[Funland] Dịch sách cổ: Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên: chuyện nhà Lý, Lý Thường Kiệt, Nùng Trí Cao.

belo

Xe điện
Biển số
OF-76592
Ngày cấp bằng
29/10/10
Số km
2,807
Động cơ
377,150 Mã lực
Nơi ở
Da nang
Cả Ỷ Lan và Lê Văn Thịnh đều cùng mang họ Lê và đều ở Bắc Ninh cả.
Ỷ Lan ở Thổ Lỗi Thuận Thành còn Lê Văn Thịnh thì ở Đông Cứu Gia Bình Bắc Ninh.
Tính ra cả hai vừa đồng tộc lại vừa là đồng hương
Có cái đền thờ bà Ỷ Lan, ở quê hương bà ấy, ở Như Quỳnh, đường 5 rẽ vào một đoạn. Không phải ở Thuận Thành, Bắc Ninh đâu cụ.
 

Arjuna82

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-798965
Ngày cấp bằng
1/12/21
Số km
654
Động cơ
22,568 Mã lực
Tuổi
38
Có cái đền thờ bà Ỷ Lan, ở quê hương bà ấy, ở Như Quỳnh, đường 5 rẽ vào một đoạn. Không phải ở Thuận Thành, Bắc Ninh đâu cụ.
hương Thổ Lỗi (đời Nguyễn thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc khu vực Làng Sủi, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội).
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngày Đinh Vị tháng 2 năm Hy Ninh thứ 9 [28/3/1076], chiếu ban An Nam tuyên phủ ty phó sứ Triệu Tiết làm Đô đại đề cử kế trí [ tính toán, phân bố, sắp xếp] lương thảo.

Triệu Tiết tính toán: với số quân 10 vạn, ngựa chiến 1 vạn, dân công 20 vạn, cần số lượng lớn lương thực, cỏ, công cụ cho cuộc hành quân dài ngày, đó là điều quan trọng hàng đầu, nên vua giao cho Triệu Tiết đặc trách ty Chiêu thảo. Tiết cũng tính toán là nếu số quân 8 vạn, hành quân trong 8 tháng, phải cần đến 800.000 cân lương thảo, như vậy với quân số nhiều hơn, nhu cầu ắt phải lớn hơn.
Ngày Đinh Tỵ tháng 3 năm Hy Ninh thứ 9 [7/4/1076], chiếu Quảng Nam Tây Lộ [ nếu] bắt được bọn giặc Giao Chỉ, chưa được giết, cho ty chiêu thảo cân nhắc dùng làm hướng đạo [làm tay sai chỉ đường].

Ngày Bính Ngọ tháng 4 năm Hy Ninh thứ 9 [26/5/1076].

Chuyển vận sứ Quảng Nam Tây Lộ Lý Bình Nhất tâu:

- Điệp thần ty tuyên phủ An Nam đi theo quân lương, dùng 1.000 chiếc thuyền đáy bằng xuất phát từ Hồ Nam, Quảng Đông, mướn thủy thủ vận tải tiền và lương thực. Cùng sai mang quân trước khống chế các trại Thái Bình [Sùng Tả, Quảng Tây], Vĩnh Bình [Bằng Tường, Quảng Tây]. Điều cần thiết là không gây sự lầm lỡ, việc vận chuyển lương không được khinh suất.

Chấp nhận, việc phát binh lệnh ty kinh lược cùng nhau cẩn trọng thi hành [ theo kế hoạch sau đây:]
Kế hoạch vận chuyển trong nước, chủ yếu dùng đường thủy, sử dụng 1.000 thuyền đáy bằng, xuất phát từ Hồ Nam và Quảng Đông, tập trung tại hạ lưu sông Minh Giang, trại Thái Bình hoặc Vĩnh Bình gần biên giới. Tuyến Hồ Nam, thuyền ngược dòng sông Tương, vượt Linh Cừ, qua Quế Giang, rồi ngược dòng sông Uất qua Nam Ninh, ngược sông Tả Giang đến sông Minh Giang. Nếu xuất phát từ Quảng Đông, thuyền ngược dòng Bắc Giang, rồi qua sông Uất, ngược Tả Giang đến Minh Giang.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngày Kỷ Sửu tháng 4 [9/5/1076].

Quảng Nam Tây Lộ chuyển vận ty tâu:

- [về vận chuyển đường bộ] Xin bệ hạ xuống chiếu cho lộ Kinh Tây Nam mượn một, hai ngàn cỗ xe hai bánh Giang Châu để chuẩn bị chở lương.

Chiếu ban ty chuyển vận lộ Kinh Tây, ty Đề điểm phủ Khai Phong cung cấp [ thêm cho] 1.000 cỗ xe đưa đi.

Ngày Đinh Dậu tháng 4 năm Hy Ninh thứ 9 [17/5/1076], chiếu ban:

- Nghe tin giặc Giao Chỉ sử dụng nhiều kẻ gian thám sát tình hình quân sự tại Nhị Quảng [Quảng Đông, Quảng Tây], lệnh tướng quan thuộc Tuyên phủ ty không để kẻ lạ quan sát chỗ huấn luyện duyệt binh, phòng ngừa kẻ địch tiến thoái nhòm ngó. Không được cho người lạ ra vào, nghe, hay nhìn từ xa những bài tập của binh lính quan quân như: đánh kích, tiến quân tấn công kẻ địch, phương pháp rút lui.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngày Nhâm Tý tháng 8 [29/9/1076], lại ban chiếu: hiện tại các nhà sư tại Quảng Nam lộ tạm đình chỉ việc xét hỏi bằng đi ra ngoài, nguyên do Chuyển vận ty Quảng Đông tâu:

- Nghe tin Giao Chỉ mới đây chiếm các châu Khâm, Liêm, bắt được sư sãi tăng ni hơn 100 người, đoạt lấy bằng [ cấp] chứng nhận nhà sư đã xuất gia do triều đình cấp rồi giết chết. Sau đó [ Giao Chỉ] lệnh cho cài gián điệp giả làm tăng đạo để trinh sát tình hình quân sự.

Lúc bấy giờ, Lý Thượng Cát triệt-để lợi-dụng mọi phương-tiện để dò hành-động, chiêu-dụ người Trung Quốc theo và giúp mình.

Vua bèn xuống chiếu dặn các lộ Quảng Đông, Giang Tây, Phúc Kiến rằng:

- Lúc mộ quân hiệu-dụng, phải coi chừng, kẻo tụi gian lẫn vào. Coi chừng tụi dân thuyền-chài dọc bờ biển. Nếu chúng ra vào, thì phải xét chúng đi đâu, kẻo sợ chúng làm trinh-thám cho Giao-chỉ.
Ngày 12 tháng 4, vua lại hạ chiếu, nói:

- Nghe Giao Chỉ sai nhiều kẻ gian tới thám Lưỡng Quảng. Vậy các chỉ huy, các tướng phải coi chừng. Đừng để nó dò được phép công, thủ, tiến, thoái của ta. [ Trẫm] nghe nói Phúc Kiến, Quảng Nam có nhiều người sang buôn-bán ở Giao Chỉ, nay lại ở đó để Giao Chỉ sử-dụng sai khiến. Vậy chiếu cho người nhà những kẻ ấy phải khai rõ, để chiêu-dụ chúng về. Ai về sẽ được bổ-dụng.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngày Mậu Tý tháng 8 năm Hy Ninh thứ 9 [5/9/1076].

Vua gửi mật chỉ cho Quách Quỳ, nói:

- Sau khi bình được Giao Châu, sẽ đặt châu huyện như ở nội-địa.

Trước đây, Quỳ và Tiết vẫn hay bất hòa, Tiết vốn xuất thân tiến-sĩ. Bấy giờ còn coi Diên Châu [Diên An Thiểm Tây]. Lúc nước Hạ chống Tống, Quách Quỳ được sai đi tuyên-phủ Thiểm Tây. Quỳ đóng quân ở Diên An. Tiết giúp việc ở đó. Bấy giờ Quỳ, Tiết mộ kỵ-binh ở dân bản thổ được 17.000. Tiết tập-luyện đội quân này, trở nên hay hơn quân chính-binh. Vua rất khen, mới cất Tiết lên chức Thiên chương các thị chế. Vì vậy, lúc muốn đánh Giao Chỉ, vua và Vương An Thạch liền cử Tiết cầm quân, nhưng Quỳ không ưa. Quỳ là một võ tướng như Địch Thanh. Vì người anh có công, nên Quì được trọng-dụng. Quỳ đã từng giúp Phạm Trọng Yêm giữ biên-thùy giáp Hạ. Bấy giờ Quỳ còn coi phủ Thái Nguyên. Tính Quỳ cẩn-thận, bàn việc rất đứng-đắn, nhưng có vẻ cẩn-thận quá, hoá ra rụt-rè chậm-chạp. Vua cũng biết vậy. Vua muốn hai tướng tương-đắc với nhau để làm việc.

[ Lúc] Quì còn ở kinh sư, yết-kiến vua để chuẩn bị xuất quân. Vua đặc-biệt tiếp tại điện Diên Hòa.
Vua hỏi:

- Dẹp An Nam bằng cách nào?

Quỳ cẩn-thận trả lời:

- Về việc binh, khó lòng ở xa mà tính được. Xin đợi đi đến Ung Châu, rồi sẽ hiến phương-lược.

Vua lại hỏi:

- Dùng quân phải thế nào?

Quỳ đáp:

Xin đưa theo tất cả tướng, lại, quân, sĩ cũ ở các châu Phu Diên tại Hà Đông [Thiểm Tây].

Đó là vì Quỳ vừa cầm quân ở châu ấy, muốn đem bộ-thuộc quen dùng của mình đi theo. Ý ấy cũng hợp với ý vua. Từ ngày 13 tháng giêng, đã có lệnh chọn những tướng được sung vào việc cầm các đạo quân đi chinh phạt phương Nam. Các tướng ấy đều lấy ở các doanh tại tây bắc. Các tướng
gồm:

1 - Diêu Tự 姚自hiện làm hàm-hạt ở Kinh nguyên.
2 - Lý Hạo 李浩 hiện làm hàm-hạt ở Hi Hà.
3 - Trương Chi Giám 張之鑑 tướng hiện đóng quân ở Tần Phương.
4 - Dương Vạn 楊萬 hiện làm đô-giám ở Hoàn Khánh.
5 - Lôi Tự Văn 雷緒文tướng làm đô-giám ở Hoàn Khánh.
6 - Lữ Chân 呂眞 phó tướng hiện làm đô-giám Diên Phu.
7 - Lý Hiếu Tôn李孝孫 hiện làm đô-giám ở Hoàn Khánh.
8 - Trương Thế Cự 張世巨 hiện làm phát-khiển ở Phong Châu.
9 - Địch Tường 狄祥tướng hiện đóng ở Hà Bắc.
10 - Khúc Chẩn 曲賑 phó tướng hiện đóng ở Diên Phu.
11 - Quản Vi 錧圍 phó tướng hiện đóng ở Kinh Tây.
12 - Vương Mẫu 王母 phó tướng hiện đóng ở Hà Đông.

Vua Tống bằng lòng, rồi cắt công việc. Bèn sai Triệu Tiết xuống miền nam trước, để trông coi những quân đã mộ tại các miền ấy. Ngày 21 tháng 2, lại sai Tiết coi riêng về việc lương-thực.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngày Tân Sửu tháng 2 năm Hy Ninh thứ 9 [22/3/1076], Triệu Tiết vào triều đình từ biệt, Thiên tử căn dặn:

-Phép dùng dân đinh khe động trước hết đem cho chúng thực lợi, sau đó mới sai khiến, không có thể dùng lời nói ngọt suông để ra lệnh. Như việc kiểm điểm giáo huấn quân phiên tại Phu Diên 鄜延 [Diên An, Thiểm Tây, lúc này vẫn đang tranh-chấp với Tây Hạ] khanh đã chế ngự được, tội nhẹ có thể tha cho, tội nặng phải giết. Sai trái đối với kẻ địch Tây Hạ mối họa còn xa, nhưng sai trái trong quân ta thì mối họa đến nhanh chóng, đúng như binh pháp dạy sợ [nội bộ] ta, không sợ kẻ địch. Nếu không có thực lợi, muốn đòi hỏi chúng đem hết sức mà tuân lệnh, thực là khó lắm.

Nay khanh tuyển mộ lính bản địa 1,2 ngàn tên tinh nhuệ khỏe mạnh, chọn một viên tướng giỏi chỉ huy, uy-hiếp những dân đinh trong các động, rằng khi đại binh đến, theo ta thì được thưởng, không theo ta thì giết; nếu quả không theo thì tru di 2, 3 họ làm gương. Binh uy đã lập, trước hết uy hiếp Hữu Giang [Quảng Tây], rồi uy hiếp Tả Giang [Quảng Tây], sau khi bọn chúng qui thuận, thì đánh sào huyệt Lưu Kỷ [ Quảng Nguyên, Cao Bằng] không mấy khó khăn. Quách Quỳ tính keo kiệt bủn-xỉn, khanh nên bảo rằng triều đình không tiếc phí tổn, ngoài ra Quỳ quá nghiêm-khắc, không cảm thông với cấp dưới, tướng tá không dám trình-bày ý kiến, khanh đến đó chuyện trò với họ, ngoài ra đừng chủ quan khinh địch.

Lưu Kỷ giữ vùng Quảng Nguyên, trước đây, Lưu Kỷ đã xung đột với con Trí Cao là Nùng Trí Hội 儂智會 và có hiềm khích với Nùng Tông Đán 儂智旦. Kỷ có 5.000 quân tinh nhuệ.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngày mồng 8 tháng 5, khu mật viện tâu:

- Tụi Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, trước theo Giao Chỉ vào cướp đất ta. Nay sẵn có lòng hiệu-thuận, nhưng bị Giao Chỉ ép, nên không thể đổi chí-hướng đuợc. Y ở đó, thám-báo cho Giao Chỉ để lo tự phòng thủ yên thân. Vậy lúc đại quân tới vùng y đóng, phải trừ tụi ấy đi.

Vua muốn dùng lối ôn-hòa, bèn bảo Quỳ và Tiết nên dụ Lưu Kỷ, và hứa sẽ trọng-thưởng cho y, ban chức-tước, vàng, lụa, ruộng đất. Nhân đó vua lại bảo phải dụ dân các động, để dự-bị việc đánh Giao Chỉ. Dân động, hễ ai già thì để ở nhà cày, ai mạnh thì sung làm lính, cấp cho một ngày một thăng gạo, 20 đồng tiền. Lại dặn phải lập trại, rào chắn các nơi hiểm-yếu, luyện-tập dân-đinh, xem ai giỏi thì thưởng, ai đói thì giúp.

Ngày 23 tháng ấy, vua lại có chiếu nhắc ti An Nam tuyên-phủ:

- Phải đoàn kết Lưỡng Giang [Tả Giang và Hữu Giang]. Hàng ngày cấp tiền ăn cho cuờng-tráng, sai huấn-luyện võ nghệ. Nếu lương khó chở vào, thì lấy tiền bạc trả thay. Ở Tả Giang, trước đây có những động theo giặc, nay nên dùng đủ cách chiêu-dụ trở lại. Nếu chúng không chịu nghe thì nên liệu cách mà dẹp. Nếu có thể kết-ước được các khê-động ở đất giặc gần biên-thùy, thì nên làm. Rồi thừa cơ mà đánh, [ cho phép] tùy cơ mà thi-hành. Phải tuyển gấp binh lính, mộ cường-tráng cho được năm sáu nghìn người và sai Lưỡng Giang đoàn kết binh lực giúp nhau.

Vua lại bảo:

- Nếu có một vài khê động không quan trọng chưa chịu hàng, như bọn Dương Quang Tiềm ở Thiện Châu, thì cũng làm ngơ, chớ nên lưu đại-binh lại đó, vì sẽ có hại cho việc thảo phạt.

Vua [đã có ý] lấy phẩm hàm chiêu-dụ các thủ lĩnh [ Giao Chỉ] giữ biên giới, từ lúc ban đầu định xuất quân. Ngày 14 tháng giêng, định cấp 40 bằng trống tên cho ti chiêu thảo và ban riêng các loại [ phẩm] hàm: Cung bị khố phó-sứ cho các tri châu:

1. Vi Thủ An 韋取安 ở Tô Mậu
2. Hoàng Sầm Mãn 黃岑滿 và Nùng Thuận Linh 儂順零 ở Môn Châu
3. Tả tàng khố phó sứ cho Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên,
4. Nội điện sùng ban cho Sầm Khánh Tân 岑慶辛

Lại ngày 19 tháng 4, cấp cho ti chiêu thảo 92 đạo bằng sắc trống tên, để thưởng công và chiêu hàng.

Lúc Quỳ đã xuống Đàm Châu rồi, còn nhận được chiếu nhắc:

- Phải yết bảng chiêu-dụ thổ tù để chia thế giặc.

Về việc chiêu-dụ khê-động, các tướng không đồng ý với nhau. Cho nên vua [Tống Thần Tông] và Vương An Thạch có cuộc tranh-biện. Nguyên là ti tuyên phủ sai Khúc Chẩn 曲縝, là phó tướng đạo quân Tả đệ nhị, coi việc đoàn kết và huấn-luyện dân khê động. An Thạch không bằng lòng và muốn cử Ôn Cảo 溫杲. An Thạch nói:

- Chẩn người miền Tây, không quen dân tình khê động. Nên dùng Ôn Cảo.

Vua không bằng lòng, nói:

- Trước, Ôn Cảo đã nói: "dân khê động Lưỡng Giang theo giặc, ta không thể dụ chúng được nữa". Việc đó, nói vậy không đúng."

An Thạch cãi:

- Lúc quan quân chưa tới, thì cấm chúng theo giặc sao được. Đã không cấm chúng được, thì phải nói thật rằng chúng theo giặc. Vả, hoặc có kẻ theo giặc để làm nội-ứng, đó cũng là hay.

Vua bắt bẻ:

- Đã theo giặc, thì chúng phải làm con tin cho giặc, vả lại đến kẻ già hèn, cũng bị giặc dùng.

An Thạch nói:

- Sức giặc mạnh như vậy, ví thử ta không xui dân khê động hàng giặc, thì chúng cứ ra, cản sao được chúng.

Vua không bằng lòng, nói dỗi rằng:

- Nếu ta không xui chúng, thì chúng không dám theo giặc hết.

An-Thạch nhắc lại:

- Sức Giao Chỉ có thể uy hiếp áp chế nổi Lưỡng Giang, mà quân ta đã không tới cứu khê động. Vì cớ gì chúng nó không theo giặc?

Vua kết luận:

- Thế thì, chi bằng nay ta đoàn kết chúng đi!

An-Thạch trả lời:

- Thần đã bảo làm rồi.

Vua chê Ôn Cảo:

- Ti tuyên phủ tự xin đoàn kết chúng, thế mà Ôn Cảo đã cho là không thể làm được. Chẩn, tuy người miền Tây, nhưng cho sự tới Lưỡng Giang có thể làm, còn Cảo quen với Lưỡng Giang nhiều, lại không dám vào đó!

An Thạch bênh Cảo:

- Cảo, khi trước, đã xin vào đó, và đã vào sâu để đánh Giao Chỉ.

Vua hỏi:

- Sau, tại sao không chịu đi?

An Thạch trả lời:

- Vì sau Ung Châu mất, Cảo tưởng chưa nên đi.


Vua hỏi lại:
- Vì sao Cảo lại cho rằng đoàn kết không được?

An Thạch trả lời:

- Cảo nói rằng dân động cày bừa mà không đủ ăn, cho nên khó lòng đoàn kết chúng. Còn như sau này, Triều đình sẽ giúp đỡ, chuẩn-cấp cho chúng. Nếu bấy giờ, Cảo còn bảo không thể đoàn kết được, thì sẽ mang tội. Chứ khi xưa, không có điều-kiện thuận-tiện như thế. Vậy, tuy Cảo có nói không thể đoàn kết được, nhưng có tội gì đâu!

Vua nói:

- Nay ti tuyên phủ đã xin cho khê động tiền và gạo.


An Thạch nhắc lại:

- Lúc Cảo nói không thể đoàn kết được, thì chưa hề nghe nói có chi tiền gạo cho chúng gì cả.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Lễ bộ thị lang là Vương Thiều王韶 đã tranh biện kịch-liệt, chủ trương không muốn gây việc binh đao, muốn nuôi dân lực và bớt phí-tổn cho nước. Vì thế, Thiều đã sinh hiềm-khích với An Thạch.
Lão thần Phú Bật 富弼 đã về nghỉ, bỗng thấy lo ngại. Tháng 6 năm ấy, dâng sớ tỏ lòng thắc-mắc:

- Tôi về ở chốn lều tranh, không biết đến nhân tình. Mới đây, nghe Man Lào [ Giao Chỉ] xâm phạm cõi, gieo họa cho Lưỡng Quảng. Mà nay, dân mất mùa. Nên tha thuế, giúp đỡ dân. Đợi lúc Lĩnh Nam yên-ổn, mùa màng khá, rồi lại lo việc đánh Giao Chỉ, thế cũng chưa muộn. Người ta lại đồn rằng: “giặc Man cướp rất nhiều, rồi đã lập-tức trốn về. Như thế thì không cần đánh vội. Nhưng vương sư [ quân nhà vua] đã ra đi, ắt là để đánh chúng. Quân thủy lục đã tiến, uy đức đã ban. Bệ hạ nên hạ chiếu cho Quách Quỳ tới Lưỡng Quảng, xét định kỹ-càng về việc công-thủ thế nào, rồi tâu về. Nếu có thể đánh được thì đi. Nếu không, thì nên liệu cách khác để cho toàn danh-vọng của vương sư.

Các đại thần khác, thấy vua không hỏi ý kiến, đều lấy làm bất-mãn. Bèn nhao nhao bàn-bạc, dâng sớ, hoặc để can-gián, hoặc để hiến mưu.

Triều Bổ Chi 朝補之 dâng sớ, khẩn thiết đề ra ngũ thành ngũ bại [ năm điều có thể thành công, 5 điều có thể thất bại]:

5 điều thành công:

1. Giao Chỉ đã cướp đất Tống, Tống đem quân đi hỏi tội là có danh-nghĩa.
2. Bầy tôi Tống đều trung-thành và có nghĩa-khí. Xem chuyện Tô Giám thì rõ.
3. Từ khi vua [Tống Thần Tông] lên ngôi, võ bị được chấn-hưng. Nay binh mạnh, khí giới nhiều.
4. Giao Chỉ là một nước nhỏ. Chỉ cần tướng ngoài biên với quân địa phương cũng đủ phá. Thế mà nay phát đại binh đi đánh [quá mạnh].
5. Các tướng [Tống] có nhiều mưu, và đã bàn cùng vua kỹ-càng. Còn Giao-chỉ kiêu-căng nhưng ngu-muội.

5 điều đáng ngại, sẽ dẫn đến thất bại:

1. Đến lúc cùng đường quá, Giao Chỉ sinh gian xảo. Có thể giả tỏ vẻ hèn để lừa quân Tống, khiến quân [Tống] chủ quan mà mắc mưu.
2. Đất Giao Chỉ nóng nực, nhiều lam chướng, nhiều rắn rết.
3. Quân Tống phải đi đánh xa, lương thảo rất khó lo liệu đủ. Mà muốn lấy lương địch để nuôi quân mình, thì đất Giao Chỉ nhỏ bé, vốn không đủ nuôi dân chúng, nếu chúng thực hiện kế vườn không nhà trống, thì khó có lương [ mà cướp].
4. Đất Giao Chỉ nhiều rừng núi, khe ngòi. Quân Tống chỉ quen dùng xe, ngựa, là lợi thế [nếu đánh ở] đồng bằng. Quân địch lại quen đường lối. Quân Tống dễ bị đánh lén.
5. Quân Tống mộ ở Hà Bắc, Kinh Đông, gồm một nửa là lính mới. Vùng ấy toàn những lũ dân du-đãng, nay cùng thế, mới đăng lính. Chúng rất ô-hợp, khó điều-khiển và không có dũng-khí.
Ngoài ra, Bồ Chi cũng tấu lên:

Giao-chỉ dùng không ra ngoài ba kế sau:

1. Giao Chỉ cố-thủ các cửa quan không chịu ra, để làm cho quân Tống đóng lâu, bị mỏi mệt. Nếu quân Tống rút, quân Giao sẽ tiến. Nếu quân Tống quay trở lại, quân Giao lại về giữ cửa quan. Làm như thế, vùng biên-thùy sẽ rất khổ. Đó là thượng-sách của địch.
2. Giao Chỉ bỏ hở các cửa quan để khiêu-chiến, nhử quân Tống vào chỗ đặt phục-binh. Quân Tống sẽ không tiến không lui được. Đó là trung-sách.
3. Giao Chỉ bỏ các cửa quan, xông ra chiếm đồn trại của Tống. Chúng sẽ bị đánh tan. Đó là hạ-sách.
4. Giao Chỉ không thể thi hành thượng-sách được, vì cần phải có ngoại-viện. Vậy nên sai sứ tới biên thùy, dụ dỗ các man dân theo Tống, để cắt chân tay của địch.
5. Giao Chỉ có thể vừa dùng thượng và trung sách, nên đem đại quân tới gần các cửa quan. Hoặc trương bày cho địch thấy, rồi sai quân tinh nhuệ đi đường tắt đánh quanh. Làm như thế để đối-phó với thượng-sách địch. Hoặc giấu đại quân, rồi sai quân kỵ giả cách trúng kế khiêu-khích của địch, chia ra hai cánh đánh vào địch. Nếu địch lui thật, thì cứ đuổi theo, nếu địch xông ra đánh lại, thì giả cách rút lui, nhử địch vào chỗ phục binh của Tống. Làm thế để đối-phó với trung-sách địch.
Khi Giao-chỉ dùng thượng và trung sách đều thất-bại, cùng túng, chúng sẽ xông ra đánh. Đó là hạ-sách của chúng. Giao Chỉ sẽ tan. Bị thua, Giao Chỉ sẽ chạy trốn. Tống nên đóng binh lại, chớ đuổi theo xa. Hoặc Giao Chỉ chạy vào chỗ hang cùng, theo vào đánh thì như chuột ngoài vào cắn chuột trong hang, chuộc trong chắc được. Hoặc Giao Chỉ chạy ra biển, đuổi theo thì quân Tống không thạo thủy chiến, hơi có gió đã sợ rồi, không biết sẽ chiến-đấu làm sao? Ngược lại, người Giao Chỉ giỏi thủy chiến. Từ xưa truyền lại rằng người Việt lặn xuống nước đội thuyền địch để lật úp. Đỗ Mục nói chúng có kẻ đi chìm dưới đáy bể mươi dặm mà không thở? Và nay, thuyền buôn thường gặp giặc biển, bị chúng lặn dưới nước đục thuyền.

Tống đất rộng của nhiều, cần gì lấy đất và của báu Giao Chỉ, chỉ cần phạt nhẹ cho nó hiếu-thuận mà thôi, nên theo cũ, chọn tướng soái tốt và giỏi, đặt làm thứ-sử và thái-thú, mộ thổ-binh để tự-vệ, mộ những kẻ hoặc ham công-danh, hoặc muốn báo thù, hoặc muốn chuộc tội, hoặc bất đắc chí tới đó ở. Đó là kế lo cho trăm đời. [ kế này rất nham hiểm, vì nó sử dụng chính người Việt đánh người Việt]

Lại có Trương Phương Bình 長方平 cũng dâng sớ, nói:

Từ đời Lý Nhật Tuân, Giao Chỉ bỏ việc cống. Triều đình đã rộng lượng tha cho, không hỏi tội. Các tướng biên ải đã cẩu-thả sao-nhãng sự canh-phòng. Bọn hung-hãn, trộm cướp, có kẻ bị giam đày mà bỏ trốn. Binh cũng có đứa ngoan đứa ngang ngạnh, bỏ trốn sang giúp giặc. Cho nên Càn Đức mới dám trái vương-mệnh, dùng nhiều người Trung Quốc.
Ngày trước [Lê Hoàn], triều đình sai sứ [Lý Cảo] đến Giao Chỉ. Sứ đã thấy trong thành chúng không có dân cư; chỉ có dinh thự ẩm-thấp, vài trăm khu nhà tranh để lính ở. Binh khí chỉ dùng cung nỏ, còn mộc bài, thuẫn, thương, trúc thương, chúng không dùng nổi [các vũ khí khác]. Thế lực chúng không đáng làm cho Trung Quốc sợ. Cho nên ta đã có phần coi khinh.
Trong đời Cảnh Đức [Tống Chân Tông 1004-1008], họ Lý trộm chiếm bờ cõi. Từ đó đến nay đã hơn 70 năm. Người nước ta lâu ngày không đến đó, nên không biết tình-hình hư thực thế nào. Nay nghe nói kinh-đô chúng có thành, hào mấy tầng, binh lực, dân chúng sung-túc. Chúng lại đánh được các nước nhỏ lân-bang. Thế-lực chúng, so với trước, thì mạnh hơn nhiều.
Thế mà, tướng ngoài biên, quan lại vẫn quen thói cũ, vẫn khinh thường, không lo. Cho nên mới sinh sự. Man dân có đứa hung-hãn, làm cho Giao Chỉ không chịu nổi. Giao Chỉ tố-cáo thì không nghe, gửi thư kêu thì không chịu nhận. Sự-tình bế-tắc, lâu chất chứa thành oán giận.
Đến lúc thuyền chiến chúng tới bờ biển ta, đại quân chúng tới gần thành ta, thì như là đến chỗ không người. Quân ta không lo phòng bị chống lại chút nào. Quân giặc đến đâu, thành ấp đều bị quét sạch. Cướp của cải, bắt con gái, đàn bà. Chúng tham-lam rất mực, tha hồ làm khốc-hại. Tôi nghe chuyện mà đau lòng.

Nhưng đó là chuyện cũ. Về sau này tôi xin hiến 9 điều:

1. Nay các vùng Hoài, Điện, Lưỡng [Quảng], Chiết [Giang], Giang Đông, Giang Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc đều bị đói kém. Vậy nên dùng mưu mà khống chế giặc, chớ nên dùng binh. Nên chọn hai tướng rất giỏi để trấn-thủ hai nơi Quảng Châu và Quế Châu, hãy chọn-lọc kẻ giúp việc cho kỹ để trị dân. Đem cấm binh giữ các lộ Kinh Hồ. Mộ thổ đinh để giữ thành ấp gần biên thùy. Đóng trại ở các chỗ trọng yếu, để cứu trợ lẫn nhau. Làm như thế, thì giặc thôi không giám nhòm-ngó đất ta nữa.
Đó là thượng-sách. Nhưng nếu nghĩ đã cất quân đi thì không lui được, tôi cũng xin hiến những điều sau, gọi là trung-sách.
2. Giặc vào cướp, đã trở về sào-huyệt được mấy tháng rồi. Tuy triều đình đã thưởng công, ban ân, nhưng còn thiếu. Nên ban lời an-ủi xuống Kinh Hồ, Quảng Nam để tỏ lòng thương xót của Bệ hạ. Nên tha-thứ cho kẻ có tội để cho quan lại, sĩ tốt không có lòng phản-trắc. Nên thưởng các tù trưởng để chiêu-dụ khê động. Nên chôn cất tàn cốt, cúng tế các vong-hồn.
3. Sáu lộ đông nam bị đói. Quan không có tiền cứu giúp. Lại thêm các phép Thanh miêu, Trợ dịch, Thị dịch, làm dân khốn-khổ. Trước hết, xin bỏ phép Trợ dịch ở bốn lộ Kinh Hồ nam và bắc, Quảng Nam đông và tây, và quay lại quy chế cũ, để gọi là tuyên bố đức-trạch.
4. Giặc không đông và không đủ mưu-trí bằng Trung Quốc, sở dĩ chúng giám phạm đất ta, là vì chúng ỷ thế núi biển hiểm, rừng bụi rậm. Nhân ta không phòng-bị, chúng mới được thỏa ý. Nay tôi nghe rằng đất Giao Chỉ hiểm-trở, đường rừng khó qua. Năm trước, chúng đem voi vào cống, có dọn đường cho voi đi, nhưng đi xong, cây cỏ lại mọc đầy. Đường vào nước chúng coi chừng rất khó, chỉ có chúng biết rõ mà thôi. Nay, chúng đã kéo về hết. Mà đánh chúng không gấp nữa. Ta phải lo sao cho toàn thắng. Nay ta đem đi mười vạn quân, mỗi ngày tốn ngàn lượng vàng. Nhưng binh giỏi không nên đưa vào đất độc, ngựa hay không nên ruổi trên đường hẹp. Doanh trại không chỗ đóng, đường tải lương không chỗ thông. Binh nhiều không chỗ dàn, xe cộ không thể dùng được. Như vậy, đến lúc của hết lực kiệt, sẽ rất hại cho uy nước. Nếu ta sang đánh bây giờ, mà mùa Đông này giặc chưa tan, thì mùa Xuân sau, quân ta ắt phải lui, rồi lại sửa-soạn tiến một lần nữa. Tôi cho rằng làm như vậy khó thành-công.
Bây giờ, Lĩnh Nam đã có vạn quân, giặc sao dám vào quấy. Huống chi các vùng Hoài, Chiết Giang, Kinh Hồ bị đói kém. Ta nên để quân đóng lại vùng Tương, Đăng (Tương Dương và Nam Dương, Hà Nam], là hai vùng được mùa. Làm như vậy, dân khỏi phải phiêu tán, mà binh no, ngựa béo. Đến cuối thu, ta lại phát binh. Như thế thì nhuệ-khí rất nhiều. Ta chắc thắng.
5. Tôi xét việc đánh Man, có thể dùng mẹo, chứ khó dùng sức. Huống chi Giao Chỉ, phong tục không giống những Man khác. Các Man khác từ trước đến sau, đều phục-tùng một họ tôn quý mà thôi. Còn ở Giao Chỉ, thì từ khi quốc-triều lập lên, thủ-lĩnh đã đổi đến bốn họ [Ngô, Đinh, Lê, Lý], mà đều là đại tướng lên cướp ngôi Chúa. Đó là thói quen của các phiên trấn cuối đời Đường. Vì vậy, thế Giao Chỉ dễ lật đổ. Càn Đức còn nhỏ. Những kẻ giúp việc đều theo 3 người [đoạn này không rõ ý, có lẽ nói đến Ỷ Lan, Lý Thường Kiệt chăng?]. Năm nay, khi chúng vào cướp đất ta, chúng lấy được nhiều vàng, lụa, con gái. Chắc chúng sẽ tranh-giành nhau khi chia của. Chúng sẽ chia thành ba bộ, do ba tù trưởng cầm đầu. Rồi chúng sẽ gây-hấn lẫn nhau. Bấy giờ ta đánh càng dễ.
6. Lâm Ấp [ Chiêm Thành] ở phía nam Giao Chỉ. Từ đời Đường, tới cống ta luôn. Đời quốc triều ta, vì bị Giao Chỉ chia cách nó mới đình việc tới cống. Đời Tấn, Tống, Lâm Ấp thường xâm phạm vùng Nhật Nam, Cửu Chân. Cuối Đường, hợp với Ai Lao, Nam Chiếu, nó lại vay hãm Giao Chỉ, và gây mối lo cho Trung Quốc.
Vậy nay, Lâm Ấp rất có thể làm hao-tổn Giao Chỉ. Lâm Ấp cách kinh đô Giao Chỉ 1.000 dặm, lại chung với Giao Chỉ đất Tượng [châu Ô, Châu Lý]. Nay từ Quế Châu tới Ung Châu còn 14 ngày đường, như thế thì Lâm Ấp tới Giao Chỉ còn gần hơn. Vậy ta nên sai sứ tới dụ Lâm Ấp diệt Giao Chỉ, rồi hẹn ngày cùng vào đánh. Nếu phá xong Giao Chỉ, ta sẽ cho nó Nhật Nam [Quảng Bình trở vào], Cửu Đức [Hà Tĩnh]. Man di tham lợi. Cứ hẹn như thế, chắc nó sẽ gắng sức làm.
7. Hậu quân đi nam chinh, nay còn ở phủ này, đợi ngày xuất quân. Ngoài quân của tướng Nam Kinh, lại còn có chừng 2.500 kị binh ở châu Kinh, Nguyên, Tần, Lũng. Các quân đã hẹn đến tháng 7 sẽ tới đây. Mùa Hạ và mùa Thu [ Giao Chỉ vẫn] nóng-nực. Mà đến Quế Châu đã phải đi vạn dặm rồi, ở Giao Chỉ, như trên đã nói, núi rừng rất hiểm, người không qua lại được, ngựa sẽ khó dùng. Trước kia, khi Nùng Trí Cao nổi loạn, Địch Thanh phá giặc ở vùng tây bắc Ung Châu. Đó là chỗ ngoài núi, địa thế rộng, phẳng. Ngựa có chỗ thi sức, cho nên mã quân đã có công to. Nay thì khác, Trí Cao chỉ là một thủ lĩnh khê-động, vào đất ta mà cướp. Còn Giao Chỉ là một nước, lại có đất đai xa và hiểm trở.
Quân ta lấy ở Tần, Vĩ, và quân cung tiễn thủ, vốn là để phòng-ngự các rợ Khương, Nhung ở mặt Bắc. Quân tốt ấy, ngựa hay ấy, tới kinh sư mà còn chưa chịu được thủy thổ, huống chi là xua chúng vào nơi hiểm-độc. Đã không dùng chúng ở đó được, mà khi trở về, sẽ còn sống được bao nhiêu? Huống chi giặc Nhung ở mặt bắc, vẫn đang rình ta. Ví bằng nhân đa số quân kỵ binh ta xuống phương xa, chúng đột-nhiên vào quấy, thì vì đường xa, quân ấy về cứu sao kịp?
Vậy xin đem kỵ binh trở lại. Chỉ nên chọn đinh tráng ở các lộ Kinh Hồ, thêm vào với thổ binh mà dùng. Tướng thì chọn người am hiểu sơn xuyên, địa lợi. Còn nếu muốn dùng kỵ binh, chỉ nên dùng ngựa miền Nam, vì nó quen thủy-thổ và quen đi lại chỗ hiểm trở.
8. Ti An Nam chiêu thảo hẹn đến trung-tuần tháng 7 sẽ tới Đàm Châu. Đàm Châu cách Quế Châu 14 ngày đường. Mà ở ngoài Ngũ Lĩnh, tháng 8, tháng 9 rất nhiều lam chướng; từ tháng 10 trở đi mới bớt. Nếu quân chưa ra ngoài Lĩnh, còn đóng đợi lại ở Đàm Châu, thì vì Hồ Nam đã bị đói, lương thảo sẽ khó lòng lo đủ để ở đó lâu, vận chuyển rất tốn kém. Nhưng nếu cứ tiến ra ngoài Ngũ Lĩnh, thì sợ chướng-độc làm cho người và ngựa, chưa dùng, đã ốm.
9. Từ trước, mỗi lúc bản triều có việc biên ải, từng sai quần thần bàn-bạc một cách rộng-rãi. Nay, muốn đánh Giao Chỉ, ta đem mười vạn quân đi, phải trải qua nhiều nguy-hiểm. Lợi hại như thế rất lớn. Thế mà Bệ hạ tự định trước một mình. Tuy quốc luận cũng đồng ý, nhưng xin cứ hỏi ý-kiến các quan trong ngoài, các cận-chức, để cho rộng lời bàn-luận. Làm như thế, không những sẽ biết được ai hay giỏi, và sẽ làm yên lòng quân, lòng dân, mà lại còn có thể tìm được những kế-hoạch hay nữa.


[ Lời tác giả: Lời bàn của Trương Phương Bình rất là xác-đáng, nhưng mong đợi dân Giao Chỉ chia bè-đảng thực khó. Sự thi-hành phần lớn cũng hợp với lời bàn. Quách Quỳ, do-dự. Triệu Tiết thì vận chuyển lương không đủ. Lại thêm lam-chướng và quân Giao chống-cự mạnh. Cho nên, tuy soạn-sửa chu đáo, kế-hoạch hợp lý, nhưng cuối cùng cũng không thành-công].
 

HoaMaudon

Xe tăng
Biển số
OF-344992
Ngày cấp bằng
1/12/14
Số km
1,769
Động cơ
298,349 Mã lực
Topic của Cụ doctor76 rất quý ạ
 

meodenmatlua

Xe container
Biển số
OF-186027
Ngày cấp bằng
19/3/13
Số km
5,226
Động cơ
402,160 Mã lực
Hay quá, chờ bài cụ doctor76 tiếp
 

Arjuna82

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-798965
Ngày cấp bằng
1/12/21
Số km
654
Động cơ
22,568 Mã lực
Tuổi
38
Vì sao Quách Quỳ Triệu Tiết mâu thuẩn cùng nhau?
Vì Quách Quỳ là tướng võ có nhiều đời làm tướng và có kinh nghiệm đánh trận Tây Hạ.
Triệu Tiết xuất thân là quan văn thi đậu tiến sĩ kinh nghiệm chiến tranh chủ yếu là hiến kế chứ ít khi thực chiến ngoài chiến trận.
Quy chế Tống ác nghiệt ở chỗ trọng văn hơn võ, quan văn chỉ huy quan võ và chức tước cao hơn.
Điều này các tướng võ rất bất mãn.
Khi đánh Đại Việt lúc đầu Thần Tông cho Tiết làm chỉ huy nhưng Tiết khiêm nhường tiến cử Quách Quỳ và để Quỳ làm chánh tướng Thần Tông chấp thuận nhưng vẫn tin tưởng Tiết hơn
Quỳ bất mãn nên Tiết hiến kế nào Quỳ cũng không nghe, nóng vội tự ý xuất chiến vì muốn lập công và khinh thường bọn quan văn chưa có nhiều kinh nghiệm thực chiến.
Tiết hiến nhiều kế rất hay Tiết muốn nhân lúc chưa động binh, phủ dụ tập hợp người Động ở Lưỡng Giang, dùng lợi ích dụ dỗ những kẻ tráng dũng, sai sứ giả chiêu nạp những kẻ hai lòng, phá hủy cơ sở của họ, về sau sẽ đưa đại quân đến "đánh dẹp", Quỳ không nghe; Tiết lại muốn sai người treo sắc bảng chiêu nạp ở nước Nam (tức chỉ Đại Việt), Quỳ lại không nghe. Trước đó Quỳ lệnh cho Yến Đạt phòng bị châu Quảng Nguyên, rồi lại điều ông ta về Vĩnh Bình; Tiết cho rằng Quảng Nguyên chỉ cách Kinh đô Thăng Long của Đại Việt khoảng chừng 12 trạm dịch có thể tập kích, nên chia quân 3 lộ, thủy bộ cùng tiến, ắt đánh cho quân Nam tan vỡ; vì thế Tiết cố gắng tranh luận, nhưng vẫn không được.
Tiết lại bàn nên dụ Lưu Kỷ và Thân Cảnh-Phúc. Tiết nói: “Vì mưu của Lý Thường-Kiệt và Lý Kế-Nguyên, nên Giao-chỉ đã làm loạn. Càn-Đức (Lý Nhân-tông) và mẹ (Ỷ-lan) oán hai người ấy và nay lại tin vào Nguyễn Thù. Thù vốn có lòng quy-thuận. Vả Lưu Kỷ ở Quảng-nguyên, Thân Cảnh-Phúc giữ động Giáp, đều cầm cường-binh. Ta có viên Thành Trạc, làm giáp-áp ở trại Hoành-sơn, vốn quen thân với Thù và Cảnh-Phúc. Tôi muốn sai Trạc mang sắc-bằng vào chiêu-nạp chúng”. Quì không nghe mưu ấy.
Rất nhiều lần Tiết hiến kế Quỳ đều không nghe.
Sau này khi thất bại Tống Thần Tông đã giáng chức và buộc Quỳ nghỉ hưu
Nhưng vẫn tin dùng Tiết cho cuộc chiến Tây Hạ
 

toimuondie

Xe container
Biển số
OF-328408
Ngày cấp bằng
24/7/14
Số km
8,272
Động cơ
796,438 Mã lực
Tiếc là không có trận chiến Lý Thường Kiệt - Địch Thanh
 

nguyenhuy2210

Xe điện
Biển số
OF-175299
Ngày cấp bằng
5/1/13
Số km
2,177
Động cơ
-339,806 Mã lực
1k năm trước không biết người việt sống và sinh hoạt ntn các cụ nhỉ
 

LangLe2021

Xe tải
Biển số
OF-798438
Ngày cấp bằng
25/11/21
Số km
330
Động cơ
20,130 Mã lực
Tuổi
35
Tiếc là không có trận chiến Lý Thường Kiệt - Địch Thanh
Sử cụ đốc dịch có mô tả cách đánh Địch Thanh chống Nùng Trí Cao là dùng bộ binh đối trận, kỵ binh tạt sườn. Cụ Lý Thường Kiệt phá Tống bình Chiêm oanh liệt thế mà sử mình không ghi lại cách đánh của cụ thế nào cả. Vì thế bây giừo muốn dựng một trận giả tưởng giữa hai vị này như trên game Shogun cũng không biết bố trí ra sao, thật chán mấy anh sử gia nahf mình, toàn sử vô bằng.
 

Arjuna82

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-798965
Ngày cấp bằng
1/12/21
Số km
654
Động cơ
22,568 Mã lực
Tuổi
38
Sử cụ đốc dịch có mô tả cách đánh Địch Thanh chống Nùng Trí Cao là dùng bộ binh đối trận, kỵ binh tạt sườn. Cụ Lý Thường Kiệt phá Tống bình Chiêm oanh liệt thế mà sử mình không ghi lại cách đánh của cụ thế nào cả. Vì thế bây giừo muốn dựng một trận giả tưởng giữa hai vị này như trên game Shogun cũng không biết bố trí ra sao, thật chán mấy anh sử gia nahf mình, toàn sử vô bằng.
Trận Như Nguyệt thì mấy bửa nửa cụ Đốc sẽ làm.
Trận đánh Chiêm và đánh Khâm Liêm tí nửa tôi sẽ làm
 

Arjuna82

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-798965
Ngày cấp bằng
1/12/21
Số km
654
Động cơ
22,568 Mã lực
Tuổi
38
Sử cụ đốc dịch có mô tả cách đánh Địch Thanh chống Nùng Trí Cao là dùng bộ binh đối trận, kỵ binh tạt sườn. Cụ Lý Thường Kiệt phá Tống bình Chiêm oanh liệt thế mà sử mình không ghi lại cách đánh của cụ thế nào cả. Vì thế bây giừo muốn dựng một trận giả tưởng giữa hai vị này như trên game Shogun cũng không biết bố trí ra sao, thật chán mấy anh sử gia nahf mình, toàn sử vô bằng.
Quá trình Lý Thường Kiệt bình Chiêm.
Quân số Đại Việt
quân ta có 5 vạn. Quân ấy không phải có sẵn cả. Phần lớn huy động dân thường.
Theo Chu Khứ-Phi và Ngô Thì-Sĩ khoảng đầu đời Lý, binh chế theo phép quân phủ vệ đời Đường và quân cấm sương đời Tống. Mục đích đầu là bảo vệ nhà vua ở kinh đô, chống những việc đảo chính cướp ngôi. Binh dùng về việc này là hạng binh tốt nhất, gọi là thân quân ; tên riêng là thắng quân hoặc cấm quân.
Cấm quân họp thành một vệ, gọi là cấm vệ, Cấm-vệ chia ra 10 quân, mỗi quân gồm 200 người. Cả thẩy gồm 2.000 người, đóng chung quanh kinh thành.
Năm 1028, đời Lý Thái-Tông, có 10 quân cấm vệ, Đời Lý Thánh-Tông, lại thêm lên 6 quân nữa. Cấm-vệ bấy giờ gồm có 16 quân, cộng 3.200 tên.
Mục đích thứ hai của lính là giữ cuộc trị an trong nước và chống cuộc ngoại xâm. Về việc này, dùng lính hạng nhì như loại sương quân ở Tống. Quân này không có số nhất định (ANCL). Người dân nào đến tuổi cũng phải đăng lính, nhưng vẫn được ỏ nhà cày bừa, mỗi tháng mới phải đi phen một kỳ ngắn. ” Lúc chinh phạt, thì cất quân ấy giao cho các tướng. Nếu quân không đủ thì lấy dân đinh mà dùng. Việc xong rồi lại trở về cầy ruộng ” (SK). Trong khi phải đi phen, sương quân đóng ở các châu, huyện, để phòng bị khi có dụng binh. Hạng lính này, ngày thường, ít tập tành. Nhưng được số đông.
Đường giao thông bằng bộ vào Chiêm-thành gặp trở ngại. Theo lời sứ Chiêm tâu với vua Tống (1074), thì từ kinh đô Chiêm đến kinh đô Giao-chỉ phải đi 40 ngày và toàn đường núi.
Cuộc hành quân bình Chiêm này đa số di chuyển bằng đường biển.
Ngày Mậu-tuất tháng hai năm Kỷ-dậu là ngày dương lịch 24 tháng hai 1069 vua Lý Thánh-Tông hạ chiếu thân chinh Chiêm-thành . Quân có 5 vạn. Lý Thường-Kiệt được chọn làm đại tướng quân và đi tiền phong kiêm chức nguyên soái. Ông xin cho em, là Thường-Hiến đi theo ; Hiến được trao chức tán kỵ vũ uý.
Nếu mỗi mành chở được 250 quân và lương thực, thì phải chừng 200 chiếc. Lúc Lý Thái-Tông đánh Chiêm-thành (1044), đã sai đóng vài trăm chiến thuyền.
Ba ngày sau, ngày Canh-tuất, vua xuống thuyền xuất quân Thuyền xuôi dòng sông Lô (Nhị-hà), qua Lý-nhân-hành-cung (vùng Nam-xương), rẽ xuống phía Nam, rồi ra cửa Đại-an. Cửa Đại-an nay trên sông Đáy, cách bể chừng 20 cây số, thuộc địa phận làng Quần-liêu, huyện Đại-an, tỉnh Nam-định.
Bảy ngày sau khi dời khỏi Thăng-long, thuyền đến Nghệ-an ; vào ngày Đinh-tị (DL 15-3). Từ đó đến cửa Nam-giới, thuyền đi mất ba ngày. Cửa Nam-giới, nay gọi là cửa Sót, ở phía Nam núi Hồng-lĩnh, thuộc phủ Thạch-ha, tỉnh Hà-tĩnh
Năm ngày sau (A. Su, DL 23-3), quân đến cửa Nhật-lệ là cửa Đông-hải ngày nay. Đây là cửa bể thứ ba của Chiêm-thành, kể từ núi Hoành-sơn vào. Cửa đầu nhỏ, là cửa Di-luân hay cửa Ròn. Cửa thứ hai rộng nhưng cạn, là cửa Bố-chánh hay cửa Gianh.
Lúc thuyền quân ta tới Nhật-lệ, thủy quân Chàm chặn đánh. Lý Thánh-Tông sai tướng đại-liêu-ban Hoàng Kiện tiến đánh. Quân Chiêm thua. Thủy quân Chiêm bị phá vỡ hoàn toàn trong trận này. Việt sử lược không ghi rõ chi tiết trận đánh.
Cho nên thuyền quân lại thẳng xuống phương nam. Thuyền dọc theo bờ bể, vượt khỏi những đồi cát trắng mà ta còn thấy ngày nay. Bốn ngày sau qua khỏi khoảng cát Đại-tràng-sa. Ấy vào ngày Kỷ-tị tháng hai (DL 27-3).
Ngày hôm sau ( DL 28-3), thuyền đến cửa Tư-dung. Cửa này nay gọi là Tư-hiền. Nay thuộc địa phận thành phố Huế.
Sáu ngày khi dời bỏ cửa Tư-dung, quân ta tới cửa (Sơ-li-po-nai) thi lị bù nại tức cửa biển Thị nại Quy Nhơn nhằm vào ngày Bính-tý (11) đầu tháng ba (DL 3-4).

Tổng quảng đường di chuyển từ Thăng Long đến Quy Nhơn hết 26 ngày.
Trận Tu Mao
Việt Sử Lược chép rằng quân ta đổ bộ, tiến lên đóng ở bờ sông Tu-mao, thấy tướng Chàm là Bố-bì-đà-la bày trận trên bờ sông. Quân ta xông tới đánh, giết tướng Bố-bì-đà-la. ” Quân Chàm chết nhiều không kể xiết “
Sông Tu-mao nói trên đây là sông nào ?
Theo địa thế mà đoán, ta có thể ngờ là nhánh cực nam của hạ lưu sông Tam-huyện. Nay còn gọi là sông Côn hoặc sông Hà Giao ở giữa huyện Tây Sơn. Có ba dòng sông chắn ngang đường tới Đồ-bàn ; sông này ở trước nhất. Theo bia thần phổ Lý Thường Kiệt , khi gặp quân Chiêm, hai anh em Thường-Kiệt và Thường-Hiến chia quân làm hai cánh, đánh tạt ngang, chém được ba vạn người.
Trong Ức-trai dư-địa-chí, có kể chuyện rằng : ” Lý Thường-Kiệt kéo đại quân tới sông Phan-định. Sông Phan-định tiếp với phủ Hoài-nhân (gồm địa hạt thuộc tỉnh Bình-định từ Quảng-ngãi đến sông Khu-cương). Sông có nhiều sư tử (tức là cá sấu). ” Sư tử ” khuất phục được các thú khác ; tê, tượng đều phải sợ. Sông Phan-định có ba đoàn sư tử. Nó ở dưới nước, vẫy đuôi làm dợn sóng đổ thuyền. Lúc Lý Thường-Kiệt đánh Chiêm, đại quân kéo đến sông ấy, vì sợ ” sư tử “, quân không qua sông dễ dàng được “. Theo đó, sông Phan-định có thể cũng là sông Tu-mao.
Nghe tin quân mình thua ở sông Tu-mao, Rudravarman III, đang đêm, đem vợ con bỏ thành chạy trốn về phía nam (VSL). Cũng đêm ấy quân ta kéo tới gần thành Vijaya. Lúc quân ta đến bến Đồng-la, (có lẽ trên sông Thạch-yển là sông chắn thứ ba, gần phía nam thành), người trong thành ra hàng. (VSL)
Vua Lý Thánh-Tông vào thành. Nhưng vua Chiêm đã trốn thoát.
Lý Thường-Kiệt đem quân đuổi theo xuống miền nam. Tháng tư quân ta đuổi đến biên giới nước Chân-Lạp. Bấy giờ Chiêm-thành gồm có vùng Phan-rang, Phan-thiết ngày nay. Phan-rang, tên Chàm là Pandurango lại là một thành phố lớn. Có lẽ vua Chiêm đã chạy đến đó. Chân-lạp vốn là một cừu quốc với Chiêm . Vua Chiêm không giám chạy qua đó ; cùng thế phải ra đầu hàng. ” Lý Thường-Kiệt bắt được Đệ-Củ ở biên giới Chân-Lạp ” và cầm tù cả thảy 5 vạn quân.

Sau khi bắt được Rudravarman III, vua Lý đãi yến quần thần tại điện vua Chiêm. Bấy giờ là tháng năm. Muốn tỏ sự hân hoan ” vua thân hành múa khiên và đánh cầu trước bệ “.
Vua lại sai kiểm số tất cả các nhà trong và ngoài thành. Cả thẩy có hơn 2 560 khu. Đều sai đốt hết.
Tháng ấy (tháng năm), vua kéo quân về, đem theo Rudravarman III. Ngày Quí-tị (DL 19-6), thuyền về đến cửa Tư-minh Bấy giờ là mùa hè, gió nồm thổi mạnh, thuyền về rất thuận. Ngày Kỷ-hợi, DL 25-6), quân vượt bể, ” rồng vàng hiện ở thuyền Kim-phượng.
Ngày Mậu-thân (DL 4-7) qua các núi Lỗi-lỗi lớn và bé ở ngoài cửa bể Bố-chánh (Cửa bể sông Gianh, ở phía bắc Quảng Bình) thuyền vua đụng phải đá bị vỡ.
Ngày Tân-dậu (DL 17-7) vua về đến Thăng-long, dừng thuyền ở bến Triều-đông, trên sông Lô (Nhị-hà).
Các quan hữu tư sắp đặt binh lính nghiêm trang, nghi vệ rực rỡ. Vua lên bờ, ngự trên chiếc báu xa (xe nạm ngọc). Quần thần đều cỡi ngựa. Dắt vua Chiêm-thành theo sau. Vua Chiêm-thành mình mặc áo vải trắng, đầu đội mũ làm bằng cây gai. Tay trói sau lưng, có giây vải quyến buộc. Năm tên lính hiệu Vũ-đô dắt đi. Các đảng thuộc cũng bị trói dắt theo sau.
Tháng bảy, vua làm lễ tâu việc thắng trận ở Thái-miếu.
Rudravarman III xin dâng đất chuộc tội. Vua Lý bằng lòng. Ba châu Bố-chánh, Địa-lý, Ma-linh thuộc Chiêm-thành từ đó nhập về nước ta. Nay là địa phận Quảng-bình và phía bắc Quảng-trị.
Rudravarman III được tha về nước.

 
Chỉnh sửa cuối:

Lah

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-98893
Ngày cấp bằng
6/6/11
Số km
5,495
Động cơ
473,031 Mã lực
Thế kỷ thứ 4 thủy quân Chăm đã đến Long Biên và quật mồ Sĩ Nhiếp. Người Chăm cũng có những trận chiến trên biển với người Chà Và được ghi vào lịch sử. Một cơn bão cũng đánh đắm hạm đội người Chăm ở cửa sông Hồng đời Ngô Quyền! So sánh hai dân tộc sống cùng ven biển như Việt với Chăm thì mình thua xa lắm!
Vì Chăm gốc là dân Nam đảo bơi thuyền lên ven bờ mình sống, nguồn gốc của họ di cư bằng thuyền như vậy thì rõ ràng họ không ngại ra biển rồi. Còn Bắc đèo Ngang đổ lên, dân Giao chỉ ta vốn quen ở hang núi + Trung hoa dạt xuống, cá tôm hoa quả nhiều :D chỉ ở núi với quanh bờ đủ ăn, tập tục đi biển sao bằng họ.
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top