trọng nhấc ngay máy chỉ huy:
- Tôi, Lê Trọng đây. Tình hình sao rồi?
- Báo cáo thủ trưởng, có bốn chỗ ống bị thủng do bom bi. Chúng tôi đã khắc phục xong.
- Tốt. Cho vận hành tiếp.
Trên đường dây, lại trở lại không khí trật tự với những tiếng báo cáo các tham số áp suất và vòng quay trạm bơm. Chỉ một lát, đã nghe tiếng reo:
- B5 đã nhận đủ áp suất, bắt đầu bơm.
Ngọc nhắc Quang yêu cầu trạm bơm B3, B5 và Cửa van VR năm phút báo cáo áp suất một lần.
Rồi cuối cùng, phút giây chờ đợi đã đến: Xăng đã tới Q6. Cả sở chỉ huy vận hành như vỡ bung bởi tiếng hoan hô. Trên đường dây, bỗng chốc cũng ồn ào không kém. Đại úy Phương, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 66 reo lên bằng giọng khàn đục vốn có của anh:
- Chúng ta đã thành công. Chúc mừng thủ trưởng. Cảm ơn các kỹ sư.
Lê Trọng ôm lấy Ngọc cảm động:
- Chúng ta thực sự chiến thắng rồi! Cảm ơn các cậu rất nhiều.
Chờ cho những tiếng chúc mừng lắng lại, Lê Trọng mới nói vào điện thoại:
- Các đơn vị chú ý. Xăng đã đến Q6. Đó là thắng lợi lớn của chúng ta trước sự ngăn chặn quyết liệt của địch. Thay mặt **** ủy và chỉ huy, tôi cảm ơn các kỹ sư, các cán bộ chiến sỹ toàn Trung đoàn. Để bơm đầy xăng Q6 và Q7, chúng ta còn phải vận hành hàng chục giờ nữa. Các đơn vị tuyệt đối không được chủ quan. Các đồng chí rõ chưa?
- Rõ!- Tiếng đáp râm ran suốt dọc đường dây.

Lê Trọng châm một điếu thuốc. Ông bỗng cảm thấy trong lòngthanh thản. Vậy là một lần nữa, ông và bộ đội của mình lại chiến thắng. Bây giờ thì chẳng còn lo máy bơm thay thế không kịp vào bản Cọ.
Giữa lúc Lê Trọng đang nhâm nhi niềm vui, Tham mưu trưởng chuyển máy điện thoại tác chiến cho ông:
- Báo cáo. Tư lệnh gọi anh.
- A lô. Tôi Lê Trọng xin nghe.
- Tôi 601 đây. Tôi nghe Tham mưu trưởng của anh báo cáo đã tìm cách khắc phục được khó khăn do địch đánh cháy trạm bơm B4. Xin chúc mừng anh. Bộ Tư lệnh biểu dương Trung đoàn 952 đã làm thất bại mọi nỗ lực ngăn chặn của địch. Sắp tới, địch có thể đưa bộ binh ra cắt ngang tuyến chi viện chiến lược của ta ở khu vực đường 9. Tôi yêu cầu bơm xăng đầy Q6, Q7 trước khi bộ binh địch đổ quân xuống. Đồng thời Trung đoàn tổ chức lực lượng, sẵn sàng cùng các đơn vị chiến đấu với bộ binh địch.
Vậy là một cuộc chiến đấu mới lại sắp bắt đầu. Bộ đội của ông giỏi chiến đấu trong điều kiện bom đạn ác liệt dội từ trên không xuống. Bây giờ liệu họ có cùng một lúc hoàn thành được cả ba nhiệm vụ: Đối phó với máy bay địch, chiến đấu với bộ binh, và bơm xăng phục vụ chiến đấu?
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Chương VI

LAM SƠN 719


Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên đi đi lại lại trong căn hầm Chỉ huy. Chốc chốc, ông dừng lại, khoanh tròn lên bản đồ những vị trí cảm thấy có thể sẽ trở thành trọng điểm đánh phá ác liệt của địch, những vị trí địch có thể đổ quân, những con đường mà theo nhận định của trên, bộ binh địch có thể tấn công hòng cắt đứt tuyến chi viện chiến lược. Mùa khô 1970-1971 sẽ là một mùa khô thử thách đối với ông và toàn bộ lực lượng trên tuyến vận tải chiến lược. Từ tháng bảy năm 1970, Bộ Tư lệnh 559 đã được đổi tên thành Bộ tư lệnh Trường Sơn, trực thuộc Bộ Quốc phòng. Điều đó nói lên vị trí ngày càng quan trọng của tuyến vận tải chiến lược-Đường mòn Hồ Chí Minh. Từ sau cuộc Tổng tiến công Mậu Thân, quy mô chiến tranh đã phát triển cực kỳ nhanh chóng. Những động thái chính trị và quân sự không ngừng thay đổi, không chỉ ở miền Nam Việt Nam mà cả ở Lào và Cam pu chia. Ông nhớ như in cuộc họp Thường trực Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh 559 hồi tháng sáu. Cuộc họp ấy có đầy đủ các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Bộ Quốc phòng: Bí thư Quân ủy trung ương, Bộ trưởng- Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tham mưu trưởng- Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị- Trung tướng Song Hào, và Chủ nhiệm Tổng Cục Hậu cần Đinh Đức Thiện.
Tại cuộc họp đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nêu rõ: Từ khi Lon Non nắm chính quyền ở Cam pu chia, cảng Xi ha núc vin bị khóa chặt, tuyến vận chuyển chiến lược trở thành tuyến duy nhất thực hiện nhiệm vụ chi viện chiến lược từ Miền Bắc vào Miền Nam. Vì vậy, một trong những mục tiêu chiến lược rất quan trọng của Mỹ là dùng sức mạnh tổng lực, cắt đứt tuyến đường Hồ chí Minh, nhằm loại bỏ thảm họa đối với chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của chúng. Sắp tới, chúng sẽ chú trọng đánh phá vùng Hạ Lào và Đông Bắc Cam pu chia. Không những bằng không quân, biệt kích, mà có thể dùng những lực lượng bộ binh của Ngụy quân Việt Nam, Lào, Cam pu chia, và cả Thái Lan; khi cần, có thể cả bộ binh Mỹ, để tiến công bằng binh chủng hợp thành quy mô lớn. Hướng tiến công chủ yếu có khả năng là khu vực đường 9-Nam Lào. Thậm chí, chúng có thể chiếm toàn bộ đường số 9, cắt đứt hẳn tuyến chi viện chiến lược.Tất cả những nhận định của Thường trực Quân ủy Trung ương đang dần dần hình thành rõ nét trên chiến trường. Để đảm bảo cho nhiệm vụ chi viện chiến lược trong mùa khô 1970-1971, Bộ Chính trị, Bộ Quốc phòng đã tăng cường lực lượng cho Bộ tư lệnh Trường Sơn. Bước vào đầu mùa khô. Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã có bốn đơn vị tương đương sự đoàn, ba mươi binh trạm và tương đương, với một trăm bốn mươi bốn tiểu đoàn và tương đương trực thuộc. Các cơ quan của Bộ tư lệnh cũng được chấn chỉnh, nâng cấp cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới. Với lực lượng đó, nhiều tuyến đường ô tô được mở thêm, nhiều tuyến thông tin được tỏa ra như hệ thần kinh cho mọi hoạt động trên tuyến Trường Sơn. Các tuyến đường sông cũng được chú ý cải tạo, nâng cao năng lực vận chuyển. Trong thế trận đó, xăng dầu vẫn là một vấn đề cần được đặc biệt quan tâm. Quy mô lực lượng, khí tài tăng đột biến, khối lượng vận tải tăng đột biến, binh khí kỹ thuật hành quân vào chiến trường với lưu lượng ngày càng lớn. Nếu không giải quyết được khâu xăng dầu, tất cả sẽ đình đốn. Ông hiểu rất rõ: để xăng vào đến bản Vát, đến Q7, bao nhiêu xương máu của bộ đội đường ống, công binh, các binh trạm đã đổ xuống. Họ đã bất chấp mọi gian khổ, các liệt, không tiếc thân mình cho dòng xăng vào mặt trận. Mùa khô này, phải quyết tâm đưa tiếp tuyến đường ống vào phía nam, mà trước hết là phải vượt qua sông Sê La Nông. Và để đề phòng địch cắt đứt đoạn tuyến qua đường số 9, phải có ngay một tuyến tránh từ bản Cọ đến đường 128B, con đường huyết mạch ở phía tây của tuyến chi viện chiến lược. Rồi còn nữa, Trung đoàn đường ống 952 phải làm sao bơm đầy kho Q6 ở bắc đường 9 và Q7 ở nam đường 9 để cung cấp cho binh khí kỹ thuật nếu xẩy ra tác chiến và chủ động cho vận tải chiến lược sau chiến dịch. Nhiệm vụ thật nặng nề, nhưng ông tin ở Lê Trọng, một người chỉ huy dũng cảm và đầy tinh thần trách nhiệm.


Hơn mười ngày nay, Ngọc nằm ở kho Q7 cùng anh em để khảo sát tuyến từ Q7 đến sông Sê La Nông và vượt sông, đặt một kho ở bờ nam sông, gọi là Q7B. Có kho nam sông Sê la nông, những chiếc xe chở xăng đi các binh trạm sẽ bớt được thêm một trọng điểm vượt sông. Qua hơn hai tháng mùa khô, đại đội xe stec của Trung đòan 952 đã bị AC-130 bắn cháy gần hết, chỉ còn vài chiếc. Tất cả những người lính trên tuyến Trường Sơn đều hiểu tác hại của thằng AC-130 đối với ô tô. Bộ đội đường ống qua đó càng thấy rõ trách nhiệm của mình, vì đường ống sẽ là một phương tiện vận chuyển xăng dầu có thể bịt mắt được con quái vật này.


Thục giới thiệu Ngọc xuống đại đội 18, đại đội được phân công thi công tuyến Q7-Q7B. Đi cùng Ngọc là Pính, chàng trai người Nùng đã dạy anh hát những khúc hát Sli. Đại đội trưởng Khóa tiếp anh rất chu đáo. Anh cần gì cứ nói, tôi sẽ giao nhiệm vụ cho anh em đáp ứng đầy đủ. Đoạn tuyến Q7 đến Q7B về cơ bản là đoạn tuyến địa hình bằng, ít dốc. Đây là cánh rừng tái sinh nên chỉ có một số khu vực dọc các con suối là cây lớn, còn lại là những cây không cao, nhưng cũng có tán đủ che khuất các lán của bộ đội. Ngọc và Pính được phân về ngủ trong căn nhà âu của tiểu đội ba. Nhạc, tiểu đội trưởng, một chàng trai có nước da trắng trẻo, tính tình xởi lởi, đã dồn anh em lại, nhường cho hai người chiếc giường rộng nhất. Nhạc luôn nhắc anh em quan tâm đến anh kỹ sư và anh trung cấp kỹ thuật do Trung đoàn cử xuống.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Thục giới thiệu Ngọc xuống đại đội 18, đại đội được phân công thi công tuyến Q7-Q7B. Đi cùng Ngọc là Pính, chàng trai người Nùng đã dạy anh hát những khúc hát Sli. Đại đội trưởng Khóa tiếp anh rất chu đáo. Anh cần gì cứ nói, tôi sẽ giao nhiệm vụ cho anh em đáp ứng đầy đủ. Đoạn tuyến Q7 đến Q7B về cơ bản là đoạn tuyến địa hình bằng, ít dốc. Đây là cánh rừng tái sinh nên chỉ có một số khu vực dọc các con suối là cây lớn, còn lại là những cây không cao, nhưng cũng có tán đủ che khuất các lán của bộ đội. Ngọc và Pính được phân về ngủ trong căn nhà âu của tiểu đội ba. Nhạc, tiểu đội trưởng, một chàng trai có nước da trắng trẻo, tính tình xởi lởi, đã dồn anh em lại, nhường cho hai người chiếc giường rộng nhất. Nhạc luôn nhắc anh em quan tâm đến anh kỹ sư và anh trung cấp kỹ thuật do Trung đoàn cử xuống.

Một hôm, trên đường đi khảo sát tuyến, Ngọc bắt gặp một căn nhà sàn chơ vơ giữa rừng. Ở đây, gặp được dân để nắm tình hình là một cơ hội quý báu. Giữa một vùng bằng phẳng thế này mà cứ chiếu theo phương vị để vạch tuyến, rất có thể đụng vào các trọng điểm đánh phá của địch hoặc các bản dân. Vốn đã biết chút ít tiếng Lào, ngọc mạnh dạn trèo lên nhà sàn. Tiếp anh là đôi vợ chồng rất trẻ. Chủ nhà tự giới thiệu là Cha-đi, còn cô vợ xinh đẹp chỉ khoảng mười tám tuổi, là Kham mun. Gặp một anh bộ đội Việt biết chút tiếng Lào, Cha-đi mừng lắm. Bản thân anh ta cũng biết chút ít tiếng Việt, bổ sung cho nhau. Cha-đii sẵn lòng đưa Ngọc đi dọc theo con đường tốt nhất đến bờ sông Sê La Nông, tránh những điểm địch thường đánh phá, những bãi trống lớn và những nơi các bản dân Lào sơ tán. Cha-đi dạy thêm tiếng Lào cho Ngọc, Ngược lại, Ngọc cũng dạy thêm tiếng Việt cho anh ta. Chỉ vài hôm đi khảo sát tuyến, ngọc đã trở nên thân thiết với gia đình Cha-đi. Hầu như ngày nào đi tuyến, anh cũng ghé qua nhà đôi vợ chồng trẻ uống nước.

Sau một tuần, ngọc và Pính đã định vị được những mốc chính của tuyến ống và vị trí kho Q7B. Họ có nhiệm vụ hướng dẫn cho bộ đội của đại đội 18 phát tuyến và thi công. Phát tuyến được hai ngày thì Ngọc lên cơn sốt rét. Lần này, cơn sốt hành hạ Ngọc suốt buổi tối, sáng hôm sau, anh vẫn sốt ba mươi chín độ. Ngọc cố đứng dậy, nhưng rồi chân tay run lẩy bẩy, không thể đứng vững được. Pính nói:
- Các mốc chính của tuyến em đều nắm được rồi. Anh cứ nghỉ ở nhà, em sẽ ra chỉ tuyến cho đại đội phát.
- Lúc nãy Pính bảo cảm thấy khó thở, có sao không?
- Không sao đâu anh. Thỉnh thoảng em vẫn thế, rồi qua khỏi ngay thôi mà.
Ngọc đồng ý. Pính cùng anh em ra tuyến lúc bảy giờ rưỡi sáng. Ngọc chỉ kịp dặn Pính số đo góc phương vị trên địa bàn khi hướng dẫn phát tuyến, rồi anh trùm chăn run bần bật. Khoảng chín giờ thì đội phát tuyến trở về. Pính nói:
- Không hiểu sao em thấy mệt và tức ngực quá anh Ngọc ơi.
Ngọc nằm dịch sang một bên giường:
- Nếu mệt quá thì nằm nghỉ đi.
Pính nằm xuống cạnh Ngọc. Nó không nói gì. Chắc là mệt lắm. Chỉ dăm phút sau, Ngọc cảm thấy Pính dãy nhẹ. Có ai đó nói:
- Nhìn kìa. Anh Pính trông lạ lắm.
Mọi người xúm lại:
- Pính ơi. Anh thấy trong người thế nào?
Không có tiếng trả lời. Pính nằm thiêm thiếp. Ngọc lay, rồi vỗ vào má Pính. Nó vẫn nằm im. Y tá đại đội chạy lại, lấy ống nghe áp vào ngực Pính:
- Tim anh ấy đã ngừng đập rồi, phải hô hấp nhân tạo xem có làm anh ấy tỉnh lại không.
Nói rồi, cậu y tá làm các động tác hô hấp nhân tạo và hà hơi thổi ngạt, vẫn không thấy Pính tỉnh lại. Cậu ta lo lắng:
- Phải làm sao để tim anh ấy đập trở lại, nếu không, anh ấy chết mất. Để tôi thử tiêm thẳng vào tim một liều thuốc trợ tim xem sao.
Nói rồi, cậu ta chọn cái kim tiêm dài nhất. ước lượng chỗ có quả tim, tiêm thẳng vào đó một liều thuốc. Nhưng tất cả đều vô hiệu. Pính đã tắt thở đột ngột trước sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên của các chàng trai trẻ. Lúc ấy chỉ hơn chín giờ rưỡi. Đại đội báo lên quân y tiểu đoàn, rồi tiểu đoàn báo lên trung đoàn. Chưa có bác sỹ đến, họ chưa giám đưa Pính đi chôn. Thế là lại mất thêm một người bạn. Sao ở Trường Sơn, cái chết đến dễ dàng thế này. Đủ thứ bom đạn dội lên Ra Vơ, Pha Bang, em không hề hấn gì, mà bây giờ bỗng dưng em lại bỏ anh mà đi. Nằm bên Pính, Ngọc vẫn sốt hầm hập, nhưng anh không muốn sang giường khác, vì hầm tiểu đội vốn đã rất chật hẹp, mà Pính thì đã quá thân thiết rồi. Tuy vậy, quá trưa, trong cơn sốt, Ngọc cảm thấy lạnh toát nửa người nơi tiếp xúc với Pính. Cái giường chỉ rộng chưa đến một mét, Ngọc nằm nghiêng người để tránh tiếp xúc, hơi lạnh lại chạy dọc theo sống lưng. Nhạc nói: Anh sang giường khác nằm đi. Đang ốm mà nằm cạnh người chết là không tốt đâu. Ngọc lẩy bẩy chuyển sang giường bên cạnh. Ngồi dậy, anh mới có dịp nhìn kỹ Pính. Nó nằm thiêm thiếp, hiền lành. Chàng trai hai mươi tuổi này ra đi từ vùng Lạng Sơn, nên mọi gian khổ ở Trường Sơn: Lội suối, trèo đèo, mưa rừng, suối lũ, muỗi vắt, cậu ta đều cảm thấy bình thường như cuộc sống vốn vẫn thế. Chắc sáng nay em đã mệt lắm, vậy mà chẳng nghĩ gì đến bệnh của mình. Tuổi trẻ, chúng mình chẳng bao giờ lại nghĩ mình có thể đột tử. Giá như sáng nay, chỉ cần có một bác sỹ cho một lời khuyên thì em đâu phải ra đi đột ngột thế này.
Quân y sỹ tiểu đoàn đang bận cứu chữa cho mấy chiến sỹ đại đội 16 bị bom bi, nên không thể xuống đươc. Đại đội trưởng quyết định mai táng cho Pính. Họ đưa Pính đi, chừng hơn một giờ sau trở về.:
- Chúng tôi chôn cậu ấy ở ngã ba suối, dưới gốc một cái cây lớn cho mát mẻ- Đại đội trưởng Khóa nói.
- Cảm ơn các anh. Tôi vẫn sốt quá, chưa thể ra tuyến được. Thời gian thi công khẩn trương lắm rồi. Pính hy sinh, có một người nữa có thể thay nó dẫn đường.
- Ai vậy anh? - Đại đội trưởng hỏi.
- Cha-đi. Người thanh niên Lào đang ở nhà sàn cạnh cái rẫy. Anh cho người ra mời anh ấy vào, chúng mình sẽ bàn.
Lát sau, Cha-đi tới:
- Mày ốm mà không nói với tao để tao mang gà vào nấu cháo cho ăn.
- Không sao đâu Cha-đi. Tao sẽ khỏi ngay thôi mà. Đây là anh Khóa, chỉ huy ở đây. Tao nhờ mày dẫn anh ấy đi đúng theo con đường chúng ta đã đi, đến Nậm Si Ra. Mày đưa anh ấy đến tận gốc cây to bên bờ suối, nơi chúng mình ngồi ăn lương khô nhé. Có được không ?
- Được mà. Tao sẽ dẫn bộ đội Khóa đến tận nơi. Ngày mai vợ chồng tao lại vào thăm mày.
Ngọc cảm ơn Cha-đi, rồi quay sang Khóa :
- Từ đây đến sông Sê la nông gần ba mươi cây số. Cha-đi sẽ đưa các anh đi được nửa đường. Đường đi chính là hướng tuyến. Còn chọn tuyến đi thế nào cho tốt, qua hai năm thi công, vận hành, các anh đầy kinh nghiệm rồi. Anh dựa theo đó phát tuyến, thi công. Mấy hôm nữa, khỏi bệnh, tôi sẽ ra cùng các anh đi nốt đoạn còn lại và xác định điểm vượt sông.
- Rõ rồi. Anh cứ nghỉ đi cho khỏe. Mọi việc sẽ đâu vào đó thôi.

Khóa cùng Cha-đi và mấy cậu lính đi rồi, Nhạc đốt một bó đuốc huơ khắp mặt giường, gầm giường nơi Pính nằm. Thậm chí cậu ta còn vơ một ít lá, đốt dưới gầm giường cho đến khi cảm thấy cái dát giường bằng nứa nóng ran. Sau đó, dọn dẹp thật sạch sẽ mới nói Ngọc trở lại nằm.

Ngay sau khi cắt sốt, Ngọc ra viếng mộ Pính. Thật tình cờ, mộ Pính được đặt dưới gốc một cây sau sau cổ thụ. Giữa khu rừng non, cây sau sau cao vút, xòe tán che nắng cho nấm mộ của chàng trai người Nùng. Ngôi mộ nằm đơn độc bên dòng suối, dựa lưng vào tảng đá mồ côi. Ngọc ngước lên. Trời mùa khô của đất nước Triệu voi vẫn xanh ngăn ngắt. Những cành cây sau sau vô tư đung đưa trong gió. Vài chiếc lá ngả vàng lìa cành, đậu lên ngôi mộ mới. Ngọc xót xa nhớ tới câu hát Sli mà Pính đã dạy cho anh:

Lá bông nhiều khía hơn lá sau
Không biết Sli mình hay Sli đâu...

Em nằm lại một mình. Câu hát Sli cuối cùng em hát cho anh nghe ở một nơi đất khách xa xôi. Pính ơi, dẫu ở đây không có bạn hát đối đáp với em mỗi đêm trăng, nhưng cây sau sau này sẽ nhắc để em luôn nhớ về những câu hát Sli, hát lượn bên dòng sông Kỳ Cùng quê hương. Thời gian sẽ trôi đi, cánh rừng non này sẽ thành đại ngàn, đường ống của chúng mình thì cứ vươn mãi vào mặt trận. Trong lửa đạn bời bời và vô vàn trắc trở, liệu có ai trong bọn anh có điều kiện trở lại đây thăm em? Những ngôi mộ lính đơn độc giữa rừng này, liệu còn ai biết tới? Ngọc cắm cành hoa lên mộ chàng trai, nước mắt cứ trào ra khi nhớ đến cái giọng Kinh chưa thật tròn tiếng của nó “Sin cộng sin bằng hai sin cos
 
Chỉnh sửa cuối:

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Hai ngày sau, Ngọc bàn giao xong tuyến cho đại đội trưởng Khóa. Sau đó, Thục xuống cùng Ngọc kiểm tra lại tuyến nam sông và quyết định cụ thể vị trí Q7B. Việc thi công tuyến đang khẩn trương thì buộc phải dừng lại. Địch chặn trọng điểm Pha Bang quá ác liệt nên ống không chở vào kịp. Cũng lúc ấy, đại đội nhận được lệnh chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tuyến ống nếu địch dùng bộ binh đánh cắt ngang tuyến chi viện chiến lược.

Ngọc trở về Trung đoàn bộ thì việc thi công Q5-Q5c đang bắt đầu. Danh đã khảo sát xong tuyến. Điểm đầu là ngã ba van , gần bản Cọ, điểm cuối là bản Nậm Thông, trên đường 128B. Theo lệnh trên, tuyến cần được thi công khẩn trương trước khi địch có thể nống sang Lào cắt ngang đường số 9. Bản tính toán thủy lực và xác định vị trí trạm bơm của Danh có một vài lỗi nhất thiết phải sửa. Ngọc và Danh là bạn cùng lớp ở trường đại học. Anh cho rằng mình không thể đơn phương thay đổi thiết kế, vì đó là kết quả khảo sát thực địa của Danh. Cần đưa vấn đề này ra bàn tập thể trong ban kỹ thuật. Từ hầm ngủ của mình, Ngọc cặp tất cả tài liệu thiết kế của Danh và bản tính toán lại của mình vào một quyển vở chạy vội lên hầm Chỉ huy vận hành. Lên đến nơi, Ngọc mới phát hiện bản tính thủy lực của Danh đã bị rơi dọc đường. Đây thực sự là vấn đề nghiêm trọng, vì trong quân đội, để mất tài liệu có khi phải ra Tòa án binh. Ngọc lo lắng, mồ hôi đầm đìa trên trán.
- Lâm Vinh, đi cùng mình tìm xem, nó chỉ rơi từ hầm Tiểu ban Kỹ thuật đến đây thôi.
Họ đi ngược lại con đường, để ý từng bụi cây ngọn cỏ. Về đến hầm Tiểu ban, Ngọc lục tung các giấy tờ mà vẫn không thấy.
- Không thể có gián điệp vào đây đánh cắp tài liệu được. Rất có thể mấy chú lính lên làm Sở chỉ huy cho trung đòn nhặt được, không biết nó là gì, đã dùng làm giấy vệ sinh. Ta thử kiểm tra một số cầu tiêu xem.
Ngọc đã đoán không sai. Bản thiết kế thủy lực đã bị xé ra làm mấy mảnh, bị vò nhàu và đang dính đầy phân. Ngọc định nhặt mấy mảnh giấy đó, thì Vinh ngăn lại:
- Thôi, giấy bẩn quá rồi, anh đừng nhặt nữa. Em sẽ chứng nhận cho anh là nó đã bị rơi, lính nhặt được, chính em đã nhìn thấy nó ở nhà vệ sinh.
Nghe vậy, Ngọc không nhặt nữa. Anh và Vinh lên gặp Lê Trọng:
- Báo cáo Thủ trưởng, tôi mang bản tính toán thủy lực tuyến Q5-Q5C trên đường lên Sở chỉ huy vận hành, do bất cẩn bị rơi dọc đường, mấy chú lính lên làm doanh trại nhặt được đã dùng làm giấy đi ngoài. Tôi và Vinh đã nhìn tận mắt tài liệu ấy. Vì đó là bản tính toán không còn sử dụng, lại đã dính phân be bét, nên xin phép thủ trưởng không cần nhặt lại.
Vinh nói thêm mấy câu khẳng định lại việc hai anh em đã kiểm tra tận nơi, nhưng thấy nó bẩn quá nên không nhặt nữa. Lê Trọng nghe xong, nói:
- Thấy nó là được rồi. Tuy nhiên cậu cần rút kinh nghiệm về quản lý tài liệu, nghe.
Ngọc không biết rằng, anh đang xử sự hết sức sai lầm. Xét về lý, không cầm được bản tính toán thủy lực ấy trong tay, sẽ là không còn bằng chứng tự bảo vệ trước quân pháp. Xét về tình, anh đã làm tổn thương đến lòng tự trọng của bạn.
Cuộc họp của Tiểu ban Kỹ thuật diễn ra khá nhanh chóng. Sau một vài tranh luận, Danh công nhận sự nhầm lẫn của mình, đồng ý với đề xuất của Ngọc.

Việc thi công tuyến Q5-Q5C được giao cho tiểu đoàn 69, có sự giúp đỡ của tiểu đoàn 66. Tiểu đoàn 69 mới làm đường ống lần đầu nên Trung đoàn yêu cầu Tiểu ban Kỹ thuật phải bám sát để hướng dẫn. Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 69 là người kín tiếng, lúc nào cũng như có tâm sự gì không nói ra được. Trái lại, Điệp,Trợ lý tham mưu tiểu đoàn, người thường xuyên làm việc với Ngọc và Danh, lại rất hoạt tính, hay hát và không nề hà bất cứ việc gì. Nhiều lúc, làm việc căng thẳng, anh lại đứng dậy, làm động tác diễn tuồng, bắt chước các cụ già bắn rơi máy bay ở cầu Hàm Rồng. Anh ta múa tay rất dẻo, rồi làm động tác vuốt râu, mà ca rằng:
Lão già an tri thành lão nhi ích tráng
Đầu râu tóc bạc cũng thi nhau...hà hà hà

Điệp cùng Danh và Ngọc đi suốt tuyến để đưa ra các biện pháp thi công sao cho nhanh nhất. Mọi chỗ định trú quân thi công, những nơi định đặt các cửa van, nơi đóng quân quản lý vận hành đều được Điệp chọn rất cẩn thận: Chỗ ngủ, nguồn nước, thậm chí chỗ dự phòng khi bị địch đánh. Ngọc trở lại Trung đoàn khi Tiểu đoàn 69 bắt đầu thi công.

Việc thi công tuyến Q5-Q5c đang trôi chảy thì Tiểu đoàn 69 báo về:
Địch rải bom vướng nổ trên hai cây số tuyến. Tiểu đoàn đã dùng nhiều biện pháp phá bom, thương vong bảy đồng chí, nhưng không thành công. Đề nghi Trung đoàn hỗ trợ và cho hướng giải quyết.

Đọc bức điện từ Tiểu đoàn 69 gửi về, Ngọc cảm thấy băn khoăn quá. Tiểu đoàn đề nghị Trung đoàn cho hướng giải quyết, nhưng Trung đoàn thì không có ai là chuyên gia bom mìn cả. Vậy ai sẽ tham mưu cho Ban chỉ huy đây? Cả Tiểu ban kỹ thuật đều thống nhất: Trước khó khăn này, Ban Kỹ thuật không nên đứng ngoài. Ngọc gọi điện cho Điệp, thì được biết: Hôm đầu tiên ra tuyến, bị bất ngờ nên có ba người hy sinh. Anh em có sáng kiến cắt thùng phuy thành một cái lô cốt nhỏ: có lối vào, có lỗ châu mai. Xung quanh thùng phuy nẹp một lớp nứa đập dập dày hai mươi phân. Với chiều dày lớp giáp ấy, bi và mảnh của bom vướng không thể xuyên qua được. Người trong “lô cốt” mặc áo giáp, đội mũ sắt, sẽ dùng một cây nứa dài nhất mà họ có thể tìm được, khua lịch liệt lên phía trước, làm cho các trái bom vướng bị kích nổ. Sau đó di chuyển đến nơi bom vừa nổ, khua tiếp. Ngày đầu tiên, khi tiến lên được hơn một trăm mét, mọi người mừng lắm. Đến một khoảng trống, họ tranh thủ lui vào một tán cây để giải lao và tránh con mắt cú vọ của thằng Tàu càng. Nào ngờ, chính dưới gốc cây ấy đang còn những sợi dây chết chóc, mà lúc trước, cái sào chưa khua tới được. Một người đã vô tình vướng vào, trái bom phát nổ. Thêm một người hy sinh và hai người bị thương. Ngày hôm sau, họ trút kinh nghiệm, chỉ đứng đúng những chỗ cái “lô cốt” đã đi qua. Tuy nhiên, một tai nạn mới lại đến: Quả bom vướng nổ quá gần, viên bi bay qua lỗ châu mai, xuyên qua mũ sắt người trong “lô cốt” làm anh bị thương. Điều ấy làm nhiều người hoang mang.
Ngọc báo cáo Đặng văn Thế:
- Thủ trưởng cho tôi xuống đấy bàn với anh em xem có cách gì không.
Đặng văn Thế đồng ý. Ngọc khoác ba lô lên đường. Mới bước vào địa phận tuyến của Tiểu đoàn 69, anh đã gặp ba cái cáng đi ngược chiều. Hỏi ra, họ đều bị thương do bom vướng. Rõ ràng vấn đề đã trở nên rất nghiêm trọng.
Điệp tiếp Ngọc trong căn hầm tham mưu. Không thấy anh ca: “Lão già an tri...” nữa. Lo nghĩ và cơn sốt rét đến không đúng lúc đã làm cho Khuôn mặt anh trở nên gầy guộc, đôi mắt vẫn sáng, nhưng trũng sâu. Điệp lôi ra một tờ giấy giảng giải cho Ngọc:
- Một quả bom mẹ sẽ bung ra hàng trăm quả bom con như bom bi. Nhưng nguyên lý kích nổ của loại bom con này lại hoàn toàn khác. Nghe nói một nữ kỹ sư người Anh đã thiết kế loại bom này. Mẹ nó. Phụ nữ gì mà ác độc thế. Bao nhiêu lính của mình đã thương vong vì loại bom quái ác này- Điệp vẽ một vòng tròn- Anh hình dung nhé: Quả bom này có tám cái mắt. Khi rơi xuống, từ mỗi cái mắt sẽ bung ra một caí dây mảnh như sợi tóc, nhưng rất bền. Đầu mỗi dây là một cái lò xo. Loại lò xo này rất dễ vướng lại khi gặp cây cỏ. Trong quả bom này có một tấm phẳng. Khi quả bom tiếp đất, tấm phẳng này sẽ tự điều chỉnh để về tư thế nằm ngang, và một viên bi được giải phóng ra nằm trên mặt phẳng đó, đặt quả bom vào tình trạng sẵn sàng nổ. Khi có một va chạm đủ lớn vào cái dây, quả bom lay động. Theo đó, viên bi trên mặt phẳng sẽ di chuyển, tạo nên cảm ứng điện từ kích nổ.
- Biết nguyên lý rồi mà tiểu đoàn vẫn không khắc phục được sao?
- Chẳng có gì không làm được cả. Có điều, vũ khí và chống vũ khí là một bài toán đố và giải rất khốc liệt. Chúng nó có khoa học hiện đại, đưa ra các vũ khí mới, lúc đầu bất ngờ, mình không thể tránh được thương vong. Nhưng người Việt Nam mình thông minh sáng tạo, thường biết cách làm vô hiệu hóa chúng. Quái ác như bom từ trường, lúc đầu đã chặn đứng xe ta đi qua trọng điểm và các nút giao thông. Nhưng rồi ta sáng chế ra xe phóng từ làm cho chúng bị kích nổ.Tuy nhiên, cái giá để giải được bài toán vũ khí và chống vũ khí này không sao đo đếm được, nhất là gặp những lúc cấp bách và trên vùng địa hình phức tạp như ở Trường Sơn này.
 
Chỉnh sửa cuối:

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Ngọc bùi ngùi nhớ đến Nguyễn Đỉnh. Vào lúc cần cảm tử, cũng sẽ có những người cảm tử.
- Ông nghĩ gì mà tần ngần thế. Tôi nói tiếp câu chuyện bom vướng nổ này.- Điệp đưa Ngọc về với thực tại- Ngay từ khi bom rơi vào khu vưc đại đội 2, có người hy sinh, Tiểu đoàn đã lệnh cho đại đội trưởng bình tĩnh cử những người tinh mắt, khéo léo, dũng cảm nhất dùng bật lửa đốt từng sợi dây, mở đường cho anh em thoát ra ngoài. Đó là lối rút theo đường mòn. Còn phát tuyến để lắp ống lại là câu chuyện khác. Dây rợ rình rập trong từng bụi cây, cành lá thì không thể làm thế được. Đầu tiên, anh em buộc một khúc gỗ vào đầu một đoạn dây dài, ném lên phía trước, rồi kéo, hy vọng khúc gỗ vướng vào dây bom hoặc lay động cành cây, sẽ kích nổ. Cách ấy không thành công vì cái khúc gỗ thường vướng lại trên cành cao. Có lần kích nổ được, mấy cậu đứng gần bị thương. Sau đó nghĩ ra cái lô cốt thùng phuy, nhưng cũng không ổn, như ông đã biết.
- Vậy bây giờ tiểu đoàn có kế hoạch gì không?
- Tạm thời thì chưa. Tiểu đoàn trưởng bảo với tôi rằng cứ để mấy cậu kỹ thuật trung đoàn đi trước, anh em mình đi cách chừng hai mươi mét. Tôi hỏi: Họ cũng là xương thịt như mình, họ là kỹ sư đường ống chứ có phải kỹ sư bom mìn đâu. Ông ấy nói: Nhưng họ khác mình là họ có kỹ thuật. Nghe đến đó, tôi chán, chẳng muốn nói gì. Giờ ông xuống đây là quý rồi, nhưng ông định làm thế nào?
- Tôi cứ xuống đã. Tuyến không thi công được, kỹ thuật không thể đứng ngoài cuộc- Chợt như nghĩ ra điều gì, Ngọc hỏi- Nếu mình dùng chất nổ để phá thì sao nhỉ? Một lượng nổ vừa phải sẽ thổi mọi cây cối trong một vùng bán kính ít nhất năm mét lay động, thậm chí bản thân các quả bom trong khu vực ấy bị dịch chuyển.
Điệp vỗ đùi:
- Hay quá. Sao tôi chưa nghĩ ra.
- Tôi e tốn bộc phá quá, chắc gì trên đã duyệt.
- Duyệt. Chắc chắn duyệt, vì đây là chiến đấu . Còn ai có cách hay hơn thì mình theo. Này nhé: Một lạng TNT có thể dọn sạch mìn vướng trong phạm vi đường kính mười mét. Đoạn tuyến bị bom dài hai cây số, ta cần hai trăm cân. Không lớn. Được.
Theo đề nghị của Ngọc, đích thân Chính ủy Khuynh chủ trì một cuộc họp. Ngọc trình bày phương án, Điệp minh họa thêm. Phương án được duyệt. Ngay chiều hôm ấy, Binh trạm 90 cấp cho Trung đoàn hơn hai trăm cân bộc phá TNT.
Từ hai đầu bãi bom, Ngọc và Lê, cũng là một trong “mười tám tên” cùng nhập ngũ, cầm địa bàn xác định phương vị cho bộ đội mở tuyến từ hai đầu đoạn có bom vướng nổ. Mỗi thỏi TNT hai lạng được cắt đôi. Mỗi lạng được buộc chặt kíp nổ đã tra dây cháy chậm đủ dài. Khi lửa bắt đầu cháy ở đầu dây, người lính ném về phía trước theo phương vị đã định. Sau đó, họ đứng vào vị trí bộc phá vừa nổ, ném tiếp. Đến gần trưa thì hai mũi của Ngọc và Lê gặp nhau. Ngọc lấy làm lạ: Thay vì chaỵ đến ôm lấy nhau mừng thắng lợi hợp quân, Lê lại đi dật lùi về phía anh, vừa đi, vừa dùng cái mông rẽ những cành cây đang vướng lối đi.
- Lê. Sao lại đi dật lùi thế?
- Cẩn thận vẫn hơn. Nếu còn quả nào chưa nổ thì bị ở mông trước- Lê cười hiền. Trong số mười tám kỹ sư cùng về đường ống, Lê là người được biên chế vào Tiểu đoàn 66 ngay từ ngày đầu thành lập.
Vậy là tuyến ống đi Q5c đã được giải tỏa. Từ tuyến về, Điệp mừng lắm.
- Hoan hô Ban Kỹ thuật Trung đoàn. Hôm nay phải có gì khao ông mới được.
Đi thêm mấy bước, chợt Điệp ra hiệu cho Ngọc dừng lại. Anh ta rút khẩu súng ngắn, lên đạn, và vẩy một phát vào bụi rậm. Có tiếng vỗ cánh, dãy dụa. Điệp nhào vào bụi. Ngọc tái mặt. Ai cũng biết hai bên đường họ đang đi, còn nhiều bom vướng. May thay, đã không có tiếng nổ nào. Điệp chui từ trong bụi ra, tay xách theo một chú gà rừng bị thương ở đỉnh đầu, chưa chết hẳn. Anh ta cười toe toét:
- Phải bắn thế này mới đạt yêu cầu. Chiều nay có bữa ngon rồi.
- Đúng là chó ngáp phải ruồi, được thể nói phét. Hôm nào tôi với ông bắn thi, nếu lặp lại kết quả đáng nể này tôi mới tâm phục, khẩu phục- Ngọc cười châm chọc.


Do sự ngăn chặn quyết liệt của không quân địch tại các trọng điểm trên trục đường 18, đặc biệt là Pha Bang, ống không thể chuyển vào theo kế hoạch nên Bộ tư lệnh quyết định phải cố gắng thi công cho được nửa đoạn đường Q5-Q5c, đặt ở đó một kho tạm, gọi là Q51. Nơi ấy phải bảo đảm xe stec từ đường 128B có thể dễ dàng vào nhận xăng. Với sự nỗ lực cao độ của Tiểu đoàn 66 và 69, ngay sau khi thông tuyến qua vùng bom vướng, tuyến ống được thi công với tốc độ khẩn trường nhất. Công sức của họ đã được đền đáp. Xăng đã đến Q51 trước khi những cánh quân lớn của Ngụy Sài Gòn, Ngụy Lào, Thái Lan, với sự hỗ trợ của không quân và pháo binh Mỹ rùng rùng tấn công lên tuyến vận chuyển chiến lược theo cả đường không và đường bộ.


Cuộc họp Ban chỉ huy Trung đoàn bắt đầu ngay khi xăng đang bơm vào Q51. Tất cả các tiểu đoàn trưởng và Chính trị viên tiểu đoàn đều được triều tập. Lê Trọng mở đầu:
- Hiện nay, địch đang tập trung quân ở bên kia biên giới, chuẩn bị tiến công chiếm đường số 9, cắt đứt tuyến vận tải chiến lược. Trung đoàn chúng ta có thể phải vừa đánh địch, vừa vận hành. Hôm nay Trung đoàn triệu tập các đồng chí, bàn cách sao cho hoàn thành nhiệm vụ.

Kế đó, Trưởng Ban tác chiến Trung đoàn bước lên trước tấm bản đồ, báo cáo:
- Theo thông báo của cơ quan tác chiến Bộ Tư lênh 559, địch đang triển khai một chiến dịch, lấy tên là Lam Sơn 719. Con số 719 được ghép từ năm 1971 và Đường 9 - trục chính của cuộc tấn công. Đây là chiến dịch lớn nhất của quân đội Việt Nam Cộng hòa với sự yểm trợ của không quân và pháo binh Mỹ. Cũng là thử nghiệm đầu tiên của chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Lực lượng địch đang được huy động gồm: Quân Ngụy Sài gòn có: ba sư đoàn: Sư đoàn Dù, Sư đoàn Thuỷ quân Lục chiến, Sư đoàn 1 Bộ binh; ba lữ đoàn bộ binh; bốn trung đoàn và 2 chi đoàn thiết giáp; mười ba tiểu đoàn pháo binh. Quân Mỹ tham gia trực tiếp và yểm trợ cho chiến dịch này, họ gọi là chiến dịch Dewey Canion II, có mười hai tiểu đoàn bộ binh, năm tiểu đoàn thuộc Sư đoàn Dù 101, bốn tiểu đoàn của Sư đoàn 5 bộ binh cơ giới, ba tiểu đoàn thuộc Sư đoàn Americal, tám tiểu đoàn pháo binh, cỡ pháo từ 155 đến 203 mm, hàng ngàn máy bay gồm trực thăng, phản lực, vận tải cỡ lớn và máy bay chiến lược B-52. Tham gia vào chiến dịch này về phiá tây có lực lượng của quân đội Hoàng gia Lào gồm hai binh đoàn cơ động GM30 và GM33. Để dọn đường cho chiến dịch, những ngày gần đây, máy bay địch tăng cường đánh phá cực kỳ khốc liệt trên hai trục đường 16 và 18. Chỉ trong tuần lễ vừa rồi, các trọng điểm 900 và Pha Bang trên đường 18 đã bị oanh tạc bởi bốn trăm lần chiếc B52 và hơn hai nghìn lần chiếc máy bay cường kích. Về phía ta, Bộ Tổng tư lệnh đã triển khai lực lượng sẵn sàng nghênh chiến, đặt tên chiến dịch là Chiến dịch Đường 9 – Nam Lào. Nhiệm vụ của Trung đoàn ta là bơm xăng đầy kho Q6, Q7 trước khi tác chiến, chiến đấu bảo vệ tuyến đường ống, đồng thời sẵn sàng cùng các sư đoàn chủ lực và các đơn vị trên tuyến 559 đánh địch khi có yêu cầu.
Đối với bộ đội trên tuyến 559, đây sẽ là lần đầu tiên giáp mặt với bộ binh địch. Nghe đến một lực lượng khổng lồ như vậy đánh vào tuyến vận tải chiến lược. Có người băn khoăn tự hỏi: Liệu rồi ta có chống cự nổi không?
Lê Trọng hiểu tâm trạng đó. Ông đứng dậy, chận rãi:
- Chúng ta triển khai chiến dịch này rất chủ động vì mọi toan tính của đối phương đã được Quân ủy Trung ương dự kiến cách đây tới nửa năm. Địch đánh sang đây, hậu phương của ta, thế trận đã bày sẵn nên chắc chắn chúng sẽ thất bại. Tuy vậy, không thể chủ quan, vì đây là lần đầu bộ đội trung đoàn ta tham gia một chiến dịch lớn, có tác chiến hiệp đồng binh chủng như thế này. Nhiệm vụ của chúng ta rất nặng nề, vì phải vận hành đầy kho Q6 và Q7, lót nước vào tuyến ống của đoạn này trước khi bộ binh địch tràn đến. Phải đặc biệt chú ý bảo vệ trạm bơm B7, vì đây là trạm bơm lọt vào giữa vùng tác chiến của chiến dịch. Trong những ngày khẩn trương này, cả vận hành và tác chiến đều rất quan trọng. Bởi vậy, tôi giao cho Trung đoàn phó Đặng Văn Thế phụ trách công tác vận hành. Anh Thế và một vài kỹ sư phải có mặt ở khu vực B5. Trung đoàn phó Đăng Tùng phụ trách chỉ huy tác chiến, cùng Trợ lý tác chiến xuống trực tiếp với Tiểu đoàn 96.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Quang ở Chỉ huy sở giúp Trung đoàn trưởng theo dõi và điều hành việc vận hành xăng sang cả hướng tây cho Q51 và hướng nam cho Q6 và Q7, còn lại, các kỹ sư đều được tung xuống tuyến để giúp đơn vị vận hành và xử lý các vấn đề kỹ thuật phát sinh. Đây là lần đầu tiên tuyến ống trên Trường Sơn vận hành dưới sự uy hiếp của cả bom và đạn pháo. Dọc theo các đường mòn và các cao điểm từ sông Sê Bang Hiêng đến đường số 9, pháo địch chốc chốc lại dội xuống một loạt, lúc thì nổ trên đồi, lúc lại nổ dưới suối. Tham mưu phó trung đoàn, Văn Miêu, người Thanh hóa, vốn là một sỹ quan bộ binh dạn dày trận mạc, đã truyền cho mấy chàng kỹ sư sự bình tĩnh trước đạn pháo. Kể cả lúc đạn pháo rẹt qua đầu, ông hô :nằm xuống! Khi đứng dậy, ông lại thản nhiên:
- Chúng nó bắn hú họa, chứ có thấy mình đâu. Không đáng ngại bằng bom tọa độ. Bom tọa độ nó nhè vào mình sau bao nhiêu kết quả trinh sát, còn bọn pháo binh này chưa hề biết mình nếp tẻ thế nào nên cứ bắn vu vơ thế thôi. Chết sống có số mà.

Để có thể nắm chắc tình hình đảm bảo xăng đường ống cho chiến dịch, Cục Xăng dầu Tổng cục Hậu cần cử phái viên đến tận tuyến có chiến sự ác liệt này. Một ngày nắng đẹp, Ngọc và Dũng đưa hai phái viên đi kiểm tra tuyến ở khu vực B7. Hai sỹ quan này đều là kỹ sư: Hưng, học ở Trung quốc về, Ngọc và anh ta đã biết nhau từ hồi tập huấn ở làng Thọ, và Vũ một chàng trai da trắng bóc, lông mi cong, môi đỏ. Chà, sao thằng cha đẹp trai thế. Đường đi ở khu vực nam đường số 9 tương đối trống trải, vì nó đi giữa những nương rẫy bỏ hoang, cây cộng sản đã mọc lút đầu người, nhưng không che khuất được các lối mòn. Họ phải vừa đi, vừa canh chừng thằng Tàu càng. Mặt trời gần đứng bóng, họ ngồi nghỉ trong một lùm cây hiếm hoi giữa đường. Một tốp ba người đi ngược chiều, Họ là lính của đại đội 16 tiểu đoàn 96 đi tăng cường bảo vệ trạm bơm. Biết người cùng trung đoàn, họ cũng ngồi lại nghỉ và bắt chuyện. Thấy một anh lính đầu hơi hói, nói đặc sệt tiếng Nghi Lộc, Ngọc nhận ra đồng hương Nghệ An, anh hỏi:
- Anh người Nghi Lộc phải không?
- Phải. Anh cũng Nghệ An sao?
- Vâng. Quỳnh Lưu. Anh xã nào?- Ngọc hỏi vậy, vì anh có một người bạn thân hồi đại học, người Nghi Lộc. Ngọc biết hầu hết anh em trong nhà người bạn này.
- Nghi Thuận.
- Tôi có một người bạn thân ở Nghi Thuận, anh ta có một người chị dâu rất xinh, tên Liễu. Anh biết không?
Mắt người lính sáng lên:
- Anh cũng biết Liễu? Đó là người tình một thời của tôi đấy. Tôi vẫn đang giữ ảnh của nàng đây.- Nói rồi, anh rút trong ví ra một tấm ảnh đã ngả vàng. Đúng là chị Liễu thật: Đôi mắt to với hàng mi cong đang nhìn nghiêng mơ mộng- Khi nào gặp Liễu, anh cứ nói có gặp Kỷ ở chiến trường, là nàng biết ngay.
- Có dịp, tôi và anh đến thăm chị ấy nhé.
- Người ta chồng con rồi, mình lính tráng biết sống chết thế nào đâu anh- Kỷ nói, đượm chút buồn.
Họ nói chuyện với nhau chừng nửa giờ, rồi chia tay đi về hai phía. Kỷ khoác ba lô, vác khẩu AK nhanh nhẹn lên đường. Ngọc chợt nhận ra : một cái soong quân dụng sáng loáng chụp lên ba lô của anh ta, mà ngụy trang rất sơ sài. Đi thế này giữa vùng trống trải thật chẳng an toàn chút nào. Ngọc nhắc, anh ta cười rất tươi : Mình sẽ chú ý. Đầy kinh nghiệm rồi mà.
Nhóm của Ngọc chỉ đi được chừng dăm phút thì thấy thằng tàu càng thu dần vòng lượn trên đầu. Có chuyện rồi. Vụt qua đầu Ngọc câu hỏi : Mình đã làm gì để lộ ? Không. Nhóm của mình đã rất cẩn thận mà. Cả bốn người vội chui xuống một cái hầm chữ A. Hầm chỉ chứa được hai người, bây giờ tới bốn người nên Vũ xuống cuối cùng, gần như hoàn toàn không có mái che trên đầu. Quả đạn khói của thằng Tàu càng bay vút trên đầu, và rơi xuống phía ngược chiều đi của họ. Ngọc lo lắng : Chắc nhóm của Kỷ bị rồi. Anh lại nhớ đến cái soong sáng loáng sau lưng Kỷ. Cầu mong anh ấy thoát nạn. Bom bắt đầu dội xuống. Lúc đầu là bom bi, tiếp đến là bom sát thương. Không có bom rơi gần hầm họ, nhưng có thể nghe thấy tiếng đất đá rào rào.
Buổi chiều, khi họ qua một cửa canh van, mới biết nhóm của Kỷ bị dính bom. Bản thân Kỷ vị mảnh bom cắt cụt đầu. Ngọc chạnh lòng. Thế là lại thêm một người bạn quen biết ra đi. Chẳng biết rồi anh có dịp về gặp chị Liễu kể về sự hy sinh của một người bạn mà những phút cuối cùng trong đời vẫn còn nhắc đến tên chị.



Các chốt chiến đấu được hình thành dọc theo tuyến ống. Quân của Sư đoàn 2 Triển khai tác chiến theo kế hoạch của Bộ tư lệnh chiến dịch. Còn bộ đội đường ống và các đơn vị vận chuyển trên tuyến 559 có nhiệm vụ bảo vệ tuyến và sẵn sàng hiệp đồng tác chiến khi có lệnh. Một tối, tổ công tác của Ngọc ngủ lại trong một cái lán bỏ không. Trời sẩm tối, một tiểu đội nữ sư đoàn 2 cũng vừa tới, họ cùng nghỉ lại. Đây là lần đầu tiên Ngọc được gặp những chiến sỹ Quân Giải phóng Miền Nam. Dễ dàng phân biệt họ với bộ đội 559 qua chiếc mũ tai bèo và chiếc khăn rằn quàng trên cổ. Các cô gái đều nói tiếng Quảng Nam. Họ trẻ lắm. Nước da nhiều người cũng mai mái vì sốt rét rừng. Họ nói chuyện ríu rít như bầy chim non, và rất vui khi được nghỉ lại cùng mấy anh bộ đội 559, mà họ gọi là bộ đội Đường dây:
- Các anh trông khỏe mạnh, đẹp trai thế này mà đài báo Ngụy tuyên truyền là Việt Cộng trên Đường dây không có gì ăn, ốm đau bệnh tật, lại thường xuyên bị bom đạn đánh cho tơi tả nên đứa nào cũng ốm nheo ốm nhách, bảy thằng bám vào cành đu đủ không gãy. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa sang bên ấy chưa chắc đã phải dùng đến súng, cứ nhặt từng đứa mà đập chết.
- Vậy trước khi sang đây, bọn em có tin như vậy không?
- Tất nhiên là không rồi. Bọn em cũng thỉnh thoảng được gặp các anh lái xe của Đường dây đưa gạo và vũ khí vào đơn vị. Các anh ấy ai cũng khỏe mạnh và dễ thương.
- Các em từ trong ấy ra đây, thấy có gì khác?
- Khác nhiều chứ. Ở đây đường rộng, xe của ta nhiều. Ngay như ngủ cũng khác. Các anh thường nằm giường, còn chúng em chủ yếu nằm võng.
- Sao các em không nằm giường?
- Có lúc nào ở lại lâu đâu mà làm nhà. Đánh xong trận này lại đến trận khác. Liên miên như thế nên sư trưởng của chúng em ngoài bốn mươi rồi mà vẫn chưa vợ.
- Trong sư đoàn có nhiều em xinh đẹp thế này mà thủ trưởng không tìm được ai sao?
- Thủ trưởng của em say mê đánh giặc hơn lấy vợ. Ông ấy liều lắm. Những trận quan trọng, sư trưởng mặc quần xà lỏn, trực tiếp chui vào tận lô cốt địch, sờ vào lỗ châu mai, nên các kế hoạch tác chiến đều chính xác. Bởi vậy mà sư đoàn 2 hầu như đánh đâu được đấy. Vậy mà trước con gái thì ông ấy cứ lúng búng như ngậm hột thị.
Ngay từ khi bước vào chiến dịch, lính 559 đã truyền nhau những câu chuyện về sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn gan dạ, xuất quỷ nhập thần, nhưng lại nhát gái. Qua nhiều người, có mẩu chuyện nhuốm màu giai thoại. Trên một chiến trường chưa có tác chiến lớn bộ binh thì sự có mặt của các sư đoàn chủ lực nổi tiếng, những vị chỉ huy nổi tiếng khiến cho lính 559 rất tin tưởng vào thắng lợi.
Đêm xuống rồi mà câu chuyện giữa mấy cô giải phóng quân với lính 559 vẫn chưa dứt.
- Chúng em ước gì được sống dưới bầu trời Xã hội chủ nghĩa. Dù chỉ một ngày thôi, là đã sung sướng lắm rồi.
- Vậy các em hiểu thế nào về Xã hội chủ nghĩa?
Mấy cô bé lúng túng. Cô có vẻ là chỉ huy mạnh dạn hơn:
- Chúng em nghe nói ngoài ấy cuộc sống sung sướng lắm. Người ta đối với nhau vô cùng thân ái; Không có kẻ giàu người nghèo, không có ai bóc lột ai.
 

3Lazang

Xe tăng
Biển số
OF-20850
Ngày cấp bằng
6/9/08
Số km
1,301
Động cơ
509,718 Mã lực
Nơi ở
Xóm liều - Thanh Nhàn
cho em đánh dầu đêm về đọc
 

coty

Xe tăng
Biển số
OF-61606
Ngày cấp bằng
12/4/10
Số km
1,369
Động cơ
453,552 Mã lực
đọc chuyện chiến tranh của các cụ kiểu gì mà em cứ chờ đọc tình huống tình cảm gái trai ...thế mới lạ ;))
 

daudoc

Xe buýt
Biển số
OF-80067
Ngày cấp bằng
13/12/10
Số km
894
Động cơ
424,400 Mã lực
Hay quá, cụ chủ kể tiếp đi ợ :)!
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Ngọc bỗng cảm thấy thương mấy cô gái. Họ lớn lên, vào ngay bộ đội. Người ta giáo dục cho họ chỉ nói về tương lai, không nói gì tới cuộc sống gian truân mà cả nước đang trải qua. Anh hiểu rằng, nếu ngay bây giờ, đưa các cô gái này ra Bắc, nếu không có những giải thích cần thiết thì họ sẽ thất vọng trước cuộc sống kham khổ của những người ở hậu phương, trước những hệ lụy của cơ chế cung cấp khiến cho xã hội hình thành những lớp người nắm vật chất, trở nên đặc quyền, đặc lợi. Ngọc lựa lời:
- Bây giờ đang thời chiến, miền Bắc đang sống kham khổ để dành nọi thứ cho đánh Mỹ. Còn về tình thân ái thì có ở đâu hơn tình cảm đồng đội đâu các em.
- Vâng. Nhưng chúng em vẫn ước ao có ngày được ra miền Bắc.
- Điều ấy chắc sẽ trở thành hiện thực khi đánh xong Mỹ, thống nhất đất nước.
Đêm ấy, mấy cô gái mắc võng thành nhiều tầng giữa những cái cột trong lán. Giấc ngủ đến với họ thật dễ dàng. Sáng ra, khi họ cuốn đồ chuẩn bị lên đường, Ngọc hỏi:
- Tối qua các em ngủ được không?
- Ngủ tốt anh ạ. Còn anh, chắc khó ngủ lắm phải không?

Câu trả lời có ý trêu chọc ấy khiến ngọc hơi xấu hổ. Nghe nói chiến trường Khu Năm gian khổ lắm. Vậy mà ai cũng lạc quan. Một tập thể con gái ríu rít như bầy chim.


Ngày 8 tháng 2 năm 1971
Đã quá trưa mà xăng vẫn chưa đầy Q7. Nét căng thẳng hiện rõ trên khuôn mặt Lê Trọng. Chỉ cần tuyến yên hàn thêm một giờ nữa thôi, là Trung đoàn hoàn thành nhiệm bơm xăng cho Q7, và phải mất thêm bốn giờ nữa mới hoàn thành việc lót nước vào tuyến ống vùng có tác chiến. Sáng nay, hàng chục ngàn quân Ngụy Sài Gòn đã rùng rùng tràn qua biên giới và tấn công dọc đường số 9. Máy bay trực thăng đổ quân xuống một số điểm cao, trong đó có một số điểm cao rất gần tuyến ống. Xăng vẫn chảy trong ống, mà quân địch thì đã tấn công rồi. Rất may, cánh quân tiến công theo đường bộ đã bị quân ta chặn đánh quyết liệt ở cầu Ka Ki, phía đông Bản Đông, còn quân địch nhảy dù và đổ bộ bằng trực thăng thì đang tạm thời co cụm lại, chưa dám đánh nống ra xung quanh.
Ngồi trong Sở chỉ huy vận hành, Quang vẫn liên tục áp tai vào tổ hợp điện thoại theo dõi từng động thái trên tuyến. Các thông số kỹ thuật của các trạm bơm vẫn đang ổn định. Thật thần kỳ quá : dòng xăng trong ống vẫn đang vô tư chảy, mặc cho bên ngoài là tiếng gầm rít của máy bay, bom và đạn pháo. Lê Trọng gọi vào B5 :
- Anh Thế đó phải không, tình hình trong đó thế nào ?
- Mọi việc vẫn tạm yên ổn anh ạ- Tiếng Thế chậm rãi- Anh em ở Q6, các trạm bơm và cửa van vẫn bình tĩnh. Đề nghị anh cho ngừng bơm xăng vào đây, để trạm bơm B6 bắt đầu bơm nước, dồn xăng vào kho Q7.
- Tốt rồi- Lê Trọng ra lệnh – Ngừng bơm xăng theo hướng Q6, chuyển hướng bơm cho đầy cho kho Bản Cọ. Đồng chí Đặng Văn Thế chỉ huy việc bơm lót nước, đẩy nốt xăng vào Q7. Các trạm bơm và cửa van phải tiến hành ngụy trang thật kỹ, không để địch phát hiện phá ống và trạm bơm. Tiểu đoàn 96 triển khai các chốt bảo vệ tuyến ống.
Lê Trọng châm thuốc hút. Cầu mong cho đoạn tuyến Q6-Q7 an toàn thêm vài giờ nữa. Tuy nhiên, bây giờ nếu có xẩy ra vấn đề gì thì xăng cơ bản đã đầy kho Q7, để cung cấp cho các binh khí kỹ thuật trong tác chiến. Ông quay sang Quang :
- Nếu đầy kho bản Cọ, cho chuyển ngay sang hướng tây, bơm đầy kho Q51 nhé.
Nói rồi ông nhấc máy gọi Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 69 :
- Anh cho bộ đội triển khai chuẩn bị nhận xăng vào Q51. Tình hình ở đó ra sao rồi ?
- Báo cáo. Có lẽ địch tập trung hỏa lực chi viện cho bộ binh tiến công và ngăn chặn trọng điểm Pha Bang nên mấy hôm nay có dễ thở hơn đôi chút. Xe vẫn vào ăn xăng. Chúng tôi sẵn sàng nhận tiếp xăng vào kho.
- Tốt . Anh nhắc anh em lùng sục, đề phòng các tốp thám báo địch trinh sát sâu vào hậu phương chiến dịch.
- Rõ.
Vậy là mọi việc dường như đang theo dự kiến. Lê Trọng yêu cầu Trưởng ban Tác chiến báo cáo tình hình chiến sự. Từ khi địch bắt đầu tràn qua biên giới, trực ban tác chiến thường xuyên theo sát tình hình để xin chỉ thị của ông khi có tình huống.


Đại đội trưởng Thọ kiểm tra lại việc ngụy trang trạm bơm B7. Phải ngụy trang sao cho ngay người đi ở con đường mòn ngoài kia cũng không biết ở đây có trạm bơm. Máy vẫn đang nổ đều. Nước lót ống đã đi qua trạm bơm. Phải bơm một giờ nữa mới hoàn tất việc đẩy hết xăng trong ống vào kho Q7. Thọ không khỏi lo lắng. Địch đã đổ quân xuống một số cao điểm gần tuyến ống. Máy bay trực thăng bay rợp trời. Những chiếc tực thăng chở quân và cả những chiếc cần cẩu bay tha những khẩu pháo đặt lên các cao điểm giống như con diều hâu tha chú gà con. Chốc chốc, lại thấy vài chiếc trực thăng bốc cháy bởi đạn pháo phòng không hai mươi ba ly của quân Giải phóng, lao xuống những cánh rừng. Chưa bao giờ người ta thấy máy bay trực thăng rơi nhiều đến vậy. Pháo binh quân giải phóng cũng đã bắt đầu bắn vào các cao điểm địch đổ quân. Những trận địa pháo của quân đội Sài Gòn được những chiếc cần cẩu bay đặt lên các điểm cao, bắn vào các vị trí mà chúng cho rằng đang có quân Việt Cộng tập kết. Tuy nhiên, những khẩu 105 này đã không thể thực hiện được nhiệm vụ chế áp pháo binh đối phương, vì những khẩu 122 ly và 130 ly của pháo binh quân Giải phóng đều nằm ngoài tầm với của chúng. Bốn bề là tiếng nổ đinh tai, tiếng gầm rít của máy bay các loại. Rất có thể, khi đã chuẩn bị xong thế trận, địch sẽ đánh nống ra, và nếu phát hiện được trạm bơm này, chắc địch sẽ vô cùng phấn khởi. Chúng sẽ cẩu về Sài Gòn và rùm bemg lên rằng đã cắt đứt hoàn toàn đường tiếp liệu của Việt Cộng. Việc bảo vệ trạm bơm B7 không chỉ nhằm bảo đảm cho dòng xăng sẽ hoạt động trở lại ngay sau khi kết thúc chiến dịch, mà còn đảm bảo không để máy bơm lọt vào tay địch. Theo lệnh của Trung đoàn phó Đăng Tùng, một chốt bảo vệ được bố trí kín đáo trên lối vào trạm bơm. Lệnh trên : chỉ được phép nổ súng khi chốt bị lộ. Một khối thuốc nổ được đặt trong hầm máy bơm, khi có nguy cơ rơi vào tay địch, sẽ phải phá hủy trạm bơm này.
- Báo cáo. Thủ trưởng Thục cần nói chuyện với đại đội trưởng- Trưởng trạm bơm chuyển máy cho Thọ
- Tôi, Thọ nghe đây.
- Nửa giờ nữa, anh cho dừng bơm, ngụy trang thật kỹ trạm bơm. Phải làm tất cả mọi biện pháp có thể, kể cả lấp đất để địch không phát hiện ra các van...
- A lô...Alô...-Thọ gào vào máy, nhưng không có tiếng trả lời.
- Đứt dây rồi. Phong, Phường đi nối dây ngay. Rất chú ý đi qua yên ngựa giữa cao điểm 660 và 723. Địch đã đổ quân lên cả hai cao điểm đó rồi.
Hai chiến sỹ khoác súng và dây lên đường. Họ đi dọc theo tuyến ống. Chừng nửa giờ sau, chuông điện thoại reo :
- A lô. Báo cáo đại đội trưởng, dây đứt ở yên ngựa. Chúng tôi đã nối...
Có tiếng súng ở đầu dây. Tiếng Phong bỗng im bặt. Thọ gào vào máy:
- A lô. Phong đâu? Phong đâu?...
Vẫn im lặng. Chắc hai đứa gặp bất trắc rồi. Tiếng Thục:
- A lô. Trưởng thôn Sáu phải không? Anh nói bà con ngừng tát nước, dồn sức đuổi trâu ăn lúa.
- Rõ- Thọ đáp- A lô...A lô
Dây lại đứt. Thọ quay sang đại đội phó Thông:
- Lệnh tiểu đoàn tắt máy. Bắt đầu từ giờ phút này, toàn đại đội chuyển sang trạng thái chiến đấu bảo vệ tuyến và máy. Ông dẫn một tổ lên yên ngựa xem tình hình thế nào, về sẽ bàn kế hoạch cụ thể.
Thông dẫn theo mười người với vũ khí nhẹ và dây thông tin. Họ chia thành từng tốp, thận trọng tiến lên yên ngựa giữa cao điểm 723 và 660. Ở đó trước đây có một bản của dân Lào gọi là bản Keng Be. Qua yên ngựa đó, là bắt đầu tuyến của đại đội bạn. Nhô ra khỏi khúc quanh của tuyến ở đỉnh dốc, họ phát hiện cả Phường và Phong đã hy sinh. Hai người nằm gục ngay trên tuyến ống, đè lên đường dây điện thoại. Như vậy, hai người đã bị phục kích. Rất có thể địch vẫn còn đâu đây. Thông ra hiệu cho mọi người tản ra, chiếm lĩnh các vị trí có lợi, sẵn sàng yểm hộ cho hai người lên nối dây. Bỗng đạn từ trong một bụi rậm bên sườn của tuyến xối xả bắn vào họ. Một người gục xuống, người thứ hai lăn ra phía sau một gốc cây bắn trả. Thông lăn một vòng, nấp sau tảng đá. Địch có vẻ không đông. Đây chắc chỉ là một tốp thám báo được phái ra thăm dò xung quanh nơi chúng vừa đổ quân. Anh tung một trái lựu đạn vào bụi rậm, nơi vừa có loạt đạn bắn ra. Một tiếng „Ối“ thảng thốt, kế đó là tiếng lựu đạn nổ chát chúa. Một cuộc đọ súng đã xẩy ra. Đúng như nhận định của Thông. Địch không đông. Chúng nấp sau một số gốc cây bắn ra. Hơn nửa năm gắn bó với đoạn tuyến này, lính đại đội 16 đã thuộc từng gốc cây, mỏm đá. Họ di chuyển sang hai bên sườn tốp thám báo địch. Chín khẩu AK bắn ràn rạt, lựu đạn tung ra liên tục. Tốp thám báo xem chừng núng thế, rút lên cao điểm. Truy kích địch chừng một trăm mét, Thông thu quân. Họ nối đường dây và đưa xác ba đồng đội xuống chân dốc để chôn cất. Nào ngờ, chỉ đi được một đoạn thì bốn bề là những tiếng nổ chát chúa. Thông hét lên:
- M79 đấy. Mọi người tìm địa hình, địa vật ẩn nấp- Thông nói với tiểu đội trưởng Toàn đang nấp bên cạnh - Loại súng này còn gọi là cối cá nhân, bắn cầu vồng ở cự ly tới hơn ba trăm mét, có khả năng sát thương lớn vì đầu đạn của nó có hàng ngàn viên chì. Khi chạm địch, bọn mình ngán nhất của nợ này. Nghe tiếng nổ đầu nòng, chứng tỏ chúng nó bắn từ xa để trả thù chứ không phải phản kích mình đâu.
Thông chưa dứt lời thì bỗng rẹt... một quả đạn nữa nổ ngay bên cạnh. Thông ấn dúi Toàn xuống, đè cả người lên. Khi Toàn nâng được Thông lên và đỡ anh nằm xuống thì phát hiện Thông đã hy sinh. Toàn nghẹn ngào: Anh Thông ơi, Anh đã chết thay em rồi. Anh và Thông cùng làng. Thông đi bộ đội bốn năm trước, chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị, bị thương nhẹ, vừa rồi về quê cưới vợ. Anh chị ở với nhau chỉ được một tuần.
Chiều tối, thi thể bốn liệt sỹ được mai táng trên sườn núi, bên tuyến ống. Đại đội trưởng Thọ bố trí một chốt trên một mỏm đồi nhỏ đối diện với trạm bơm. Từ đây có thể sớm phát hiện địch xâm nhập tuyến, đồng thời có thể kéo địch ra xa trạm bơm hoặc yểm trợ cho chốt ở trạm bơm.

Nếu ngày 8 tháng hai, hai vạn lính của quân đội Sài Gòn tràn qua biên giới Việt- Lào như thác lũ cả trên trời và dưới mặt đất, thì ngay ngày 10 tháng 2, đại quân đã bị chặn lại ở Bản Đông, nằm sâu 20 ki lô mét trong địa phận Lào, ở khoảng giữa đường tới Xê-pôn, và chỉ cách tuyến đường ống chừng hai cây số. Trước chiến dịch, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã tuyên bố sẽ cắt đứt đường tiếp tế của việt Cộng và sẽ tiếp các nhà báo ở Sê pôn. Nhưng mới chỉ qua hai ngày, Bản Đông bị vây hãm, các vị trí đổ quân ở tiền phương bị bộ đội ta tiến công dồn dập, có nguy cơ không thể tiến được tới Sê Pôn, tại Washington, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Melvin Laird trấn an các nhà báo khi họ cho rằng cuộc tiến công của Việt Nam Cộng hòa đã đình trệ. Tại một cuộc họp báo, ông ta tuyên bố rằng A Loui (Bản Đông) chỉ là một điểm tạm dừng để các chỉ huy Quân lực Việt Nam Cộng hòa có cơ hội "quan sát và đánh giá các di chuyển của đối phương.... Chiến dịch đang tiến triển theo kế hoạch." .
Trưa 25 tháng 2, bằng trận tiến công hiệp đồng binh chủng, Trung đoàn 64 của ta đã làm chủ căn cứ 31 của địch, tiêu diệt Tiểu đoàn 3 dù, bắt sống đại tá Lữ đoàn trưởng Nguyễn Văn Thọ và toàn bộ Ban tham mưu lữ đoàn. Quân địch bị đánh khắp mọi nơi. Bộ chỉ huy chiến dịch của địch đã không thể di chuyển lên phía trước. Ngày 2 tháng 3, Quân ủy Trung ương đã chỉ thị cho **** ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận "Tập trung tiêu diệt địch trong khu vực Bản Đông" với thời gian càng nhanh càng tốt. Sư đoàn 308 và các Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320), Trung đoàn 66 (Sư đoàn 304) được lệnh tập trung bao vây tiến công tập đoàn cứ điểm Bản Đông. Sư đoàn 2 (Quân khu 5) hoạt động ở hướng nam bao vây kìm chân hai trung đoàn của Sư đoàn 1 bộ binh Việt Nam Cộng hòa đang đóng ở cao điểm 723 và 660, ngăn không cho chi viện Bản Đông. Trong khi đội hình chính của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đang dậm chân tại Bản Đông đã được 3 tuần, thì các đơn vị Dù và Biệt động quân của họ đang chiến đấu để sống sót. Xem ra, việc tấn công bằng đường bộ đến thị trấn Sê Pôn là vô vọng, để gỡ thể diện, Tổng thống Thiệu và Tướng Lãm, Tư lệnh Quân đoàn 1 kiêm chỉ huy cuộc hành quân Lam Sơn 719, quyết định thực hiện một cuộc tấn công trực thăng vận xuống Xê-pôn, để nói với thế giới là họ đã tới đó. Cuộc tiến công vào Sê pôn được coi là cuộc không vận lớn nhấtt trong chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, nhưng ý nghĩa của nó lại hoàn toàn là hình thức.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Ngày 15-3, phát hiện địch có triệu chứng rút quân. Ngay trong đêm 15, ta nới lỏng vòng vây, sáng 16-3 địch bắt đầu rút khỏi 723 theo hướng Tây-Bắc lên Sê Pôn. Tiểu đoàn 4 của Trung đoàn 141 được lệnh lên chiếm lĩnh 723 để đánh vào phía sau địch. Pháo binh được lệnh bắn chặn các ngả đường. Theo kế hoạch, đợt bắn phá này pháo chiến dịch chỉ bắn 500 quả. Song trước thời cơ diệt gọn cả trung đoàn địch, Sư đoàn 2 đã đề nghị bắn 1000 quả và được chấp nhận, nên mật độ pháo khá lớn, quân địch buộc phải đi vào các khu vực sư đoàn đã dự kiến. Khi pháo ngừng bắn, các tiểu đoàn bộ binh được lệnh đồng loạt bám sát địch, thực hành tiến công. Quân địch thoát ly công sự, lại bị ta tiến công từ cả bên sườn phía sau nên hoang mang ngay từ đầu. Máy bay địch liều mạng vượt qua l¬ưới lửa phòng không của ta đến ném bom chi viện cho bộ binh. Bom na-pan, bom phá, bom sát thương nổ dữ dội. Cả khu rừng khói bụi, lửa cháy mù mịt, song bộ đội vẫn dũng cảm bao vây, chia cắt tiêu diệt từng cụm quân địch. Đến 11 giờ ngày 16-3, vòng vây của ta đã xiết chặt và tiểu đoàn 1 của địch đã bị tiêu diệt hoàn toàn, các tiểu đoàn khác của trung đoàn 1 Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở vào tình trạng hoang mang dao động, tinh thần rệu rã.
Để vừa tiêu diệt được toàn bộ trung đoàn 1, vừa không để trung đoàn 2 địch đang ở cao điểm 660 có cơ hội chạy thoát, Sư đoàn 2 Quân Giải phóng đã táo bạo quyết định đưa một phần lực lượng sang vây ép 660, lực lượng còn lại nhanh chóng tiêu diệt trung đoàn 1 địch ở 723, rồi chuyển sang cùng các đơn vị vây ép, tiêu diệt địch ở cao điểm 660.
Theo lệnh của Sư đoàn 2, Trung đoàn Đường ống 952 đã cử một đại đội tham gia cuộc chiến đấu. Đại đội phó Nông Văn Hoàng là một cán bộ dày dạn kinh nghiệm tác chiến bộ binh được điều đông từ Tiểu đoàn 69 sang chỉ huy đại đội này. Các chiến sỹ đường ống lần đầu tiên tham gia chiến đấu với bộ binh địch đã ngoan cường, dũng cảm và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đại đội của nông Văn Hoàng trong khói lửa mịt mù của đạn pháo, đạn từ trực thăng bắn xuống, đã bình tĩnh chặn đứng từng đợt xung phong của hai tiểu đoàn địch. Giữa lúc trận chiến đấu đang ác liệt nhất, Nông Văn Hoàng bị thương nặng bởi một viên đạn cối cá nhân M79, nhưng anh vẫn bình tĩnh chỉ huy các chiến sỹ giữ vững trận địa, cho đến khi tắt thở.
Sở chỉ huy tác chiến của Trung đoàn 952 đặt trên cao điểm 310, gần kho Q7. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch ngày càng quyết liệt. Những nơi có cự ly cách điểm đóng quân của địch ở mức cho phép, B52 liên tục rải thảm. Gần hơn một chút là những trận bổ nhào của phản lực. Ở những nơi hai bên đang quần nhau thì trực thăng chiến đấu Cobra từ trên trời bắn xối xả vào đội hình của ta. Xung quanh Sở chỉ huy tác chiến của Trung đoàn 952, không lúc nào ngớt tiếng bom, tiếng pháo. Hầm chỉ huy của một trung đoàn thuộc sư 2 đã trúng một quả đạn pháo, một số cán bộ chỉ huy Trung đoàn hy sinh, nhưng điều đó không hề làm giảm ý chí và sự dũng mãnh của các đơn vị thuộc sư đoàn 2. Từ đầu cuộc chiến tranh chống Đế quốc Mỹ đến giờ, chưa bao giờ bộ độ ta chủ động như lần này. Những người lính Cộng hòa ra đi với một tâm thế hoàn toàn chủ quan, thoải mái, vì họ được tuyên truyền rằng họ sẽ đến một vùng mà bọn Cộng sản đói khát, ốm đau, bảy thằng bám vào cành đu đủ không gãy, chỉ việc đến nhặt từng thằng mà đập chết; rằng với những chiếc trực thăng hiện đại của Hoa Kỳ, họ chỉ việc nhảy cóc, lùng sục để phá các kho tàng. Ngay khi vượt biên giới, họ đã bị bất ngờ về sự đánh trả quyết liệt của Việt Cộng. Chưa bao giờ họ vấp phải những trận tập kích, phục kích và tiến công dũng mãnh như thế này của đối phương. Chiến dịch đã diễn ra được ba tuần. Tất cả các chốt của trung đoàn 952 được bố trí bảo vệ tuyến ống và hiệp đồng tác chiến theo yêu cầu chiến dịch đều được giữ vững. Các cán bộ chiến sỹ của Trung đoàn đều chiến đấu rất ngoan cường.
Khi địch ở cao điểm 723 và 660 có nguy cơ bị tiêu diệt, Bộ chỉ huy sư đoàn 2 nhận định địch có thể hội quân từ hai cao điểm ở khu vực yên ngựa- Bản Keng Be. Với việc hội quân này, chúng có thể tràn qua tuyến ống, phá hủy tuyến ống và trạm bơm B7. Theo yêu cầu của sư đoàn 2, Trung đoàn phó Đăng Tùng giao cho Tiểu đoàn 96 cử một trung đội tăng cường lên chốt ở bản Keng Be. Theo lệnh của Tiểu đoàn, đại đội trưởng Khóa đã chọn những người dũng cảm, dày dạn nhất vào Trung đội này.

Chiều tối, toàn trung đội đã chiếm lĩnh trận địa. Ngòai súng AK và lựu đạn, họ được trang bị thêm B40 và mìn định hướng; một máy vô tuyến điện 2 wat để giữ liên lạc với tiểu đoàn. Trung đội trưởng Duy bố trí trận địa thành ba chốt hình chân vạc để có thể yểm trợ cho nhau ngăn địch từ cao điểm 723 và 660 tràn xuống; Đồng thời bảo vệ tuyến ống và trạm bơm B7.
Ngày16 tháng 3, bộ đội ta từ các hướng xung phong mãnh liệt tiêu vào trung đoàn 1 ngụy ở cao điểm 723. Từ phía Tây, Trung đoàn 141 đánh xuống. Từ hướng Đông Bắc, Tiểu đoàn 40 Trung đoàn Ba Gia đánh vào. Từ hướng Đông – Nam, Tiểu đoàn Đặc công và Tiểu đoàn 15 công binh đánh thốc lên. Trước sức tiến công liên tục của bộ đội ta, trung đoàn 1 Ngụy bị dồn vào những chỗ ta đã bố trí trận địa. Cuộc rút lui của địch giống như dòng lũ vỡ bờ. Chúng định vượt qua yên ngựa Keng Be để hội quân với lực lượng đóng ở cao điểm 660. Chốt của bộ đội Trung đoàn 952 như một con đê chặn dòng lũ đó. Suốt ngày 17 tháng 3, khắp bốn bề trận địa là tiếng la hét và sắc áo lính Sài Gòn. Đạn bắn ra từ các bụi cây, mô đá. Đạn đại liên trên những chiếc trực thăng trên trời bắn xuống. Đạn M79 nổ khắp trận địa. Từng đợt tấn công của địch tràn lên, bị đẩy lui. Từ một vài bụi cây có tiếng loa gọi hàng. Duy ra lệnh nhằm vào chỗ phát ra âm thanh ấy mà bắn.Về chiều, cuộc chến đấu càng ác liệt. Chiến sỹ giữ máy 2wat bị thương, và máy cũng bị đạn bắn hỏng, mất liên lạc với tiểu đoàn. Duy động viên toàn trung đội quyết tâm giữ vững trận địa.
Chốt của Nhạc là nơi chịu áp lực lớn nhất, vì nó đối diện với hướng từ cao điểm 723 xuống. Quả mìn định hướng của anh đã chặn đứng đợt tiến công đầu tiên của địch. Hàng chục tên địch dãy dụa trong vũng máu. Bốn bề là lửa, khói, tiếng đạn các cỡ và tiếng la hét. Địch tổ chức xung phong hết đợt này đến đợt khác. Nhạc đã bắn đến viên đạn cuối cùng. Khi địch tràn đến ụ súng của anh, trái lựu đạn cuối cùng của Nhạc nổ. Anh hy sinh. Quanh anh, mấy tên lính Ngụy dãy dụa trong vũng máu. Có vẻ như phát hiện ra chính Nhạc là người điểm hỏa trái mìn định hướng, là tay súng đã bắn quyết liệt vào các đợt xung phong, đám lính Ngụy dùng lưỡi lê đâm nát thi thể của anh cho hả dạ. Nhận thấy địch đang tràn vào điểm đầu của trận địa, Duy dẫn một tổ cơ động theo giao thông hào, dùng B40, AK và lựu đạn kiên quyết đẩy lui địch. Lẽ ra, trước áp lực tiến công của cả tiểu đoàn địch thì một tiểu đội khó mà đẩy lui địch khỏi trận địa. Vậy mà Duy chợt nhận ra, địch chống lại một cách yếu ớt, rồi bỏ chạy. Khi trời tối, những cuộc tiến công thưa dần. Đến nửa đêm thì trận địa hoàn toàn yên tĩnh. Duy đến từng chốt kiểm tra lại vũ khí và động viên anh em. Một ngày chiến đấu ác liệt, hai người hy sinh, bốn bị thương, đạn dược đã hao hụt đáng kể. Liên lạc với tiểu đoàn bị mất, nhưng trận địa vẫn được giữ vững. Rồi ngày mai cuộc chiến đấu sẽ ra sao đây?
Sáng ngày 18 tháng 3. Trong màn sương mờ, Duy phát hiện một tốp từ phía cao điểm 723 xuống. Không phải là sắc áo lính Sài Gòn, mà là những chiếc mũ tai bèo. Vậy họ là ai? Duy ra lệnh mọi người sẵn sàng, rồi hô lớn: Các anh là ai? Một giọng Bắc đáp lại: Chúng tôi là trinh sát của sư đoàn 2. Địch ở 723 đã bị tiêu diệt. Cả trung đội reo hò, nhảy lên ôm lấy các chiến sỹ sư 2. Vậy là họ, những chiến sỹ Đường ống đã hoàn thành nhiệm vụ. Khi trời sáng rõ, một khung cảnh kỳ lạ hiện ra trước mắt họ. Cánh rừng le xung quanh trận địa kéo dài xuống tận chân núi xác xơ, đổ rạp, như có một đàn bò khổng lồ vừa càn qua. Theo các trinh sát sư 2 cho biết, 10 giờ 30 phút ngày 17-3, sở chỉ huy trung đoàn 1 bị tiêu diệt, đại tá trung đoàn trưởng đã bị bắn chết từ trước đó. Hàng ngàn quân Ngụy Sài Gòn tháo chạy tán loạn, bị quân của sư 2 truy đuổi từ phía sau, lại bị chốt của tiểu đoàn 96 Đường ống chặn lại, khiến chúng hoàn toàn mất tinh thần. Chắc hẳn hàng ngàn người hoảng loạn, mạnh ai nấy chạy, không cần đường mà cứ càn bừa qua rừng le để tháo thân. Mũ sắt, mũ vải, cả súng ống vương vãi khắp nơi.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Ngày 15-3, phát hiện địch có triệu chứng rút quân. Ngay trong đêm 15, ta nới lỏng vòng vây, sáng 16-3 địch bắt đầu rút khỏi 723 theo hướng Tây-Bắc lên Sê Pôn. Tiểu đoàn 4 của Trung đoàn 141 được lệnh lên chiếm lĩnh 723 để đánh vào phía sau địch. Pháo binh được lệnh bắn chặn các ngả đường. Theo kế hoạch, đợt bắn phá này pháo chiến dịch chỉ bắn 500 quả. Song trước thời cơ diệt gọn cả trung đoàn địch, Sư đoàn 2 đã đề nghị bắn 1000 quả và được chấp nhận, nên mật độ pháo khá lớn, quân địch buộc phải đi vào các khu vực sư đoàn đã dự kiến. Khi pháo ngừng bắn, các tiểu đoàn bộ binh được lệnh đồng loạt bám sát địch, thực hành tiến công. Quân địch thoát ly công sự, lại bị ta tiến công từ cả bên sườn phía sau nên hoang mang ngay từ đầu. Máy bay địch liều mạng vượt qua l¬ưới lửa phòng không của ta đến ném bom chi viện cho bộ binh. Bom na-pan, bom phá, bom sát thương nổ dữ dội. Cả khu rừng khói bụi, lửa cháy mù mịt, song bộ đội vẫn dũng cảm bao vây, chia cắt tiêu diệt từng cụm quân địch. Đến 11 giờ ngày 16-3, vòng vây của ta đã xiết chặt và tiểu đoàn 1 của địch đã bị tiêu diệt hoàn toàn, các tiểu đoàn khác của trung đoàn 1 Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở vào tình trạng hoang mang dao động, tinh thần rệu rã.
Để vừa tiêu diệt được toàn bộ trung đoàn 1, vừa không để trung đoàn 2 địch đang ở cao điểm 660 có cơ hội chạy thoát, Sư đoàn 2 Quân Giải phóng đã táo bạo quyết định đưa một phần lực lượng sang vây ép 660, lực lượng còn lại nhanh chóng tiêu diệt trung đoàn 1 địch ở 723, rồi chuyển sang cùng các đơn vị vây ép, tiêu diệt địch ở cao điểm 660.
Theo lệnh của Sư đoàn 2, Trung đoàn Đường ống 952 đã cử một đại đội tham gia cuộc chiến đấu. Đại đội phó Nông Văn Hoàng là một cán bộ dày dạn kinh nghiệm tác chiến bộ binh được điều đông từ Tiểu đoàn 69 sang chỉ huy đại đội này. Các chiến sỹ đường ống lần đầu tiên tham gia chiến đấu với bộ binh địch đã ngoan cường, dũng cảm và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đại đội của nông Văn Hoàng trong khói lửa mịt mù của đạn pháo, đạn từ trực thăng bắn xuống, đã bình tĩnh chặn đứng từng đợt xung phong của hai tiểu đoàn địch. Giữa lúc trận chiến đấu đang ác liệt nhất, Nông Văn Hoàng bị thương nặng bởi một viên đạn cối cá nhân M79, nhưng anh vẫn bình tĩnh chỉ huy các chiến sỹ giữ vững trận địa, cho đến khi tắt thở.
Sở chỉ huy tác chiến của Trung đoàn 952 đặt trên cao điểm 310, gần kho Q7. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch ngày càng quyết liệt. Những nơi có cự ly cách điểm đóng quân của địch ở mức cho phép, B52 liên tục rải thảm. Gần hơn một chút là những trận bổ nhào của phản lực. Ở những nơi hai bên đang quần nhau thì trực thăng chiến đấu Cobra từ trên trời bắn xối xả vào đội hình của ta. Xung quanh Sở chỉ huy tác chiến của Trung đoàn 952, không lúc nào ngớt tiếng bom, tiếng pháo. Hầm chỉ huy của một trung đoàn thuộc sư 2 đã trúng một quả đạn pháo, một số cán bộ chỉ huy Trung đoàn hy sinh, nhưng điều đó không hề làm giảm ý chí và sự dũng mãnh của các đơn vị thuộc sư đoàn 2. Từ đầu cuộc chiến tranh chống Đế quốc Mỹ đến giờ, chưa bao giờ bộ độ ta chủ động như lần này. Những người lính Cộng hòa ra đi với một tâm thế hoàn toàn chủ quan, thoải mái, vì họ được tuyên truyền rằng họ sẽ đến một vùng mà bọn Cộng sản đói khát, ốm đau, bảy thằng bám vào cành đu đủ không gãy, chỉ việc đến nhặt từng thằng mà đập chết; rằng với những chiếc trực thăng hiện đại của Hoa Kỳ, họ chỉ việc nhảy cóc, lùng sục để phá các kho tàng. Ngay khi vượt biên giới, họ đã bị bất ngờ về sự đánh trả quyết liệt của Việt Cộng. Chưa bao giờ họ vấp phải những trận tập kích, phục kích và tiến công dũng mãnh như thế này của đối phương. Chiến dịch đã diễn ra được ba tuần. Tất cả các chốt của trung đoàn 952 được bố trí bảo vệ tuyến ống và hiệp đồng tác chiến theo yêu cầu chiến dịch đều được giữ vững. Các cán bộ chiến sỹ của Trung đoàn đều chiến đấu rất ngoan cường.
Khi địch ở cao điểm 723 và 660 có nguy cơ bị tiêu diệt, Bộ chỉ huy sư đoàn 2 nhận định địch có thể hội quân từ hai cao điểm ở khu vực yên ngựa- Bản Keng Be. Với việc hội quân này, chúng có thể tràn qua tuyến ống, phá hủy tuyến ống và trạm bơm B7. Theo yêu cầu của sư đoàn 2, Trung đoàn phó Đăng Tùng giao cho Tiểu đoàn 96 cử một trung đội tăng cường lên chốt ở bản Keng Be. Theo lệnh của Tiểu đoàn, đại đội trưởng Khóa đã chọn những người dũng cảm, dày dạn nhất vào Trung đội này.

Chiều tối, toàn trung đội đã chiếm lĩnh trận địa. Ngòai súng AK và lựu đạn, họ được trang bị thêm B40 và mìn định hướng; một máy vô tuyến điện 2 wat để giữ liên lạc với tiểu đoàn. Trung đội trưởng Duy bố trí trận địa thành ba chốt hình chân vạc để có thể yểm trợ cho nhau ngăn địch từ cao điểm 723 và 660 tràn xuống; Đồng thời bảo vệ tuyến ống và trạm bơm B7.
Ngày16 tháng 3, bộ đội ta từ các hướng xung phong mãnh liệt tiêu vào trung đoàn 1 ngụy ở cao điểm 723. Từ phía Tây, Trung đoàn 141 đánh xuống. Từ hướng Đông Bắc, Tiểu đoàn 40 Trung đoàn Ba Gia đánh vào. Từ hướng Đông – Nam, Tiểu đoàn Đặc công và Tiểu đoàn 15 công binh đánh thốc lên. Trước sức tiến công liên tục của bộ đội ta, trung đoàn 1 Ngụy bị dồn vào những chỗ ta đã bố trí trận địa. Cuộc rút lui của địch giống như dòng lũ vỡ bờ. Chúng định vượt qua yên ngựa Keng Be để hội quân với lực lượng đóng ở cao điểm 660. Chốt của bộ đội Trung đoàn 952 như một con đê chặn dòng lũ đó. Suốt ngày 17 tháng 3, khắp bốn bề trận địa là tiếng la hét và sắc áo lính Sài Gòn. Đạn bắn ra từ các bụi cây, mô đá. Đạn đại liên trên những chiếc trực thăng trên trời bắn xuống. Đạn M79 nổ khắp trận địa. Từng đợt tấn công của địch tràn lên, bị đẩy lui. Từ một vài bụi cây có tiếng loa gọi hàng. Duy ra lệnh nhằm vào chỗ phát ra âm thanh ấy mà bắn.Về chiều, cuộc chến đấu càng ác liệt. Chiến sỹ giữ máy 2wat bị thương, và máy cũng bị đạn bắn hỏng, mất liên lạc với tiểu đoàn. Duy động viên toàn trung đội quyết tâm giữ vững trận địa.
Chốt của Nhạc là nơi chịu áp lực lớn nhất, vì nó đối diện với hướng từ cao điểm 723 xuống. Quả mìn định hướng của anh đã chặn đứng đợt tiến công đầu tiên của địch. Hàng chục tên địch dãy dụa trong vũng máu. Bốn bề là lửa, khói, tiếng đạn các cỡ và tiếng la hét. Địch tổ chức xung phong hết đợt này đến đợt khác. Nhạc đã bắn đến viên đạn cuối cùng. Khi địch tràn đến ụ súng của anh, trái lựu đạn cuối cùng của Nhạc nổ. Anh hy sinh. Quanh anh, mấy tên lính Ngụy dãy dụa trong vũng máu. Có vẻ như phát hiện ra chính Nhạc là người điểm hỏa trái mìn định hướng, là tay súng đã bắn quyết liệt vào các đợt xung phong, đám lính Ngụy dùng lưỡi lê đâm nát thi thể của anh cho hả dạ. Nhận thấy địch đang tràn vào điểm đầu của trận địa, Duy dẫn một tổ cơ động theo giao thông hào, dùng B40, AK và lựu đạn kiên quyết đẩy lui địch. Lẽ ra, trước áp lực tiến công của cả tiểu đoàn địch thì một tiểu đội khó mà đẩy lui địch khỏi trận địa. Vậy mà Duy chợt nhận ra, địch chống lại một cách yếu ớt, rồi bỏ chạy. Khi trời tối, những cuộc tiến công thưa dần. Đến nửa đêm thì trận địa hoàn toàn yên tĩnh. Duy đến từng chốt kiểm tra lại vũ khí và động viên anh em. Một ngày chiến đấu ác liệt, hai người hy sinh, bốn bị thương, đạn dược đã hao hụt đáng kể. Liên lạc với tiểu đoàn bị mất, nhưng trận địa vẫn được giữ vững. Rồi ngày mai cuộc chiến đấu sẽ ra sao đây?
Sáng ngày 18 tháng 3. Trong màn sương mờ, Duy phát hiện một tốp từ phía cao điểm 723 xuống. Không phải là sắc áo lính Sài Gòn, mà là những chiếc mũ tai bèo. Vậy họ là ai? Duy ra lệnh mọi người sẵn sàng, rồi hô lớn: Các anh là ai? Một giọng Bắc đáp lại: Chúng tôi là trinh sát của sư đoàn 2. Địch ở 723 đã bị tiêu diệt. Cả trung đội reo hò, nhảy lên ôm lấy các chiến sỹ sư 2. Vậy là họ, những chiến sỹ Đường ống đã hoàn thành nhiệm vụ. Khi trời sáng rõ, một khung cảnh kỳ lạ hiện ra trước mắt họ. Cánh rừng le xung quanh trận địa kéo dài xuống tận chân núi xác xơ, đổ rạp, như có một đàn bò khổng lồ vừa càn qua. Theo các trinh sát sư 2 cho biết, 10 giờ 30 phút ngày 17-3, sở chỉ huy trung đoàn 1 bị tiêu diệt, đại tá trung đoàn trưởng đã bị bắn chết từ trước đó. Hàng ngàn quân Ngụy Sài Gòn tháo chạy tán loạn, bị quân của sư 2 truy đuổi từ phía sau, lại bị chốt của tiểu đoàn 96 Đường ống chặn lại, khiến chúng hoàn toàn mất tinh thần. Chắc hẳn hàng ngàn người hoảng loạn, mạnh ai nấy chạy, không cần đường mà cứ càn bừa qua rừng le để tháo thân. Mũ sắt, mũ vải, cả súng ống vương vãi khắp nơi.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Cũng ngày hôm đó, 18 tháng 3, sau một tuần bị tiến công dồn dập và mãnh liệt bởi các Trung đoàn 36 (Sư đoàn 308), 64 (Sư đoàn 320), 66 (Sư đoàn 304) cùng các đơn vị hỏa lực xe tăng, pháo binh, pháo cao xạ của Quân giải phóng, tập đoàn cứ điểm Bản Đông do 1 lữ đoàn dù và 2 thiết đoàn đóng giữ, đã tan tành. Quân lực Việt Nam Cộng hòa bắt đầu rút khỏi Bản Đông. Cuộc rút quân nhanh chóng biến thành một sự thảm bại hỗn loạn. Những giờ phút bi thảm nhất của đạo quân chủ lực tinh nhuệ, thực hiện cuộc hành quân Lam Sơn - 719 đã diễn ra. Chính khi đại quân hốt hoảng rút khỏi Bản Đông, Trung đoàn 2 thuộc sư đoàn Bộ binh 1 của quân đội Sài Gòn đã bị vây chặt ở cao điểm 660, và ngày 21 tháng 3 thì bị xóa sổ. Không còn đâu cảnh oai hùng, rầm rập như khi tràn qua biên giới như thác lũ. Giờ quân đội Sài Gòn đã thành những nhóm quân thảm bại, xơ xác, vứt bỏ vũ khí, chui nhủi trong rừng, tìm cách chạy về biên giới. Những chiếc trực thăng vội vàng bốc các sở chỉ huy đang náo loạn, bay về phía đông. Trong cơn hoảng loạn, một số người đã liều mạng bám vào càng trực thăng mong thoát khỏi tử địa.
. Mấy ngày nay, tin chiến thắng ở Đường 9 - Nam Lào choán gần hết các chương trình thời sự. Các đơn vị quân Giải phóng liên tục cơ động chặn đường rút của địch. Tình hình khẩn trương đến mức Quân ủy Trung ương phải truyền chủ trương tác chiến qua làn sóng phát thanh: Bộ Tư lệnh Chiến dịch kêu gọi quân và dân Nam Lào kiên quyết chặn đường rút lui của địch, đồng thời tổ chức lùng sục, không cho địch luồn rừng chạy thoát. Lúc này, không chỉ các đơn vị bộ binh chủ lực, mà các lực lượng của Đoàn 559 cũng được lệnh tham gia chặn đường rút của các tốp tàn quân đich, bắt tù binh. Trung đoàn trưởng 952 chỉ hị cho Tiểu đoàn 96 và các đơn vị có liên quan đón lõng các đường mòn, bắt sống tù binh, nhưng không được sao nhãng nhiệm vụ giữ bí mật, bảo vệ tuyến ống, kho xăng và trạm bơm.
Trên thực tế thì các tốp tàn quân địch không chỉ đi theo các lối mòn, mà chúng cứ tắt rừng, nhằm hướng đông mà chạy. Không biết đường, nhiều tốp địch lạc vào vị trí đóng quân, kho tàng của bộ đội ta. Lực lượng chốt bảo vệ trạm bơm B6 phát hiện một tốp địch chạy từ cao điểm 660 xuống, mắc lại ở vách đá dựng đứng. Đại đội trưởng Thọ cử hai tiểu đội bọc từ hai bên sườn. Thoáng thấy bộ đội ta, toán lính địch vội vang vứt vũ khí, giơ tay lên trời: Đừng giết chúng em. Chúng em xin hàng. Tiểu đội trưởng Toàn phát hiện ra tên lính vừa vứt khẩu M79 xuống đất, anh chĩa khẩu AK về phía hắn. Thọ kịp nhảy tới, gạt nòng súng. Những viên đạn căng, bắn vào vách đá tóe lửa.
- Toàn, mày làm gì vậy, chúng nó đã là tù binh rồi- Thọ giận dữ.
- Phải giết nó trả thù cho anh em mình. Anh Thông, anh Hoàng và nhiều người nữa đã hy sinh vì bọn này đấy- Thọ nhận ra khuôn mặt uất ức đến bầm tím của Toàn. Còn tên lính thì đang đứng run cầm cập.
- Thôi, bỏ đi- Thọ nói lớn với anh em - Giờ chúng nó hạ vũ khí rồi, không ai được manh động vi phạm chính sách tù binh.- Rồi anh quay sang đám tù binh- Đại quân của các anh đã hoàn toàn tan rã rồi. Các anh phải theo lệnh chúng tôi. Bất cứ hành động nào định làm phản, sẽ bị trừng trị. Các anh hiểu chưa?
Đám tù binh dạ ran và ngoan ngoãn tuân theo các mệnh lệnh của Thọ.
Trên Đường 9, đoạn từ Bản Đông về Lao Bảo, hơn 100 xe tăng, xe thiết giáp của quân đội Sài Gòn bị chặn đánh. Lực lượng tăng thiết giáp này đã mất 60% số xe tăng và một nửa số xe bọc thép, bỏ lại 54 khẩu lựu pháo 105mm và 28 khẩu 155mm. Máy bay Mỹ lại phải cố sức phá hủy số xe pháo này để tránh bị đối phương chiếm và tái sử dụng. Nhiệm vụ bọc hậu trên Đường 9 trước được giao cho Sư đoàn Dù, nay thuộc về Lữ đoàn 1 Thiết giáp. Khi biết tin trước mặt có 2 trung đoàn quân giải phóng đang mai phục, chỉ huy lữ đoàn, Đại tá Nguyễn Trọng Luật đã lệnh cho đội hình bỏ đường chính khi chỉ còn cách biên giới 5km, để đi vào đường mòn trong rừng. Ngờ đâu , con đường mòn lại dẫn đến ngõ cụt bên bờ dốc của sông Xê-pôn,. Đội hình bị tắc lại ở đây, bị quân Giải phóng áp sát và tấn công dữ dội từ phía sau. Cuối cùng, máy bay trực thăng phải liều mạng vượt qua lưới lửa từ mặt đất, cẩu hai xe ủi vào để tạo một đoạn sông cạn cho những người lính thoát thân. Đến ngày 25 tháng 3, bốn mươi lăm ngày kể từ khi bắt đầu chiến dịch, lực lượng còn sống sót của quân đội Sài Gòn mới về được đến Việt Nam. Lúc này, đến lượt căn cứ yểm trợ tại Khe Sanh bị tấn công ngày càng mạnh bởi pháo và đặc công. Trước áp lực đó, toàn bộ lực lượng của Mỹ và quân đội Sài Gòn đã rút hết. Chiến dịch Lam Sơn 719 kết thúc.
Đăng Tùng từ Sở chỉ huy Tiền phương đi dọc theo tuyến ống, trở về Trung đoàn bộ. Quang cảnh những ngày chiến đấu ác liệt của chiến dịch Đường 9-Nam Lào, hay chiến dịch Lam Sơn 719 như cách gọi của địch, vẫn còn nguyên đó trên dọc tuyến đường ống của Trung đoàn và các nẻo đường mòn, góc rừng trong khu vực tác chiến: Những cánh rừng le ngã rạp bởi hàng ngàn người thuộc các sắc lính Sài gòn tháo chạy, quân trang, quân dụng bị ném lại ngổn ngang; các công sự chiến đấu của bộ đội ta, Trạm bơm B7 gần như được chôn trong đất, các van trên tuyến cũng được đắp đất, ngụy trang cẩn thận… Vẫn tuyến đường ống của Trung đoàn đây, vẫn những gốc cây, mỏm đá quen thuộc, vẫn bầu trời xanh ngắt với tiếng gầm rít không ngớt của máy bay, mà sao hôm nay Đăng Tùng cảm thấy lòng lâng lâng khó tả. Khắp các đơn vị trên tuyến vận tải chiến lược, đâu đâu cũng nức lòng. Đài Tiếng nói Việt Nam liên tục đưa tin: Chiến dịch Đường 9-Nam Lào đã toàn thắng sau 45 ngày chiến đấu ác liệt. Ta đã diệt 2 lữ đoàn (lữ đoàn dù 3 và lữ đoàn 147 thủy quân lục chiến), 1 trung đoàn bộ binh (trung đoàn 1 Sư l) và 5 tiểu đoàn khác, 4 thiết đoàn , 8 tiểu đoàn pháo, đánh thiệt hại nặng Sư đoàn dù, Sư đoàn 1 bộ binh, Sư đoàn thủy quân lục chiến, bắn rơi và phá hủy 556 máy bay (có 505 máy bay trực thăng), 43 tàu, xà lan, 1.138 xe quân sự (có 528 xe tăng và xe bọc thép), 112 khẩu pháo và súng cối cỡ lớn.. Khoảng một nửa lực lượng vượt biên giới của địch đã bị thương vong. Lực lượng tinh nhuệ Biệt động quân và lính dù, những đơn vị dự bị chiến lược tốt nhất của Quân đội Việt Nam Cộng hòa, đã bị thiệt hại nặng. Đây là một đòn nặng nề dáng vào Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. Bốn mươi lăm ngày qua, Trung đoàn 952 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao. Ngay cả khi địch đổ quân, xăng vẫn chảy trong ống để vào đầy kho Q6 và Q7. Trong suốt chiến dịch, 10.800m3 xăng đã được vận hành bảo đảm cho vận tải và tác chiến. Tuyến ống, kho, trạm bơm được bảo vệ. Các đơn vị nằm trong khu vực tác chiến đều tham gia chiến đấu, tiêu diệt được 135 tên địch. Riêng Tiểu đoàn 96, sau bốn mươi hai ngày đêm bảo vệ tuyến và chiến đấu, đã tiêu diệt 107 tên địch, bắt sống 26 tù binh, thu 62 súng các loại cùng nhiều quân trang quân dụng của địch, được Sư đoàn 2 biểu dương về tinh thần đoàn kết hiệp đồng chiến đấu. Trèo lên một mỏm đá cạnh tuyến vượt qua yên ngựa, Đăng Tùng nhìn lên hai cao điểm 660 và 723, nơi chỉ cách đây mấy ngày đã xẩy ra những trận đánh đẫm máu. Rồi ông phóng tầm mắt nhìn về phía đông, con đường số 9 thấp thoáng leo qua các con dốc. Ông bỗng cảm thấy vinh dự khi được tham gia chiến dịch vĩ đại này. Mùa khô đầu tiên của Trung đoàn 952 thật là một mùa khô đáng nhớ. Ông bẻ mấy cành hoa đặt lên mộ Nhạc và các liệt sỹ đã hy sinh. Họ nằm đây, bên cạnh mộ của những người lính Sư đoàn 2, những người lính từ chiến trường Khu 5 ra đây, đã ngã xuống để bảo vệ cho tuyến vận tải chiến lược từ hậu phương ra tiền tuyến.

Ngọc tần ngần cầm bức điện cơ yếu. Trung đoàn trưởng Lê Trọng gọi anh ra Hà Nội công tác. Vậy là anh lại sắp được về thăm lại Hà Nội. Tính từ khi nhập ngũ, đã hơn ba năm. Tính từ khi vượt đèo 700 làm tuyến Hướng Đông, anh đã nếm trải bao gian truân trên đất Lào hai năm có lẻ. Mùa khô 1970-1971 đã trôi qua biết bao thử thách. Những cuộc vật lộn với bom đạn địch ở Pha Bang, Những lúc Trung đoàn lo lắng đến nghẹt thở vì trạm bơm B4 bị đánh cháy, rồi chiến dịch Đường 9-Nam Lào. Cũng đáng được trở về thăm nhà lắm chứ. Ba năm qua, không hiểu cha mẹ ra sao, các em đã lớn bằng nào rồi. Từ ngoài ấy vào đây thư từ thất thường quá. Có dạo, nửa năm không nhận được một lá thư nhà. Ngược lại, có lần chẳng hiểu sao, anh lại nhận được một phong bì, trong đó có
thư của hầu hết mọi người trong nhà. Bỗng nhiên, Ngọc thấy nhớ nhà đến cồn cào.

Thật may mắn, Văn Ngũ từ Bộ Tư lệnh xuống Trung đoàn nắm tình hình, cùng ra, nên Ngọc có bạn đường. Trên Trường Sơn này, tối kỵ đi công tác một mình, vì nếu gặp bất trắc thì không có ai hỗ trợ. Ngọc và văn Ngũ đã quen nhau từ tuyến Hướng Tây, nhưng lần này, cùng đi với nhau hai ngày đường, họ đã có với nhau bao điều tâm sự. Ngũ quê Hà nội. Giọng nói oang oang, nhưng anh là con người sâu sắc, nội tâm. Qua những câu chuyện của anh, Ngọc hiểu thêm về những chặng đường khó khăn của ngành xăng dầu quân đội. Ngọc cũng hiểu ra rằng đường ống là một kỳ tích vĩ đại tạo nên hình ảnh của bộ đội xăng dầu. Nhưng để họ hoàn thành được tận cùng nhiệm vụ của mình, thì đừng bao giờ quên hàng ngàn trợ lý, nhân viên xăng dầu ở các cấp. Nếu đường ống là động mạch chủ thì họ thực hiện chức năng của các mạch nhánh, các mao mạch cấp xăng đến từng tế bào là các đơn vị, các phương tiện vận chuyển, các khí tài chiến đấu. Ngũ kể rằng hôm nghe tin Bác mất, anh xúc động lắm, không sao kìm được nước mắt. Ngũ rút trong túi áo ngực ra một tấm hình Bác Hồ. Mặt sau là bài thơ ngắn của anh vào giây phút đó. Một bài thơ tuy không hoa mỹ, nhưng thật chân thành và cảm động.

Tháng bảy, đường 18 vốn đã bị bom cày xới, nay những trận mưa rừng xối xả như những cú đánh bồi hiểm ác băm nát, xẻ thành những con hào sâu hoắm cắt ngang cắt dọc. Xe hầu như ngừng chạy. Những trận đánh phá trên đường vì thế mà giảm đi đáng kể. Mặc dù vậy, chiếc tầu càng vẫn cần mẫn vo ve trên trời. Đến gần biên giới, Ngọc và Ngũ quyết định tách khỏi tuyến ống, đi dọc theo đường ô tô. Họ muốn tận mắt thấy trọng điểm gần biên giới như thế nào. Vẫn là một vùng đất bị cày xới, cây đại ngàn chỉ còn dấu vết là những gốc trơ trọi, bị chém ngang, hoặc bị quật lên, chĩa chùm rễ cháy đen khắc khổ lên bầu trời đầy mây ảm đạm. Những khúc cây bị bom chặt chém vụn hết đợt này sang đợt khác, đã trôi theo dòng nước, dồn lại phía ta luy âm thành từng đống cao như cồn lớn. Những khối đá trong muà khô còn gá lên lớp đất bom, nay mưa đã xói tung lớp đất ấy, khiến chúng lăn xuống, nằm ngổn ngang trên mặt đường. Mặc dù vậy, đi trên đường ô tô vẫn có cái thú riêng của nó: Đường lớn, ít dốc. Qua mấy tháng mưa, những cành xanh đã bật ra từ những gốc cây bị chém. Những cây dại đã mọc rải rác trên đường, khi cần có thể trú tạm để tránh con mắt cú vọ của bọn Tàu càng.
Mọi việc tưởng chừng yên ổn. Bỗng một tiếng ghê rợn rít qua đầu. Một chùm tiếng nổ rung chuyển, dựng trước mặt họ những cây nấm khổng lồ. Hai người lăn xuống cái hào do mưa xói. Đất đá rào rào rơi quanh họ. Đó là một loạt bom tọa độ. Không phải họ bị phát hiện, nhưng nó đủ nói lên rằng mùa mưa đi trên đoạn đường này vẫn phải đề cao cảnh giác. Dứt loạt bom, họ tiếp tục đi, nhưng từ đây, họ đi nhanh hơn, cảnh giác hơn.
Quá trưa, họ lên đến đỉnh đèo 700. Đứng trên mỏm đá, có thể nhìn thấy phía tây trời u ám. Trọng điểm đèo 700 đỏ quạch, xác xơ, những rãnh hào mưa xói chằng chịt trên vách ta luy. Ngược lại, phía đông trời đầy nắng, con đường ô tô uốn lượn giữa đại ngàn. Xin tạm biệt miền đất mà cái chết luôn rình rập. Tổ quốc đây rồi. Đã hơn hai năm, bây giờ mới lại được đặt chân lên mảnh đất của người. Ngọc thấy trong lòng lâng lâng khó tả. Anh nói với Ngũ:
- Xin phép anh, cho tôi bắn mấy phát súng mừng chúng ta lại trở về tổ quốc.
- Đáng lắm chứ- Ngũ đồng tình.
Ngọc rút khẩu súng ngắn chĩa lên trời- Đoàng! Đoàng! Đoàng!
Thật bõ những ngày mỗi nhành cây viên đá đều là đất khách, bõ những ngày đội bom đội đạn. Ngọc hét lên:
- Xin chào tổ quốc. Ba phát súng này không phải là báo thương vong đâu nhé. Đây là tiếng súng của những người trở về đấy!
Văn Ngũ cũng cười lớn:
- Chúng tôi đã về!- Tiếng của anh sang sảng vọng vào vách núi. Bỗng nhiên, như trở lại thời trai trẻ, anh bước đi, vung tay và hát theo nhịp quân hành:
Sống chiến đâu mà không nề gian khổ
Chết huy hoàng mà không khuất phục ai
Anh hãy nghe tiếng súng ầm vang nổ
Và vững lòng tin chắc ở ngày mai
Bây giờ thì đàng hoàng đi trên đường ô tô mà không sợ bất kỳ hiểm họa gì. Trời đã chớm thu, nhưng nắng còn chói chang. Hai người rảo bước, lòng ai cũng vui như trẩy hội. Đang đi, họ gặp một chú bé chừng mười tuổi đi ngược chiều:
- Cháu chào chú bộ đội!
Câu chào giản dị ấy khiến Ngọc sững người. Có cái gì nghèn nghẹn nơi cổ họng. Không hiểu sao Ngọc thấy mắt cay sè. Hơn hai năm rồi, chưa được nghe một đứa trẻ nói chuyện bằng tiếng Việt. Thằng bé giống em mình quá. Tóc nó cũng hoe hoe, khóe miệng cười tươi và đôi mắt thật trong trẻo. Ngọc ngồi xuống ôm lấy đứa bé:
- Nhà em ở đâu?
- Nhà em đằng kia- Nó chỉ về phía chân dốc.
Ngọc lục ba lô, lấy một gói lương khô đưa cho nó: Anh cho em. Thằng bé cảm ơn, rồi tung tăng đi tiếp. Bây giờ Ngọc mới nhận ra sự thèm khát của những người lính chiến đấu nơi đất khách: thèm được nghe tiếng Việt của lũ trẻ, thèm nhìn thấy lũy tre và những nếp nhà đơn sơ, thèm nghe tiếng trẻ khóc oa oa và tiếng ru ầu ơ của mẹ.


Ngọc vừa về đến cổng khu tập thể, mấy đứa trẻ phát hiện ra anh, chúng nó chạy ào lên phía trước, hét toáng lên: Bác Khang ơi, anh Ngọc đã về. Mẹ anh chạy ra, vừa đỡ ba lô cho anh, vừa mếu máo:
- Con đã về thật đây rồi.
- Sao mẹ lại khóc? Con về thật dây mà.
Mấy đứa em quây lấy Ngọc tíu tít hỏi chuyện. Còn mẹ thì cứ tần ngần nhìn anh: - Mặt mũi con sao thế này?
- Con bị bỏng, nhẹ thôi mà mẹ.
Nói vậy, nhưng lúc này Ngọc mới nhìn lại mình. Những vết bỏng vẫn còn để lại những mảng da trăng trắng mờ mờ trên môi, trên má và hai cánh tay. Bàn chân, nơi bỏng sâu nhất, vết sẹo đã có một lớp da mới, nhưng nó trắng ởn trông chẳng đẹp chút nào. Mẹ cứ sờ lên những chỗ trăng trắng trên da, xuýt xoa: Tội nghiệp con. Mấy ngày con ở nhà, muốn ăn gì, cứ nói với mẹ. Ngọc biết mẹ thương anh mà nói vậy thôi. Cả nhà trông vào lương bố. Tiếng là cán bộ cao cấp, nhưng còn phải nuôi năm đứa con thì chẳng nhiều nhặn gì.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top