[Funland] Dịch sách cổ: Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên: chuyện nhà Lý, Lý Thường Kiệt, Nùng Trí Cao.

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tống Chân Tông năm Gia Hựu 嘉祐 thứ 6 [1061].

Ngày Kỷ Mão tháng chạp [18/1/1061], An phủ ty Quảng Tây tâu người Man thuộc châu Tô Mậu lại vào cướp phá Ung Châu.

Ngày Canh Thân tháng 4 [29/4/1061], Đề điểm Quảng Nam Tây Lộ hình ngục Đồn điền viên ngoại lang Lý Sư Trung quyền bản lộ Chuyển vận sứ, trước đó Sư Trung dâng sớ vạch tội Tri Ung Châu Tiêu Chú:

- Cai trị Ung Châu 8 năm, có quân tại các động hơn 10 vạn, mà không thể phủ dụ dùng được. Lại vào các khe động mua bán, vơ- vét khiến mất lòng dân chúng, cuối cùng làm cho quân lính tướng sĩ suy bại. Kinh lược sứ Tiêu Cố thi hành công việc thật xằng bậy, cùng với Chuyển vận sứ Tống Hàm 宋咸 kết bè đảng.

Sau khi Chú bị trách phạt phải chuyển đến Kinh Nam [nam Hồ Nam], Sư Trung lại tâu thêm:

- Tiêu Chú lạm- dụng tham- ô của cải lại còn ngăn trở ra uy, dụ bắt 5 tôi tớ bị thiến của Nùng Trí Cao về làm nô tỳ, lại tự- tiện điều động đinh tráng trong khe động tìm vàng, kiếm được không ghi vào sổ sách, gây chuyện rắc rối cho quốc gia, xét theo pháp luật đáng tội chém. Nay chỉ giáng một [chức] quan, từ Đô Giám xuống làm Kiềm Hạt, không biết lấy danh nghĩa nào mà quyết- định như vậy?

Chiếu chỉ sai Trung sứ Lý Nhược Ngu 李若愚 điều tra sự thực, Tiêu Chú lại bị kết tội thêm, bèn giáng làm Đoàn luyện phó sứ an trí tại Thái Châu泰州 [Giang Tô], Cố và Hàm đều bị đình chỉ chức vụ.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tống Chân Tông năm Gia Hựu 嘉祐 thứ 6 [1061].

Mùa đông, chúa nước Chiêm Thanh là Luật Đà La Bạt Ma thứ 3 [ tiếng Phạn là: Yan Pu Cri Rudravarmandra, tiếng Việt gọi là Chế Củ] vừa mới lên ngôi, tổ chức phòng- bị, luyện- tập binh lính. Lại sai sứ sang cống phương vật và xin mua ngựa.

Vua Tống hỏi:

- Từ kinh sư Chiêm Thành đến [ kinh sư] Giao Chỉ cách bao xa?

Sứ thần đáp:

- Từ kinh đô Chiêm đến kinh đô Giao Chỉ phải đi 40 ngày và toàn đường núi.

Vua ban cho một con ngựa bạch và cho phép mua lừa ở Quảng Châu.

Giao Chỉ tức giận, vì đã lâu Chiêm Thành không tới [ nộp cống] [thực ra, đó chỉ là lấy cớ mà thôi, xét Chiêm Thành sai sứ đến Giao Chỉ đều đặn những năm: 1057, 1059, 1060, 1063].

Lý Nhật Tuân 日遵 [vua Lý Thánh Tông] bèn sửa soạn 5 vạn quân tấn công thảo phạt. Lại đem theo 3.200 quân Cấm Vệ. [ Xét binh chế Giao Chỉ đại khái cũng như binh chế theo phép quân phủ vệ đời Đường và quân Cấm Sương [Tống]. Mục đích đầu là bảo vệ [vua] ở kinh sư, cống cướp ngôi. Binh dùng về việc này là hạng binh tốt nhất, gọi là Thân quân 親軍; tên riêng là Thắng Quân hoặc Cấm Quân 禁軍. Cấm quân họp thành một vệ, gọi là Cấm Vệ 禁衛, Cấm vệ chia ra 10 quân, mỗi quân gồm 200 người. Cả thảy gồm 2.000 người, đóng chung quanh kinh thành, thường ngày túc trực. Lúc [vua] đi đâu xa, thì đi theo. Có 10 quân Cấm vệ, đặt tên là Quảng Thánh, Quảng Vũ, Ngự Long, Bổng Nhật, Đằng Hải, mỗi hiệu đều có tả quân, hữu quân. Đến đời Nhật Tuân, lại thêm lên 6 quân nữa. Cấm vệ bấy giờ gồm có 16 quân, cộng 3.200 tên. Tên quân cũng đặt lại như sau: Ngự Long, Vũ Thắng, Long Dực, Thần Điện, Bổng Thánh, Bảo Thắng, Hùng Lược, Vạn Tiếp, Mỗi hiệu cũng chia làm tả hữu quân].
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tống Anh Tông 宋英宗 ngày Kỷ Mão tháng 11 năm Trị Bình 治平thứ nhất [28/12/1064].

Tri Quế Châu là Lục Sân 陸詵 tâu Giao Chỉ sai Sứ đến bàn việc, nhân dịp này nhà vua hỏi:

- Giao Chỉ bắt đầu cát cứ vào năm nào?

Quan phụ tá tâu:

- Từ giữa đời Đường Chí Đức 唐至德 [ niên hiệu Túc Tông, 756-757] đổi là An Nam đô hộ phủ, trong thời nhà Lương niên hiệu Trinh Minh 貞明 [915-919] Thổ hào Khúc Thừa Mỹ 曲承美 chiếm đất này.
Tể tướng Hàn Kỳ 韓琦 tâu:

- Trước đây Lê Hoàn phản mệnh, Thái Tông sai sứ đánh dẹp nhưng không khuất- phục, sau sai Sứ chiêu dụ mới thuận. Nước này đường sá núi rừng hiểm trở, nhiều mưa, khí hậu lam chướng độc hại, nếu chiếm đất này cũng không dễ phòng thủ, đáng dùng chính sách nhu viễn mềm- mỏng.

Mùa đông năm này, Lục Sân bắt đầu đến Ung Châu xét biên giới, triệu tập 45 động tại Tả Giang, Hữu Giang, các tướng lĩnh chỉ huy, duyệt lính địa phương được 5 vạn, đặt tướng tá, xin đúc ấn cấp cho, tâu miễn thuế cho Tả, Hữu Giang đến vài vạn. Giao Chỉ rất sợ, nhân sai Sứ triều cống, lời lẽ thêm phần cung kính. Sau đó Sân lại tâu xin mỗi năm một lần dạy lính địa phương, được chấp thuận; từ đó về sau vẫn cứ 3 năm 1 lần lập sổ hộ tịch rồi tâu lên; việc này thi hành vào tháng 8 năm sau, nay phụ xem.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tống Anh Tông, năm Hy Ninh 熙寧 thứ nhất [ 1068]

Tháng 5, Nhật Tuân sai sửa chữa và đóng thêm tàu chiến, tháng 8, duyệt kiểm số tàu đã có, cho tu sửa thêm.

Tống Anh Tông, năm Hy Ninh 熙寧 thứ hai [ 1069]

Ngày Mậu Tuất, tháng hai, Kỷ Dậu [24 /2/1069] Nhật Tuân thân đi đánh Chiêm Thành. Quân có 5 vạn, Lý Thường Kiệt 李常傑 [ sau lại chép là Lý Thượng Cát] được chọn làm đại tướng quân 大將軍 và đi tiền phong, kiêm chức nguyên soái 元帥. Thường Kiệt xin cho em, là Thường Hiến 李常憲 đi theo, Hiến được trao chức Tán kỵ vũ uý 贊骑武尉.

Ngày Đinh Mùi [5/3/1069] quần thần hội tại Long Trì để tuyên thệ, 3 ngày sau, ngày Canh Dần [8/3/1069], quân Giao Chỉ xuống thuyền xuất quân, xuôi dòng sông Nhĩ Hà 耳河 [sông Hồng], qua vùng Nam Xương 南昌, rẽ xuống phía Nam, rồi ra cửa biển Đại An [ đều thuộc Nam Định]. Ngày Đinh Tỵ [15/3], đến Hoan Châu [Nghệ An], ngày Canh Thân [18/3], đến của Nam Giới 南界海口 [ cửa Sót, Thạch Hà, là biên giới với Chăm Pa]. 5 ngày sau [ 23/3], thuyền quân Giao Chỉ đến cửa Nhật Lệ 日麗, quân Chiêm Thành dùng thủy quân ra đánh, bị tướng Giao Chỉ là viên đại liêu ban 大僚班 [ chức này dành cho công thần] Hoàng Kiện chỉ huy quân tiền phong đánh tan, quân Chiêm bỏ chạy.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngày Kỷ Tị [ 27/3/1069], quân Giao Chỉ vượt qua bãi cát Đại Trường Sa大長沙 [ của Tùng ngày nay], hôm sau [ 28/3] đến nghỉ ở cửa Ô Long 烏龍 [ tức cửa biển Tư Hiền, Huế], cửa biển sâu, thông với sông ngòi các châu Ô Lý của Chiêm Thành.

Ngày Bính Tí [ 3/4/1069], quân Giao Chỉ tới cửa biển Thi Lị Bì Nại 尸唎皮奈海口 [ tiếng Phạn là çri Bonei, tức là cảng Thị Nại, Quy Nhơn].

Quân Giao Chỉ đổ bộ tấn công Hoặc Bì Đồ Da 或毘闍耶, kinh đô Chiêm Thành [tức là Kinh thành Vijaya hay gọi là Đồ Bàn], thành này ở phía bắc kinh đô, bên nam sông Khu Cương, ở chính giữa một cánh đồng phì nhiêu hình thoi mỗi đường nối góc dài chừng 60 dặm. Ba phía, bắc, tây, nam, đều có núi cao che chở. Chỉ phía Đông là trực tiếp với nước [có lẽ là vịnh Nước Mặn]. Vũng chạy dài từ bắc tới nam dài 40 dặm và thông với biển bằng 1 cửa hẹp và sâu [cửa Thị Nại]. Muốn tới thành này, chỉ có phía đông là dễ dàng. Sông Khu Cương chảy vào vũng nước ở góc cực Bắc. Nhưng sông cạn, thuyền lớn khó vào. Vì thế quân Giao Chỉ đưa thuyền vào cửa biển rồi đổ bộ ở ven bờ vũng nước [ Nước Mặn?].

Quân Giao Chỉ đổ bộ, tiến lên đóng ở bờ sông Tu Mao, thấy tướng Chiêm Thành là Bố Bì Đà La 布皮陀囉 bày trận trên bờ sông, bèn xông tới đánh, khi gặp quân Chiêm, hai anh em Thường Kiệt và Thường Hiến chia quân làm hai cánh, đánh tạt ngang, chém được ba vạn người. Bố Bì Đà La chết tại trận. Quân Chiêm chết nhiều không kể xiết.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Qua khỏi sông Tu Mao, còn phải vượt hai sông khác mới tới kinh thành. Nghe tin quân mình thua ở sông Tu Mao, Luật Đà La Bạt Ma đang đêm đem vợ con bỏ thành chạy trốn về phía nam. Cũng đêm ấy quân Giao kéo tới gần kinh thành, nghe tin quân [Giao Chỉ] đến bến Đồng La, người trong thành ra hàng.

Lý Thường Kiệt đem quân đuổi theo xuống miền nam, đuổi đến biên giới Chân Lạp, bắt được Luật Đà La Bạt Ma ở biên giới Chân Lạp và cầm tù cả thảy 5 vạn quân.

Sau khi bắt được vua Chiêm Thành, Nhật Tuân đãi yến quần thần tại điện vua Chiêm. Bấy giờ là tháng năm. Nhật Tuân thân hành múa khiên và đánh cầu [tức là múa võ và đánh cầu như kiểu quả bóng có lông bên trong, nghi thức mừng công trong ngày lễ lớn thời xưa] trước bệ. Sau đó lại sai kiểm số tất cả các nhà trong và ngoài thành, có hơn 2 560 khu. Đều sai đốt hết.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tháng ấy [tháng 6 năm 1069], kéo quân về, đem theo vua Chiêm Thành.

Ngày Tân Dậu [17/7] Nhật Tuân về đến kinh đô, dừng thuyền ở bến Triều Đông, trên sông Nhĩ Hà. Mở cuộc rước rất là long trọng, các quan hữu tư sắp đặt binh lính nghiêm trang, nghi vệ rực rỡ. Nhật Tuân lên bờ, ngự trên chiếc báu xa [xe nạm ngọc]. Quần thần đều cỡi ngựa. Dắt vua Chiêm Thành đi bộ theo sau. Vua Chiêm Thành Luật Đà La Bạt Ma mình mặc áo vải trắng, đầu đội mũ làm bằng cây gai. Tay trói sau lưng, có dây vải quyến buộc. Năm tên lính hiệu Vũ Đô dắt đi. Các đảng thuộc cũng bị trói dắt theo sau.

Tháng bảy, Nhật Tuân làm lễ tâu việc thắng trận ở Thái Miếu.

Vua Chiêm Thành xin dâng đất Bố Chánh, Địa Lý, Ma Linh chuộc tội. Nhật Tuân bằng lòng, bèn ra lệnh tha Luật Đà La Bạt Ma về nước.

Nhật Tuân bèn thưởng quân công cho tướng sĩ. Ban cho Lý Thường Kiệt chức tước: Phụ quốc Thái phó 傅國太傅, Giao thụ Nam Bình tiết độ sứ教授南平節度使, Phụ quốc thượng tướng quân, Thượng trụ quốc, Khai quốc công, Nghĩa nam [ con nuôi vua, tước Vương]. Kiệt bấy giờ 51 tuổi.

Cuối năm, sai Quách Sĩ An 郭仕安 và Đào Tông Nguyên 桃宗元 sang sứ [ nhàTống] để báo tin đánh Chiêm Thành. Lời biểu có câu:

- Nước Chiêm Thành đã lâu không tới cống. Tôi tự đem quân đánh, đã bắt được chúa nó về.

Vua [Tống ] không bằng lòng, nhưng cho là Chiêm Thành là một phiên quốc của Giao Chỉ. Bèn ban cho chánh sứ Sĩ An chức Lục trạch và phó sứ Tông Nguyên chức Nội điện sùng ban. (Vua Lý cho sứ giả sang nhà Tống báo tin thắng trận, nêu chi tiết trận đánh Chăm Pa, cũng là để dằn mặt nhà Tống)
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tống Thần Tông 宋神宗 ngày Nhâm Thân tháng 12 năm Hy Ninh 熙寧 thứ 3 [19/1/1071].

Ty kinh lược Quảng Nam Tây Lộ tâu:

- Sứ thần Giao Chỉ Lý Kế Nguyên 李繼元 xin tiến cống sản vật địa phương. Nay binh dân nước này [vẫn cứ sang] cướp phá đất đai, xin lệnh trước hết phải trả lại người và súc vật đã cướp, mới theo lệ dẫn người tiến cống đến kinh đô.

Tống Thần Tông năm Hy Ninh thứ 4 [1071].

Ngày Quí Mão tháng giêng [19/2/1071], chiếu ban cho Vương Khánh Dân 王慶民 vẫn chuyên giữ chức Quản câu Lân phủ lộ quân mã; riêng Tiêu Chú 蕭注 đợi chiếu chỉ tại phủ Thái Nguyên 太原 [Sơn Tây]. Lúc đầu định cho Tiêu Chú thay thế Khánh Dân. Chú đã đi, nghe tin Hà Đông 河東 dùng binh, bèn tự trình bày rằng bản thân vốn thư sinh, sở trường về phủ dụ, sở đoản về chiến đấu, sợ không làm tròn nhiệm vụ tại phủ Lân.

Vào lúc có người báo tin Giao Chỉ bị Chiêm Thành đánh bại, dân chúng không đầy 1 vạn, có thể kể ngày chiếm được, nên ra mệnh cho Tiêu Chú làm Tri Quế Châu. Phan Túc 潘夙 truyền tin [thám báo] kể rằng Túc trình bày Giao Chỉ có thể lấy được, điều nói “Dân chúng không đầy 1 vạn” có thể do Túc trình bày chưa đúng, đáng phải xét lại.
 

LangLe2021

Xe tải
Biển số
OF-798438
Ngày cấp bằng
25/11/21
Số km
330
Động cơ
20,130 Mã lực
Tuổi
35
Cụ đốc dịch quyển sử này hay quá, đọc các trận đánh tự hình dung trong đầu mà thấy rất hoạt và gợi thú, giá có nhà đạo diễn nào đưa tích Nùng Trí Cao lên phim thì hay quá, nếu có chắc phải bên Trung Quốc chứ bên ta chưa đủ trình.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tháng Giêng năm thứ 6 [1073], Tiêu Chú thôi giữ Quế Châu. Thiên tử hỏi Chú sách lược đánh [ Giao Chỉ] hoặc giữ, Tiêu Chú từ chối, nói rằng:

- Trước đây thần có ý như vậy, vì vào lúc đó dân quân khe động 1 người có thể chống lại 10, vũ khí, áo giáp sắc bén, những người thân tín có thể lấy tay chỉ để điều khiển. Nay binh giáp không hoàn bị như đường thời, những người tâm phúc chết quá nửa, mà người Giao Chỉ sinh sôi tập luyện lại được giáo huấn cả 15 năm; bảo rằng dân chúng không đầy 1 vạn người, sợ là chuyện xằng bậy nói láo.

[vua Tống ra lệnh] Xem xét địa phận biên giới, phủ dụ dân chúng, chuẩn bị canh phòng, lại xem xét các đường giao thông từ đời Đường đã từng dùng. Khu mật viện dâng tấu, nói:

- Năm Bính Tuất [1046], khu mật viện kiểm các đường thủy lục dùng từ đời Đường vào Giao Chỉ. Cả thảy có 16 chỗ. 16 chỗ ấy gồm phần lớn những ải khó đi. Chỉ có 4 đường có khả năng. Từ năm Bính Ngọ [1006], Thiệu Dục sau khi đi sứ Giao Chỉ về đã hiến các bản đồ vẽ bốn đường thủy lục từ Ung Châu vào Giao Chỉ.

Giao Chỉ tiếp đất [ biên giới] dọc theo biên thùy đầy núi rừng hiểm trở. Đường giao thông bằng bộ khó khăn. Đường bể dễ dàng hơn nhiều, vì các cửa bể Khâm, Liêm cách biên giới chung chỉ một vài ngày. Vả lại từ cửa sông Bạch Đằng đến châu Vĩnh An giáp hải phận Khâm Châu, có rất nhiều đảo [có lẽ là vịnh Hạ Long]. Những đảo lớn, vô số đảo nhỏ ngăn một giải nước khá yên lặng trước bờ bể.

Đường thủy từ Khâm Châu vào Giao Chỉ thì từ Khâm Châu, thuyền đi hướng tây-nam, một ngày đến châu Vĩnh An, theo trại Đại Bàn [Kế Bào, Vân Đồn] thuộc Ngọc Sơn tới Vĩnh Thái, Vạn Xuân [Vạn Kiếp, sông Lục Đầu], liền tới kinh đô Giao Chỉ, thuyền đi mất 5 ngày.

Còn đường bộ từ Ung Châu tới kinh đô Giao Chỉ, thì từ trại Vĩnh Bình thẳng xuống phía nam, vào huyện Quang Lang 光桹 thuộc Giao Chỉ. Đường qua hai con sông nhỏ Ô Bì và Đào Hoa 桃花 [ sông Thương ngày xưa 2 bên bờ trồng rất nhiều hoa đào, nên người Trung Quốc sang nước ta gọi là sông Đào Hoa, đến thờ nhà Lê vẫn còn, nên trong dịp đi sứ năm 1683, viên sứ thần nhà Thanh là Lư Anh Nhân khi qua sông đã làm bài thơ rất hay có câu: đầu bờ mặt nước hoa lồng ánh hoa], đến sông Nam Định 南定 [tức là sông Kỳ Cùng, sông Thương, Sông Cầu]. Đường đi 4 ngày thì đến.
Ở phía Tây đường chính lộ ấy, còn có 2 đường. Một đường từ trại Thái Bình vào, qua sông La thuộc động Đan Đặc thì tới Lạng Châu. Đường ấy đi mất 6 ngày mới tới [ kinh đô Giao Chỉ]. Một đường từ trại Ôn Nhuận thuộc đạo Hữu Giang có 12 trạm, đi mất 12 ngày [ tuyến này có lẽ là Cao Bằng -Bắc Cạn- Thái Nguyên???].

Lại tâu rõ về việc buôn bán qua lại biên giới với Giao Chỉ:

Trại Vĩnh Bình 永平 kề Giao Chỉ, chỉ cách bằng một sông bé mà thôi. Phía bắc sông có dịch trạm Giao Chỉ [như là đại diện thương mại ở đất Tống]. Phía nam sông có đình Nghi Hòa 沂和. Đều là chỗ buôn bán trao đổi, do chúa trại Vĩnh Bình cai quản. Người Giao Chỉ đem các vật quí vì đường bộ khó chở như các thứ hương, ngà, sừng tê, vàng, bạc, tiền, đến đổi lấy các thứ vải, vóc. Chỉ có muối là hàng nặng. Muối chỉ dùng đổi lấy vải thường mà thôi. Muối đóng thành sọt, mỗi sọt 25 cân. Vải dệt ở huyện Vũ Duyên, khổ hẹp. [ Có lẽ đây là khu vực buôn bán ở biên giới Lạng Sơn].

Trên biên giới trại Cổ Vạn và châu Tô Mậu, cũng có một Bạc Dịch Trường 舶驛場 [như kiểu khu thương mại quốc tế] nhỏ. Thường, thổ dân hai bên tới buôn bán ở đó. [ khu vực Móng Cái bây giờ].

Một Bạc Dịch Trường khác ở trại Hoành Sơn, vì đó là chỗ tụ tập các nhà buôn ở xa đến, từ Quảng Nguyên [Cao-bằng] và từ các đạo Đặc Ma, nước Đại Lý [Vân Nam]. Châu Quảng Nguyên sản xuất nhiều vàng, bạc, đồng, chu sa, diêm tiêu. Ấy là những hóa vật rất được chuộng. Các nhà lái buôn lớn, quê ở Quảng Châu, cũng tới đó cất hàng Quảng Nguyên

Bạc Dịch Trường lớn nhất gần biên thùy ở Khâm Châu. Trường ấy ở ngoài thành, tại trạm Giang Đông [nay là Phòng Thành Cảng]. Người nước Giao Chỉ đi thuyền đến đó buôn bán. Lái buôn hạng nhỏ có các phường chài, đem cá, sò đến đổi lấy vải; có nhà buôn tới mua giấy bút, gạo vải. Sự buôn nhỏ ấy, hằng ngày vẫn có, không cần xin phép riêng.

Đến việc buôn to, thì phải có viên tri châu Vĩnh An [ Giao Chỉ] gửi thông điệp cho viên Tri Khâm Châu trước, rồi nhà buôn mới được đem hàng hóa vào. Các hàng của Giao Chỉ có: vàng, bạc, tiền đồng, trầm hương, thục hương, sinh hương, trân châu, ngà voi, sừng tê. Về mặt Trung Quốc, các đại thương nhân ở vùng Thục [Tứ Xuyên] một năm tới một lần, đem gấm Thục tới đổi lấy hương chở về Thục. Buôn như vậy rất to, mỗi lần trao đổi có hàng nghìn quan tiền.

Về cách thức buôn bán:

Hai bên đem hàng mặc cả cùng nhau. Hồi lâu mới định giá. Lúc định giá rồi, thì không được thương nghị với ai nữa. Đó là một lệ ai cũng theo, giá người mặc cả đầu đã định, thì trời đất cũng không bằng, nghĩa là ai trả cao bao nhiêu, cũng không được bán nữa, vì lúc ngã giá, phải nhờ quan cân hương và giao gấm. Hình như các hàng ấy phải để sẵn ở công sở. Quan thuế đánh thuế hàng Trung Quốc mà thôi, cứ một quan tiền thu 30 đồng.

Lúc hai nhà buôn gặp nhau, mời nhau uống rượu làm vui, lâu rồi mới nói đến buôn bán. Trong lúc mặc cả, những tùy cơ mà trả thêm dần dần đến lúc giá gần bằng nhau, rồi đến ngang nhau. Người Trung Quốc thường ép giá. Họ sai người nhà làm nhà ở, buôn bán lặt vặt để cấp [dịch vụ cho người Việt], rồi họ ở đó mãi, cứ ngâm giá cho người [Việt] mỏi mệt, phải bán rẻ. Nhưng những nhà buôn kia [Việt] có nhiều người ngoan cố, không nhúc nhích, cầm vững giá lâu, làm cho ta khốn đốn. [ Đa số] người Giao vốn thực thà, vì vậy, người Trung Quốc [hay] cân hàng một cách gian trá, đến mức [ Triều đình nhà Lý] đã 3 lần sai sứ sang Khâm Châu để thử lại cân. Vì hay bị lừa, nên người [ Việt] cũng trở nên dối trá. Gần đây, người Vĩnh An rất gian giả. Vì nhà buôn ta [Tống] bán cho chúng thuốc giả, chúng [bèn] đúc lẫn đồng vào vàng bạc; hương thì tẩm muối cho nó chìm [ giả trầm hương] hoặc đổ chì vào những lổ hổng trong hương. Nhà buôn ta đều bị lừa.

Có một Bạc Dịch lớn lập ở Vân Đồn. Ấy là đảo lớn ở ngoài hết nhóm ấy. Đảo hình dài, hướng đông bắc tây nam. Phía nam đảo ấy có một đảo nhỏ ngăn thành một lối vào, gọi là cửa Vân Đồn. Có thuyền ba ngoại quốc Trảo Oa 爪哇 [Java, Indonesia], Lô Lạc 纑犖 [người dịch không rõ nước nào] và Xiêm La 暹羅 tới Hải Đông [miền Quảng Yên] xin ở lại buôn bán. Giao Chỉ bèn lập những trang ở trên các đảo, đặt tên là Vân Đồn, để mua bán châu, báu, hàng hóa và dâng phương vật. Địa vị Vân Đồn rất lợi. Mà ở đó bể lặng, nước sâu, thông với các châu: Khâm, Liêm, Quảng, và với các nước miền đông và nam, rất tiện.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Năm Hy Ninh 熙寧 thứ 5 [1072]

Ngày Giáp Ngọ tháng 3 [5/4/1072], Ty kinh lược Quảng Nam Tây Lộ tâu Nam Bình vương Lý Nhật Tôn 李日尊 [có lúc lại viết là Nhật Tuân 日遵, có lẽ do khắc in vì hai chữ khá giống nhau, vua Lý Thánh Tông] mất; con là Lý Càn Đức 李乾德 [vua Lý Nhân Tông] nối ngôi. Chiếu ban Chuyển vận sứ Khang Vệ 康衛 làm Điếu tặng sứ 弔贈使.

[ Lý] Nhật Tôn chết. Lý Càn Đức lên, lấy hoạn quan Lý Thượng Cát 李尚佶 [Lý Thường Kiệt] và mẹ Lê Thị Yến 黎氏嬿[tước] Loan thái phi 太妃 [ tức là Ỷ Lan] cùng coi việc nước.

Thị Yến vốn xấu tính, thấy mình là mẹ đẻ [vua] mà không có quyền gì, bèn nói:

- Mẹ bao khó nhọc nuôi nấng [con], mới có ngày nay. Bây giờ được phú quí, thì người khác giành mất chỗ. Họ sẽ đặt mẹ già vào chỗ nào?

Càn Đức bèn giam Thái hậu [ vợ chính của vua, ở đây chỉ Thượng dương Thái hậu] và 72 thị nữ vào cung Thượng Dương [cung riêng của Thái hậu], rồi chôn sống theo Nhật Tôn.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cụ đốc dịch quyển sử này hay quá, đọc các trận đánh tự hình dung trong đầu mà thấy rất hoạt và gợi thú, giá có nhà đạo diễn nào đưa tích Nùng Trí Cao lên phim thì hay quá, nếu có chắc phải bên Trung Quốc chứ bên ta chưa đủ trình.
Có chi tiết thú vị là tác giả Lý Đào này cũng bôi bác của các viên quan, viên tướng bất tài nhà Tống, chứ ông ta không khen chê một chiều cụ ạ.
Nùng Trí Cao oánh nhà Tống tan-tành chứ chả chơi cụ ạ, may có viên tướng Địch Thanh.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngày mồng 8 tháng tư năm ấy, sau khi làm lễ tắm tượng Phật, nhân ngày Phật đản, Càn Đức chọn quan đại liêu [Lý] Thượng Cát làm kiểm hiệu thái úy 太尉, và Lý Nhật Thành 李日成 [tức là Lý Đạo Thành] làm binh bộ thị lang 兵部侍郎 [ như vậy, chức quan của Lý Thường Kiệt cao hơn Lý Đạo Thành].

Nhật Thành phải giáng chức, làm tả gián nghị đại phu 諫議大夫, ra coi châu Hoan. Thành ra đó lập viện Địa Tạng 地藏, trong ấy để tượng Phật và vị hiệu Nhật Tôn để thờ. Thượng Cát chuyên cầm quyền bính cùng Thị Yến, mà bấy giờ cũng tôn lên làm Linh nhân Hoàng thái hậu 伶人皇太后.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tống Thần Tông tháng giêng năm Hy Ninh 熙寧 thứ 6 [1073]

Tiêu Chú thôi giữ chức ở Quế Châu. Thiên tử hỏi Chú sách lược đánh hoặc giữ, Chú từ chối nói mình không hợp. Triều đình bèn dùng Thẩm Khởi沈起, Khởi khăng khăng tuyên bố rằng có thể chiếm được Giao Chỉ. Trong triều có kẻ chê Thẩm Khởi thiếu đảm lược, nhưng y được [vua Tống] che chở và tể tướng Vương An Thạch 王安石 ủng hộ.

Vương An Thạch được trọng dụng, mấy lần nhà vua [ Tống Thần Tông] vời ra làm Tể tướng. Vương An Thạch cho thi hành biến pháp, gồm những phép quan trọng như: Thanh miêu, Mộ dịch, Nông điền thủy lợi, Thị dịch và Bảo giáp.

Thanh miêu: cho nông dân vay lúc giáp hạt, đến mùa thu hoạch lấy 20-30/100 tiền lời; khiến mùa giáp hạt dân không đến nỗi chết đói, mà triều đình có thêm tiền.

Mộ dịch: bắt kẻ người nhiều, người ít; mỗi người phải đóng một số tiền gọi là tiền miễn dịch, địa chủ khoa bảng cũng phải đóng; rồi quan dùng tiền mướn sai dịch. Trước đó không bắt khoa bảng, chức sắc, sư sãi đóng. Những người bận làm ruộng đóng để an tâm sản xuất; thành phần cố nông đi làm mướn, vô nghề nghiệp được mướn làm sai dịch để kiếm sống qua ngày.

Nông điền thủy lợi: cổ vũ khẩn hoang, hưng tu thủy lợi.

Thị dịch: [triều đình] xuất tiền mua hàng lúc rẻ, bán lúc đắt; nhằm điều hòa buôn bán.

Bảo giáp pháp: chia dân tại hương thôn cứ 10 nhà thành 1 bảo, nhà 2 đinh [con trai lớn] lấy 1 bảo đinh, bắt luyện tập quân sự. Chủ trương quân ngũ hóa nông thôn; tăng quân, mà ít tốn kém.

Biến pháp đem ra thi hành, tuy cũng có công hiệu, nhưng dân bị nhũng nhiễu, Tư Mã Quang 司馬光 [tác giả bộ Sử nổi tiếng Tư Trị Thông Giám], Trình Di 程頤 [ nhà Triết học cổ], cha con Tô Thức 蘇軾 [tức là Tô Đông Pha] phản đối. Vương An Thạch muốn làm mạnh, phía bắc muốn đánh các nước Liêu, Tây Hạ, phía nam thôn tính nước Giao Chỉ. Về nước Liêu, nước này vị trí tại phương bắc hiểm trở, quan quân thử sức, không thắng, nên đành phải tạm gác. Tây Hạ tuy yếu hơn, nhưng nằm sát nách nước Liêu, nếu bức bách quá, thì hàng Liêu, hai nước hợp binh, lại càng thêm nguy hiểm. Bởi vậy Vương An Thạch bàn đánh Giao Chỉ trước, nếu thành công sẽ dựa vào khí thế, tiến về phía tây bắc đánh nước Hạ, rồi tiêu diệt nước Liêu.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tống Thần Tông ngày Tân Sửu tháng 2 năm Hy Ninh thứ 6 [7/4/1073], giao cho quyền Độ chi phó sứ, Lang trung bộ Hình Tập hiền điện tu soạn Thẩm Khởi 沈起 làm Thiên chương các đãi chế Tri Quế Châu, thay Tiêu Chú. Chú tại Quế Châu, từ Đặc Ma đến Điền Đống châu, các Tù trưởng xa gần đều đến, Tiêu Chú hỏi rành rọt núi sông, già trẻ mất còn, rất được vui lòng người, nhờ vậy tình hình Lý Càn Đức có động tĩnh gì [Tiêu Chú] đều hay biết. Nhưng đề cập đến việc hiến kế sách bình định Giao Châu, thì [Tiêu Chú] từ chối [nói là] đã đốt đi rồi.

Bấy giờ Thẩm Khởi nói Giao Châu đã nhỏ lại đáng ghét, không thể không chiếm được, bèn bãi chức Chú [ lời tác giả: điều này căn cứ vào truyện chép về Chú]. Ngày Giáp Tí tháng 12, Tiêu Chú dâng biểu xin từ chức. Sau đó Thẩm Khởi càng muốn sửa đổi thi hành kế chinh phạt [Đại Việt], cuối cùng quân sĩ bị bại trận.

Trước đây, [triều đình] bàn về việc dùng Khởi, Phùng Kinh 馮京 nói rằng Khởi trước làm Chuyển vận sứ ở Thiểm Tây, binh loạn tại Khánh Châu, Khởi đóng thành Trường An không dám ra, người ta ngờ rằng [Khởi] khiếp sợ. Vua nói:

- Giặc đến dưới chân thành, trong thành không có người trấn thủ phòng bị, sao lại không đóng thành, đây không phải là điều sai của Khởi?

Vương An Thạch nói:

- Khởi tại Thiểm Tây thực không làm gì quá đáng. Thời đi Giang Ninh, thần từng tâu có thể lưu giữ. Quần chúng luận công kích Khởi nhiều, vì Khởi từng tranh luận đúng sai với Vương Thiều 王韶, Lý Sư Trung 李師中, phải, trái, nên bị người ghét. Bệ hạ bị ràng buộc bởi những lời ác ý chê Khởi nên không dùng vậy thôi.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tống Thần Tông ngày Giáp Tý tháng 3 năm Hy Ninh thứ 6 [30/4/1073], Lý Càn Đức [Vua Lý Nhân Tông] đất Giao Châu sai Sứ cống sản vật địa phương.

Tống Thần Tông ngày Mậu Dần tháng 4 năm Hy Ninh thứ 6 [14/5/1073].

Tân tri Quế Châu Thẩm Khởi mới nhậm chức, xin cho lộ này theo lệ của 4 lộ theo chính sách biên giới tại Thiểm Tây được trực tiếp tâu lên Thiên tử cùng ty Kinh lược chuyên ủy xử trí, được chấp thuận. Khởi lại xin cho người ra ngoài biên giới lo liệu, Thiên tử quay sang Vương An Thạch hỏi:

- Chỉ huy việc này như thế nào?

Vương An Thạch xin chấp nhận lời xin, thư tín đều phải giữ [bí mật] ở Giám ti. Thiên tử đáp:

- Chấp nhận được.
An Thạch ghi riêng việc này như sau:

- Thiên tử ra lệnh Thẩm Khởi mật kinh chế việc Giao Chỉ, các công thần không được biết đến, phạm những điều tâu đều phải báo cho [An Thạch] nghe.

Thám hoa Trần Quán 陳瓘, Thái học bác sĩ [nói cho tác giả rằng] Tống Thần Tông còn lưỡng lự vì dùng binh không có lý do, Vương An Thạch cãi lại rằng muốn dùng binh đừng sợ không có lý do [ý nói lý do rất dễ kiếm]. Ngoài ra cho biết nhà Vua cố tình bao che cho An Thạch, An Thạch lại bao che cho Thẩm Khởi.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tống Thần Tông ngày Mậu Dần tháng 4 năm Hy Ninh thứ 6 [14/5/1073] Trần Quán sau khi suy xét bàn luận về sự việc, như sau:

- An Thạch vào cáo với Thần khảo 神考 [ chỉ Tống Thần Tông đã mất, ở đây Trần Quán kể lại với tác giả, nên dùng chữ Thần khảo] rằng:

- Việc binh không đúng thời điểm không dùng được.

Vua bảo:

- Dùng binh không có lý do, không được chính danh.

An Thạch tâu:

- Bệ hạ quả muốn dùng binh, đừng lo không có lý do.

Do đó trong 7 năm chấp chính đã dùng binh ở biên giới 4 lần. Thần khảo khoanh tay chờ thành công, bất cứ công việc nào hễ thắng thì qui công cho An Thạch, nếu không thắng thì qui lỗi vào chính mình. Hàn Xước 韓絳thất bại tại phương tây, Thần khảo giáng chiếu tự trách tội mình, chưa từng trách An Thạch. Hy Hà 熙河 [năm 1075 quân Tống chiếm được Hy Châu (Lâm Thao, Cam Túc), Hà Châu (Lâm Hạ, Cam Túc) của Tây Hạ] tấu công, lập tức cởi đai ngọc ban cho An Thạch và nói:

- Không có khanh chủ mưu tại triều, thì không có sự thành- công này.

Việc dùng binh tại Mai Sơn 梅山, Chương Đôn 章惇 nhận lệnh từ An Thạch, đến khi tấu công Thần khảo vội vàng thăng chức cho Đôn và dùng. Việc Quảng Tây, Thẩm Khởi 沈起 cũng nhận lệnh từ An Thạch, đến lúc thất bại, Thần khảo che đi và bênh- vực cho rằng việc sai lầm sinh sự từ Trung Thư 中書 [bộ phận trực tiếp phụ giúp vua], [bẻ cong sự thật mà] theo lời An Thạch tha tội chết cho Thẩm Khởi và chưa từng trách An Thạch. Thần khảo cư xử với An Thạch có thể nói rằng rất hậu, thế còn An Thạch báo đáp Thần khảo nên như thế nào? [ lời tác giả: thần hôm nay tham khảo ghi chép hàng ngày của vua, thấy quả An Thạch cũng muốn chấn hưng, trước đây có thư từ Mai Sơn của Lý Nhược 李若 nói [An Thạch] là kẻ ngu dốt, nhưng Thần khảo cứ ân sủng hắn lâu là không hay, lại trước cũng có thư nói nên lấy Chương Đôn làm phó, nhưng Thần khảo bị cái thói du thuyết giỏi [ của Thạch] bèn sửa đổi mà trao chức cho Thái Diệp 蔡燁].

Thẩm Khởi tự ý khiêu- khích dân Man, khiến cho Giao Chỉ xâm- phạm biên cương, vây hãm rồi tấn công khiến cho Ung Châu, Khâm, Liêm đều thất thủ, kẻ sinh sự là Khởi, mọi người đều biết, [kẻ] tạo mưu là An Thạch [thì] mọi người không biết hết. Lúc việc biên giới chưa gây nên, Thần khảo đã có chiếu thư bãi Khởi, bảo rằng:

- Việc dùng binh Hy Hà chưa chấm- dứt, Thẩm Khởi tại phương nam lại gây việc dẫn đến khiêu khích.

Muốn trị tội Khởi để yên trong ngoài, nhưng An Thạch không chịu phụng chiếu. Năm sau quả có sự biến, dân ba châu gan óc lầy đất, mấy lộ lo lắng bất mãn, riêng một người [chỉ vua Tống] lao khổ. Đương thời chiếu ban sinh linh một lộ, bị lâm vào cảnh giết chóc, việc dân bị cướp trách nhiệm gây nên, tội tất tại Khởi. Nhưng Khởi sở dĩ không bị chết, là nhờ An Thạch bảo hộ. Thần khảo mấy lần trái lời xin, không muốn thi- hành đến nơi. An Thạch rút lui rồi viết sách, truy- cứu ghi việc này, bảo rằng Thẩm Khởi kinh chế, đều mật mưu với vua, các Công đều không tham dự, những điều Khởi tâu Thiên tử đều chấp nhận. Ô hô! 4 lần gây sự biên giới, 2 bại, 2 thắng; 2 lần thắng đều qui công cho mình, 2 lần bại thì đổ oán vào Thiên tử, những lời biện luận của Lã Hối 呂誨 [ giữ chức Ngự sử trung thừa, kịch liệt phản đối biến pháp của Vương An Thạch] đã sớm biện biệt ra.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tống Thần Tông ngày Nhâm Thìn tháng 4 Hy Ninh thứ 6 [28/5/1073], viên tân Tri Quế Châu Thẩm Khởi xin cho tráng đinh 51 khe động cùng bày thành sửa sang áo giáp vũ khí, sai quan tập luyện; được chấp thuận.

Tống Thần Tông ngày Nhâm Thân tháng 8 năm Hy Ninh thứ 6 [5/9/1073], Trú bạc đô giám Quảng Nam Đông Lộ [Quảng Đông] Dương Tòng Tiên 楊從先 tâu:

- Lộ này có 1 vạn 4 ngàn tay thương [ số quân], nay bày ra bảo giáp nếu cho 2 đinh lấy 1, thì số bảo đinh là 25 vạn 8 ngàn, nếu 3 đinh lấy một 1, thì số bảo đinh là 13 vạn 4 ngàn, tối thiểu thí số bảo đinh gấp 10 lần số quân binh. Xin ủy quyền cho lộ phân công 2 viên Đô giám và Đề cử huấn luyện.

Chiếu cho Ty Nông Tự định rõ điều ước rồi trình lên. Sau đó có lệnh ban, hộ loại đệ tứ trở lên cứ 3 đinh lấy 1 người; cứ 100 người làm 1 đô, 5 đô thành 1 chỉ huy. Từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau, ngày trăng tròn duyệt tập 1 phiên, cứ 3 ngày một lần tỷ thí, đợi cho tài nghệ cao mới cho trở về. [ lời tác giả: Bản Chí cũng chép như vậy, đoạn này, tác giả tỏ ra nghi ngờ các con số].
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tống Thần Tông ngày Ất Hợi tháng 10 năm Hy Ninh thứ 6 [7/11/1073], Tri Quế Châu Thẩm Khởi tâu:

- Khe động tại Tả, Hữu Giang Ung Châu, các viên ty chức trước chưa từng ra lịch đi tuần, nay Chuyển vận phán quan Đỗ Phác 杜璞 một mình đầu tiên thực hiện, sợ vì vậy các Man kinh sợ nghi ngờ.

Chiếu ban cho Phác y theo lệ cũ mà xuất quân đi tuần, việc huấn luyện binh giáp tại các động lệnh ty kinh lược sai quan thi hành.

Tống Thần Tông ngày Bính Tý tháng 4 năm Hy Ninh thứ 6 [12/5/1073], ty kinh lược Quảng Nam Tây Lộ Câu đương công sự Ôn Cảo溫杲 tâu:

- Chiếu chỉ bổ Nùng Tông Đán 儂宗旦, Nùng Trí Hội 儂智會 làm Tướng quân, vì dân Di không biết chức quan này, muốn xin một chức Cận thượng ban 近上班 hoặc Phó sứ.

Chiếu ban cho Tông Đán và Trí Hội đều giữ chức Cung bị khố phó sứ, Tôn Đán làm Đô giám Quế Châu, Trí Hội làm Tri Quy Hóa châu 歸化州.

Vào thời Tống Gia Hựu [1056-1059], bọn Nùng Tôn Đán đã đem động Vật Ác qui phụ, bèn đặt tên là châu Thuận An, đến thời Trị Bình [1064-1067] Nùng Trí Hội đem động Vật Dương qui phụ, đổi là châu Qui Hóa.

Tống Thần Tông ngày Bính Thân tháng 10 năm Hy Ninh thứ 6 [28/11/1073], Thẩm Khởi tâu:

- Lưu Kỷ 劉紀 đất Giao Chỉ muốn qui thuận, triều đình chưa cho, sợ sẽ gây sự giống như Nùng Trí Cao.

Thiên tử hỏi các quan chấp chính về việc Giao Chỉ, đều cho rằng chưa thể hứa với Lưu Kỷ, nếu hứa cho Lưu Kỷ, Giao Chỉ tất tranh. Vương An Thạch tâu:

- Nghe tin Ôn Cảo 溫杲 [Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ] sắp tới, đợi Ôn Cảo tới, thượng lượng tìm ra hướng giải quyết.

Thiên tử bảo:

- Việc Giao Chỉ [ta] có thể hiểu, chỉ sợ Thẩm Khởi hiểu không đến nơi đến chốn.

An Thạch tâu:

- Khởi thường tự phụ coi thường, nhưng việc binh rất khó, thành thật sợ rằng Khởi coi thường.
Phùng Kinh 馮京 tâu:

- Giao chỉ làm sao có thể đồng lòng được, e rằng dân này cấu kết tương trợ với nhau không vững, không được như người Khương 羌人.

An Thạch tâu:

- Tại Giao Chỉ giữ chức quan trọng phần nhiều là người Mân 閩人 [ người Việt gốc Phúc Kiến], như vậy thổ dân [có lẽ An Thạch nói đến người Việt gốc Giao Chỉ] không có chân để dựa.

[Lời tác giả: Sự việc ghi vào ngày 27].
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tống Thần Tông ngày Ất Tỵ tháng 7 năm Hy Ninh thứ 6 [9/8/1073], bọn Lý Hoài Tố 李懷素, Tiến phụng sứ Giao Chi xin tìm tận gốc viên Nha quan Đặng Am 鄧暗. Trước đó, Đặng Am trên đường [đi sứ thì] bị bệnh, chở đến Trương Tam Quán 張三館 [kiểu như bệnh xá], y bảo rằng bệnh đã sắp lành, không muốn khiêng nữa, rồi lạc mất, không biết ở đâu. Chiếu ban cho Ung Châu trình bày đầy đủ [ hành tung] những người Giao Chỉ từ khi vào biên giới và khởi trình, cùng gửi văn thư cho Tĩnh hải quân An Nam và ra lệnh phủ Khai Phong 開封府 [kinh đô Bắc Tống] trình bày đầy đủ về việc Đặng Am, cung cấp bằng chứng công văn cho bọn Hoài Tố.

Tống Thần Tông ngày Canh Tý tháng 3 năm Hy Ninh thứ 7 [1/4/1074], mệnh Tri Kiền châu [Giang Tây] Đô quản viên ngoại lang Lưu Di Trực 劉彞直, sứ quán Tri Quế châu. Tri Quế châu, Lang trung bộ Hình, Thiên chương các đãi chế, Tập hiền điện tu soạn Thẩm Khởi lệnh đến Đàm Châu 潭州 [Hồ Nam] đợi nghe chiếu chỉ. Trước đó Chuyển vận sứ Quảng Tây là Trương Cận 張覲 tâu Đô tuần kiểm Tiết Cử 薛舉 tự tiện thu nhận Nùng Thiện Mỹ 儂善美 vào đất tỉnh, nhưng Thẩm Khởi không cấm. Nhà vua phê:

- Hy Hà dùng binh còn chưa biết tin tức thế nào, mà Thẩm Khởi tại phương nam còn làm việc thưởng xằng bậy, toàn đi sinh sự với dân Man, nếu không sớm làm việc bình trị, thì gây cho Trung Quốc mối hoạn lớn, thực không thể chểnh mảng lơ là được. Cần cấp tốc nghị bàn việc bãi Khởi, trị việc tự tiện chiêu nạp, để yên lòng trong ngoài.

Do đó Trung thư tỉnh xin cho lấy Tôn Cấu 孫構 hoặc Khang Vệ 康衛thay Khởi. Bấy giờ Cấu làm Chuyển vận sứ Kinh Hồ Bắc Lộ [Hồ Bắc], Vệ giữ chức Tri Đàm châu [Hồ Nam]. Nhà vua phê:

- Chương Đôn 章惇 chẳng bao lâu nữa sẽ tới Kinh khuyết, việc tại Hồ Bắc cần Tôn Cấu lo liệu, còn Khang Vệ [trẫm] không biết là người như thế nào? Nếu Hùng Bản 熊本 có thể dừng việc [đang làm], để đi [nhận chức mới] thì rất tốt.

Nhưng bọn Vương An Thạch, Trần Thăng Chi 陳升之 đều tâu là Hùng Bản mới giữ chức Kinh lược về dân Di tại Lô Châu 瀘州 [Tứ Xuyên]; Lô Châu, Quế châu cách nhau quá xa, mà Quảng Tây hiện tại thì cần người gấp. Phát vận phó sứ Giang Hoài Trương Hiệt 張頡, Tri Kiền Châu là Lưu Di 劉彞 có thể dùng thay Khởi, nhưng Lưu Di tiện đường, đến Quế Châu gần hơn. Bèn ban chiếu sai Lưu Di đi, vẫn ra lệnh những việc không lên làm giống như trước kia đã sai Khởi, lại bảo Di bao dung việc Khởi dung nạp Nùng Thiện Mỹ. Sau đó Di tâu việc dung nạp Thiện Mỹ, triều đình vẫn ra lệnh cho Thẩm Khởi giữ chức Tri Đàm châu. Thẩm Khởi cho người chiêu dụ Tù trưởng Nùng Thiện Mỹ tại châu Ân Tình 恩情州 [ nay là BẠch Thông, Ngân Sơn và 1 phần Thất Khê].
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top