Ngày 21:
Tôi lại cử người đến kho hàng để lấy lại hàng hóa của chúng tôi. Sau nhiều khó khăn, họ đã trả lại cho chúng tôi 2 thùng hàng. Tôi bắt đầu bị quấy rầy bởi những người đến đề nghị ký kết hợp đồng mua bán: tất cả đều đồng ý nhưng không ai giữ lời hứa. Tôi đã mua 2 hoặc 3 thỏi vàng với giá 220 quan một thỏi, nặng 10 lạng và có độ tinh khiết 95 phần trăm. Hai hoặc ba năm qua, giá kim loại này ở đây đã tăng vọt. Trước đây nó chỉ trị giá 130 quan và trong những năm đắt đỏ là 150 quan. Nguyên nhân của sự chênh lệch giá này là do sự du nhập của tiền kẽm. Loại kẽm này, chỉ có ở Trung Quốc, là sự kết hợp giữa sắt và chì. Nó giòn hơn sắt và nặng gần bằng, và khó gia công hơn chì. Từ lâu, người ta đã sử dụng tiền đồng ở Nam Hà, vốn có giá trị nội tại.
Để thúc đẩy thương mại, những thương nhân Trung Quốc xảo quyệt đã thuyết phục vua đúc tiền kẽm, hứa hẹn với ông lợi nhuận đáng kể từ việc đúc tiền mới này. Thật vậy, một thỏi kẽm trị giá 5 lạng ở Trung Quốc, khi được đúc thành tiền, sẽ tạo ra 20 lạng tiền mới, tương đương 40 quan. Vua, ham lợi và vô cùng quan tâm, đã đồng ý với kế hoạch này và đúc tiền kẽm.
Về phía mình, người Trung Quốc không còn mang đến đây bất kỳ kim loại nào khác ngoài kẽm, vốn được đảm bảo tiêu thụ vì nó là nguyên liệu cho một loại tiền tệ có giá trị quy định cao hơn nhiều so với giá trị thực của nó. Không hài lòng với việc chỉ mang đến kẽm thô, họ muốn chia sẻ lợi nhuận với nhà vua; họ đã đúc tiền và mang theo những lô hàng lớn. Với thứ kim loại rẻ tiền này, được định giá ở đây cao gấp ba, bốn lần so với giá trị ở Trung Quốc, họ đã thu gom không chỉ tất cả tiền đồng cũ mà còn cả vàng trong vương quốc, bất chấp việc phải trả 200 quan cho một thỏi vàng chỉ trị giá 116 đến 120 quan ở Trung Quốc.
Noi gương nhà vua và người Trung Quốc, các quan lại và thường dân cũng đúc tiền. Vì thiếu kẽm, họ đã sử dụng chì, sắt, thiếc, và đã tiết kiệm và trộn lẫn các nguyên liệu đến mức thương mại hoàn toàn bị rối loạn, và đây là một trong những rắc rối lớn nhất khi phải thanh toán hoặc nhận tiền. Đó là lý do chính khiến giá vàng tăng cao ở đất nước này. Hơn nữa, trong những năm gần đây, đã có những cuộc xâm lược của những người man rợ được gọi là Moi, khiến công việc khai thác của thợ mỏ bị gián đoạn, và vì chỉ có một số mỏ nhất định được phép khai thác, vàng đột nhiên trở nên khan hiếm.
Ít có quốc gia nào trên thế giới phong phú vàng như Vương quốc Nam Hà, nhưng tín ngưỡng thống trị lại ngăn cản việc khai thác lợi ích từ món quà thiên nhiên này. Người dân nơi đây tin rằng những ngọn núi hoang vắng nơi vàng xuất hiện khắp nơi đều có linh hồn ma quỷ cư ngụ và con người không nên xâm phạm nơi ở của chúng. Các vị vua, đồng ý với quan niệm của người dân, luôn cấm đoán việc chặt cây và khai thác đất đai tại những địa điểm linh thiêng này dưới hình phạt tử hình. Do vậy, ở Nam Hà, tín ngưỡng có sức mạnh hơn cả lòng tham vàng bạc. Mặc dù họ sẵn sàng phạm mọi tội ác phi pháp và bất công đối với con người để làm giàu, nhưng họ lại không dám liều lĩnh đắc tội với các linh hồn vì lý do tương tự. Dòng suối cuốn vàng đi khắp nơi. Thiên nhiên vốn ẩn giấu ở những nơi khác lại tự bộc lộ bản thân ở đây; nó hé lộ sự giàu có, nhưng người dân Nam Hà ngu ngốc lại từ chối.
[tác giả, dưới con mắt của một người rất rành về kinh tế thị trường, đã phân tích khá chính xác việc người Hoa đem tiền kẽm mất giá trị sang lưu hành ở Đàng Trong đã góp phần không nhỏ phá hoại nền kinh tế]
[Từ Khi chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận-Quảng, cho đến năm 1777, Đàng Trong thường sử dụng các loại tiền sau:
1. Tiền đồng
Khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, tại đây đã có các đồng tiền của nhà Mạc cùng các loại tiền thời trước, như tiền nhà Lê sơ và các loại tiền của Trung Quốc cổ thời Đường - Tống – Nguyên và nhà Minh đương thời.Trong quá trình trấn trị Thuận – Quảng, Nguyễn Hoàng đã cho đúc các loại tiền Thái Bình thông bảo và Thái Bình phong bảo, đồng thời sử dụng các loại tiền của Lê trung hưng, nhà Mạc cùng các loại tiền của Trung Quốc như trước.Đàng Trong không có mỏ đồng, nhưng do thời điểm đó Nguyễn Hoàng vẫn là một phiên thần nhà Lê trung hưng và cùng tham gia chống họ Mạc nên vẫn tiếp nhận nguồn nguyên liệu đồng ở phía bắc để đúc tiền.Tuy nhiên, từ khi cuộc chiến chống họ Mạc đã cơ bản chấm dứt, họ Nguyễn (Nguyễn Hoàng rồi Nguyễn Phúc Nguyên) cũng bắt đầu ly khai với triều đình Lê-Trịnh và không nhận được nguồn nguyên liệu đồng nữa. Lượng tiền cũ có sẵn không đủ dùng và hao hụt. Điều đó khiến chính quyền Đàng Trong không thể tự thực hiện việc đúc tiền. Do đó, trong suốt hơn 100 năm đầu từ khi ly khai chính quyền vua Lê chúa Trịnh, các chúa Nguyễn không thể tự đúc tiền đồng mà phải dùng tiền đồng hàng năm từ nước ngoài như Trung Quốc, Nhật Bản, Batavia (Đông Ấn Hà Lan) do các thuyền buôn mang đến để đưa vào lưu thông trong lãnh thổ mình cai quản.
Từ đầu thế kỷ 17, tại Nhật Bản, hai loại tiền Toraisen và Bitasen bị hao mòn, bị sứt mẻ do lưu hành quá lâu nên không còn người Nhật mặn mà, Mạc phủ Tokugawa Ieseyu cho đúc tiền Khoan Vĩnh thông bảo để thay đồng Vĩnh Lạc thông bảo vốn được ưa chuộng tại Nhật từ Trung Quốc đưa sang. Do đó hai loại tiền Toraisen và Bitasen được thu hồi lại dần, không còn được lưu hành tại Nhật. Một số người Nhật đã mang hai loại tiền này bán lại cho công ty Đông Ấn Hà Lan để họ đưa sang bán cho chúa Nguyễn ở Đàng Trong làm tiền sử dụng. Chỉ riêng trong 5 năm từ 1633 đến 1637, các tàu buôn của công ty Đông Ấn Hà Lan đã mang sang Đàng Trong 101 triệu đồng tiền (trung bình trên 20 triệu đồng tiền mỗi năm) từ Nhật Bản. Các tàu buôn Hà Lan còn mang đồng từ Nhật sang bán cho Đàng Trong. Đồng ban đầu vốn được mua về Hà Lan, nhưng sau đó người Hà Lan nhận thấy đồng của Nhật không bằng của Thụy Điển nên bị hạn chế sử dụng, do đó các thương nhân chuyển mang qua tiêu thụ tại Đàng Trong để các chúa Nguyễn làm vũ khí chống chúa Trịnh chứ không dùng đúc tiền, vì nhu cầu chiến tranh được ưu tiên. Tiền tiêu dùng hoàn toàn được nhập từ bên ngoài, trong các đồng tiền Nhật qua tay người Hà Lan đưa vào từ năm 1636 thậm chí không chỉ có các đồng tiền cũ Toraisen và Bitasen mà có cả tiền mới Vĩnh Khoan thông bảo cùng tiền Vĩnh Lạc thông bảo của Trung Quốc (mà người Nhật một thời ưa chuộng trước khi có tiền Vĩnh Khoan) do có lợi nhuận cao hơn (cho cả người Nhật lẫn người Hà Lan) và do các đồng tiền cũ Toraisen và Bitasen ngày càng cạn đi, trong khi nhu cầu tiền đồng ở Đàng Trong vẫn còn. Thông qua tài liệu của Hà Lan năm 1637 còn cho biết: khi Mạc Phủ Tokugawa Iemitsu ra lệnh cấm các thương thuyền Nhật Bản xuất dương từ năm 1635 và chỉ cho phép các thương thuyền Hà Lan, Trung Quốc tới Nhật, người Nhật lại chuyển số tiền nặng tới 200 tấn qua tay người Hà Lan để tiếp tục duy trì nguồn tiền cho Đàng Trong.
Việc không có mỏ đồng ở Đàng Trong khiến các chúa Nguyễn phải triệt để tận dụng nguồn cung cấp từ các thương nhân bên ngoài và hậu đãi họ, nhờ họ chuyển những thư từ ngoại giao sang cho chính quyền Nhật Bản, Batavia để giữ mối quan hệ hữu hảo. Chỉ riêng năm 1688, chúa Nguyễn Phúc Trăn đã gửi tới 4 bức thư sang đề nghị các quan lại Nhật dưới quyền Mạc Phủ Tokugawa Tsunayoshi đúc tiền bán cho Đàng Trong. Xưởng đúc Makajima và Nagazaki (Trường Kỳ) để đúc tiền mậu dịch bán cho bên ngoài được chính quyền Mạc Phủ cho phép chính thức từ năm 1659, từ đó hình thành cụm từ "tiền mậu dịch TrườngKỳ" mà chỉ để bán cho nước ngoài chứ không cho phép người Nhật tiêu (họ bị buộc phải đổi sang tiền Vĩnh Khoan). Ngày nay hiện vật khảo cổ cũng tìm được rất nhiều tiền cổ Nhật Bản tại khu vực do chúa Nguyễn cai quản trước đây.
Những đồng tiền lưu hành ở Đàng Trong khi đó được Lê Quý Đôn, Alexandre de Rhodes, William Dampier, Jérôme Richard, De Choisy, công ty Đông Ấn Hà Lan và công ty Đông Ấn Anh nhắc tới. Alexandre de Rhodes đến Đàng Trong năm 1624, ông nói về tiền đồng như sau:
Các tiền đồng lớn nhỏ đều được đánh bóng, có hình tròn và 4 chữ đúc ở 1 mặt, có lỗ ở giữa để có thể xỏ qua được. Tiền đồng thường xâu thành dây, mỗi dây có 600 đồng, giữa 60 đồng có đặt dấu chia ra… Dân chúng không dùng túi đựng tiền mà khoác xâu tiền lên vai. Giá trị các đồng tiền này thường thay đổi theo nhu cầu thị trường. Đôi lúc 1100 đồng tiền lớn ngang với 1 đồng ecu vàng (bằng khoảng 3,315-gram vàng).
"Tiền lớn" là tiền do khách thương Nhật, Hoa mang vào lưu hành tại cả Đàng Ngoài và Đàng Trong và tiền nhỏ là tiền chỉ lưu hành ở Đàng Ngoài.
2. Tiền kẽm tự đúc trong nước
Sau đó, Nhật Bản chấm dứt việc xuất khẩu đồng, do đó ảnh hưởng nghiêm trọng tới Đàng Trong. Chúa Nguyễn buộc phải tự xoay xở tự đúc tiền dùng trong lưu thông. Việc đúc tiền ở Đàng Trong bắt đầu khá muộn, từ năm 1736 dưới thời Nguyễn Phúc Chú. Tiền được đúc tại Cục đúc tiền dù tốn kém nhưng không thông dụng. Chúa Nguyễn Phúc Khoát tiếp tục thực hiện đúc tiền và thành công hơn. Vì không có mỏ đồng và hết nguồn cung cấp từ bên ngoài, đến năm 1746, chúa Nguyễn nghe theo lời người Khách (người Hoa) họ Hoàng đã quyết định khởi sự việc dùng hợp kim ô diên (kẽm đen) để đúc tiền kẽm thay thế tiền đồng. Đó là đồng tiền Thiên Minh thông bảo.
Công ty Hà Lan thoả thuận với Nguyễn Phúc Khoát là hàng năm sẽ nhận một số tiền đúc trị giá 600.000 florins và điều kiện nộp cho chúa 12% và cho cai bạ 2%... Việc đúc tiền kẽm giúp chúa Nguyễn lợi ra 37 quan cho mỗi 100 cân đồng. Theo Pierre Pivre, để đúc ra 48-50 quan, chúa Nguyễn cần lượng nguyên liệu là 14 quan 1 picul toutenague (kẽm trắng). Trọng lượng trung bình của tiền Thiên Minh thông bảo là 2 gram. Việc đúc tiền kẽm nhằm thay thế tiền bằng đồng vì nguyên liệu đồng trở nên khan hiếm. Ban đầu 1 đồng tiền kẽm được tính bằng 1 đồng tiền đồng. Nhưng sau đó tiền kẽm được đúc có trọng lượng thấp đi, chất lượng kém nên dần dần mất giá, 3 đồng kẽm mới bằng 1 đồng tiền đồng. Các nhà khảo cổ còn tìm được tiền chúa Nguyễn ở vùng Nam Bộ do Mạc Thiên Tứ đúc. Tiền bằng hợp kim ô diên giải quyết được vấn đề thiếu đồng để đúc tiền, nhưng chính sách đúc tiền lưu hành của chúa Nguyễn không được nghiên cứu và thi hành cẩn trọng nên gây ra kinh tế hỗn loạn và suy sụp, tình trạng nghèo đói là một nguyên nhân bùng nổ những cuộc chống đối.
Năm 1775, khi chiếm được Thuận Hóa của Đàng Trong, Trịnh Sâm tiếp tục cho đúc tiền kẽm để sử dụng, và quy định tỷ lệ giá trị giữa tiền hai miền là 3 tiền kẽm Đàng Trong = 1 tiền kẽm Đàng Ngoài.
3. Các đồng tiền tại Đàng Trong thời Lê trung hưng
Tại Đàng Trong có các đồng tiền sau:
Tiền nước ngoài
Tiền Nhật Bản
Tiền Toraisen
Tiền Bitasen
Tiền Vĩnh Khoan thông bảo
Tiền Trường Kỳ
Tiền Trung Quốc
Tiền Vĩnh Lạc thông bảo
Tiền trong nước
Thái Bình thông bảo (nhà Mạc)
Thái Bình thông bảo (chúa Nguyễn đúc)
Thái Bình thông bảo nguyên do nhà Mạc phát hành, song chúa Nguyễn ở Đàng Trong thời đầu (Nguyễn Hoàng) cũng cho đúc tiền phỏng theo mẫu của nhà Mạc. Khảo cổ học tìm thấy nhiều di chỉ tiền kim loại Thái Bình thông bảo, nhưng khó phân biệt được đâu là tiền do nhà Mạc đúc và đâu là tiền do các chúa Nguyễn đúc nếu không dựa vào niên đại của nơi đồng tiền được phát hiện. Thái Bình thông bảo bằng đồng, có kích thước nhỏ, đường kính từ 18–20 mm, mỏng. Mặt trước có bốn chữ Thái Bình thông bảo đọc chéo. Mặt sau có thể để trơn, hoặc có thể có một hoặc hai chấm nổi.
Thiên Minh thông bảo
Tiền kim loại do chúa Nguyễn Phúc Khoát phát hành ở Đàng Trong. Theo Đại Nam thực lục tiền biên thì Nguyễn Phúc Khoát cho mua "kẽm trắng" của Hà Lan về để đúc tiền, sau đó lại cho pha thêm "kẽm xanh" vào. Tiền này có thể nấu chảy không khó, nhưng cứng. Đàng trong thời Nguyễn Phúc Khoát cũng cho phép các xưởng đúc địa phương hoạt động và các xưởng này nhiều khi pha cả chì vào khi đúc tiền. Tiền này mặt trước có bốn chữ Thiên Minh thông bảo đọc chéo. Mặt sau để trơn. Tiền do chúa đúc thì có đường kính 23 cm và được đúc cẩn thận. Tiền do địa phương đúc nhiều khi có kích thước nhỏ hơn, mỏng hơn]
4. Các loại tiền Trung Quốc và cuộc khủng hoảng tiền kẽm
Thời các chúa Nguyễn, ở Thuận, Quảng, Gia Định còn rất thông dụng tiền Khang Hy và các thứ tiền Khai Nguyên nhà Đường; Thuần Hóa, Tường Phù nhà Tống; đồng thời có lệ mỗi chúa lên ngôi thì đúc tiền đồng nhỏ, in hai chữ Thái Bình.
Năm Giáp Ngọ (1774), quân Hoàng Ngũ Phước vào Phú Xuân, tịch thu kho tàng, lấy được hơn 10 vạn quan tiền đồng cũ hiệu Khang Hy, Thuần Hóa, mới biết thuyền buôn Bắc Hà đã lén chở vào bán lại. Những đồng tiền cũ của Trung Quốc thường được dân phá làm đồ dùng, mỗi ngày một hao hụt. Năm Giáp Thìn (1724), đời chúa Phúc Chú, Ký lục Chính dinh là Nguyễn Đăng Đệ xin cấm dùng các thứ tiền bằng gang, chì, sắt để mua bán, còn tiền đồng nếu không gãy, mẻ thì không bỏ. Không biết các thứ tiền gang, thiếc, chì sắt là tiền gì và do ai đúc ra, năm Ất Tỵ (1725), chúa Nguyễn cho đúc thêm tiền đồng. Nhưng số tiền đồng đúc ra cũng bị dân gian phá làm đồ dùng, nên đến chúa năm Bính Dần (1746), theo đề nghị của Hoa kiều họ Hoàng, mua kẽm trắng của Hà Lan, mở trường đúc ở Lương Quán, đúc tiền kẽm, vành tiền và chữ đề theo thể thức tiền Tường Phù nhà Tống. Việc lưu hành tiền kẽm này đã gây ra một cuộc khủng hoảng tiền tệ trầm trọng ở Nam Hà lúc bấy giờ. Theo Phủ biên tạp lục thì tiền kẽm đúc ra lần đầu dày, cứng, tuy có thể đốt cháy, nhưng không thể bẻ gãy được, nên tiêu dùng cũng tiện. Thế rồi, người có tiền đồng cất giữ, không chịu đem tiêu dùng. Người quyền quý, có thế lực tranh nhau xin đúc thêm tiền kẽm, dựng hơn 100 lò, đúc tiền hiệu Thiên Minh Thông Bửu, trộn chì vào, tiền lại nhỏ mỏng, có thể bẽ gãy được, dân gian chê xấu không dùng, nên việc mua bán không thông. Trước thì 1 đồng tiền kẽm ăn 1 đồng tiền đồng, nay 3 đồng mới ăn 1. Thuyền buôn ngoại quốc không nhận, họ đổi hàng hóa lấy gạo, muối, còn nhà giàu không muốn lấy tiền ấy, không chịu bán lúa, vì thế giá lúa cao vọt lên. Trong vòng hai năm, thuyền buôn Ma Cao đem kẽm đến bán, không dưới 15 vạn cân, mà chính quyền không biết cấm, kẻ gian mua rồi đem đến núi sâu, hải đảo đúc lén, không thể tra hỏi được.
Từ năm Mậu Tý (1768) trở đi, vì nhà giàu giữ lúa không chịu bán ra, nạn đói hoành hành ở Thuận, Quảng. Năm Canh Dần (1770), ở Thuận Hóa có dật sĩ là Ngô Thế Lân dâng thư lên chúa Nguyễn Phúc Thuần bàn về nguyên nhân đói kém, và đề nghị phương kế bổ cứu. Thư đại lược rằng:
“Nay thiên hạ đã bình yên lâu ngày, đất rộng, dân đông, đất trồng ngũ cốc đã khai khẩn hết, những nguồn lợi núi chằm đã khai thác hết, lại thêm ruộng ở Phiên Trấn, Long Hồ không bị hạn lụt, thế mà từ năm Mậu Tý đến nay giá lúa cao vọt, sanh dân đói kém, là vì cớ gì? Thần trộm nghĩ ấy không phải là vì thiếu lúa mà vì tiền kẽm gây nên vậy. Phàm dân chạy về mối lới cũng như nước chảy xuống chỗ thấp, thế không thể ngăn được, thế nên tuy rừng sâu có độc lam chướng, có nạn hùm beo, biển lớn có cái nguy sóng gió, kình ngạc, mà người ta thường đến mà không sợ, ấy là vì thấy lợi mà quên hại vậy. Huống chi cái lợi đúc tiền kẽm lại gấp bội cái lợi khác lại không có cái lo về lam chướng, hùm beo, sóng gió, kình ngạc, tuy có lệnh cấm nhưng từ khi dùng tiền tới nay, chưa ai vì đúc trộm mà bị giết bao giờ. Cho nên từ khi việc đúc trộm tiền kẽm ở Ba Thắc hoành hành thì giá lúa ở Gia Định cao vọt, ấy là vì kẻ đúc trộm tiền kẽm được lợi rất nhiều, nếu chở đi nơi khác thì sợ lộ việc gian, nên không kể hàng đắt hàng rẻ, đều tùy tiện mua lấy, giá lúa nhân đó mà cao lên. Lúc đắt thì dân sợ đói, sợ đói thì tranh nhau để chứa, tranh nhau mua thì lúa ngày càng đắt, lúc đắt thì mọi vật trong thiên hạ cũng theo đó mà đắt lên. Huống chi tính người ai cũng ưa cái bền chắc, ghét cái chóng hư, nay lấy đồng tiền kẽm chóng hư mà thay đồng tiền bền chắc, cho nên dân tranh nhau chứa lúa mà không chịu chứa tiền. Thời Hán Cao Tổ cho rằng tiền nửa lượng của nhà Tần nặng quá, mới đúc giáp tiền để thay, vật giá liền lên cao, 1 thạch gạo giá đến 1 vạn đồng tiền, ấy là vì tiền mỏng nên vật giá phải cao, đã ăn thì cha con không có nghĩa nữa. Cha đã không giữ được con, thì vua sao giữ được dân?
Tuy vậy, các tệ tiền kẽm đã lâu rồi, nay muốn thay đổi rất khó mau có công hiệu, mà nạn đói của dân lại rất gấp. Thần trộm nghĩ phương kế ngày nay, không gì bằng phỏng theo phép nhà Hán, mỗi phủ đặt 1 kho “Thường Bình”, đặt chức quan Hữu tư, định giá thường bình, rồi hễ lúa rẻ thì mua chứa vào kho, lúa đắt thì theo giá mà bán cho dân. Như thế thì giá lúa không đến nỗi rẻ quá để thiệt hại nhà nông, mà cũng không đến nỗi đắt quá để lợi cho dân buôn, khiến dân nghèo đói kém, rồi sau sẽ lần lần sửa đổi cái tệ tiền kẽm. Như thế vật giá sẽ được bình ổn”. (Theo Phủ biên tạp lục).”
Thư dâng lên, nhưng không thấy trả lời].