GÓC KHUẤT CHIẾN TRANH
Thớt 11:
CÂU CHUYỆN VỀ VỤ TRỰC THĂNG MI-4 MẤT TÍCH NĂM 1960
Tút 2: Hồi ức của cơ trưởng Phạm Đình Cường (2/3)
Ngày hôm sau, mới 05.00 ánh sáng bắt đầu le lói, nhưng trời đất vẫn còn mù sương, tầm nhìn còn bị hạn chế, cả đoàn rất nóng lòng muốn cất cánh nhưng điều kiện thời tiết không cho phép, nếu không nhanh chóng thì rất có thể địch biết tin đến bắt sống, mỗi giây phút kéo dài là nỗi sợ lại nhân lên cấp số nhân.
Mãi đến 07.00 sương mù bắt đầu tan, nhưng ngoài trời vẫn còn lạnh cóng, máy bay khó khởi động, phải nổ máy động cơ ba mươi phút mới cất cánh được.
Khi máy bay đã bốc lên, tôi không dám nâng độ cao, chỉ bay là là với khoảng cách mặt đất 300 mét, vì càng nâng độ cao càng tốn xăng, đồng hồ báo đã chỉ ở vạch đỏ.
Bay được khoảng năm phút đồng hồ đo xăng báo động mức nguy hiểm, mối đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng cả đoàn, nhìn xuống dưới mặt đất chẳng có vị trí nào để hạ cánh cả, tôi vẫn liều lĩnh cho máy bay tiếp tục tiến, sự sống và cái chết của chúng tôi cân bằng nhau, thêm một đoạn nữa tôi thấy có một dải đất bằng, nhưng không thể hạ cánh được vì cây cối mọc lởm chởm, nếu có hạ cánh rồi cũng chẳng có cơ hội bay tiếp. Trong suy nghĩ của tôi bắt đầu nảy sinh nhiều toan tính, một ý nghĩ táo bạo lóe sáng trong đầu.
Chiếc máy bay như con chuồn chuồn đuối sức, cánh quạt quay chậm dần, toàn thân đè lên đám cây kêu răng rắc, cánh quạt chém lá bay tứ tung, kết thúc là một tiếng "khực", một cảm giác khủng khiếp, đồ đạc trong máy bay loảng xoảng, người ngồi trong dúi dụi, giây phút ấy diễn ra trong chốc lát rồi trả lại bình yên, nhưng mặt mũi ai nấy cũng đều tái xanh. Anh em chúng tôi bỏ máy bay, mang đồ đoàn mở cửa bước ra. Vẫn đang ở đất Thái. Từ đâu đó năm người chĩa súng thẳng vào chúng tôi:
- Thăng môt dưn kôông!
(Tất cả đứng yên).
Mặt mũi bọn họ đằng đằng sát khí, những họng súng đen ngòm sẵn sàng khạc lửa thẳng vào mặt chúng tôi. Như hiểu ý nhau, tất cả chín anh em ngoan ngoãn đứng dậy giơ hai tay lên quá đầu. Không khí bớt căng thẳng, họ bớt cảnh giác hơn.
- Chúng tôi đi khảo sát địa chất, máy bay bị hết xăng rơi xuống đây.
Chúng tôi nói bằng tiếng Thái.
Nhóm người giãn ra, họ bỏ súng xuống, tôi ra hiệu cho một đồng chí đốt máy bay. Nhiên liệu trong khoang máy chỉ còn dính đáy, phải thò tấm vải bông vào thùng thấm, nhóm người kia nhìn nhau ngơ ngác, họ chẳng biết gì.
Tôi châm thuốc hút, rồi tiện đà mời họ hút thêm, thái độ họ thân thiện hơn. Trong lúc đang chuyện trò, chúng tôi nháy nhau chuần bị cướp súng, tất cả hiểu ý định, trà trộn giáp lá cà với họ thành từng nhóm nhỏ, chỉ cần hiệp đồng đúng thời cơ. Không chần chừ, tôi hô lớn một tiếng, năm người thổ dân bị đè nghiến xuống đất.
Từ lúc nãy, mảng bông tẩm xăng được vứt sẵn trong buồng lái, chúng tôi châm lửa rồi cùng nhau mang súng bỏ chạy. Không ai nói câu nào, chúng tôi cúi đầu chạy một mạch, đằng sau có tiếng nổ lớn, xác máy bay đã tan tành, không biết năm người dân kia làm gì? Chúng tôi cứ thế chạy thẳng vào rừng sâu.
(Thực ra, máy bay trực thăng còn nguyên vẹn – Chú thích của Baoleo)
Khi đã xa lắm rồi, không ai còn đủ sức chạy tiếp, cả đoàn nằm vật xuống dưới tán một bụi cây lớn. Chuyến bay đó rất gấp, chúng tôi không kịp chuẩn bị gì, trước đó tôi được thủ trưởng giao cho nhiệm vụ bay đến Xẻn Xum phía bắc Viên Chăn, cách bờ sông Mê Kông khoảng hai mươi kilomet, ngoài ra tôi chẳng biết gì hơn.
Họ chỉ nói với tôi, đây là nhiệm vụ đặc biệt! Đảng và nhà nước tin tưởng đồng chí…Cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng nói thế.
Thực ra nhận nhiêm vụ tôi rất lo, điều kiện đảm bảo nhiên liệu cho máy không có, quãng đường lại quá xa, phải chăng đây là một chuyến bay cảm tử? Tôi được chỉ huy gọi lên quán triệt liên tục, đến gần giờ bay tôi mới biết chuyến bay đó có bốn người cùng đơn vị, thêm năm người khách nữa nhưng không biết họ là ai.
Ăn cơm trưa song chúng tôi cùng ra máy bay, mang theo ba chiêc địa bàn, bốn chiếc bình tông đựng nước uống, một khẩu súng tiểu liên AK, lương thực chẳng có gì, một ai đó trong đoàn mua được năm chiếc bánh chưng, năm người khách lạ đi cùng có mang theo hai hộp sữa, một ít bánh bicquy.
Ở trong khu rừng chúng tôi bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn, nhiều quan điểm khác nhau, có người bảo cứ hành quân theo đường quốc lộ, người khác lại bảo vào dân hỏi đường và xin lương thực. Tất cả những ý kiến đó đều không khả thi, đây là vùng đất địch. Cuối cùng mọi vấn đề đều được thống nhất, trong đoàn của chúng tôi có chín, tám người là Đảng viên, một người là đoàn viên ưu tú, chi bộ lâm thời được thành lập, đồng chí Đạt có thâm niên lâu hơn được đề cử làm bí thư, tôi làm phó bí thư.
Chúng tôi thống nhất phương trâm, "Chết đống còn hơn sống một". Đói quá có anh em bắt đầu lả đi, nhưng lương thực quá ít ỏi không dám dùng hết, đành phải cắt một miếng bánh chưng nhỏ cho ăn, phần còn lại phải để dành những ngày tiếp theo.
Chúng tôi lại bắt đầu đi. Sông Mê Kông nằm ở phía đông, buổi sáng mặt trời mọc ở hướng đó, buổi chiều lăn phía sau lưng. Rừng ở Thái Lan không rậm lắm, chủ yếu là cây khôộc và nhiều loại cây khác nữa, người khỏe thay phiên nhau dìu người yếu. Cứ vậy chúng tôi hành quân về phía sông Mê Kông.
Đi được một quãng khá xa thì bất ngờ nghe tiếng nổ lớn, tất cả anh em tản ra nằm rạp xuống, hóa ra là một khẩu súng kíp anh em cướp được của thổ dân bị nảy cò nổ, may mắn không ai bị dính đạn. Sau tiếng nổ ấy chúng tôi lại tiếp tục chạy, sợ nhỡ địch nghe thấy súng ập đến bao vây. Lúc ấy đang là mùa đông, buổi chiều thời tiết ấm hơn, mùa này rừng cũng chẳng có loại hoa quả gì có thể ăn được, không thể tiếp tục đi mãi khi bụng đói tóp teo, chúng tôi tản ra tìm bất cứ loại gì đút vào miệng sống qua ngày.
Sau một giấc ngủ mê mệt, khí lạnh tràn về khắp khu rừng, chúng tôi tỉnh giấc lại giữa mà đên tối om om, bầu trời bắt đầu hiện đầy sao. Bỗng dưng tôi khát khao sự sống đến thê? Cả nhà (vợ, con) không ai biết tôi đang ở đâu, tôi không kịp thông báo chuyến đi này, hình ảnh những đứa con đang ríu rít vui đùa khiến tôi ứa nước mắt, nếu tôi chết thì chúng sẽ sống ra sao? Anh Đạt cũng tỉnh từ lúc nào, đang ngồi trầm tư nghĩ ngợi bên gốc cây. Chúng tôi túm tụm lại thành một nhóm. Cơn khát lại kéo về dày vò, một đồng chí nữa lại lả đi. Cuộc hành trình của chúng tôi theo tinh thần của nghị quyết chi bộ. Để đảm bảo ăn dè sẻn số lương thực mang theo, chúng tôi bầu một đồng chí làm quản lý, phân phối tiêu chuẩn ăn mỗi người một bữa chỉ được một nhúm bicquy, một cái bánh chưng phải chia ra thành chín xuất, tính như thế cũng chỉ đảm bảo được hai ngày, riêng hai hộp sữa phải để dành khi đến bờ sông Mê Kông ăn để lấy sức vượt. Giữa rừng sâu không có một dấu chân người, tất cả bốn bi đông nước không còn lấy một giọt, xung quanh không có dòng suối nào cả, không thê kiếm nước ở đâu uống qua cơn khát, một đồng chí đã quá yếu không dậy được. Chúng tôi không thể ngồi nhìn nhau chết dần trên đường về, không còn cách nào khác đành phải đái ra lấy nước đổ vào mồm đồng đội.
Đi trong rừng nhìn thấy dây củ mài mọc mà không có cách nào đào lên được, trong tay chúng tôi chẳng có gì, mấy khẩu súng kíp cướp được cũng đành phải bỏ lại vì không đủ sức mang theo.
Thật may mắn anh em trong đoàn chúng tôi có một người cầm bật lửa, dọc đuờng đi hễ cứ tìm được thứ gì ăn được là anh em cùng nhau kiếm, kể cả những loại cây thú rừng ăn nham nhở cũng hái bỏ vào ống nứa non nấu.
Một hôm chúng tôi qua mảnh nương cũ của dân bỏ lại, lấy được bí đỏ ăn no nê một bữa, thế rồi ba hôm sau không kiếm được thứ gì nên người mệt mỏi vô cùng, lê từng bước trong rừng, cứ đi được năm đến mười phút lại phải nghỉ giải lao hàng tiếng. Lúc đứng dậy mắt hoa đom đóm, đầu óc choáng váng, một đống chí không biết ăn phải quả dại nên ngộ độc; mặt tái xanh, hôn mê, nôn mửa, chân tay run lật bật tưởng chết nhưng qua khỏi. Dọc đường đi gian khổ cũng có một vài đồng chí nảy sinh tư tưởng muốn vào nhà dân xin cơm, nhưng nghị quyết chi bộ đã quán triệt nên nhất nhất phải nghe.
Thêm một ngày là sức lực chúng tôi thêm kiệt quệ, phải vượt qua nhiều địa hình hiểm trở, đường cao, dốc thẳm. Tôi còn nhớ một hôm gặp dãy núi đá rất cao, người bình thường cũng khó lòng để vượt qua. Thế mà chúng tôi những người sức lực đã yếu, chi bộ phải chụm lại bàn bạc. Lúc đầu chúng tôi đi vòng quanh hình chữ Z nhưng suốt một ngày không lên đến mỏm, cuối cùng phải quyết tâm leo. Nhích từng bước một chúng tôi cồng kênh nhau, nếu chẳng may ai trượt chân ngã xuống coi như đã mặc niệm. Thế rồi cũng lên được đỉnh, không ai bị sơ xuất.
Rồi có một đồng chí bị đi kiết, người rũ rượi không đủ sức đi tiếp, rút súng ngắn định tự sát: "Thôi các đồng chí cứ đi tiếp, chúng ta phải trở về với tổ quốc. Còn tôi…"
Tôi lại phải kể tiếp, mỗi đồng chí chúng tôi trước lúc lên máy bay đã giắt sẵn trong người một khẩu súng ngắn. Lúc ấy tinh thàn quyết tâm lại chỗi dậy, anh em xúm lại, nhìn đồng đội thoi thóp mà nước ứa đầy hai khóe mắt. "Thà chết đống còn hơn sống một" Cả đoàn lại đứng lên dìu dắt nhau đi bằng được.
Nhìn trên bản đồ quân sự, chúng tôi ước tính chỉ đi bộ khoảng hai hoặc ba ngày là đến bờ sông Mê Kông, nhưng đã trải qua chín ngày vẫn chưa tới nơi. Vào một buổi chiều, khi mặt trời đã chuẩn bị chìm xuống dãy núi phía sau, phía trước mặt xuất hiện một cánh đồng rộng, tôi nghĩ thầm là sắp đến bờ sông. Cánh đồng đó rất rộng, xung quanh nhà dân mọc lên san sát, chúng tôi không thể ngang nhiên vượt qua đó được. Anh em ngồi lại đó quan sát kỹ lưỡng. Thế là chúng tôi nghỉ lại ở một mép rừng, trong bản có tiếng chó sủa nhiều, phía xa có ánh đèn pha, mọi người bắt đầu thấy lo, lúc chiều đột nhiên gặp một số người dân, có thể đã bị lộ, địch đang tiến hành truy kích. Phương án của chúng tôi vạch ra: Tất cả nằm bất động, cử hai người cảnh giới, phải vượt qua cánh đồng trong đêm nay. Đợi mãi đên 01.00 chúng tôi mới bắt đầu thực hiện, lúc này có sương xuống chó không thể đánh hơi người. Trước lúc lên đường bắt tất cả mọi người phải cởi giầy. Tôi đã quen đi giầy, da bàn chân mỏng như tờ giấy, dẫm lên gốc cây bàn chân cảm thấy nhói buốt, chẳng hiểu thế nào mà tôi đã cùng đồng đội đi suốt đoạn đường dài hai tiếng không nghỉ. Đêm trên đồng tối mờ mịt, bản đồ và địa bàn không thể đối chiếu với bên ngoài được, nhìn lên bầu trời có vì sao Bắc đẩu, chòm Đại hùng tinh, Tiểu hùng tinh cùng chùm sao Chiến sĩ rất sáng, chúng tôi căn vật chuẩn vào đỉnh núi phía sau và ngọn cây phía trước để hành quân. Đến gần sáng thì chúng tôi đến một khu rừng.
Đây có lẽ là một cuộc thoát hiểm hiếm có trong chiến tranh, đã là ngày thứ mười chúng tôi sống trong nỗi sợ hãi, cái đói, khát cứ liên tục dày vò, không còn đủ sức mà tiếp tục, bờ sông Mê Kông đang vẫy gọi chúng tôi tiến đến. Khu vực này địch rất có thể ập đến bất cứ lúc nào, đã kiệt sức quá rồi nhưng không thể quên cảnh giới. Tối hôm sau chúng tôi lại tiếp tục vượt qua một rừng tranh, thêm hai người nữa mệt quá bị ngất đi, nhưng ước vọng lớn nhất của chúng tôi là nhìn thấy bờ sông Mê Kông, đã mười ngày trôi qua mà vẫn chưa nhìn thấy gì, niềm thất vọng lan ra khắp cả đoàn.
Ngày hôm đó chúng tôi gặp một người dân, họ đến gần hỏi chuyện:
- Các ngài đang đi đâu?
- Chúng tôi là đoàn địa chất của chính phủ. Từ đây đến Vang Sa Phông có xa không? Người trong đoàn biết tiếng Thái nói.
- Đường lên huyện và ra bờ sông bằng nhau, đi bộ mất khỏang một ngày.
Họ nói thế và mời chúng tôi vào bản nhưng phải từ chối. Đợi họ đi khuất rồi chúng tôi lần vào rừng sâu.
Sau cuộc gặp gỡ chúng tôi đã mừng thầm, nhẩm tính chắc chỉ đi bộ thêm ba ngày nữa. Nhưng thực tế không phải như vậy, chúng tôi đi hơn năm ngày nữa mới đến bờ sông, sức chúng tôi đã quá kiệt quệ mất rồi, đi bộ chừng mười lăm phút phải nghỉ mất hàng tiếng đồng hồ, gặp gì ăn nấy. Những khi gặp được một con suối chúng tôi nghỉ lại cả buổi, anh em nào khỏe thì xuống mò ốc bắt cua, nhái nấu để ăn, lúc đó không ai còn biết ghê tởm điều gì hết.
Mười lăm ngày trôi qua là một cuộc đấu tranh vô cùng ác liệt, sáng sớm ngày thứ mười bảy tôi thức dậy rất sớm, lợi dụng sương mù dày đặc tranh thủ men theo con đường nhỏ đi thám thính xem có phải bờ sông không. Đúng như dự tính bờ sông Mê Kông đang ở ngay trước mặt tôi. Lúc đầu chúng tôi nghi ngờ nhưng mang bản đồ đối chiếu với thực địa thì quả thật đúng như vây. 09.00 rồi mà sương mù vẫn bao phủ khắp mặt nước, bờ sông đoạn này hai bên có rừng cây rậm rạp và các tảng đá to. Chúng tôi ngồi ở đó quan sát sang phía bờ sông bên kia.
Đến lúc này chỉ cần vượt sang bên kia sông là sự sống của chúng tôi có nhiều hi vọng. Nhưng không thể nôn nóng mà liều lính rơi vào tay địch. Trong đoàn lại nảy sinh nhiều ý kiến, có ngời bảo lợi dụng thuyền của dân, ý kiến khác cho rằng thế là nguy hiểm, thỉnh thoảng lại có thuyền với ca nô chạy qua đoạn sông chúng tôi đang ngắm.
Nhiều ý kiến đề xuất nên chủ trương chính của chúng tôi vẫn dùng thuyền để vượt sông, e rằng dùng bè chuối một số anh em yếu không đủ sức bơi. Chúng tôi phân công nhau thành nhiều nhóm. Đồng chí Đạt cùng hai người nữa ra mép sông trinh sát và lấy nước cho anh em. Ở dưới sông có năm người dân đang đóng bè nứa, tổ trinh sát thương lượng để họ chở bè nứa qua sông nhưng không được, đồng chí Đạt bào về cần khẩu súng AK, bộ phận sau chuẩn bị mang hành lý lên bè sang sông. Lúc ấy đã là 17.30, mặt sông đã nhá nhem tối. Lúc sau nghe một loạt AK, chúng tôi dồn cả về phía có tiếng nổ, nghĩ rằng tổ trinh sát đã bắn chết năm người dân để cướp bè nứa. Một cuộc đọ súng giữa ta với địch nổ ra. Họ bắn nhau dữ dội! Khi hai đồng chí trong tổ trinh sát quay lại:
- Đồng chí Đạt đâu? Tôi hỏi.
- Không biết. Một đồng chí nói rồi nằm vật xuống đất ngất đi.
Địch trên sông triển khai đội hình chiến đấu, súng của địch bốn phía bắn liên tiếp về phía bờ sông, cả đạn cối cũng nổ tung các cột nước trắng xóa. Tôi nghe thấy chúng hô hoán om xòm nhưng không biết tiếng, con đường phía sau xe tăng chạy ầm ầm. Trời đã buông màn đêm đen kịt xuống từ lúc nào, chúng tôi phải im lặng nằm tại vị trí chờ đồng chí Đạt trở lại. Chúng tôi chờ mãi cho đến 24.00 không thấy đồng chí Đạt quay lại mới tiếp tục đi. Trong suy nghĩ của tôi đoán có lẽ đồng chí ấy đã bị lạc hoặc chết vì bị lộ. Chúng tôi quay lại rừng không dám vượt sông ngay đêm ấy.
++++ Hình minh hoạ:
Một chiếc MI-4 trên đất Lào