Suy nghĩ về Âm Đức đối với con cháu
Giáo sư Ngô Văn Lại - Viện Hán Học
Người phương Ðông quan niệm kẻ tích lũy nhiều âm đức vừa bù đắp được những điều thất đức của mình cùng các đời trước lỡ tạo ra trong quá khứ, phần còn thừa sẽ dành lại cho con cháu hưởng thụ. Kinh nghiệm cuộc sống có vẻ ứng nghiệm chân lý này tuy rất khó giải thích cặn kẽ. Ngôn ngữ dân gian cũng phát biểu nôm na: “Trồng cây đức để con ăn…”
Kẻ gây loại tai họa làm trái đạo hiếu sinh (1) (chẳng hạn buôn bán hoặc sử dụng heroin, xúi giục gây loạn lạc, bất ổn để thủ lợi, v.v..) thì dù có lọt được lưới pháp luật cũng bị “cõi âm” xử lý bằng cách truất phần âm đức của ông cha họ dành lại cho họ. Các triều đại ngắn ngủi trong lịch sử có lẽ minh chứng khá hùng hồn cho sự tác động của âm đức. Dù giới sử quan có “bẻ công ngòi bút, bóp méo sự thật” thì cứu cánh cũng rất sẵn sàng tố cáo phương tiện (đơn cử trường hợp nhà Ðinh).
Nhận thức vai trò của âm đức, Tư Mã Quang (2) (1019 – 1086) đã viết trong sách gia huấn: “Dồn vàng dành cho con cháu, chưa chắc con cháu giữ nổi, dồn sách dành cho con cháu, chưa chắc con cháu đọc nổi, không bằng dồn âm đức trong cõi mờ mịt để làm kế hoạch lâu dài cho con cháu” (Tích kim dĩ tử tôn, tử tôn vị tất năng thủ, tích thư dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng độc; bất như tích âm đức u minh minh chi trung dĩ vi tử trường cửu chi kế – Tư mã Ôn công gia huấn)
Quan niệm Tư Mã Quang có giá trị nhân văn khá tích cực. Dù người ta có phủ nhận “kế hoạch lâu dài” này của ông, phủ nhận sự tồn tại và tác động của âm đức đi nữa thì chỉ việc “lặng lẽ làm ơn” cũng đã đem lại niềm vui rất nhiều (Vi thiện tối lạc – Ngạn ngữ)
Kẻ làm điều thiện sẽ tự cảm thấy phẩm chất làm người của mình được nâng cao thêm, từ đó, bản năng loài vật ở giai đoạn hái lượm thời nguyên sơ đã bị đẩy lùi lại để phục tùng trí tuệ, tâm hồn của con người trong giai đoạn văn minh phát triển.
Nếu chịu khó quan sát thẳng thắn chừng vài ba thế hệ ở một gia tộc nào đó trong lịch sử hay ở quanh ta, dấu vết biểu hiện của âm đức rất khó tẩy xóa, phủ nhận.
Triết lý Phật giáo trình bày thuyết âm đức trong khuôn khổ thuyết nhân quả, luân hồi, nghiệp báo, v.v.. và có lẽ đây là điểm đồng qui cụ thể của hai luồng tư tưởng lớn Nho – Thích.
Kẻ phủ nhận thuyết âm đức thường vì những lý do thực dụng nông nổi trong khoảnh khắc hoặc do chưa tích lũy đủ kinh nghiệm sống để thừa nhận tính quy nạp, tính mặc khải rất đặc biệt của nền khoa học phương Ðông.
Với đà phát triển mạnh mẽ của khoa điện tử, chắc là trong tương lai không xa, nền khoa học huyền bí của người xưa – trong đó có đối tượng âm đức – sẽ được chính xác hóa để hoàn toàn đứng vào hàng ngũ khoa học ứng dụng.
Giáo sư Ngô Văn Lại
Việt Nam, 2006