[Funland] Góc Khuất Của Chiến Tranh

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,851
Động cơ
363,759 Mã lực
Hình như có chút nhầm lẫn nhỏ Cụ ơi.
Nhà cháu đọc ở thớt về cụ Hoàng Đan, mt Vị Xuyên thì cuộc không vận thứ 3 là đưa Quân đoàn 2 chứ không phải QĐ 3.
Hơn nữa cháu nhập lính QĐ 3 ngay sau khi QĐ di chuyển từ Căm về TN, chỉ thấy lính cũ nói di chuyển bằng tàu hỏa và oto thôi.
Sơ suất cũng nhỏ thôi nhưng để Cụ chủ điều chỉnh (nếu có) cho ch xác với l sử.
Thớt rất hay, xin cảm ơn Cụ chủ và mong thêm nhiều th tin lần đầu công bố bổ ích.
Đúng như bạ góp ý, quân đoàn 2 được không vận, chứ không phải quân đoàn 3.
Cảm ơn bạn đã nhận ra sai sót trong quá trình biên tập nhé ~o)
 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,851
Động cơ
363,759 Mã lực
Cảm ơn cụ rất nhiều vì những dòng lịch sử mà bọn e chưa từng đọc thấy ở sử sách, cảm ơn những người lính TT đã hi sinh vì tình hữu nghĩ, vì hòa bình VN, đó là lý do đến giờ VN vẫn trân quý và giúp đỡ TT rất nhiều
Cảm ơn bạn đã đọc tư liệu nhé ~o)
 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,851
Động cơ
363,759 Mã lực
(GÓC KHUẤT CHIẾN TRANH
Thớt 2:
Câu chuyện về 02 Trung đoàn không quân Liên Xô ở Việt Nam, thời kỳ 1959 – 1964
A/ KHÔNG QUÂN TRỰC THĂNG LIÊN XÔ TRÊN BẦU TRỜI VIỆT NAM)


Tút 9


Tùy viên quân sự - tướng Antipov cầm một chiếc hộp bước vào phòng, ông đặt nó trên bàn rồi mở ra. Đó là bản đồ địa hình khu vực nơi chúng tôi sắp phải làm việc.

Tùy viên quân sự bắt đầu tư vấn cho chúng tôi về cách thực hiện nhiệm vụ. Hành trình bay dẫn về phía nam nước VNDCCH, đến điểm dân cư Đồng Hới. Tại đó có một sân bay mà máy bay An-2 và Li-2 có thể hạ cánh. Đó sẽ là sân đậu cơ bản của chúng tôi, nơi chúng tôi có thể tiếp dầu cho trực thăng. Chúng tôi sẽ được bố trí ăn ở ngủ nghỉ tại thị trấn Đồng Hới.

Tiếp theo viên tướng cầm lấy bản đồ địa hình giải thích cho biết đường giới tuyến (biên giới giữa Bắc và Nam Việt Nam) đi qua chỗ nào, sau đó ông chỉ trên bản đồ nơi đóng đồn biên phòng Bắc Việt Nam.

Tại đó, trong khu vực đồn biên phòng sẽ có các cờ hiệu đánh dấu hai sân đáp. Một do chúng tôi chọn, thuộc quyền xử lý của chúng tôi. Các sân đáp trên bản đồ địa hình được ghi chú bằng tiếng Nga, bởi vì bản đồ là sản phẩm của Liên Xô. Mặt sau bản đồ có dấu đóng "Mật. Bộ Tổng tham mưu Quân đội Xô Viết".

Người ta khuyến cáo chúng tôi đặt hành trình bay từ Đồng Hới đến đồn biên phòng.

Chúng tôi ngồi làm công tác chuẩn bị cho chuyến bay. Chúng tôi sắp xếp hành trình bay đến Đồng Hới, tính toán hướng, khoảng cách, thời gian bay.

Với mỗi trường hợp chúng tôi đều tính toán khoảng cách, hướng từ trường và thời gian bay đến đồn biên phòng. Các dữ liệu tính toán bằng con số được chúng tôi ghi riêng một chỗ lên bản đồ bay.

Sau đó chúng tôi bắt đầu nghiên cứu địa hình cục bộ trên bản đồ đoạn từ Đồng Hới đến đồn biên phòng và đặc biệt là địa hình khu vực sân đáp. Chúng tôi cố gắng ghi nhớ trực quan mọi thứ thật chính xác.

Khi chúng tôi báo cáo đã sẵn sàng, viên tướng cuộn bản đồ vào tấm giấy mang đi. Đại sứ tạm rời công việc của mình, quay sang dặn dò chúng tôi một cách ngắn gọn. Đặc biệt tôi nhớ lời ông nói:

- Chưa hoàn thành nhiệm vụ thì đừng có về!


Note về sân bay Đồng Hới (theo gú gồ):

Trong thời kỳ Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ, người Pháp đã xây dựng một sân bay có đường băng bằng đất. Trong thời kỳ 1930 - 1954,, không quân thực dân Pháp sử dụng sân bay này để tấn công quân Việt Minh ở khu vực Bắc Trung Bộ và bắn phá Nam Lào. Sân bay thời kỳ này có đường cất hạ cánh bằng đất 1800 m x 30 m.

Trong thời kỳ 1960 - 1975, quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng sân bay này (đường băng gác ghi) để trung chuyển vũ khí, đạn dược, quân nhân vào chiến trường miền Nam.

Sân bay này cũng là nơi máy bay chở chủ tịch Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh hạ cánh để thực hiện chuyến thăm điểm cực nam trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Hồ Chí Minh đã đến sân bay này vào lúc 8h30 sáng ngày 16 tháng 6 năm 1957, máy bay chở ông đã cất cánh vào lúc 5h chiều ngày 17 tháng 6 năm 1957.

Năm 1972, thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó là Phạm Văn Đồng và chủ tịch Cuba lúc đó là Fidel Castro đã bay từ Hà Nội vào sân bay này để đi bằng đường bộ vào thăm Quảng Trị vừa được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chiếm được từ Việt Nam Cộng hòa.

Sau 1975, sân bay này được sử dụng cho trực thăng quân đội và cứu hộ thiên tai nhưng không thường xuyên và gần như bỏ hoang.

Sân bay Đồng Hới đã được khởi công xây dựng lại vào ngày 30 tháng 8 năm 2006 và đã hoàn thành và đưa vào sử dụng vào ngày 18 tháng 5 năm 2008 tại Lộc Ninh, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, Việt Nam.

++++ Hình minh hoạ sân bay Đồng Hới ngày nay:


-Một chiếc ART 72 đang lăn bánh trên sân bay Đồng Hới



DHAirport2.jpg



-Nhà ga sân bay Đồng Hới

DHAirport3.jpg
 

st101814

Xe điện
{Kinh doanh chuyên nghiệp}
Biển số
OF-108426
Ngày cấp bằng
10/8/11
Số km
3,715
Động cơ
441,366 Mã lực
Nơi ở
Canada - Viêt Nam
Nghe mấy bác phi công hồi đó kể lại thì họ máy móc hơn ta, không chỉ mỗi phong cách chỉ huy, mà ở cả hành động của từng phi công.
Như anh hùng phi công Nguyễn Văn Bảy (Bảy A). Được đi học phi công mới phi mấy tháng qua mấy lớp phổ thông. Bị bắn thủng kính buồn lái, thò tay bịt bị hút chặt mới thốt lên "À, thì ra Béc nu li nó như thế này!". Nhưng ông bắn rơi 7 máy bay Mỹ và chưa bao giờ phải nhảy dù!
Em học vật lý cũng dốt nhưng em nghĩ làm gì có chuyện thủng kính buồng lái mà lấy tay bịt được, chắc là lều báo lại thêm mắm thêm muối vào. Khi mới ra trận máy bay cụ trúng tên lửa tơi tả là có thật, việc cụ hạ cánh được và sống sót là may mắn của cụ.

Cụ Bẩy là một huyền thoại được người Mỹ công nhận (người Mỹ thực dụng luôn trân trọng những người xuất săc, kể cả kẻ thù của họ). Nói đúng thì "nghề" phi công chiến đấu chọn cụ. Nên nhớ ban đầu cụ học chưa hết cấp 1, thế mà khi đi học ở Liên Xô trở về trở thành phi công Ace. Trên thế giới phi công Ace thì nhiều nhưng xuất thân bình dị như cụ Bẩy thì đảm bảo không có ai.

Cụ Bẩy nói với người Mỹ, máy bay của các ông bay nhanh hơn, vì thế chúng tôi phải làm chúng bay vòng, khi máy bay phải bay vòng thì tốc độ không còn là vấn đề nữa và chúng tôi sẽ bắn theo kiểu "đón lõng" để đạt hiệu quả cao. Vũ khí thì không bằng họ nhưng hiệu quả chiến đấu ngang ngửa thật đáng ngưỡng mộ.
 

Tuankhoi001

Xe tải
Biển số
OF-816773
Ngày cấp bằng
31/7/22
Số km
485
Động cơ
11,115 Mã lực
Em học vật lý cũng dốt nhưng em nghĩ làm gì có chuyện thủng kính buồng lái mà lấy tay bịt được, chắc là lều báo lại thêm mắm thêm muối vào. Khi mới ra trận máy bay cụ trúng tên lửa tơi tả là có thật, việc cụ hạ cánh được và sống sót là may mắn của cụ.

Cụ Bẩy là một huyền thoại được người Mỹ công nhận (người Mỹ thực dụng luôn trân trọng những người xuất săc, kể cả kẻ thù của họ). Nói đúng thì "nghề" phi công chiến đấu chọn cụ. Nên nhớ ban đầu cụ học chưa hết cấp 1, thế mà khi đi học ở Liên Xô trở về trở thành phi công Ace. Trên thế giới phi công Ace thì nhiều nhưng xuất thân bình dị như cụ Bẩy thì đảm bảo không có ai.

Cụ Bẩy nói với người Mỹ, máy bay của các ông bay nhanh hơn, vì thế chúng tôi phải làm chúng bay vòng, khi máy bay phải bay vòng thì tốc độ không còn là vấn đề nữa và chúng tôi sẽ bắn theo kiểu "đón lõng" để đạt hiệu quả cao. Vũ khí thì không bằng họ nhưng hiệu quả chiến đấu ngang ngửa thật đáng ngưỡng mộ.
Chuyện cụ Bảy thấy kính thủng thò tay định bịt được kể lại khá nhiều lần. Đầu tiên em được đọc là từ bài ký của nhà văn Anh Đức.
 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,851
Động cơ
363,759 Mã lực
(GÓC KHUẤT CHIẾN TRANH
Thớt 2:
Câu chuyện về 02 Trung đoàn không quân Liên Xô ở Việt Nam, thời kỳ 1959 – 1964
A/ KHÔNG QUÂN TRỰC THĂNG LIÊN XÔ TRÊN BẦU TRỜI VIỆT NAM)


Tút 10


Ra khỏi phòng ngài đại sứ chúng tôi vừa phân vân vừa đói.

Chúng tôi quyết định ăn trưa tại nhà ăn sứ quán. Tìm thấy chỗ nhà ăn, chúng tôi đi vào chiếm lấy một bàn nhỏ. Chúng tôi đọc thực đơn mà phát cuồng. Có đủ thứ để vui mừng:

-món khai vị - cá trích với xà lách dầu dấm,

-món chính thứ nhất - xúp mì sợi, bắp cải (!),

-thứ hai - sườn nướng kiểu Hy lạp,

-thứ ba - nước táo.


Một nữ tiếp viên đi tới thông báo giờ ăn trưa đã hết, cô lấy thực đơn đi nhưng hứa còn gì sẽ mang ra. Chúng tôi gọi với theo:

- Này cô gái! Hãy cho cá trích và bắp cải và nhất định phải có bánh mì!

Thật may cho chúng tôi, cô gái mang ra đúng những thứ chúng tôi yêu cầu (đúng là tiếng kêu của tâm hồn như ta vẫn nói!).

Bởi lẽ đã ba tháng chúng tôi chưa được ăn bánh mì và bắp cải, không có một thứ gì mà chúng tôi đã quen dùng ở Tổ quốc.

Chúng tôi phải ăn cơm thay cho bánh mì, thịt gà và suốt ngày xơi chuối. :D :D :D (biều cảm của Baoleo)

Tất cả những thứ cô tiếp viên mang ra chúng tôi đều chén vô cùng ngon miệng và thích thú! Bữa ăn đơn giản này chúng tôi nhớ mãi suốt đời, trong khi đó ít có buổi tiệc nào còn được nhớ đến.

Trở về từ sứ quán chúng tôi ra sân bay. Người ta không ấn định thời gian cất cánh như lần trước. Thời gian biểu trong ngày chúng tôi thiết lập cho chính mình: ăn sáng, kỹ thuật viên ra trực thăng, tôi và Naghibovitch đến SCH, phân tích tình hình trên không, dự đoán thời tiết, nhận biết các tín hiệu vô tuyến.

Như tôi đã nói, lúc này rìa mây thấp đã hết, bắt đầu đến mùa mưa nhiệt đới. Sau khi nhận tất cả những số liệu bay cần thiết, chúng tôi ra trực thăng và chờ đợi. Cứ như vậy hai hoặc ba ngày.

Rồi một buổi ngày có 3 chiếc xe ô tô đi đến gần trực thăng. Trong hai chiếc thứ nhất có 6 người, có lẽ là lãnh đạo. Trong chiếc thứ ba - một minibus - người ta chở hàng đến: 4 hòm to và khá nặng. Người ta chuyển các hòm lên trực thăng. Một trong những người vừa đến giới thiệu bằng tiếng Nga anh ta là phiên dịch của tôi. Tôi nói với phiên dịch mình đã biết hành trình bay, kíp lái sẵn sàng bay.

Khi kỹ thuật viên hàng không báo cáo hành khách đã ngồi vào chỗ, tôi khởi động động cơ rồi thực hiện cất cánh. Trực thăng bay dọc theo đường bờ biển tiến về phía Nam. Thời tiết tốt, ba giờ sau chúng tôi đã hạ cánh xuống sân bay Đồng Hới. Lúc này là nửa sau của ngày.

Trong khi tiếp dầu và kiểm tra sau chuyến bay thì trời sập tối. Bay đến đồn biên phòng bây giờ là vô nghĩa. Chuyến bay để sang ngày mai.
 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,851
Động cơ
363,759 Mã lực
(GÓC KHUẤT CHIẾN TRANH
Thớt 2:
Câu chuyện về 02 Trung đoàn không quân Liên Xô ở Việt Nam, thời kỳ 1959 – 1964
A/ KHÔNG QUÂN TRỰC THĂNG LIÊN XÔ TRÊN BẦU TRỜI VIỆT NAM)



Tút 11


Tôi cùng kíp lái rời sân bay bằng chuyến xe minibus thứ hai, về nơi người ta đã chuẩn bị bữa tối cho mọi người. Khi chúng tôi vào phòng thì nhìn thấy toàn bộ đoàn đại biểu. Họ ngồi sau chiếc bàn dài. Bên phải bàn còn trống. Phiên dịch viên nói chúng tôi hãy ngồi xuống chỗ trống còn anh ta ngồi xuống cạnh tôi.

Có thể thấy ai cũng có tâm trạng hào hứng vì công việc đã định bắt đầu trơn tru. Kíp lái chúng tôi không biết công việc đã định đó thực sự là gì và cũng chẳng muốn biết điều đó.

Trò chuyện với người phiên dịch, chúng tôi tò mò muốn biết anh ta đã học tiếng Nga ở đâu và như thế nào mà khá như vậy. Rất ngạc nhiên là anh ta nói không hề có giọng lơ lớ. Hóa ra anh ta đã tốt nghiệp Học viện Y khoa Kharkov và làm xong nghiên cứu sinh, đã bảo vệ luận án. Tôi nghĩ rằng bây giờ anh ta đang lãnh đạo một học viện của Việt Nam, nhưng anh nói rằng mình đang giữ cương vị Chủ nhiệm Quân Y QĐNDVN.

Tiếp theo trong quá trình nói chuyện mới biết rằng nhóm đại biểu này là các đại diện Chính phủ VNDCCH, BCT TUĐCSVN, Bộ Tổng Tham mưu QĐVN. Tôi hiểu đoàn đại biểu đó cao cấp đến thế nào.

Người ta đưa bữa tối đến, như thường lệ cơm với món phụ nào đó. Và người phiên dịch bỗng đùa:

- Chà! Bây giờ mà có một cốc vodka và đuôi cá trích!

Chúng tôi vui vẻ hưởng ứng câu đùa ấy. Chỉ có tôi phát biểu rằng uống vodka trong cái nóng nực thế này thì giống như tự sát. Giờ thì chúng tôi sẽ uống thứ có trên bàn: nước dừa non.

Ăn tối xong người ta chở chúng tôi về một ngôi nhà nhỏ để nghỉ đêm.

Ở đây có một phòng 3 giường có màn. Giường khá rộng có đệm rơm hay nhồi một loại cỏ nào đó. Gối cũng được độn cứng. Không khó khăn gì có thể hình dung chuyện gì xảy ra với chúng tôi nếu giường trải đệm lông chim hay đệm bông. Nhiệt độ nóng đến gần 40 độ, độ ẩm không khí đến 90%.

Trong ngôi nhà nhỏ mà cửa sổ là cửa cánh chớp thay cho kính ta cảm thấy sự chuyển động của không khí. Và tương đối mát. Cởi quần áo ngoài chỉ mặc mỗi quần cộc chúng tôi chui vào màn. Thật hạnh phúc biết bao khi cảm được hơi mát lạnh sau sự nóng nực ban ngày!
Hoàng hôn sậm lại, ve sầu ngoài cửa sổ cất tiếng ca "bài ca" của chúng! Giá mà ngủ được!

Tuy nhiên chuyến bay chưa biết sắp tới và việc đáp xuống các sân đậu, được đánh dấu trên bản đồ địa hình, làm tôi lo âu.

Thứ nhất, các sân đáp được chọn đều nằm trong thung lũng sâu có núi kề sát.

Thứ hai, xung quanh sân đáp có thể mọc các loại cây cối buộc tôi phải bay treo máy bay trên độ cao lớn. Khi nhiệt độ và độ ẩm không khí cao, có mang hàng và người trên trực thăng, việc treo như thế có nguy cơ dẫn đến hạ đột ngột xuống sân đậu mà không phải là hạ cánh.
Khả năng của Mi-4 tôi đã biết trước đây từ thực tế công việc của mình.


Nhớ lại những lời căn dăn của ngài đại sứ của chúng tôi ở Hà Nội: "Chưa hoàn thành nhiệm vụ đừng có trở về!" Trong những điều kiện như vậy không thê hoàn thành nhiệm vụ thì chớ trở về. Vì những suy nghĩ ấy mà sau nửa đêm tôi mới ngủ được.

Buổi sáng chúng tôi thức dậy sớm. Trong khi chờ xe ô tô chúng tôi thảo luận trình tự thực hiện nhiệm vụ. Trên bản đồ bay theo trí nhớ chúng tôi đánh dấu vị trí đồn biên phòng và các sân đáp, đặt hành trình bay, hướng từ trường, khoảng cách và thời gian bay đến đồn.

Chẳng mấy chốc ô tô buyt có mặt đón chúng tôi đi ăn sáng. Chúng tôi lại ăn một loại cơm gì đó, chẳng có vị gì. Uống trà, nước dừa, ăn chuối, khi đứng dậy chúng tôi còn cầm theo một nải chuối. Chúng tôi đi xe ra sân bay.
 

Tú Nguyễn HK

Xe hơi
Biển số
OF-536768
Ngày cấp bằng
12/10/17
Số km
101
Động cơ
167,472 Mã lực
Cảm ơn cụ đã chia sẻ những thông tin về lich sử rất chân thực. Em xin kính cụ một ly.
 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,851
Động cơ
363,759 Mã lực
(GÓC KHUẤT CHIẾN TRANH
Thớt 2:
Câu chuyện về 02 Trung đoàn không quân Liên Xô ở Việt Nam, thời kỳ 1959 – 1964
A/ KHÔNG QUÂN TRỰC THĂNG LIÊN XÔ TRÊN BẦU TRỜI VIỆT NAM)


Tút 12


Một người cảnh vệ vũ trang đứng cạnh trực thăng. Từ nhà ra rìa sân đỗ còn có một người mang vũ khí khác, có lẽ là để đốc gác. Cậu kỹ thuật viên hàng không đi đến chỗ anh ta, hươ tay trên đầu làm điệu bộ. "Tốt!" - người cắt gác nói và đi đến chỗ trực thăng.

Chúng tôi đi quanh trực thăng, kiểm tra dấu niêm trên cửa vào. "Tốt" - kỹ thuật viên hàng không nói với người đốc gác và giơ ngón tay cái ("tốt!") về phía anh ta. Người gác và người đốc gác đi khỏi. Chúng tôi đến cạnh trực thăng, kinh ngạc một cách đùa bỡn về việc cậu kỹ thuật viên hàng không học tiếng Việt lúc nào mà nhanh thế.

Sau khi chuẩn y trực thăng với việc khởi động động cơ, chúng tôi tiến hành kiểm tra xem xét cụ thể. Các hành khách đi tới. Tôi báo cáo kíp lái đã sẵn sàng bay và các vị khách đã có thể vào chỗ ngồi trong máy bay.

Trời không mây, không gió. Chúng tôi bắt đầu lấy hướng. Sau một lúc có vẻ chúng tôi đã đi đúng tuyến bay. Tất cả các ngọn đồi, sông suối, thung khe, toàn bộ các đỉnh núi bên trái và bên phải đường bay chúng tôi đều dễ dàng nhận ra. Qua đó chúng tôi xác định vị trí của mình. Bởi vậy điểm chung cuộc của hành trình - đồn biên phòng - chúng tôi tìm ra nhanh chóng. Ngoặt về bên phải đồn biên phòng chúng tôi phát hiện ra sân đáp chiều dài 50 m được đánh dấu bằng cờ hiệu. Tuy nhiên các sân đó lại nằm giữa các cây cao. Chúng tôi bay qua trên đầu các sân đáp rồi vào tuyến lặp để hạ cánh. Tôi bắt đầu giảm tốc độ để thực hiện động tác treo trên sân đáp. Nhưng ngay khi tốc độ giảm đến 50 km/giờ thì trực thăng bắt đầu rung nhẹ cùng với việc mất độ cao. Vòng quay trục cánh quạt mang lực bắt đầu giảm vì quá tải. Tôi buộc phải chuyển trực thăng sang chế độ tăng tốc độ cùng với việc hạ độ cao. Bay qua trên các ngọn cây vài mét, chúng tôi lại vào vòng.

Chúng tôi chuyển sang sân đáp khác nhưng vào tuyến hạ cánh ở đây còn khó hơn. Những ngọn núi dốc đứng sát gần gây ra nhiều khó dễ. Sau khi lướt qua sân đáp thứ hai ở độ cao cực thấp ngay sát các ngọn cây, tôi đã xác định được cao độ của chúng: khoảng 30 m.

Rốt cuộc đã rõ việc hạ cánh an toàn không tai nạn tại cả hai bãi đáp là không thể. Vòng lại bay trên đầu đồn biên phòng, tôi xem xét vùng phụ cận xung quanh. Chẳng thấy có bãi đáp nào thích hợp.

Chúng tôi quyết định: bay về Đồng Hới. Cần khuyến cáo chính quyền địa phương chặt bớt cây xung quanh sân đậu để đảm bảo tiếp cận được nó ở độ cao thấp, nhằm xuất hiện khả năng treo trực tiếp là là mặt sân đậu.

Chúng tôi bắt đầu rẽ hướng bay về Đồng Hới. Bống hoàn toàn bất ngờ, tôi để ý đến ngọn núi bên phải hướng bay. Trên sườn núi có một đoạn thềm bề mặt tương đối bằng phẳng nằm ngang. Không nghĩ nhiều tôi quay trực thăng lại bay qua thềm núi. Chúng tôi xác định được bề rộng thềm núi khoảng 100 m. Sườn núi và thềm núi phủ một lớp rừng thưa. Đó là món quà của số phận! Tôi kêu lên với phi công-hoa tiêu rằng có thể thu dọn thềm núi làm sân đáp trong một đêm. Chỉ cần chặt một số cây đơn, bụi cây, dây leo.

Lướt qua thềm núi về phía đồn biên phòng, sau đó vòng lại và lại bay qua trên đầu đồn biên phòng về hướng thềm núi. Tôi làm điều đó để chỉ dấn cho những người lính biên phòng đang quan sát chúng tôi định hướng được thềm núi. Tôi ra lệnh cho hoa tiêu đánh dấu lên bản đồ vị trí chính xác thềm núi kia và xét khoảng cách đến đó tính từ đồn biên phòng. Bay qua lần nữa trên thềm núi rồi chúng tôi hướng về Đồng Hới.

Sau khi hạ cánh xuống Đồng Hới, tôi và hoa tiêu ra khỏi máy bay mà rất hài lòng về kết quả chuyến bay. Chỉ băn khoăn một điều: liệu có liên lạc vô tuyến với đồn biên phòng để truyền tọa độ thềm núi và mệnh lệnh chặt cây và dọn dẹp tạo dựng một sân đáp kích thước 50x50m trên thềm núi.

Anh phiên dịch từ nhóm hành khách đi tới vẻ lo lắng nói rằng các vị hành khách rất không hài lòng và đòi phải báo cáo tại sao không thực hiện hạ cánh xuống sân đáp. Tôi giải thích ngắn gọn rằng các sân đáp đánh dấu bằng các cờ hiệu không phù hợp để hạ cánh an toàn do chướng ngại vật. Tiếp đó tôi nói chúng tôi đã xác định được từ trên không địa điểm hạ cánh an toàn và cần liên lạc với đồn biên phòng và truyền mệnh lệnh. Tôi trao tờ giấy có phần viết cùng các tọa độ địa điểm cần làm việc để chuẩn bị sân đáp. Nếu liên lạc với đồn biên phòng không có thì cần chuẩn bị cờ hiệu hoặc thư tín để ném xuống lãnh địa đồn biên phòng.

Rất may phiên dịch viên cho biết có đường liên lạc điện báo với đồn biên phòng. Phiên liên lạc ấn định vào buổi chiều.

Người ta đề nghị chúng tôi đi tắm biển, chúng tôi vui vẻ đồng ý. Một cơ hội như vậy trong cái nóng bức nhiệt đới thật là đúng lúc. Người ta lấy xe ô tô chở chúng tôi ra bờ biển "Nam Trung Hoa", nơi có một cửa sông. Người phiên dịch đi cùng chúng tôi. Anh ta, là bác sĩ và người bản địa, cho chúng tôi những lời khuyên về xử sự trên biển. Đặc biệt anh cảnh báo chúng tôi không bơi ra xa bờ vì lũ cá mập luôn săn rình những người liều lĩnh. Chúng tôi lặn ngụp trong nước biển và thấy ngay độ mặn cao của nó: ngứa và rát toàn thân. Bởi vậy chúng tôi không ở lâu trong nước biển mà hụp lặn trong sông để rửa muối. Thủ tục này chúng tôi làm 3 lần rồi xin về nhà trong bóng râm dưới mái nhà, bởi vì trên bờ chẳng có chỗ nào tránh được ánh mặt trời gay gắt không thương xót.

Trong thời gian ăn tối người ta thông báo phiên liên lạc với đồn biên phòng đã diễn ra, thông tin đã được thu nhận. Chúng tôi đi nghỉ, thỏa thuận sáng ngày mai sẽ cất cánh sớm hơn.
 

coolpix8700

Xe trâu
Biển số
OF-33715
Ngày cấp bằng
22/4/09
Số km
32,597
Động cơ
904,511 Mã lực
Em học vật lý cũng dốt nhưng em nghĩ làm gì có chuyện thủng kính buồng lái mà lấy tay bịt được, chắc là lều báo lại thêm mắm thêm muối vào. Khi mới ra trận máy bay cụ trúng tên lửa tơi tả là có thật, việc cụ hạ cánh được và sống sót là may mắn của cụ.
...
Kính buồng lái máy bay bằng nhựa bác ạh (ngày xưa họ gọi là mica)!
Máy bay bị ăn tên lửa theo nhiều kiểu. Khi tên lửa nổ rất gần thì chịu cả sóng nổ, còn chủ yếu là do những mảnh gang hình gần vuông bắn vào làm sát thương.
Có những cái máy bay bị hơn chục lỗ thủng vẫn về đỗ được xuống sân bay!
 
Chỉnh sửa cuối:

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,851
Động cơ
363,759 Mã lực
(GÓC KHUẤT CHIẾN TRANH
Thớt 2:
Câu chuyện về 02 Trung đoàn không quân Liên Xô ở Việt Nam, thời kỳ 1959 – 1964
A/ KHÔNG QUÂN TRỰC THĂNG LIÊN XÔ TRÊN BẦU TRỜI VIỆT NAM)


Tút 13


Chúng tôi cất cánh ngay sau khi mặt trời lên. Từ cư ly tầm 3 km chúng tôi đã thấy một khu vực phát quang không cây cối, khi tới gần hơn thì thấy nhiều người đang làm việc ở cạnh các bụi cây. Tôi quyết định hạ cánh trong hành tiến. Tôi xác định không có chướng ngại. Treo máy bay và tiếp đất, không hề giảm vòng quay trục cánh quạt. Cậu kỹ thuật viên hàng không khẳng định bánh xe đã nằm trên bề mặt bằng phẳng và ra tín hiệu. Tôi tắt động cơ, hãm vòng quay trục cánh quạt. Kỹ thuật viên hàng không mời hành khách ra khỏi máy bay. Tất cả nhanh chóng rời trực thăng.

Tôi quan sát từ buồng lái thấy những người mới đến vui mừng ra sao, họ ôm nhau thậm chí còn nhảy múa. Khi sự hoan hỉ chấm dứt, tất cả cùng đi rồi khuất sau đám cây. Người phiên dịch của chúng tôi, ông Bác sỹ (tôi bắt đầu gọi anh ta như vậy) nói rằng mọi người đi chọn vị trí để tiến hành các cuộc thảo luận.

- Thảo luận?

- Vâng, thảo luận, - Bác sỹ nói, - với những người tiên phong mở đường của Nam Việt Nam lần đầu tiên đi vòng đường giới tuyến trên lãnh thổ của nước Lào đã được giải phóng.

Các cuộc đàm phán thảo luận đã quen thuộc với chúng tôi từ hồi thi hành nhiệm vụ thứ nhất.

Từ sau đám cây một trong các thành viên đoàn đại biểu đi ra nói chuyện với Bác sỹ. Bác sỹ nói với chúng tôi địa điểm đàm phán đã chọn xong nay cần chuyển hàng đến. Tôi chỉ vào các chiến sĩ biên phòng đang tiếp tục mở rộng sân đáp, đề nghị người chỉ huy cho tạm dừng tay và động viên người ra bốc hàng trên trục thăng xuống và chuyển hàng đi.

Bác sỹ chuyển lời của tôi cho người đại biểu, ông ấy lại đi ngay. Rất nhanh chóng ông ấy trở lại cùng một nhóm chiến sĩ biên phòng. Họ lấy hàng mang đi.

Sau một lúc, nhiều người từ sau đám cây đi ra, xét theo trang phục họ là những người mở đường từ phía Nam. Quần áo họ bạc rách nhiều. Vẻ ngoài nhiều người mệt mỏi và kiệt sức. Kèm họ là các chiến sĩ biên phòng giúp một vài người di chuyển. Bốn trong số những người mới đến là người Việt, còn môt người tầm thước có lẽ là người Trung quốc. Bác sỹ của chúng tôi đón họ, nói chuyện với họ một chút rồi mời họ đi theo mình, Tất cả lại khuất sau đám cây.

Mặt trời đã lên khá cao. Những con ruồi trâu hay nhặng tấn công chúng tôi từ mọi hướng. Mặt trời đốt nóng thân trực thăng đã thu hút lũ bọ. Chúng bu kín máy bay, theo cánh cửa mở xông vào trong. Không sao chịu nổi lũ ruồi bọ hung hăng này, chúng tôi chạy ra đám cây, bẻ các cành cây để xua chúng đi. Dễ chịu hơn nhưng chẳng được mấy. Chúng tôi buộc phải tránh lũ côn trùng khát máu bằng cách liên tục di chuyển, chạy, nhảy, vung tay vung chân. Phi công phụ của tôi Alfred Naghibovitch tìm lối thoát bằng cách leo lên nóc trực thăng. Vô ích! Chúng tôi quết định lấy xăng bôi lên người. Chẳng được lâu. Xăng bốc hơi nhanh, chúng tôi tiếp tục lấy các cành cây xua lũ ruồi.

Về chiều muỗi to muỗi nhỏ xông ra cùng ruồi và cả những loại hút máu khác nữa. Bốn giờ chờ đợi như vô tận với chúng tôi. Cuối cùng thì Bác sỹ xuất hiện. Tôi nói với anh ta liệu không thể kết thúc hội họp để có thể bay về đến Đồng Hới khi trời còn sáng hay sao. Trao đổi với đoàn đại biểu, Bác sỹ chuyển đến chúng tôi lời người lãnh đạo đoàn:

- Nếu kíp lái vội thì cứ bay đi!

Tất nhiên bay về mà không có đoàn đại biểu thì chúng tôi không thể làm rồi. Chúng tôi mở động cơ, quay cánh quạt, cho máy bay treo, vòng 180 độ về phía bay đến. Sau các thao tác này chúng tôi lại tắt máy. Có lẽ điều đó có ảnh hưởng đến sự tăng tốc cuộc họp vì 10 phút sau mọi người đã xuất hiện sau đám cây. Họ có 11 người. Phân biệt những người tiên phong mở đường từ phương Nam với người Bắc Việt Nam là không thể. Tất cả bọn họ đều mặc quân phục QDNDVN. Các đại biểu ngồi vào trực thăng và chúng tôi cất cánh.

Tại Đồng Hới, một chiếc Li-2 đã chờ sẵn những người tham gia họp. Bác sỹ thông báo sáng mai chúng tôi có thể bay về Hà Nội. Điều đó làm chúng tôi vui mừng. Trong khi đi trên xe chúng tôi trao đổi ý kiến với Bác sỹ về các cuộc hội họp. Với chúng tôi nó diễn ra quá lâu. Bác sỹ nói anh phải xử lý vết thương cho những người mở đường, chăm sóc các bệnh nhân.


Sau bữa tối chúng tôi đi nghỉ ngơi, khoan khoái nghĩ tới giấc ngủ dài bình yên không lo âu. Tuy vậy đêm đến lại khá ầm ĩ, nếu không nói là ác mộng. Khoảng 9 giờ tối bắt đầu cơn dông. Cứ tưởng: thế là tốt sẽ mát mẻ. Chúng tôi mở cánh cửa chớp, đứng bên cửa sổ, hưởng thụ sự mát mẻ. Bỗng ánh chớp chói lòa bùng lên ngoài cửa sổ. Đúng lúc đó tiếng sét đánh đột ngột dữ dội làm rung chuyển căn nhà của chúng tôi. Qua sương mù có thể thấy từ trên trời một màn nước dày đặc bao phủ xung quanh. Nước dội từ mái nhà xuống như dòng thác. Chớp lóe liên tục, tiếng sấm rền biến thành tiếng rú đặc quánh. Có cảm tưởng chớp bay ngay sát ô cửa sổ.

Đó là những ấn tượng của lần đầu thấy tận mắt cơn dông nhiệt đới.

Cơn dông đã đi xa nhưng mưa tiếp tục tuôn không hề giảm. Gió mạnh lên. Chúng tôi bắt đầu lạnh cóng, phải nhao vào đệm chui xuống dưới chăn. Giấc ngủ biến mất dần. Trong phòng bây giờ không còn là làn gió nhẹ nữa mà là cơn gió lùa khá mạnh. Tôi lên tiếng:

- Các chàng trai, các bạn ở đó thế nào?

- Đồng chí chỉ huy, hãy quay 180 độ, chí tuyến đã hết. Phía trước là Nam Cực, - Naghibovitch trả lời.

Tôi cũng đùa:

- Tôi sẽ lấy hướng ngược lại buổi sáng, còn đêm thì phải trú đông ở nơi ấm áp. Tôi đề nghị: cứ mặc quần ngắn theo trang phục hàng ngày, thu thập tất cả vải trải trên các giường và tập hợp tất cả dưới một cái đệm. Trong vòng tay hữu nghị siết chặt, dưới toàn bộ các tấm trải giường chúng ta sẽ sống sót, nếu không - chúng ta sẽ chết như những con ma-mút.

Dịu đi trong ba tấm đắp, chúng tôi nằm kề sát vào nhau. Dưới tiếng mưa, được sưởi ấm, chúng tôi bắt đầu giấc ngủ. Bỗng ngoài cửa sổ tiếng gầm vang lên, không phải bò rống mà thực sự là tiếng gầm, rất trầm và to. Xa hơn một chút cũng nghe như vậy, rồi tiếp tục, tiếp tục. Số lượng tiếng gầm tăng lên từng phút. Bản "hòa tấu" bắt đầu. Nó vẫn tiếp tục và trời vẫn cứ mưa. Rồi mưa chấm dứt vào nửa đêm về sáng. Cuối cùng mọi người cũng thiếp đi.

Sáng ra chúng tôi thấy ngôi nhà của mình đúng là nổi trong nước. Nước khắp nơi bất cứ nơi nào mắt nhìn đến. Chúng tôi lên xe đi ăn sáng trên con đường ngập nước. Lúc đang ăn sáng Bác sỹ xuất hiện thông báo khu vực này đang bị thiên tai. Sông trần bờ, nước lũ từ núi đổ về cuồn cuộn, cuốn trôi đê bao, ngập tràn đồng lúa. lúa đổ rạp, tất cả chìm trong nước. Những cơn mưa nhiệt đới to như vậy đã lâu không thấy. Chỉ có những người già nhớ về chúng mà thôi.

Chúng tôi hỏi, trong lúc trời mưa, có "ai" gào rống như vậy. Bác sỹ phá lên cười, anh nói rằng ở đây có những con ễnh ương (sống trong hang). Trong thời gian các cơn mưa nhiệt đới, chúng chui ra khỏi hang và rống lên gọi nhau đi tình tự.

Chúng tôi chia tay với Bác sỹ, cám ơn vì sự nhạy cảm, ân cần và công tác xuất sắc trên cương vị người phiên dịch. Lái xe chở chúng tôi ra sân bay, đóng trên địa thế cao và vẫn khô ráo. Quyết định cho cất cánh nhận được buổi chiều. Chúng tôi sẽ bay về Hà Nội.

Sau chuyến bay chúng tôi đưa trực thăng vào trạng thái sẵn sàng và quyết định xả hơi một chút, uống "Bia Hà Nội". Chúng tôi đứng uống bia, ngắm chiếc Li-2 lăn vào sân đậu. Chúng tôi đã nhìn thấy nó ở Đồng Hới. Chúng tôi hiểu các đại biểu đã bay về. Vài chiếc xe hơi chạy ngang qua chúng tôi hướng đến chô máy bay. Khách bắt đầu từ máy theo thang đi xuống. Những người vừa đến đón họ ở chân cầu thang, siết chặt tay, họ ôm nhau nói ngắn gọn rồi tất cả tản về các xe đi đón. Đoàn xe đi về hướng chúng tôi. Khi đến ngang chỗ chúng tôi, chiếc xe đi đầu ngừng lại, những chiếc đi sau cũng dừng theo.

Từ chiếc xe đầu, một vị khách trang phục kiểu Âu và người phiên dịch của chúng tôi đi ra, anh ra hiệu cho chúng tôi lại gần. Khi chúng tôi đến gần, vị khách mỉm cười thân thiện, ông nói gì đó bằng tiếng Việt và bắt tay tôi và các thành viên kíp lái. Rồi ông ra hiệu dịch lời ông sang tiếng Nga. Bác sỹ-phiên dịch viên nói:

- Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng cám ơn các bạn vì đã thực hiện thắng lợi một công tác quan trọng đối với nhân dân Việt nam.

Các thành viên cuộc họp - các hành khách cũ của chúng tôi cũng từ các xe còn lại bước xuống, đến gần và bắt tay chúng tôi. Sau nghi thức đó tất cả tỏa về xe rồi họ đi khỏi. Đó là cuộc gặp duy nhất của chúng tôi với Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng nhưng nó được ghi nhớ đậm nét bởi sự bất ngờ và nồng ấm.


Chúng tôi trở lại quầy bar nơi có những cốc bia chúng tôi đang uống dở. Bắt đầu câu chuyện sôi nổi về những gì đã xảy ra. Nhớ đến bữa ăn trưa trong sứ quán Liên Xô, chúng tôi quyết định đi đến đó một lần nữa. Chúng tôi tìm thấy xe và người lái ở sân đậu. Anh ta được lệnh ở đây từ ngày chúng tôi bay về.

Tại khu vực sứ quán đội bảo vệ cho chúng tôi qua như những người quen cũ. Từ hôm ấy chúng tôi thường xuyên ăn trưa trong sứ quán. Việc lưu lại Hà Nội là để chờ đợi những nhiệm vụ mới. Khi rãnh rỗi chúng tôi đi xem thành phố, ngắm vẻ đẹp và các danh thắng của nó, gồm cả vùng quanh Hồ Hoàn Kiếm.

Một lần người tài xế dừng xe lại cạnh một tòa nhà chỉ vào đó và nói: "Liên Xô!" Hóa ra đó là một cửa hiệu. Chúng tôi đi vào và thấy các cô bán hàng nói tiếng Nga, người mua cũng nói tiếng chúng tôi. Chúng tôi theo biển chỉ dẫn, có thể mua gì và ở đâu.

Tại gian hàng thực phẩm có những chiếc bàn nhỏ, ngồi sau bàn là các phụ nữ và trẻ em đang uống nước chanh, trò chuyện gì đó. Chúng tôi mua bia và cũng lấy bàn ngồi. Người ta nói với chúng tôi rằng đến đây không chỉ có các gia đình nhân viên sứ quán Liên Xô mà còn cả các sứ quán khác. Sau này trước khi bay về nhà người ta cũng chở chúng tôi từ Hải Phòng đến cửa hàng này, để chúng tôi mua quà cho bè bạn và người thân bằng tiền đồng Việt Nam.

Vào cuối tháng 3 có lệnh bay về Hải Phòng. Tại sân bay Cát-Bi Hải Phòng đang diễn ra các cuộc bay huấn luyện cường độ cao. Học viên bước vào giai đoạn bay đơn. Các nhân viên kỹ thuật chuẩn bị chuyển giao máy bay trực thăng cho chuyên gia Việt Nam. Chiếc trực thăng của chúng tôi cũng được các nhân viên kỹ thuật sửa soạn để bàn giao. Thành phần bay thế là hết việc làm.

Nóng nực ngày càng tăng. Ban ngày gần 40 độ. Độ ẩm không khí - gần 100%. Do mồ hôi ra không ngừng mà tôi bắt đầu bị ngứa. Bác sỹ khuyên dùng vỏ chanh lau người. Cũng có hiệu quả được một thời gian ngắn.

Ngày 12 tháng 4 qua radio chúng tôi nghe được một tin chấn động: Yuri Gagarin của chúng ta đã bay vào vũ trụ! Tất cả "Liên Xô" (người Xô Viết) đón nhận lời chúc mừng từ các bạn Việt Nam. Chúng tôi cảm thấy niềm hứng khởi và tự hào chân chính về đất nước của mình: thực tế - Liên bang Xô Viết là quốc gia đầu tiên đi vào vũ trụ!

Cuối tháng 4 các học viên bắt đầu kỳ thi (khí động học trực thăng, tổ chức chỉ huy dẫn đường cho trực thăng, các cơ phận của trực thăng, quy tắc khai thác sử dụng trực thăng). Vào đầu tháng 5 các học viên-phi công thi bài kỹ thuật lái trực thăng. Tới giữa tháng 5 nhiệm vụ giao phó cho chúng tôi huấn luyện các chiến sĩ trực thăng Việt Nam đã thực hiện xong hoàn toàn, đội ngũ các kíp bay trực thăng đã kiện toàn, trực thăng đã bàn giao cho phía Việt Nam.

Nửa sau tháng 5 chúng tôi nồng nhiệt chia tay các chiến sĩ trực thăng Việt Nam và toàn bộ những người cùng làm việc với mình, sau đó chúng tôi lên Hà Nội.

Tại đại sứ quán Xô Viết, trong một khung cảnh trang trọng, đại diện chính phủ VNDCCH trao cho chúng tôi phần thưởng quốc gia - huy chương Hữu Nghị.

Sáng hôm sau, chúng tôi rời Việt Nam bay về nhà trên máy bay Il-14. Chúng tôi mang theo các tấm bưu ảnh, những món quà lưu niệm mà các bạn Việt Nam tặng cho chúng tôi, mang theo mình cả tình cảm thắm thiết đối với những con người xuất sắc đó. Chúng tôi nhớ lại mình đã được chụp ảnh với Chủ tịch Hồ Chí Minh như thế nào. Tôi nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ quên đất nước tuyệt vời này và những con người ưu tú mà chúng tôi đã có dịp tiếp xúc tại đó.

Sau nhiều năm, khi trên báo chí Xô Viêt xuất hiện tin tức về "đường mòn Hồ Chí Minh", tôi có thể bí mật chia sẻ với các đồng nghiệp của tôi rằng tôi đã góp phần vào sự khai sinh con đường huyền thoại: con đường mòn vòng qua giới tuyến, trải trên lãnh thổ của nước Lào đã được giải phóng khỏi lực lượng thân Mỹ.

Dưới thời Xô Viết, tất cả những việc chúng tôi làm ở Việt Nam được giữ kín trong vòng tuyệt mật. Đã nửa thế kỷ trôi qua kể từ những tháng ngày đáng ghi nhớ ấy. Tôi vẫn giữ những tình cảm nồng ấm nhất đối với các bạn Việt Nam, lòng biết ơn vì sự giúp đỡ và thái độ nồng hậu thể hiện với chúng tôi. Từng ở Việt Nam, chúng tôi khẳng định rằng người Việt là những con người dũng cảm, ngoan cường và yêu lao động. Họ nồng nhiệt yêu mến đất nước chúng ta. Tôi tự hào vì mình đã giúp đỡ họ trong cuộc đấu tranh vì độc lập.


HÌNH ẢNH MINH HỌA

- Chơi với trẻ em Việt Nam. Tháng 3 năm 1961.

n1.jpg
 

Cún em

Xe buýt
Biển số
OF-573979
Ngày cấp bằng
14/6/18
Số km
734
Động cơ
145,155 Mã lực
Tuổi
45
(GÓC KHUẤT CHIẾN TRANH
Thớt 2:
Câu chuyện về 02 Trung đoàn không quân Liên Xô ở Việt Nam, thời kỳ 1959 – 1964
A/ KHÔNG QUÂN TRỰC THĂNG LIÊN XÔ TRÊN BẦU TRỜI VIỆT NAM)


Tút 13


Chúng tôi cất cánh ngay sau khi mặt trời lên. Từ cư ly tầm 3 km chúng tôi đã thấy một khu vực phát quang không cây cối, khi tới gần hơn thì thấy nhiều người đang làm việc ở cạnh các bụi cây. Tôi quyết định hạ cánh trong hành tiến. Tôi xác định không có chướng ngại. Treo máy bay và tiếp đất, không hề giảm vòng quay trục cánh quạt. Cậu kỹ thuật viên hàng không khẳng định bánh xe đã nằm trên bề mặt bằng phẳng và ra tín hiệu. Tôi tắt động cơ, hãm vòng quay trục cánh quạt. Kỹ thuật viên hàng không mời hành khách ra khỏi máy bay. Tất cả nhanh chóng rời trực thăng.

Tôi quan sát từ buồng lái thấy những người mới đến vui mừng ra sao, họ ôm nhau thậm chí còn nhảy múa. Khi sự hoan hỉ chấm dứt, tất cả cùng đi rồi khuất sau đám cây. Người phiên dịch của chúng tôi, ông Bác sỹ (tôi bắt đầu gọi anh ta như vậy) nói rằng mọi người đi chọn vị trí để tiến hành các cuộc thảo luận.

- Thảo luận?

- Vâng, thảo luận, - Bác sỹ nói, - với những người tiên phong mở đường của Nam Việt Nam lần đầu tiên đi vòng đường giới tuyến trên lãnh thổ của nước Lào đã được giải phóng.

Các cuộc đàm phán thảo luận đã quen thuộc với chúng tôi từ hồi thi hành nhiệm vụ thứ nhất.

Từ sau đám cây một trong các thành viên đoàn đại biểu đi ra nói chuyện với Bác sỹ. Bác sỹ nói với chúng tôi địa điểm đàm phán đã chọn xong nay cần chuyển hàng đến. Tôi chỉ vào các chiến sĩ biên phòng đang tiếp tục mở rộng sân đáp, đề nghị người chỉ huy cho tạm dừng tay và động viên người ra bốc hàng trên trục thăng xuống và chuyển hàng đi.

Bác sỹ chuyển lời của tôi cho người đại biểu, ông ấy lại đi ngay. Rất nhanh chóng ông ấy trở lại cùng một nhóm chiến sĩ biên phòng. Họ lấy hàng mang đi.

Sau một lúc, nhiều người từ sau đám cây đi ra, xét theo trang phục họ là những người mở đường từ phía Nam. Quần áo họ bạc rách nhiều. Vẻ ngoài nhiều người mệt mỏi và kiệt sức. Kèm họ là các chiến sĩ biên phòng giúp một vài người di chuyển. Bốn trong số những người mới đến là người Việt, còn môt người tầm thước có lẽ là người Trung quốc. Bác sỹ của chúng tôi đón họ, nói chuyện với họ một chút rồi mời họ đi theo mình, Tất cả lại khuất sau đám cây.

Mặt trời đã lên khá cao. Những con ruồi trâu hay nhặng tấn công chúng tôi từ mọi hướng. Mặt trời đốt nóng thân trực thăng đã thu hút lũ bọ. Chúng bu kín máy bay, theo cánh cửa mở xông vào trong. Không sao chịu nổi lũ ruồi bọ hung hăng này, chúng tôi chạy ra đám cây, bẻ các cành cây để xua chúng đi. Dễ chịu hơn nhưng chẳng được mấy. Chúng tôi buộc phải tránh lũ côn trùng khát máu bằng cách liên tục di chuyển, chạy, nhảy, vung tay vung chân. Phi công phụ của tôi Alfred Naghibovitch tìm lối thoát bằng cách leo lên nóc trực thăng. Vô ích! Chúng tôi quết định lấy xăng bôi lên người. Chẳng được lâu. Xăng bốc hơi nhanh, chúng tôi tiếp tục lấy các cành cây xua lũ ruồi.

Về chiều muỗi to muỗi nhỏ xông ra cùng ruồi và cả những loại hút máu khác nữa. Bốn giờ chờ đợi như vô tận với chúng tôi. Cuối cùng thì Bác sỹ xuất hiện. Tôi nói với anh ta liệu không thể kết thúc hội họp để có thể bay về đến Đồng Hới khi trời còn sáng hay sao. Trao đổi với đoàn đại biểu, Bác sỹ chuyển đến chúng tôi lời người lãnh đạo đoàn:

- Nếu kíp lái vội thì cứ bay đi!

Tất nhiên bay về mà không có đoàn đại biểu thì chúng tôi không thể làm rồi. Chúng tôi mở động cơ, quay cánh quạt, cho máy bay treo, vòng 180 độ về phía bay đến. Sau các thao tác này chúng tôi lại tắt máy. Có lẽ điều đó có ảnh hưởng đến sự tăng tốc cuộc họp vì 10 phút sau mọi người đã xuất hiện sau đám cây. Họ có 11 người. Phân biệt những người tiên phong mở đường từ phương Nam với người Bắc Việt Nam là không thể. Tất cả bọn họ đều mặc quân phục QDNDVN. Các đại biểu ngồi vào trực thăng và chúng tôi cất cánh.

Tại Đồng Hới, một chiếc Li-2 đã chờ sẵn những người tham gia họp. Bác sỹ thông báo sáng mai chúng tôi có thể bay về Hà Nội. Điều đó làm chúng tôi vui mừng. Trong khi đi trên xe chúng tôi trao đổi ý kiến với Bác sỹ về các cuộc hội họp. Với chúng tôi nó diễn ra quá lâu. Bác sỹ nói anh phải xử lý vết thương cho những người mở đường, chăm sóc các bệnh nhân.


Sau bữa tối chúng tôi đi nghỉ ngơi, khoan khoái nghĩ tới giấc ngủ dài bình yên không lo âu. Tuy vậy đêm đến lại khá ầm ĩ, nếu không nói là ác mộng. Khoảng 9 giờ tối bắt đầu cơn dông. Cứ tưởng: thế là tốt sẽ mát mẻ. Chúng tôi mở cánh cửa chớp, đứng bên cửa sổ, hưởng thụ sự mát mẻ. Bỗng ánh chớp chói lòa bùng lên ngoài cửa sổ. Đúng lúc đó tiếng sét đánh đột ngột dữ dội làm rung chuyển căn nhà của chúng tôi. Qua sương mù có thể thấy từ trên trời một màn nước dày đặc bao phủ xung quanh. Nước dội từ mái nhà xuống như dòng thác. Chớp lóe liên tục, tiếng sấm rền biến thành tiếng rú đặc quánh. Có cảm tưởng chớp bay ngay sát ô cửa sổ.

Đó là những ấn tượng của lần đầu thấy tận mắt cơn dông nhiệt đới.

Cơn dông đã đi xa nhưng mưa tiếp tục tuôn không hề giảm. Gió mạnh lên. Chúng tôi bắt đầu lạnh cóng, phải nhao vào đệm chui xuống dưới chăn. Giấc ngủ biến mất dần. Trong phòng bây giờ không còn là làn gió nhẹ nữa mà là cơn gió lùa khá mạnh. Tôi lên tiếng:

- Các chàng trai, các bạn ở đó thế nào?

- Đồng chí chỉ huy, hãy quay 180 độ, chí tuyến đã hết. Phía trước là Nam Cực, - Naghibovitch trả lời.

Tôi cũng đùa:

- Tôi sẽ lấy hướng ngược lại buổi sáng, còn đêm thì phải trú đông ở nơi ấm áp. Tôi đề nghị: cứ mặc quần ngắn theo trang phục hàng ngày, thu thập tất cả vải trải trên các giường và tập hợp tất cả dưới một cái đệm. Trong vòng tay hữu nghị siết chặt, dưới toàn bộ các tấm trải giường chúng ta sẽ sống sót, nếu không - chúng ta sẽ chết như những con ma-mút.

Dịu đi trong ba tấm đắp, chúng tôi nằm kề sát vào nhau. Dưới tiếng mưa, được sưởi ấm, chúng tôi bắt đầu giấc ngủ. Bỗng ngoài cửa sổ tiếng gầm vang lên, không phải bò rống mà thực sự là tiếng gầm, rất trầm và to. Xa hơn một chút cũng nghe như vậy, rồi tiếp tục, tiếp tục. Số lượng tiếng gầm tăng lên từng phút. Bản "hòa tấu" bắt đầu. Nó vẫn tiếp tục và trời vẫn cứ mưa. Rồi mưa chấm dứt vào nửa đêm về sáng. Cuối cùng mọi người cũng thiếp đi.

Sáng ra chúng tôi thấy ngôi nhà của mình đúng là nổi trong nước. Nước khắp nơi bất cứ nơi nào mắt nhìn đến. Chúng tôi lên xe đi ăn sáng trên con đường ngập nước. Lúc đang ăn sáng Bác sỹ xuất hiện thông báo khu vực này đang bị thiên tai. Sông trần bờ, nước lũ từ núi đổ về cuồn cuộn, cuốn trôi đê bao, ngập tràn đồng lúa. lúa đổ rạp, tất cả chìm trong nước. Những cơn mưa nhiệt đới to như vậy đã lâu không thấy. Chỉ có những người già nhớ về chúng mà thôi.

Chúng tôi hỏi, trong lúc trời mưa, có "ai" gào rống như vậy. Bác sỹ phá lên cười, anh nói rằng ở đây có những con ễnh ương (sống trong hang). Trong thời gian các cơn mưa nhiệt đới, chúng chui ra khỏi hang và rống lên gọi nhau đi tình tự.

Chúng tôi chia tay với Bác sỹ, cám ơn vì sự nhạy cảm, ân cần và công tác xuất sắc trên cương vị người phiên dịch. Lái xe chở chúng tôi ra sân bay, đóng trên địa thế cao và vẫn khô ráo. Quyết định cho cất cánh nhận được buổi chiều. Chúng tôi sẽ bay về Hà Nội.

Sau chuyến bay chúng tôi đưa trực thăng vào trạng thái sẵn sàng và quyết định xả hơi một chút, uống "Bia Hà Nội". Chúng tôi đứng uống bia, ngắm chiếc Li-2 lăn vào sân đậu. Chúng tôi đã nhìn thấy nó ở Đồng Hới. Chúng tôi hiểu các đại biểu đã bay về. Vài chiếc xe hơi chạy ngang qua chúng tôi hướng đến chô máy bay. Khách bắt đầu từ máy theo thang đi xuống. Những người vừa đến đón họ ở chân cầu thang, siết chặt tay, họ ôm nhau nói ngắn gọn rồi tất cả tản về các xe đi đón. Đoàn xe đi về hướng chúng tôi. Khi đến ngang chỗ chúng tôi, chiếc xe đi đầu ngừng lại, những chiếc đi sau cũng dừng theo.

Từ chiếc xe đầu, một vị khách trang phục kiểu Âu và người phiên dịch của chúng tôi đi ra, anh ra hiệu cho chúng tôi lại gần. Khi chúng tôi đến gần, vị khách mỉm cười thân thiện, ông nói gì đó bằng tiếng Việt và bắt tay tôi và các thành viên kíp lái. Rồi ông ra hiệu dịch lời ông sang tiếng Nga. Bác sỹ-phiên dịch viên nói:

- Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng cám ơn các bạn vì đã thực hiện thắng lợi một công tác quan trọng đối với nhân dân Việt nam.

Các thành viên cuộc họp - các hành khách cũ của chúng tôi cũng từ các xe còn lại bước xuống, đến gần và bắt tay chúng tôi. Sau nghi thức đó tất cả tỏa về xe rồi họ đi khỏi. Đó là cuộc gặp duy nhất của chúng tôi với Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng nhưng nó được ghi nhớ đậm nét bởi sự bất ngờ và nồng ấm.


Chúng tôi trở lại quầy bar nơi có những cốc bia chúng tôi đang uống dở. Bắt đầu câu chuyện sôi nổi về những gì đã xảy ra. Nhớ đến bữa ăn trưa trong sứ quán Liên Xô, chúng tôi quyết định đi đến đó một lần nữa. Chúng tôi tìm thấy xe và người lái ở sân đậu. Anh ta được lệnh ở đây từ ngày chúng tôi bay về.

Tại khu vực sứ quán đội bảo vệ cho chúng tôi qua như những người quen cũ. Từ hôm ấy chúng tôi thường xuyên ăn trưa trong sứ quán. Việc lưu lại Hà Nội là để chờ đợi những nhiệm vụ mới. Khi rãnh rỗi chúng tôi đi xem thành phố, ngắm vẻ đẹp và các danh thắng của nó, gồm cả vùng quanh Hồ Hoàn Kiếm.

Một lần người tài xế dừng xe lại cạnh một tòa nhà chỉ vào đó và nói: "Liên Xô!" Hóa ra đó là một cửa hiệu. Chúng tôi đi vào và thấy các cô bán hàng nói tiếng Nga, người mua cũng nói tiếng chúng tôi. Chúng tôi theo biển chỉ dẫn, có thể mua gì và ở đâu.

Tại gian hàng thực phẩm có những chiếc bàn nhỏ, ngồi sau bàn là các phụ nữ và trẻ em đang uống nước chanh, trò chuyện gì đó. Chúng tôi mua bia và cũng lấy bàn ngồi. Người ta nói với chúng tôi rằng đến đây không chỉ có các gia đình nhân viên sứ quán Liên Xô mà còn cả các sứ quán khác. Sau này trước khi bay về nhà người ta cũng chở chúng tôi từ Hải Phòng đến cửa hàng này, để chúng tôi mua quà cho bè bạn và người thân bằng tiền đồng Việt Nam.

Vào cuối tháng 3 có lệnh bay về Hải Phòng. Tại sân bay Cát-Bi Hải Phòng đang diễn ra các cuộc bay huấn luyện cường độ cao. Học viên bước vào giai đoạn bay đơn. Các nhân viên kỹ thuật chuẩn bị chuyển giao máy bay trực thăng cho chuyên gia Việt Nam. Chiếc trực thăng của chúng tôi cũng được các nhân viên kỹ thuật sửa soạn để bàn giao. Thành phần bay thế là hết việc làm.

Nóng nực ngày càng tăng. Ban ngày gần 40 độ. Độ ẩm không khí - gần 100%. Do mồ hôi ra không ngừng mà tôi bắt đầu bị ngứa. Bác sỹ khuyên dùng vỏ chanh lau người. Cũng có hiệu quả được một thời gian ngắn.

Ngày 12 tháng 4 qua radio chúng tôi nghe được một tin chấn động: Yuri Gagarin của chúng ta đã bay vào vũ trụ! Tất cả "Liên Xô" (người Xô Viết) đón nhận lời chúc mừng từ các bạn Việt Nam. Chúng tôi cảm thấy niềm hứng khởi và tự hào chân chính về đất nước của mình: thực tế - Liên bang Xô Viết là quốc gia đầu tiên đi vào vũ trụ!

Cuối tháng 4 các học viên bắt đầu kỳ thi (khí động học trực thăng, tổ chức chỉ huy dẫn đường cho trực thăng, các cơ phận của trực thăng, quy tắc khai thác sử dụng trực thăng). Vào đầu tháng 5 các học viên-phi công thi bài kỹ thuật lái trực thăng. Tới giữa tháng 5 nhiệm vụ giao phó cho chúng tôi huấn luyện các chiến sĩ trực thăng Việt Nam đã thực hiện xong hoàn toàn, đội ngũ các kíp bay trực thăng đã kiện toàn, trực thăng đã bàn giao cho phía Việt Nam.

Nửa sau tháng 5 chúng tôi nồng nhiệt chia tay các chiến sĩ trực thăng Việt Nam và toàn bộ những người cùng làm việc với mình, sau đó chúng tôi lên Hà Nội.

Tại đại sứ quán Xô Viết, trong một khung cảnh trang trọng, đại diện chính phủ VNDCCH trao cho chúng tôi phần thưởng quốc gia - huy chương Hữu Nghị.

Sáng hôm sau, chúng tôi rời Việt Nam bay về nhà trên máy bay Il-14. Chúng tôi mang theo các tấm bưu ảnh, những món quà lưu niệm mà các bạn Việt Nam tặng cho chúng tôi, mang theo mình cả tình cảm thắm thiết đối với những con người xuất sắc đó. Chúng tôi nhớ lại mình đã được chụp ảnh với Chủ tịch Hồ Chí Minh như thế nào. Tôi nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ quên đất nước tuyệt vời này và những con người ưu tú mà chúng tôi đã có dịp tiếp xúc tại đó.

Sau nhiều năm, khi trên báo chí Xô Viêt xuất hiện tin tức về "đường mòn Hồ Chí Minh", tôi có thể bí mật chia sẻ với các đồng nghiệp của tôi rằng tôi đã góp phần vào sự khai sinh con đường huyền thoại: con đường mòn vòng qua giới tuyến, trải trên lãnh thổ của nước Lào đã được giải phóng khỏi lực lượng thân Mỹ.

Dưới thời Xô Viết, tất cả những việc chúng tôi làm ở Việt Nam được giữ kín trong vòng tuyệt mật. Đã nửa thế kỷ trôi qua kể từ những tháng ngày đáng ghi nhớ ấy. Tôi vẫn giữ những tình cảm nồng ấm nhất đối với các bạn Việt Nam, lòng biết ơn vì sự giúp đỡ và thái độ nồng hậu thể hiện với chúng tôi. Từng ở Việt Nam, chúng tôi khẳng định rằng người Việt là những con người dũng cảm, ngoan cường và yêu lao động. Họ nồng nhiệt yêu mến đất nước chúng ta. Tôi tự hào vì mình đã giúp đỡ họ trong cuộc đấu tranh vì độc lập.


HÌNH ẢNH MINH HỌA

- Chơi với trẻ em Việt Nam. Tháng 3 năm 1961.

n1.jpg
hay quá ạ!
 

wonderlust

Xe máy
Biển số
OF-718083
Ngày cấp bằng
28/2/20
Số km
88
Động cơ
80,765 Mã lực
Tuổi
44
Nơi ở
Ha Noi
Cám ơn cụ thớt đã cung cấp những thông tin quý giá. Em rất thích tìm hiểu những thông tin đa chiều thế này.
 

Nhimtiu

Xe lăn
Biển số
OF-210290
Ngày cấp bằng
16/9/13
Số km
10,196
Động cơ
570,851 Mã lực
Ai đánh thuế giấc mơ, ông cụ thân sinh em là giai cấp cơ bản của đất nước, sinh ra em lớn lên học tập và công tác tại đây thôi. Ông cụ nhà em suốt ngày mơ đi thi tuyển phi công trúng tuyển dược sang liên xô đào tạo lái Mig về bắn B-52, xong lấy 1 cô Liên Xô tóc vàng mắt xanh ... Sau đẻ ra em suốt ngày bắt em chạy nhanh chạy xa nhảy cao đá bóng cầu lông... để thi tuyển phi công lái máy bay tiêm kích mà =))

Ngày xưa các cụ nói chuyện ngô nghê lắm đâu có nhiều tri thức như ở Google bây giờ, cứ bàn nước chè ống điếu thuóc lào là buôn chuyện cả ngày thôi, vui đáo để, ông cụ em hay hát cái bài trên.
Em nghĩ cụ có năng khiếu lái máy bay thì giờ k nên phụ lòng các cụ. Cụ cứ thử k xin phép gấu rồi đi lái nghiệp dư các máy bay thời nay xem thía lào? Biết đâu có duyên cụ lại lái đc cả bô ing siêu hạng.:))
 

Yaris_2009

Xe điện
Biển số
OF-80287
Ngày cấp bằng
15/12/10
Số km
2,118
Động cơ
593,428 Mã lực
Tuổi
40
Em nghĩ cụ có năng khiếu lái máy bay thì giờ k nên phụ lòng các cụ. Cụ cứ thử k xin phép gấu rồi đi lái nghiệp dư các máy bay thời nay xem thía lào? Biết đâu có duyên cụ lại lái đc cả bô ing siêu hạng.:))
Giờ đầu 4 lại không thích kiểu xôi thịt nữa cụ ạ, phải nói chuyện tương tác hợp gu cơ, mà tầm nói chuyện được với em chỉ có cụ thoai he he, em với cụ đi uống bia cho lành cụ nhê.

 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top