[TT Hữu ích] Dịch sách cổ: Thủy Kinh chú của Lịch Đạo Nguyên và Giao Châu Ký của Lưu Hân Kỳ

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,287
Động cơ
700,870 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Huyện [Dạ Lang] vốn là nước Dạ Lang xưa [gồm miền tây và bắc tỉnh Quý Châu, đông bắc tỉnh Vân Nam, miền tây Tứ Xuyên và miền bắc tỉnh Quảng Tây ngày nay, xưa nước Dạ Lang có quan hệ buôn bán và văn hóa với nước Nam Việt] Đường Mông 唐蒙 mở làm huyện, đến thời Vương Mãng 王莽 gọi là Đồng Đình 同亭, sông Ôn Thủy chảy về phía tây bắc huyện, đi qua huyện Đàm Cảo 談藁 [ nay ở phía đông Tp Nam Ninh] hợp với sông Mê Thủy 迷水, sông ra ở phía tây núi Đàm Lỗ Sơn 談虜山 huyện Đồng Lai 銅瀨縣 quận Ích Châu 益州郡, chảy về phía đông đi qua huyện Đàm Cảo, chảy vào sông Ôn Thủy ở bên phải….

…. [ sách Địa lý chí viết]: sông Kiều Thủy 橋水 chảy về phía đông, đến huyện Trung Lưu vào sông Đàm Thủy, lại nói huyện Lĩnh Phương 領方縣 mà có sông Kiều Thủy, ta xét dòng chảy của nó [ thì] không có con sông nào khác cả mà chính là sông Kiều Thủy và Ôn Thủy chảy lẫn vào nhau, cho nên gọi như vậy thôi…
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,287
Động cơ
700,870 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Sông Uất Thủy, ở bên phải có sông Lưu Thủy chảy vào, sông Lưu Thủy chảy ra từ phía nam huyện Bố Sơn 布山縣 [nay là huyện Quế Bình, Quảng Tây], đi qua huyện Trung Lưu 中留 vào sông Uất Thủy [ đoạn sông này nay là sông Liễu Giang tp Liễu Châu].

Sông Đàm Thủy chảy về phía đông, đi qua huyện A Lâm 阿林縣, lại chảy về phía đông qua huyện Mãnh Lăng 猛陵縣 [nay thuộc trấn Nhân Hòa, Thương Ngô, Quảng Tây]. Có sông Ngân Thủy chảy vào, lại chảy về phía đông, đi qua huyện Quảng Tín 廣信縣, quận Thương Ngô 蒼梧, có sông Ly Thủy chảy vào.

Sông Uất Thủy 鬱水 lại chảy về phía đông, có sông Phòng Thủy 封水 chảy vào. Sông [này] ra ở phía phía tây huyện Phùng Thặng 馮乘縣, quận Lâm Hạ 臨賀郡, từ núi Ngưu Đồn 牛屯山 trong địa giới phía đông huyện Tạ Thuật 謝沭縣 cũng gọi sông ấy là sông Lâm Thủy 臨水 chảy về phía đông nam, đi qua phía tây núi Manh Chử Kiệu萌渚嶠, lại chảy về hướng đông nam, ở bên phải hợp với sông Kiệu Thủy, Dữ Trọng Sơ 庾仲初 nói: sông ra từ phía nam núi Manh Chử Kiệu, chảy vào sông Lâm Thủy. Sông Lâm Thủy lại đi qua phía đông huyện Lâm Hạ, chảy về phía nam đến quận, hội với sông Hạ Thủy 賀水 ở bên trái. Sông Hạ Thủy ra ở phía đông bắc từ núi La Sơn 羅山 ở phía tây bắc huyện Hưng An 興安縣 [nay vẫn là huyện Hưng An, tp Quế Lâm, khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây].

Sách Kinh Châu ký 荊州記 của Trịnh Hoằng Chi 盛弘之 viết: ven sông huyện Hưng An có tảng đá bằng phẳng, ở trên có giày đá, nghe nói rằng vua nước Việt đi qua khe, cởi giày ở chỗ này.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,287
Động cơ
700,870 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Sông Hạ Thủy 賀水 lại chảy về phía tây nam, đến phía đông quận Lâm Hạ 臨賀郡, chảy vào sông Lâm Thủy ở bên phải. Quận là nơi giao nhau giữa 2 con sông, cho nên quận và huyện đều lấy tên [2 con] sông. Sông Lâm Thủy lại chảy về phía tây nam, đi qua phía nam quận, lại chảy về phía tây nam, đi qua phía đông quận Phong Dương, là sông Phong Khê Thủy 封溪水, huyện ở phía nam sông Phong Thủy.

Sông Lâm lại chảy về phía tây nam vào huyện Quảng Tín 廣信縣, lại chảy về nam vào sông Uất Thủy 鬱水 [1 đoạn sông Uất Giang ở Quảng Tây bây giờ], gọi đấy là cửa sông Phong Khuê Thủy Khẩu 封溪水口.

Sông Uất Thủy lại chảy về phía đông, đi qua huyện Cao Yếu [nay vẫn là Cao Yếu, một quận thuộc địa cấp thị Triệu Khánh, tỉnh Quảng Đông], có sông Lao Thủy 牢水 chảy vào sông ấy. Sông Lao Thủy ra từ quận Hợp Phố, Giao Châu 交州, năm Nguyên Đỉnh 元鼎 thứ 6 đời Hán Vũ Đế 漢武帝, bình định được nước Việt bèn đặt quận ấy. Thời Vương Mãng đổi gọi là quận Hoàn Hợp 桓合, huyện là Hoàn Đình 桓亭. Năm Hoàng Vũ 黃武 thứ 7 đời Tôn Quyền 孫權 đổi gọi là quận Châu Quan 珠官郡. Quận này không sản xuất thóc lúa gạo, phần nhiều [ người dân] sống bằng nghề thu lượm ngọc trai. Trước đây chính sự [rất] hà khắc [đến nỗi] trai ngọc [cũng phải] di cư sang Giao Chỉ 交趾, đến khi Mạnh Bá Chu 孟伯周 người Cối Kê đến làm thái thú, có lòng nhân ái, cải tiến chính sách, [làm cho] trai ngọc bỏ đi lại trở về.

Quận ấy thống lĩnh hạt huyện Lâm Doãn [nay là đô thị thuộc huyện Tân Hưng, Quảng Đông], là Đại Doãn thời Vương Mãng. Sông Lao Thủy từ phía bắc huyện đi qua huyện Cao Yếu, vào sông Uất Thủy.

Sông Uất Thủy chảy về phía nam đi qua phía tây quận Nam Hải 南海郡 thuộc Quảng Châu 廣, có sông Ngân Thủy chảy ra, lại đi về phía nam, bên phải nhận nước của 3 con sông Tây Tùy 西隨三水, gọi là sông Tây Tùy qua Giao Chỉ, chia làm 5 sông, tới biên giới phía đông, trở lại thành 3 con sông.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,287
Động cơ
700,870 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Sông Uất Thủy lại chảy về phía nam qua sông Tứ Hội Phố, sông này ở phía trên tiếp với sông Cổ Lang Cửu Phố phía tây huyện Lư Dung 盧容縣 quận Nhật Nam日南郡 [quận Nhật Nam đặt ra năm Nguyên Đỉnh thứ 6 đời Hán Vũ Đế, tức là năm 111 TCN, lỵ sở đóng tại huyện Tây Quyển, chỗ hợp lưu của sông Cam Lộ và sông Quảng Trị, vị trí quận Nhật Nam gần tương đương khu vực từ Quảng Trị trở vào đến hết địa phận Thừa Thiên-Huế]. Cửa Nội Tào Khẩu 內漕口 là nơi Mã Viện馬援 vận chuyển lương thực bằng đường thủy, việc Mã Viện đánh Giao Chỉ vào năm Kiến Vũ thứ 19 [ năm 49]. Sông chảy vòng vèo về hướng đông nam thông với hồ Lang郎湖, hồ này nhận nước từ khe Kim Sơn Lang Cứu 金郎究. Từ Lâm Ấp đến sông Lô Dung chỉ khoảng 200 dặm.

Nước khe chảy về phía bắc, ở bên trái hội với 2 con sông Lô Dung 盧容 và Thọ Linh壽泠, sông Lô Dung ra từ núi cao phía nam thành Khu Túc 區粟城 [vị trí của thành Khu Túc nằm ở khu vực ngày nay tại làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Phía bắc là sông Gianh, phía tây là sông Con, phía đông là đồng bằng] chảy về phía tây nam. Ở phía tây nam núi, dãy núi dài tiếp liền với các ngọn núi ở phía tây như bức màn che tự nhiên.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,287
Động cơ
700,870 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Sông Lô Dung gom nước ở núi Ân Sơn 隱山 đi vòng quanh phía tây, bao phía bắc rồi lại chảy về phía đông đi qua phía bắc thành Khu Túc, lại chảy về phía đông hợp với sông Thọ Linh ở phía bên phải, sông ra từ biên giới huyện Thọ Linh [nay là khu vực thành phố Đông Hà, Quảng Trị]. Năm Chính Thủy 正始 thứ 9 nhà Ngụy 魏 [năm 248], Lâm Ấp 林邑 tiến công xâm lấn huyện Thọ Linh để lập cương giới, thời Tam Quốc, đây là địa phận của nước Ngô, năm Xích Ô thứ 11 [248], Giao Châu và Lâm Ấp đánh nhau lớn ở vịnh.

Huyện Thọ Linh nằm ở phía nam thành Khu Túc, phía đông núi Trường Lĩnh, huyện Thọ Linh, vì nước tụ ở đây cho nên sông mang tên của nó. Núi Ẩn Sơn đi vòng phía đông, đi qua phía nam thành Khu Túc.

Lâm Ấp ký viết: 林邑記: thành [Khu Túc] cách nước Lâm Ấp hơn 400 dặm đường bộ [cỡ hơn 200km]. Giao Châu ngoại vực ký 交州外域記 viết: từ Nhật Nam đến nước Lâm Ấp hơn 400 dặm, xét đường đi phù hợp với nhau, thế thì thành ấy [ở vị trí] huyện Tây Quyển cũ vậy. Ở đây, sông chảy ra biển, có giống cây trúc có thể làm gậy được. Vương Mãng đổi tên [Tây Quyển] là Nhật Nam đình 日南亭. Thành ấy đóng ở giữa khoảng 2 con sông, 3 phía gần núi, phía nam và phía bắc trông xuống sông [ý nói 2 con sông Lô Dung và Thọ Linh, sông Lô Dung đi qua phía bắc thành, sông Thọ Linh đi qua phía nam thành, cho nên nói phía nam và phía bắc trông xuống sông] phía đông và phía tây có khe suối chảy tụ lại phía dưới chân thành, phía tây thành quanh co thành 10 góc. Chu vi thành cỡ 6 dặm [khoảng 3km] 170 bộ [282,2m], đông tây đo được 650 bộ [1079m], thành xây bằng gạch cao 2 trượng [ 6,66m] ở trên xây tường gạch cao 1 trượng [3,33m] trổ lỗ vuông lớn. Trên gạch thì lát ván, trên ván có gác 5 tầng, trên gác có mái, trên mái có lầu, lầu có cái cao là 7 đến 8 trượng [ 26,64m?] cái thấp là 5 đến 6 trượng [19,98m]. Thành mở 13 cửa, phàm cung điện đều hướng về phía nam, nhà có hơn 2.100 gian, chợ búa dân cư ở xung quanh, núi đá cao, đất hiểm trở, vì thế cho nên binh khí, chiến cụ của nước Lâm Ấp đều để tất cả tại thành Khu Túc.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,287
Động cơ
700,870 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
[ Lâm Ấp] có nhiều thành lũy, bắt đầu từ vua Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt 范胡達 [tiếng Phạn: Bhadravarman I, trị vì: 380-413 là một vị vua của triều đại Lâm Ấp thứ 2, Dưới thời Phạm Hồ Đạt, Phật giáo Tiểu thừa (Thevada) phát triển mạnh, nhiều nhà sư từ Ấn Độ sang truyền đạo. Thành Khu Lật (Huế) vẫn là trung tâm chính trị nhưng đổi tên thành Kandapurpura, nghĩa là Phật Bảo Thành (vì là nơi có nhiều đền đài và hình tượng Phật và Shiva). Bên cạnh đó nhà vua còn cho xây dựng thêm một trung tâm tôn giáo mới tại Amavarati, tức thánh địa Hào Quang tức là thánh địa Mỹ Sơn. Nhiều đền thờ đạo Bà la môn được xây dựng tại Mỹ Sơn để thờ thần Shiva và tượng Linga, tượng trưng sức mạnh phái nam. Ngôi đền đầu tiên được xây bằng gỗ vào cuối thế kỷ 4 mang tên Bradresvara, kết hợp giữa tên vua Bradravarman I và thần Isvara (hay Shiva). Kể từ thế kỷ 4 trở đi lãnh tụ chính trị và tôn giáo tại Lâm Ấp là một: thờ thần tức thờ vua, vua thay mặt thần Shiva cai quản muôn dân. Shiva vừa là thần bảo hộ xứ sở vừa là vị thần giữ đền (Dvarapala) để dân chúng đến thờ phụng và dâng lễ vật. Năm 399, Phạm Hồ Đạt mang quân chiếm quận Nhật Nam, giết thái thú Khổng Nguyên, tiến công quận Cửu Đức, bắt sống thái thú Tào Bính nhưng bị quân của tướng Đỗ Viện đánh bại phải rút về dưới đèo Ngang. Năm 413, Phạm Hồ Đạt mang bộ binh chiếm đóng Nhật Nam, ra lệnh cho thủy binh đổ bộ vào Cửu Chân đốt phá các làng xã ven biển. Thứ sử Đỗ Tuệ Độ (con Đỗ Viện) mang quân ra nghênh chiến, chém được con của Phạm Hồ Đạt là Phạm Trân Trân (tiểu vương đất Giao Long) và tướng Phạm Kiện, bắt làm tù binh hơn 100 người, trong có một hoàng tử tên là Na Neng, tất cả đều bị chém đầu. Phạm Hồ Đạt trốn vào rừng sâu rồi mất tích. Trong khi chưa tìm được một vị vua mới, triều đình Lâm Ấp tiếp tục triều cống Trung Quốc để được yên về chính trị].
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,287
Động cơ
700,870 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Những dân [Trung Quốc, Giao Châu] từ thời nhà Tần di cư sang [ Lâm Ấp] còn lại đều đồng hóa với người Di, phong tục cũ của Nhật Nam biến đổi hết. Làm nhà như cái tổ [ nguyên văn là 巢棲樹宿 sào tê thụ túc] trên cây mà ở, gần thành kề bên núi, bụi gai rộng lớn, vượt rừng là quyện [vào]mây, mây mù tối mịt, không phải là nơi con người có thể sống yên ổn được. Thành Khu Túc dựng cây cột đo cao 8 xích [1 xích =33,33cm], bóng mặt trời ở phía nam nơi ấy [đo được] là 8 thốn [ 1 thốn = 3,33cm], từ bóng ấy đi về phía nam là ở phía nam mặt trời, cho nên lấy để đặt tên quận [ tức là Nhật Nam]. Trông sao Bắc Đẩu 北辰星 dừng ở chân trời, mặt trời ở phía bắc, cho nên nhà ở [ của người dân đều] mở cửa về hướng bắc để hướng về mặt trời. Đấy là nét đại lược về [thành Khu Túc] vậy. [ Theo Thông Điển: nước Lâm Ấp khoảng tháng 5 dựng cây cột đo mặt trời, vị trí mặt trời ở phía bắc cây cột, bóng ở phía nam cột đo cao 9 tấc 1 phân, từ phía nam của bóng phía bắc, cho nên người dân căn cứ vào đó mở cửa về phía bắc để hướng mặt trời].
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,287
Động cơ
700,870 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Sách Cổ Kim thiện ngôn 古今善言 của Phạm Thái 范泰 viết: người Nhật Nam là Trương Trọng 張重 được cử làm kế lại [ chức quan nắm giữ việc sổ sách ở châu quận thời cổ đại] vào Lạc Dương, chính lúc đại hội tết Nguyên Đán [ nguyên văn: chính đán đại hội 正旦大會], vua [ Hán] Minh Đế [vua Đông Hán, trị vì từ năm 58- 75] hỏi:
- Tiểu lại ở quận nào?
Trọng thưa:
- Thần là người quận Nhật Nam
Vua hỏi:
- [người] Quận Nhật Nam hướng về phía bắc để xem mặt trời phải thế không?
Trọng đáp:
- Ngày nay trong các quận, có quận gọi là Vân Trung 雲中 [nghĩa là trong mây], Kim Thành 金城 [nghĩa là thành bằng vàng], không nhất thiết phải là có thực như vậy. Mặt trời đều mọc ở phương đông vậy. [ ý câu này là cái tên Nhật Nam không nhất thiết phải là mặt trời ở phía Nam, cũng như tên quận Kim Thành thì đâu có phải là tòa thành bằng vàng].
Khí hậu [ Lâm Ấp] ấm áp, không sương mù, không mây nhiều, bóng mặt trời ngửa mặt lên là nhìn thấy, chỗ ở của quan lại và dân thì tùy tình hình, mặt ngoảnh về hướng [nào cũng được] như: Đông, Tây, Nam, Bắc…hay quay lưng lại với nhau đều không nhất định, chỉ cần mở cửa về hướng Bắc là hướng mặt trời.
Bản tính người [ Lâm Ấp] hung-hãn, chiến đấu rất quả-cảm, quen ở núi, quen ở nước, không quen đồng bằng. Người xưa nói: núi Ngũ Lĩnh 五嶺 là trời đất dùng để phân cách trong ngoài, huống hồ đường xá xa xôi hải ngoại, nhìn về Cửu Lĩnh 九嶺 mà thấy xa vời, không những đường đi khó khăn hiểm trở, mà tin rằng đó là nơi tối tăm hoang vu xa xôi.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,287
Động cơ
700,870 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Sông Thọ Linh 壽泠水 từ phía nam thành, chảy về phía đông, hợp với sông Lô Dung 盧容水, đi về phía đông chảy vào khe Lang Cứu 郎究, nước khe tích lại ở đầm dưới làm thành hồ gọi là cửa sông ngách Lang Hồ 郎湖, Phố Khẩu 浦口 [là dấu tích thành] có từ thời nhà Tần [xây thành] Tượng Quận 象郡, từ hồ trông về phía nam, thì ở phía ngoài thông với huyện Thọ Linh, từ hồ Lang Hồ vào ngách sông Tứ Hội Phố 四會浦. Năm Nguyên Gia 元嘉 thứ 20 [444] cho rằng nước Lâm Ấp cứng đầu hung ác, trải qua bao nhiêu triều đại [Trung Hoa] vẫn khó giáo hóa, cậy thế ở xa mà đông người, nhờn uy [thiên triều] trái đức. Ấn tín của vua phương Bắc xuống tới, mà vàng [bạc] phương Nam không [thấy] cống lên, bèn lệnh cho một viên thiên tướng 偏將 [phó tướng] cùng Long tương tướng quân 龍驤將軍, thứ sử Giao Châu [là] Đàn Hòa Chi 檀和之 dàn quân ở Nhật Nam, sửa Văn trị [tức là lấy văn hóa, giáo dục, lễ nghĩa, nhạc …mà trị dân hơn là Pháp trị] để thu phục người xa. Năm thứ 23 [447] [ quân Lưu Tống] giương cờ theo sông ngách Tứ Hội Phố vào hồ Lang Hồ, đóng quân ở Khu Túc, tiến sát vây thành, dùng thang mây 飛梯雲 [phi thê vân, dịch đúng phải là thang bay? người dịch chưa rõ loại thang này], xe công thành [nguyên tác là 懸樓 huyền lâu, một loại xe công thành thời xưa, trên có những lầu nhỏ, có lính ở bên trong lầu, khi tấn công dùng xe áp sát vào thành để lính nhảy vào] để trèo vào lũy, quân [Trung Quốc] khua chiêng trống ầm ĩ, binh lính dũng mãnh như hổ, khí thế mạnh mẽ, nhanh như chớp lửa, [tấn công như] gió mạnh lửa bốc, thành [Khu Túc] bị phá tan, dân chúng bị vây hãm, chém đầu vua Khu Túc là Phạm Phù Long 范扶龍, người từ 15 tuổi trở lên đen chôn [sống] hết không tha. Lầu gác đẫm máu, thây chất thành đống.

[Một số nhà khoa học Pháp cho rằng Lâm Ấp là lãnh thổ Indrapura từ mũi Hoành Sơn đến đèo Hải Vân, do vương triều Gangaraja, tức những người Ấn Độ đến từ sông Gange, khai sinh ra, tuy nhiên cho đến nay chưa một dấu tích bia ký nào giải thích sự kiện này]

[ Đoạn văn này cho thấy sự tàn bạo của chiến tranh, nguyên do, Lâm Ấp từ thời Tôn Quyền cho đến thời Lưu Tống, ít vào chầu, thực ra, các năm Nguyên Gia thứ 12, 15, 16, 18…Lâm Ấp đều sang tiến cống nhưng bị cướp hết, cống phẩm đâm ra nghèo nàn, nên nhà Lưu Tống giận, sai Đàn Hòa Chi, Long Tương tướng quân, Chấn Vũ tướng quân là Tông Xác đem quân Giao Châu tấn công quân Lâm Ấp ở Khu Túc, vua Lâm Ấp là Phạm Dương Mại sai viên đại tướng tên là Phạm Phù Long Đại giữ thành, chứ không phải là vua Khu Túc.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,287
Động cơ
700,870 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Mối quan hệ Lâm Ấp-Trung Hoa bắt đầu diễn ra khoảng năm 220-230, con cháu Khu Liên திருமாறன் Sri Mara, vua đầu tiên của Lâm Ấp có gửi phái bộ đến thống đốc Quảng Đông và các thái thú Giao Châu là Lã Đại 呂岱và Lục Dận 陸胤 triều cống và duy trì quan hệ ngoại giao. Năm 248 diễn ra cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu. Nhà Đông Ngô cho Lục Dận làm An Nam hiệu úy, tức thứ sử, sang Giao Châu dẹp loạn. Sau khi dẹp xong cuộc khởi nghĩa này, Lục Dận đem quân xuống chiếm Khu Lật, bắt theo hàng ngàn thợ khéo tay dâng cho nhà Đông Ngô năm 260. Những vùng đất bị quân Lâm Ấp chiếm đóng đều bị lấy lại. Lãnh thổ Lâm Ấp trở về vị trí cũ là huyện Tượng Lâm, quân Đông Ngô không dám tiến xuống xa hơn. Có lẽ người kế vị Khu Liên đã chết trong cuộc khởi nghĩa này vì không còn được nhắc tới nữa. Sách Lương thư viết: năm 270, cháu ngoại của Khu Liên là Phạm Hùng lên làm vua. Dưới thời Phạm Hùng 范熊, lãnh thổ Lâm Ấp được nới rộng tới thành Khu Túc [cạnh sông Gianh ở phía bắc]. Phạm Hùng cũng đã chinh phục và thống nhất các tiểu vương quốc khác nằm trong các dải đất dọc duyên hải. Nhưng sau hơn 10 năm chinh chiến (271-282), Phạm Hùng bị quân nhà Tây Tấn (do Đào Hoàng chỉ huy) đánh bại, năm 283 con là Phạm Dật 范逸 lên ngôi. Năm 284, Phạm Dật gửi một sứ bộ sang Trung Quốc cầu hòa; Lâm Ấp được hòa bình và Phạm Dật trị vì 52 năm thì qua đời. Phạm Dật qua đời năm 336, tể tướng Phạm Văn 范文 cướp ngôi. Phạm Văn không phải là người Lâm Ấp mà là một người gốc Trung Hoa quê ở Dương Châu, bị bán làm nô lệ cho một quan cai trị huyện Tây Quyển tên Phạm Tương. Năm 15 tuổi, vì phạm tội, Văn trốn theo một thương gia người Lâm Ấp sang Trung Quốc và Ấn Độ buôn bán, nhờ đó đã học hỏi được kỹ thuật luyện kim và xây thành lũy của người Hoa. Khi về lại Lâm Ấp năm 321, Văn trở thành người thân tín của Phạm Dật và được giao trọng trách xây thành, đắp lũy, dựng cung đài theo kiểu Trung Quốc, chế tạo chiến xa và vũ khí, nhạc khí v.v. và được thăng chức tể tướng., nhờ đó tổ chức chính quyền mang lại hiệu quả tốt; xây dựng thủ phủ tại Khu Lật [Thành Lồi, Huế], hình chữ nhật, chu vi 2.100 mét, tường cao 8 mét, có 16 cửa, dân chúng sống xung quanh chân thành, mỗi khi có loạn, các cửa thành đều đóng lại. Với thế mạnh này, Phạm Văn đánh thắng hai nước Đại Kỳ Giới và Tiểu Kỳ Giới (chưa rõ ở đâu), chinh phục nhiều bộ lạc khác, cướp được vô số phụ nữ mang về từ các lãnh thổ đánh chiếm được và tăng quân (khoảng từ 40.000 đến 50.000 người).
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,287
Động cơ
700,870 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Năm 340, Phạm Văn dâng sớ xin nhà Đông Tấn cho sáp nhập quận Nhật Nam, gồm các huyện Tây Quyển, Ty Canh, Chu Ngô, Lô Dung và một phần đất phía nam quận Cửu Chân là huyện Hàm Hoan vào lãnh thổ Lâm Ấp nhưng không được. Phạm Văn liền đem quân tấn công vào Nhật Nam, chiếm huyện Tây Quyển, giết thứ sử Hạ Hầu Lâm, lấy mũi Hoành Sơn phía nam quận Cửu Chân làm biên giới phía bắc, cho xây lại thành Khu Túc (cạnh sông Gianh) phòng giữ. (Từ đó phần lãnh thổ từ đèo Ngang trở xuống thuộc về Lâm Ấp và cũng kể từ đó phía bắc đèo Ngang là nơi xảy ra những trận thư hùng giữa Lâm Ấp và Giao Châu trong suốt hai thế kỷ 4 và 5). Năm 349 nhà Đông Tấn phản công, quân Lâm Ấp bại trận, Phạm Văn bị trọng thương và qua đời, con là Phạm Phật 范佛 lên thay.

Phạm Phật 范佛 là một vị tướng tài ba, là người mở đầu vương triều Gangaraja. Vừa lên ngôi, Phạm Phật tấn công quân nhà Đông Tấn tại Nhật Nam và vây thành Cửu Chân. Năm 351, quân Lâm Ấp bị đánh bại, chạy về phía tây tại Lãng Hồ, huyện Thọ Lãnh (Thị xã Ba Đồn), thành Khu Túc bị chiếm, ranh giới được thiết lập lại tại huyện Ty Canh (gần sông Nhật Lệ Đồng Hới). Năm 359, quân Đông Tấn chiếm huyện Thọ Lãnh và đánh bại quân Lâm Ấp tại vịnh Ôn Cấn, chiếm thành Khu Túc; Phạm Phật xin hòa và gửi sứ bộ sang Trung Quốc triều cống (372 và 377). Phạm Phật mất năm 380 nhường ngôi cho con là Phạm Hồ Đạt tức Bhadravarman I.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,287
Động cơ
700,870 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Triều đại tiếp theo là Bhadravarman do Phạm Tu Đạt cai trị. Trong thời gian từ 413 đến 420, con cháu Phạm Hồ Đạt tranh giành ngôi vua, nội chiến xảy ra khắp nơi. Năm 413, một người con của Phạm Hồ Đạt là Địch Chân, một đạo sĩ Bà la môn, được triều thần đưa lên ngôi vua, hiệu Gangaraja (theo tên sông Gange bên Ấn Độ). Năm 415, quân Lâm Ấp vào cướp Giao Châu, năm 420, Tuệ Độ đánh Lâm Ấp. Địch Chân là người đam mê văn hóa Ấn Độ muốn nhường ngôi cho em là Địch Khải để sang Ấn Độ sống những ngày cuối đời, nhưng Địch Khải sợ bị triều thần ám hại, dẫn mẹ chạy trốn vào rừng. Ngôi báu đành nhường cho Manorathavarman là cháu Địch Chân nhưng tể tướng Thiếu Lâm chống lại vì cho rằng người này không được sinh ra từ một người mẹ có dòng máu tinh-khiết (đẳng cấp Brahman), nên bị Manorathavarman giết chết.

Năm 420, con cháu của Thiếu Lâm ám sát vua Manorathavarman và đưa người em cùng mẹ khác cha của Địch Chân là Văn Địch lên thay. Văn Địch xưng hiệu là Phạm Dương Mại I 范阳迈—世, có nghĩa là Hoàng tử Vàng, nhưng không trị vị lâu vì bị chết trong một cuộc tấn công của quân Đông Tấn. Con là thái tử Đốt, 19 tuổi, được nhà Đông Tấn phong vương năm 421, hiệu Phạm Dương Mại II 范阳迈二世.

Nhân tình thế rối-loạn bên Trung Quốc khi nhà Lưu Tống lật đổ nhà Đông Tấn, năm 431, Phạm Dương Mại II dẫn hơn 100 chiến thuyền tấn-công các làng ven biển tại cửa Thọ Lãnh, Tứ Hội và Châu Ngô (quận Nhật Nam và Cửu Chân) nhưng bị đánh bại, quân Tống chiếm thành Khu Lật, Dương Mại II chạy trốn ra Chiêm Bất Lao (Cù lao Chàm). Năm 433, Phạm Dương Mại II xin "lãnh" đất Giao Châu về cai trị nhưng vua Tống không chịu, chiến tranh lại xảy ra. Năm 443, vua Tống Du Long phong thống chế Đàn Hòa Chi làm thứ sử Giao Châu, cùng hai phó tướng là Tống Xác và Túc Canh Hiến, mang đại quân đánh Lâm Ấp, Phạm Dương Mại II chạy thoát được ra của Tượng Phổ, vịnh Bành Long (chưa rõ vị trí địa lý), tổ-chức lại lực lượng, tăng-cường thêm nhiều đội tượng binh rồi ra lệnh tổng phản-công nhưng không địch nổi quân Tống. Đàn Hòa Chi thu rất nhiều vàng bạc, châu báu, tượng đồng và đập phá rất nhiều đền đài. Tống thư chép: Đàn Hòa Chi lấy được nhiều tượng vàng mười người mới ôm xuể, đem nấu chảy, thu được hơn 10 vạn cân vàng. Từ đó Trung Quốc biết Lâm Ấp có nhiều vàng nên mỗi khi có dịp là tiến quân xuống đánh cướp.
Trong lúc chạy trốn về phía nam, Phạm Dương Mại II chinh-phục luôn các tiểu vương phía nam, thống nhất với lãnh thổ phía bắc. Năm 443, Phạm Dương Mại II về lại Khu Lật, và mất năm 446. Lãnh thổ phía bắc của Lâm Ấp bị đẩy lùi về huyện Lô Dung (Thừa Thiên), con cháu Phạm Dương Mại II lại tranh chấp quyền hành.

Năm 455 con Phạm Dương Mại II là Phạm Chút, còn gọi là Phạm Thần Thành 范神成 lên ngôi, hiệu Devanika. Trung tâm chính trị vẫn tại Khu Lật, nhưng Trần Thành cho xây dựng thêm một trung tâm văn hóa và tôn giáo mới tại Amaravati, gọi là thánh địa Hào Quang (Mỹ Sơn) Vương quốc Lâm Ấp tiếp tục được nới rộng xuống phía nam, phía bắc và cao nguyên phía tây. Dưới thời trị vì này, Lâm Ấp vẫn thần phục và hàng năm phải nộp cống cho triều Lưu Tống. Vào năm 472, Thần Thành bị Phạm Đang Căng Thuần 范当根純 tiếng Phạn: Jayavarman II, một hoàng tử Phù Nam tị nạn ở đây giết chết để cướp ngôi. Năm 492, lại bị con Thần Thành là Phạm Chư Nông 范諸農, trả thù: Phạm Đang Căng Thuần bị Chư Nông giết. Nông được Nam Tề Vũ Đế phong Lâm Ấp vương. Sau khi lên ngôi, vào năm 498, Phạm Chư Nông trong một chuyến đi sang Nam Tề bị chết đuối. Phạm Văn Tẩn 范文款, lên nối ngôi, trị vì từ 498 đến 502, Phạm Thiên Khởi, hiệu là Detavarman trị vì 510-514, và Cao Thức Thắng Khơi, hiệu là Vikrantavarman, trị vì từ 526-527.


[Về mặt địa lý, chính xác vương quốc Lâm Ấp ở đâu, lãnh thổ như thế nào thì chưa có câu trả lời chính xác. Theo sử Trung Quốc thì lãnh thổ vương quốc này là huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam, phía nam huyện Lô Dung (tức là Thừa Thiên Huế ngày nay). Đường thư nói Lâm Ấp từ huyện Tây Quyển (Quảng Bình) trở xuống... cuốn Thủy Kinh chú này cho biết thủ phủ Lâm Ấp lúc đầu không biết ở đâu, sau được biết đặt tại Khu Lật (thành phố Huế ngày nay), phía nam có sông Lô Dung (sông Hương) chảy qua].
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,287
Động cơ
700,870 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trước thi thoảng e có đọc được các tút của thành viên nhóm cstn, họ gần như kết luận các tên địa danh như Mê (Mi) Linh, Vọng Hải,... thời xưa đều đang nằm trên đất Tq ngày nay, Hai Bà khởi nghĩa bên Tq,...
Trừ đoạn viết về Lâm Ấp là khá chính xác, nếu cụ đến di tích thành Lồi, Huế, cụ sẽ thấy những mô tả của tác giả là đúng. Đây chính là kinh đô đầu tiên của Lâm Ấp-Chăm Pa.
Còn các địa danh ở nước ta hiện nay, phải nói là tương đối khó biết cho chính xác được.
 

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,980
Động cơ
1,084,616 Mã lực
Thành Nê Lê có tháp A Dục Vương, 1 dạng như hải đăng, sau được Lý Thánh Tông trùng tu thành tháp Tượng Long (Rồng vàng hiện ra) vào năm 1058 (LS PG VN, NxB Hà Nội 1988).


Con sông Trường Giang ấy lại chảy về phía đông, cách sông có thành Nê Lê 泥黎城, người ta nói thành này do A Dục Vương 阿育王 xây lên. Thành Nê Lê ở phía đông nam huyện An Định, cách sông 7 dặm. Tháp và giảng đường mà A Dục Vương xây vẫn còn.
[A Dục Vương, tiếng Phạn là: Asoka, Aśoka, là vị vua thứ ba của vương triều Maurya, thời Ấn Độ xưa, trị vì Ấn Độ từ năm 273 đến 232 trước CN. Là một trong những hoàng đế kiệt xuất trong lịch sử Ấn Độ, Ashoka đã toàn thắng trong loạt các cuộc chinh phạt và cai trị phần lớn vùng Nam Á, từ Afghanistan cho đến Bengal hiện nay và đi sâu đến miền Nam tận Mysore. Là một vị vua ủng hộ Phật giáo, nhưng khi mới lên ngôi, ông được mệnh danh là A Dục vương bạo ác, ông lập ra những khung hình phạt tàn ác giống như các cảnh mô tả trong địa ngục để hành hình tội nhân, và ông đặt tên cho các ngục ấy là địa ngục trần gian. Về sau ông hối hận, Quy y Tam Bảo và đã lập nhiều bia đá ghi lại những thánh tích trong cuộc đời Phật Thích Ca. Theo truyền thống Phật giáo, tên tuổi của ông gắn liền với việc truyền bá Phật giáo.

Vào khoảng năm 260 TCN Ashoka tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nhà nước Kalinga (ngày nay là Odisha). Ông đã chinh phục Kalinga, điều mà tiên đế của ông là Chandragupta Maurya chưa bao giờ làm được. Ông xây dựng trung tâm cơ quan quyền lực của đế chế Maurya ở Magadha (nay là Bihar). Ông trở nên đề cao Phật giáo sau khi chứng kiến nhiều chết chóc trong chiến tranh Kalinga, mà bản thân ông đã thực hiện do khát vọng mở rộng đế quốc của mình. "Ashoka suy ngẫm về trận chiến ở Kalinga, cuộc chiến mà người ta ngẫm rằng đã làm hơn 100.000 người chết và 150.000 người khác bị trục xuất." Ashoka đã quy y Phật vào khoảng 263 TCN. Sau đó ông đã hoằng dương giáo pháp nhà Phật ra khắp châu Á, và thiết lập các di tích đánh dấu nhiều địa danh quan trọng trong cuộc đời truyền pháp của Phật tổ Thích Ca.

Tên ông cũng được gọi theo dịch tiếng Hán Việt khác là A Du Ca 阿輸迦 A Du Già 阿輸伽, A Thứ Già 阿恕伽, A Thú Khả 阿戍笴, A Thúc 阿儵, hoặc dịch nghĩa là Vô Ưu 無憂, hoặc như ông tự khắc trên những cột trụ nổi danh được lưu đến ngày nay là D evānaṃpriya priyadarśi (Thiên Ái Hỉ Kiến天愛喜見), nghĩa là "người được chư thiên thương, người nhìn sự vật với tấm lòng hoan hỉ".
Ông là vị quân vương đầu tiên của nước Ấn Độ xưa Bhāratavarṣa, đã thống nhất được một lãnh thổ vĩ đại, lớn hơn ngay cả Ấn Độ ngày nay].

[ Thành Nê Lê 泥黎城 nghĩa là bùn đen? Nê-lê 泥黎 có thể là phiên âm của từ Niraya निरय trong tiếng Nam Phạn. Từ có ý nghĩa đồng nhất trong tiếng Bắc Phạn là naraka नरक, được phiên âm thành Na Lạc Ca 那落迦, Nại Lạc 奈落 hay Na Lạc 那落. Theo quan niệm của Phật giáo, đây là cảnh giới mà người tạo nghiệp ác sẽ rơi vào, tương đương với địa ngục. Địa danh Nê Lê được nhiều học giả xác định là ở vùng Đồ Sơn, được ghi nhận là nơi đầu tiên truyền bá đạo Phật vào nước ta, vào khoảng thế kỷ thứ III trước Công Nguyên, tương truyền các tăng sĩ Ấn Độ đi truyền giáo đã xây dựng một bảo tháp theo phong cách thời Asoka tại đây. Sách “Thiền uyển tập anh” có chép truyện Quốc sư Thông Biện trả lời Phù Thánh Linh Nhân hoàng thái hậu, dẫn theo "Đàm Thiên pháp sư truyện" trong Tục cao tăng truyện:

- Một phương Giao Châu, đường thông Thiên Trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì Giang Đông chưa có, mà Luy Lâu lại dựng chùa hơn 20 ngôi, độ tăng hơn 500 người, dịch kinh 15 quyển, vì nó có trước vậy.

Nghĩa là Phật giáo đã được truyền bá vào nước ta từ rất sớm hơn cả Trung Quốc???].
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,287
Động cơ
700,870 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thành Nê Lê có tháp A Dục Vương, 1 dạng như hải đăng, sau được Lý Thánh Tông trùng tu thành tháp Tượng Long (Rồng vàng hiện ra) vào năm 1058 (LS PG VN, NxB Hà Nội 1988).

Vậy là Phật Giáo đầu tiên truyền vào nước ta sớm hơn cả Trung Quốc, là Phật giáo nguyên thủy tiểu thừa. Do các nhà sư Ấn Độ hoặc Phù Nam, Lâm Ấp sang giảng chăng?
Còn đoạn sau, tác giả cho biết có nước Việt Thường, là khu vực Hà Tĩnh bây giờ nữa cụ.
 

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,980
Động cơ
1,084,616 Mã lực
Hà Tĩnh có nhiều giếng Chăm, nên nơi đây cũng có nhiều dân Chăm sinh sống rồi, tức Hà Tĩnh là vùng vô chủ, dân 2 bên sông thưa thớt xen kẽ nhau, ko rõ ràng. Bên nào cũng có thể tuyên bố nó thuộc về mình.

Lưu ý là đền Cuông thờ An Dương Vương thì ở Nghệ An, tức là khi ADV chạy cùng đường, thì kết thúc tại đây, chứ ko chạy xa thêm. Như vậy, Nghệ An thì chắc chắn thuộc Âu Lạc. Còn Mã Viện sau này thì dựng 1 cột đồng (trụ) ở ranh giới Quảng Trị-Huế ngày nay. Tức Việt Thường nằm đâu đó giữa 2 mốc này (Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị).

P/s: đoạn nói về Lâm Ấp hơi sơ sài nhỉ, trước đó Lâm Ấp 2 tài trợ cho Bà Triệu đánh Đông Ngô mấy chục năm, với rất nhiều voi. Thậm chí, nếu xét kỹ, các thớt voi của HBT được huấn luyện ở Thanh Hóa những năm 4x cũng có thể có nguồn gốc từ Tượng Lâm tài trợ, bên cạnh 1 nguồn khả dĩ khác là từ Lào. Tuy nhiên, với sự khai thác và huấn luyện voi có nghề lâu năm ở BMT, cũng như sự tiếp giáp thông thương thuận lợi của Tượng Lâm vs BMT, thì khả năng cao hơn là voi của HBT cũng từ đó.

Vậy là Phật Giáo đầu tiên truyền vào nước ta sớm hơn cả Trung Quốc, là Phật giáo nguyên thủy tiểu thừa. Do các nhà sư Ấn Độ hoặc Phù Nam, Lâm Ấp sang giảng chăng?
Còn đoạn sau, tác giả cho biết có nước Việt Thường, là khu vực Hà Tĩnh bây giờ nữa cụ.
 
Chỉnh sửa cuối:

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,287
Động cơ
700,870 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Hà Tĩnh có nhiều giếng Chăm, nên nơi đây cũng có nhiều dân Chăm sinh sống rồi, tức Hà Tĩnh là vùng vô chủ, dân 2 bên sông thưa thớt xen kẽ nhau, ko rõ ràng. Bên nào cũng có thể tuyên bố nó thuộc về mình.

Lưu ý là đền Cuông thờ An Dương Vương thì ở Nghệ An, tức là khi ADV chạy cùng đường, thì kết thúc tại đây, chứ ko chạy xa thêm. Như vậy, Nghệ An thì chắc chắn thuộc Âu Lạc. Còn Mã Viện sau này thì dựng 1 cột đồng (trụ) ở ranh giới Quảng Trị-Huế ngày nay. Tức Việt Thường nằm đâu đó giữa 2 mốc này (Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị).

P/s: đoạn nói về Lâm Ấp hơi sơ sài nhỉ, trước đó Lâm Ấp 2 tài trợ cho Bà Triệu đánh Đông Ngô mấy chục năm, với rất nhiều voi. Thậm chí, nếu xét kỹ, các thớt voi của HBT được huấn luyện ở Thanh Hóa những năm 4x cũng có thể có nguồn gốc từ Tượng Lâm tài trợ, bên cạnh 1 nguồn khả dĩ khác là từ Lào. Tuy nhiên, với sự khai thác và huấn luyện voi có nghề lâu năm ở BMT, cũng như sự tiếp giáp thông thương thuận lợi của Tượng Lâm vs BMT, thì khả năng cao hơn là voi của HBT cũng từ đó.
Cuốn này viết không sâu về Lịch sử mà cụ, Thủy Kinh chú sớ dài hơn, nhưng rắm rối và rất khó hiểu nếu không có trình độ.
Cũng còn 1 đoạn dài em chưa post mà
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,287
Động cơ
700,870 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Từ Tứ Hội 四會 chảy về phía nam, gặp cửa sông ngách Lô Dung. Năm Thái Khang 太康 thứ 3 đời nhà Tấn [ năm 282], lấy bớt đi [phần đất] Đô úy thuộc quốc quận Nhật Nam, lấy huyện Lô Dung mà nó quản lý đặt quận Nhật Nam và lỵ sở cũ của huyện Tượng Lâm. Sách Tấn Thư, địa đạo ký 晉書, 地道記 nói: quận cách cửa sông Lô Dung 200 dặm, là lỵ sở của huyện Tượng Lâm象林, Tượng Quận 象郡 thời Tần ngày trước.

[Tượng Quận 象郡 là một quận cổ, đặt ra năm thứ 33 đời Tần Thủy Hoàng, tức năm 214 TCN, ngày nay là khu vực các tây Quảng Tây, tây nam Quảng Đông, miền nam Quý Châu, 1 phần phía Bắc và miền Trung nước ta. Đến năm Nguyên Phong thứ 5, tức năm 76 TCN, đời Hán Chiêu Đế, bỏ từ Quận]
[Tượng Lâm 象林 là một huyện cổ, vị trí là ở cực nam của quận Nhật Nam xưa, lỵ sở đóng tại Trà Kiệu, Duy Xuyên, Quảng Nam bây giờ, ở đây, cuối thời Đông Hán, Khu Liên đã nổi dậy lập ra nước Lâm Ấp. Năm Thái Khang thứ 3 nhà Tây Tấn tức năm 282, chính quyền Trung Quốc lập lại huyện, dời lỵ sở về Lô Dung (tức là Thừa Thiên-Huế). Sang thời Đông Tấn, Lâm Ấp đánh chiếm lại và sáp nhập].
[ Vua Lâm Ấp là Phạm Văn, thường đem quân tấn công Cửu Chân, giết hại nhân dân đến 8,9 phần 10, vì thế] Năm Vĩnh Hòa 永和 thứ 5 [năm 350], tướng chinh tây là Hoàn Ôn 桓溫 sai Đốc hộ là Đằng Tuấn 滕畯 và thái thú Cửu Chân là Quán Thủy dẫn quân Giao Châu, Quảng Châu đi đánh Phạm Văn ở huyện Lô Dung quận Nhật Nam cũ, bị Phạm Văn đánh bại, tức là chỗ này. Tuấn lui về đóng quân ở Cửu Chân, rồi lại đem quân đánh, Văn bị thương chết, con là Phật lên thay [xem phần chú thích chi tiết phía trên]. Năm thứ 7, Tuấn cùng thứ sử Giao Châu là Dương Bình 楊平 lại tiến quân đến sông Thọ Linh, đóng quân ở Lang Hồ, [để] đánh Phạm Phật ở lỵ sở cũ của Nhật Nam. Quân Lâm Ấp đông như kiến, lũy đắp liền hơn 50 dặm. [Tuấn sai Thúy tập trung quân đông phái trước lũy, còn Thúy dẫn 700 quân tinh nhuệ vòng ra phía sau đánh] Tuấn và Bình đánh tan quân của Phật, Phật bèn chạy trốn vào vùng bãi sông đầm lầy hoang vu, sau lại sai đại soái trói hai tay ra sau lưng đến cửa quân để chịu tội, Tuấn sai võ sĩ là Trần Diên 陳延 úy lạo Phạm Phật, [2 bên] cùng thề rồi rút quân về. Năm Vĩnh Hòa thứ 9 [năm 353], thứ sử Giao Châu là Nguyễn Phu lại đánh Lâm Ấp, phá hơn 50 lũy.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,287
Động cơ
700,870 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Sách Phù Nam Ký 扶南記 của Khang Thái 康泰 [ là sứ giả của Tôn Quyền thời Tam Quốc] viết:
Từ Lâm Ấp đến cửa sông Lô Dung có thể hơn 200 dặm. Xuất phát từ cửa sông phía nam đi qua các nước Phù Nam 扶南, thường ra từ cửa này. Cho nên Lâm Ấp ký nói rằng: xứ này ở tận ngoài biên giới xa xôi của biển xanh rộng lớn, ở nơi cực xa vùng lưu phục [vùng đất cách một nơi đô hội 200 dặm gọi là lưu, 500 dặm gọi là phục], đất này ở ven biển xanh, tàu các nước cập bến khi đi qua. Sông Uất Thủy ở phía nam thông với Thọ Linh, tức là một sông ngách vậy, sông này ở trên tiếp giáp với sông ngách Đô Quan Tái 官塞浦 ở phía nam quận Giao Chỉ 交趾郡.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,287
Động cơ
700,870 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Sách Lâm Ấp Ký viết:

Sông này thông với phía ngoài xứ Đồng Cổ 銅鼓 [nghĩa là trống đồng] ở cửa Hoàng Cương Tâm Khẩu 黃岡心口, quận An Định 安定, nước Việt, có lẽ nhờ sông ấy mà sang đất Đồng Cổ tức là Lạc Việt 駱越 vậy. Mã Viện 馬援 đã lấy trống đồng để đúc ngựa đồng.

Đến cửa Tạc Khẩu 鑿口 do Mã Viện đào, trong thông với huyện Phố Dương 浦陽 quận Cửa Chân 九真 [ quận Cửu Chân do Triệu Đà đặt, lúc này Cửu Chân bao gồm cả Thanh Hóa, Hà Tĩnh và phía đông Nghệ An ngày nay, từ đời nhà Tấn về sau, diện tích Cửu Chân hẹp dần], quận Cửu Đức 九德郡 cũng có huyện Phố Dương. Giao Châu ký viết: đào đường Nam Đường 南塘 là con đường mà đến quận Cửu Chân phải đi qua, cách châu 500 dặm, năm Kiến Vũ 建武 thứ 19, Mã Viện mở con đường ấy. Lâm Ấp Ký viết: ở ngoài nước Việt, vượt Kỷ Túc 紀粟, Vọng Đô 望都, Kỷ Túc từ Phố Dương, sang đò Tiện Châu 便州 đến Điển Do 典由, sang đò Cố Huyện 故縣 đến huyện Hàm Hoan 咸驩. Hàm Hoan thuộc quận Cửu Chân, từ Hàm Hoan trở về nam, hươu hoẵng đầy núi, tiếng [chim, vượn] hú gọi bạn, tiếng kêu cảnh giới, âm vang đồng núi, chim công bay lượn, phủ kín cả ban ngày đến đỉnh núi, phong cảnh cực kỳ kỳ thú vậy.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top