Lễ bộ thị lang là Vương Thiều王韶 đã tranh biện kịch-liệt, chủ trương không muốn gây việc binh đao, muốn nuôi dân lực và bớt phí-tổn cho nước. Vì thế, Thiều đã sinh hiềm-khích với An Thạch.
Lão thần Phú Bật 富弼 đã về nghỉ, bỗng thấy lo ngại. Tháng 6 năm ấy, dâng sớ tỏ lòng thắc-mắc:
- Tôi về ở chốn lều tranh, không biết đến nhân tình. Mới đây, nghe Man Lào [ Giao Chỉ] xâm phạm cõi, gieo họa cho Lưỡng Quảng. Mà nay, dân mất mùa. Nên tha thuế, giúp đỡ dân. Đợi lúc Lĩnh Nam yên-ổn, mùa màng khá, rồi lại lo việc đánh Giao Chỉ, thế cũng chưa muộn. Người ta lại đồn rằng: “giặc Man cướp rất nhiều, rồi đã lập-tức trốn về. Như thế thì không cần đánh vội. Nhưng vương sư [ quân nhà vua] đã ra đi, ắt là để đánh chúng. Quân thủy lục đã tiến, uy đức đã ban. Bệ hạ nên hạ chiếu cho Quách Quỳ tới Lưỡng Quảng, xét định kỹ-càng về việc công-thủ thế nào, rồi tâu về. Nếu có thể đánh được thì đi. Nếu không, thì nên liệu cách khác để cho toàn danh-vọng của vương sư.
Các đại thần khác, thấy vua không hỏi ý kiến, đều lấy làm bất-mãn. Bèn nhao nhao bàn-bạc, dâng sớ, hoặc để can-gián, hoặc để hiến mưu.
Triều Bổ Chi 朝補之 dâng sớ, khẩn thiết đề ra ngũ thành ngũ bại [ năm điều có thể thành công, 5 điều có thể thất bại]:
5 điều thành công:
1. Giao Chỉ đã cướp đất Tống, Tống đem quân đi hỏi tội là có danh-nghĩa.
2. Bầy tôi Tống đều trung-thành và có nghĩa-khí. Xem chuyện Tô Giám thì rõ.
3. Từ khi vua [Tống Thần Tông] lên ngôi, võ bị được chấn-hưng. Nay binh mạnh, khí giới nhiều.
4. Giao Chỉ là một nước nhỏ. Chỉ cần tướng ngoài biên với quân địa phương cũng đủ phá. Thế mà nay phát đại binh đi đánh [quá mạnh].
5. Các tướng [Tống] có nhiều mưu, và đã bàn cùng vua kỹ-càng. Còn Giao-chỉ kiêu-căng nhưng ngu-muội.
5 điều đáng ngại, sẽ dẫn đến thất bại:
1. Đến lúc cùng đường quá, Giao Chỉ sinh gian xảo. Có thể giả tỏ vẻ hèn để lừa quân Tống, khiến quân [Tống] chủ quan mà mắc mưu.
2. Đất Giao Chỉ nóng nực, nhiều lam chướng, nhiều rắn rết.
3. Quân Tống phải đi đánh xa, lương thảo rất khó lo liệu đủ. Mà muốn lấy lương địch để nuôi quân mình, thì đất Giao Chỉ nhỏ bé, vốn không đủ nuôi dân chúng, nếu chúng thực hiện kế vườn không nhà trống, thì khó có lương [ mà cướp].
4. Đất Giao Chỉ nhiều rừng núi, khe ngòi. Quân Tống chỉ quen dùng xe, ngựa, là lợi thế [nếu đánh ở] đồng bằng. Quân địch lại quen đường lối. Quân Tống dễ bị đánh lén.
5. Quân Tống mộ ở Hà Bắc, Kinh Đông, gồm một nửa là lính mới. Vùng ấy toàn những lũ dân du-đãng, nay cùng thế, mới đăng lính. Chúng rất ô-hợp, khó điều-khiển và không có dũng-khí.
Ngoài ra, Bồ Chi cũng tấu lên:
Giao-chỉ dùng không ra ngoài ba kế sau:
1. Giao Chỉ cố-thủ các cửa quan không chịu ra, để làm cho quân Tống đóng lâu, bị mỏi mệt. Nếu quân Tống rút, quân Giao sẽ tiến. Nếu quân Tống quay trở lại, quân Giao lại về giữ cửa quan. Làm như thế, vùng biên-thùy sẽ rất khổ. Đó là thượng-sách của địch.
2. Giao Chỉ bỏ hở các cửa quan để khiêu-chiến, nhử quân Tống vào chỗ đặt phục-binh. Quân Tống sẽ không tiến không lui được. Đó là trung-sách.
3. Giao Chỉ bỏ các cửa quan, xông ra chiếm đồn trại của Tống. Chúng sẽ bị đánh tan. Đó là hạ-sách.
4. Giao Chỉ không thể thi hành thượng-sách được, vì cần phải có ngoại-viện. Vậy nên sai sứ tới biên thùy, dụ dỗ các man dân theo Tống, để cắt chân tay của địch.
5. Giao Chỉ có thể vừa dùng thượng và trung sách, nên đem đại quân tới gần các cửa quan. Hoặc trương bày cho địch thấy, rồi sai quân tinh nhuệ đi đường tắt đánh quanh. Làm như thế để đối-phó với thượng-sách địch. Hoặc giấu đại quân, rồi sai quân kỵ giả cách trúng kế khiêu-khích của địch, chia ra hai cánh đánh vào địch. Nếu địch lui thật, thì cứ đuổi theo, nếu địch xông ra đánh lại, thì giả cách rút lui, nhử địch vào chỗ phục binh của Tống. Làm thế để đối-phó với trung-sách địch.
Khi Giao-chỉ dùng thượng và trung sách đều thất-bại, cùng túng, chúng sẽ xông ra đánh. Đó là hạ-sách của chúng. Giao Chỉ sẽ tan. Bị thua, Giao Chỉ sẽ chạy trốn. Tống nên đóng binh lại, chớ đuổi theo xa. Hoặc Giao Chỉ chạy vào chỗ hang cùng, theo vào đánh thì như chuột ngoài vào cắn chuột trong hang, chuộc trong chắc được. Hoặc Giao Chỉ chạy ra biển, đuổi theo thì quân Tống không thạo thủy chiến, hơi có gió đã sợ rồi, không biết sẽ chiến-đấu làm sao? Ngược lại, người Giao Chỉ giỏi thủy chiến. Từ xưa truyền lại rằng người Việt lặn xuống nước đội thuyền địch để lật úp. Đỗ Mục nói chúng có kẻ đi chìm dưới đáy bể mươi dặm mà không thở? Và nay, thuyền buôn thường gặp giặc biển, bị chúng lặn dưới nước đục thuyền.
Tống đất rộng của nhiều, cần gì lấy đất và của báu Giao Chỉ, chỉ cần phạt nhẹ cho nó hiếu-thuận mà thôi, nên theo cũ, chọn tướng soái tốt và giỏi, đặt làm thứ-sử và thái-thú, mộ thổ-binh để tự-vệ, mộ những kẻ hoặc ham công-danh, hoặc muốn báo thù, hoặc muốn chuộc tội, hoặc bất đắc chí tới đó ở. Đó là kế lo cho trăm đời. [ kế này rất nham hiểm, vì nó sử dụng chính người Việt đánh người Việt]
Lại có Trương Phương Bình 長方平 cũng dâng sớ, nói:
Từ đời Lý Nhật Tuân, Giao Chỉ bỏ việc cống. Triều đình đã rộng lượng tha cho, không hỏi tội. Các tướng biên ải đã cẩu-thả sao-nhãng sự canh-phòng. Bọn hung-hãn, trộm cướp, có kẻ bị giam đày mà bỏ trốn. Binh cũng có đứa ngoan đứa ngang ngạnh, bỏ trốn sang giúp giặc. Cho nên Càn Đức mới dám trái vương-mệnh, dùng nhiều người Trung Quốc.
Ngày trước [Lê Hoàn], triều đình sai sứ [Lý Cảo] đến Giao Chỉ. Sứ đã thấy trong thành chúng không có dân cư; chỉ có dinh thự ẩm-thấp, vài trăm khu nhà tranh để lính ở. Binh khí chỉ dùng cung nỏ, còn mộc bài, thuẫn, thương, trúc thương, chúng không dùng nổi [các vũ khí khác]. Thế lực chúng không đáng làm cho Trung Quốc sợ. Cho nên ta đã có phần coi khinh.
Trong đời Cảnh Đức [Tống Chân Tông 1004-1008], họ Lý trộm chiếm bờ cõi. Từ đó đến nay đã hơn 70 năm. Người nước ta lâu ngày không đến đó, nên không biết tình-hình hư thực thế nào. Nay nghe nói kinh-đô chúng có thành, hào mấy tầng, binh lực, dân chúng sung-túc. Chúng lại đánh được các nước nhỏ lân-bang. Thế-lực chúng, so với trước, thì mạnh hơn nhiều.
Thế mà, tướng ngoài biên, quan lại vẫn quen thói cũ, vẫn khinh thường, không lo. Cho nên mới sinh sự. Man dân có đứa hung-hãn, làm cho Giao Chỉ không chịu nổi. Giao Chỉ tố-cáo thì không nghe, gửi thư kêu thì không chịu nhận. Sự-tình bế-tắc, lâu chất chứa thành oán giận.
Đến lúc thuyền chiến chúng tới bờ biển ta, đại quân chúng tới gần thành ta, thì như là đến chỗ không người. Quân ta không lo phòng bị chống lại chút nào. Quân giặc đến đâu, thành ấp đều bị quét sạch. Cướp của cải, bắt con gái, đàn bà. Chúng tham-lam rất mực, tha hồ làm khốc-hại. Tôi nghe chuyện mà đau lòng.
Nhưng đó là chuyện cũ. Về sau này tôi xin hiến 9 điều:
1. Nay các vùng Hoài, Điện, Lưỡng [Quảng], Chiết [Giang], Giang Đông, Giang Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc đều bị đói kém. Vậy nên dùng mưu mà khống chế giặc, chớ nên dùng binh. Nên chọn hai tướng rất giỏi để trấn-thủ hai nơi Quảng Châu và Quế Châu, hãy chọn-lọc kẻ giúp việc cho kỹ để trị dân. Đem cấm binh giữ các lộ Kinh Hồ. Mộ thổ đinh để giữ thành ấp gần biên thùy. Đóng trại ở các chỗ trọng yếu, để cứu trợ lẫn nhau. Làm như thế, thì giặc thôi không giám nhòm-ngó đất ta nữa.
Đó là thượng-sách. Nhưng nếu nghĩ đã cất quân đi thì không lui được, tôi cũng xin hiến những điều sau, gọi là trung-sách.
2. Giặc vào cướp, đã trở về sào-huyệt được mấy tháng rồi. Tuy triều đình đã thưởng công, ban ân, nhưng còn thiếu. Nên ban lời an-ủi xuống Kinh Hồ, Quảng Nam để tỏ lòng thương xót của Bệ hạ. Nên tha-thứ cho kẻ có tội để cho quan lại, sĩ tốt không có lòng phản-trắc. Nên thưởng các tù trưởng để chiêu-dụ khê động. Nên chôn cất tàn cốt, cúng tế các vong-hồn.
3. Sáu lộ đông nam bị đói. Quan không có tiền cứu giúp. Lại thêm các phép Thanh miêu, Trợ dịch, Thị dịch, làm dân khốn-khổ. Trước hết, xin bỏ phép Trợ dịch ở bốn lộ Kinh Hồ nam và bắc, Quảng Nam đông và tây, và quay lại quy chế cũ, để gọi là tuyên bố đức-trạch.
4. Giặc không đông và không đủ mưu-trí bằng Trung Quốc, sở dĩ chúng giám phạm đất ta, là vì chúng ỷ thế núi biển hiểm, rừng bụi rậm. Nhân ta không phòng-bị, chúng mới được thỏa ý. Nay tôi nghe rằng đất Giao Chỉ hiểm-trở, đường rừng khó qua. Năm trước, chúng đem voi vào cống, có dọn đường cho voi đi, nhưng đi xong, cây cỏ lại mọc đầy. Đường vào nước chúng coi chừng rất khó, chỉ có chúng biết rõ mà thôi. Nay, chúng đã kéo về hết. Mà đánh chúng không gấp nữa. Ta phải lo sao cho toàn thắng. Nay ta đem đi mười vạn quân, mỗi ngày tốn ngàn lượng vàng. Nhưng binh giỏi không nên đưa vào đất độc, ngựa hay không nên ruổi trên đường hẹp. Doanh trại không chỗ đóng, đường tải lương không chỗ thông. Binh nhiều không chỗ dàn, xe cộ không thể dùng được. Như vậy, đến lúc của hết lực kiệt, sẽ rất hại cho uy nước. Nếu ta sang đánh bây giờ, mà mùa Đông này giặc chưa tan, thì mùa Xuân sau, quân ta ắt phải lui, rồi lại sửa-soạn tiến một lần nữa. Tôi cho rằng làm như vậy khó thành-công.
Bây giờ, Lĩnh Nam đã có vạn quân, giặc sao dám vào quấy. Huống chi các vùng Hoài, Chiết Giang, Kinh Hồ bị đói kém. Ta nên để quân đóng lại vùng Tương, Đăng (Tương Dương và Nam Dương, Hà Nam], là hai vùng được mùa. Làm như vậy, dân khỏi phải phiêu tán, mà binh no, ngựa béo. Đến cuối thu, ta lại phát binh. Như thế thì nhuệ-khí rất nhiều. Ta chắc thắng.
5. Tôi xét việc đánh Man, có thể dùng mẹo, chứ khó dùng sức. Huống chi Giao Chỉ, phong tục không giống những Man khác. Các Man khác từ trước đến sau, đều phục-tùng một họ tôn quý mà thôi. Còn ở Giao Chỉ, thì từ khi quốc-triều lập lên, thủ-lĩnh đã đổi đến bốn họ [Ngô, Đinh, Lê, Lý], mà đều là đại tướng lên cướp ngôi Chúa. Đó là thói quen của các phiên trấn cuối đời Đường. Vì vậy, thế Giao Chỉ dễ lật đổ. Càn Đức còn nhỏ. Những kẻ giúp việc đều theo 3 người [đoạn này không rõ ý, có lẽ nói đến Ỷ Lan, Lý Thường Kiệt chăng?]. Năm nay, khi chúng vào cướp đất ta, chúng lấy được nhiều vàng, lụa, con gái. Chắc chúng sẽ tranh-giành nhau khi chia của. Chúng sẽ chia thành ba bộ, do ba tù trưởng cầm đầu. Rồi chúng sẽ gây-hấn lẫn nhau. Bấy giờ ta đánh càng dễ.
6. Lâm Ấp [ Chiêm Thành] ở phía nam Giao Chỉ. Từ đời Đường, tới cống ta luôn. Đời quốc triều ta, vì bị Giao Chỉ chia cách nó mới đình việc tới cống. Đời Tấn, Tống, Lâm Ấp thường xâm phạm vùng Nhật Nam, Cửu Chân. Cuối Đường, hợp với Ai Lao, Nam Chiếu, nó lại vay hãm Giao Chỉ, và gây mối lo cho Trung Quốc.
Vậy nay, Lâm Ấp rất có thể làm hao-tổn Giao Chỉ. Lâm Ấp cách kinh đô Giao Chỉ 1.000 dặm, lại chung với Giao Chỉ đất Tượng [châu Ô, Châu Lý]. Nay từ Quế Châu tới Ung Châu còn 14 ngày đường, như thế thì Lâm Ấp tới Giao Chỉ còn gần hơn. Vậy ta nên sai sứ tới dụ Lâm Ấp diệt Giao Chỉ, rồi hẹn ngày cùng vào đánh. Nếu phá xong Giao Chỉ, ta sẽ cho nó Nhật Nam [Quảng Bình trở vào], Cửu Đức [Hà Tĩnh]. Man di tham lợi. Cứ hẹn như thế, chắc nó sẽ gắng sức làm.
7. Hậu quân đi nam chinh, nay còn ở phủ này, đợi ngày xuất quân. Ngoài quân của tướng Nam Kinh, lại còn có chừng 2.500 kị binh ở châu Kinh, Nguyên, Tần, Lũng. Các quân đã hẹn đến tháng 7 sẽ tới đây. Mùa Hạ và mùa Thu [ Giao Chỉ vẫn] nóng-nực. Mà đến Quế Châu đã phải đi vạn dặm rồi, ở Giao Chỉ, như trên đã nói, núi rừng rất hiểm, người không qua lại được, ngựa sẽ khó dùng. Trước kia, khi Nùng Trí Cao nổi loạn, Địch Thanh phá giặc ở vùng tây bắc Ung Châu. Đó là chỗ ngoài núi, địa thế rộng, phẳng. Ngựa có chỗ thi sức, cho nên mã quân đã có công to. Nay thì khác, Trí Cao chỉ là một thủ lĩnh khê-động, vào đất ta mà cướp. Còn Giao Chỉ là một nước, lại có đất đai xa và hiểm trở.
Quân ta lấy ở Tần, Vĩ, và quân cung tiễn thủ, vốn là để phòng-ngự các rợ Khương, Nhung ở mặt Bắc. Quân tốt ấy, ngựa hay ấy, tới kinh sư mà còn chưa chịu được thủy thổ, huống chi là xua chúng vào nơi hiểm-độc. Đã không dùng chúng ở đó được, mà khi trở về, sẽ còn sống được bao nhiêu? Huống chi giặc Nhung ở mặt bắc, vẫn đang rình ta. Ví bằng nhân đa số quân kỵ binh ta xuống phương xa, chúng đột-nhiên vào quấy, thì vì đường xa, quân ấy về cứu sao kịp?
Vậy xin đem kỵ binh trở lại. Chỉ nên chọn đinh tráng ở các lộ Kinh Hồ, thêm vào với thổ binh mà dùng. Tướng thì chọn người am hiểu sơn xuyên, địa lợi. Còn nếu muốn dùng kỵ binh, chỉ nên dùng ngựa miền Nam, vì nó quen thủy-thổ và quen đi lại chỗ hiểm trở.
8. Ti An Nam chiêu thảo hẹn đến trung-tuần tháng 7 sẽ tới Đàm Châu. Đàm Châu cách Quế Châu 14 ngày đường. Mà ở ngoài Ngũ Lĩnh, tháng 8, tháng 9 rất nhiều lam chướng; từ tháng 10 trở đi mới bớt. Nếu quân chưa ra ngoài Lĩnh, còn đóng đợi lại ở Đàm Châu, thì vì Hồ Nam đã bị đói, lương thảo sẽ khó lòng lo đủ để ở đó lâu, vận chuyển rất tốn kém. Nhưng nếu cứ tiến ra ngoài Ngũ Lĩnh, thì sợ chướng-độc làm cho người và ngựa, chưa dùng, đã ốm.
9. Từ trước, mỗi lúc bản triều có việc biên ải, từng sai quần thần bàn-bạc một cách rộng-rãi. Nay, muốn đánh Giao Chỉ, ta đem mười vạn quân đi, phải trải qua nhiều nguy-hiểm. Lợi hại như thế rất lớn. Thế mà Bệ hạ tự định trước một mình. Tuy quốc luận cũng đồng ý, nhưng xin cứ hỏi ý-kiến các quan trong ngoài, các cận-chức, để cho rộng lời bàn-luận. Làm như thế, không những sẽ biết được ai hay giỏi, và sẽ làm yên lòng quân, lòng dân, mà lại còn có thể tìm được những kế-hoạch hay nữa.
[ Lời tác giả: Lời bàn của Trương Phương Bình rất là xác-đáng, nhưng mong đợi dân Giao Chỉ chia bè-đảng thực khó. Sự thi-hành phần lớn cũng hợp với lời bàn. Quách Quỳ, do-dự. Triệu Tiết thì vận chuyển lương không đủ. Lại thêm lam-chướng và quân Giao chống-cự mạnh. Cho nên, tuy soạn-sửa chu đáo, kế-hoạch hợp lý, nhưng cuối cùng cũng không thành-công].