[Funland] Chiến tranh lạnh (1945-1991)

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,006
Động cơ
1,129,122 Mã lực
Cách đây trên 60 năm, cabin máy bay chưa có điều áp, để bay ở độ cao 25 km, phi công phải có người mặc quần áo kháng (một phần)



Từ năm 1967, Mỹ sản xuất U-2R to hơn U-2A mà Francis Powers lái


Máy bay U-2R (phải) đưa vào sừ dụng năm 1967 lớn hơn U-2A ban đầu (trái) đáng kề. Sải cánh của nó là 31,4m (so với 24,4m cùa U-2 đầu tiên), đồng thời động cơ mạnh hơn và bền bỉ hơn



Các U-2R (sản xuất từ 1967) có buồng lái rộng hơn để phi công mặc bộ quần áo đủ áp suất. Trước khi bay, phi công phải thở oxy một giờ để bay ở biên độ cao

 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,006
Động cơ
1,129,122 Mã lực
U-2 bay trinh sát Trung Quốc và Bắc Việt Nam
Từ cuối thập niên 1950, dưới sự chỉ đạo về mặt kỹ thuật của CIA, Không quân Đài Loan đã nhiều lần sử dụng máy bay phản lực B-57 được cải tiến thành RB-57D, xâm nhập không phận Trung Quốc để do thám, và đã có 2 chiếc RB-57D bị Trung Quốc bắn hạ.
Thế nên, cùng với việc đưa 28 phi công Đài Loan sang Mỹ học lái máy bay U-2, CIA đề nghị Chính phủ Mỹ cung cấp U-2 cho Đài Loan.
Rút kinh nghiệm vụ phi công U-2 là Francis Gary Powers bị Liên Xô bắn rơi và bắt sống ngày 1-5-1960, Tổng thống Eisenhower mặc dù phê duyệt kế hoạch này nhưng lại không muốn để lộ ra rằng, việc xâm nhập lãnh thổ Trung Quốc có bàn tay của Mỹ.
Vì thế, 2 chiếc U-2 khi chuyển đến căn cứ không quân Taoyuan, nằm ở miền Bắc Đài Loan đều không sơn cờ hiệu và số hiệu Mỹ mà chỉ có cờ và số hiệu của Liên đội quan trắc thời tiết thuộc Nha Khí tượng Đài Loan.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,006
Động cơ
1,129,122 Mã lực
Ngày 12-1-1962, phi vụ do thám đầu tiên của U-2 trên đất Trung Quốc được tiến hành bởi các phi công Đài Loan dưới vỏ bọc "nghiên cứu độ cao", mục tiêu là khu vực thử nghiệm tên lửa Shuangchengzi, nơi thử vũ khí hạt nhân Lanchou và một căn cứ không quân gần với miền Bắc Việt Nam nhất là sân bay Côn Minh.
Tiếp theo, đến tháng 2-1962, máy bay U-2 xuất hiện trên bầu trời đông bắc và tây bắc, miền Bắc Việt Nam.
Ngày 9-9-1962, hệ thống tên lửa phòng không Trung Quốc bắn rơi một chiếc U-2 ở khu vực Nanchang khi chiếc máy bay này hạ độ cao, tránh mây mù để chụp ảnh. Phi công Chen Huai bị thương nặng và sau đó chết trong bệnh viện.
Ngày 1-11-1963, lại thêm một U-2 nữa bị bắn rơi. Chính phủ Mỹ phủ nhận cáo buộc của Trung Quốc là đã dính líu trực tiếp đến những chuyến bay do thám ấy bằng cách cho rằng Đài Loan đã mua U-2 của Mỹ từ trước đó.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,006
Động cơ
1,129,122 Mã lực
Khi chiếc U-2 rơi rụng trên không phận Liên Xô rồi sau đó là 2 chiếc rơi ở Trung Quốc - trong lúc các nhu cầu về thông tin tình báo liên quan đến chương trình vũ khí hạt nhân của Trung Quốc tăng lên - đồng thời Lực lượng Phòng không, Không quân Trung Quốc cũng được Liên Xô viện trợ thêm nhiều tên lửa SAM-2 và hệ thống radar cảnh báo sớm nên qua việc phân tích những nhược điểm kỹ thuật, CIA yêu cầu Hãng Lockheed phải cải tiến lại một số trang bị cho máy bay U-2 mà cụ thể là nó được Lockheed tái bổ sung nhiều thứ "đồ chơi", bao gồm radar thăm dò XII, hệ thống gây nhiễu radar đối phương XIII, thiết bị phát hiện tên lửa FS vì họ tin rằng Hà Nội có thể cũng đã có những loại vũ khí giống như Trung Quốc.
Bên cạnh đó, ngoài máy chụp ảnh dùng phim ướt, U-2E còn được lắp đặt máy chụp ảnh quang điện và radar ảnh Raytheon ASARS-2 có thể chụp rõ một vật kích thước chỉ 0,3m dưới mặt đất. Chưa kể U-2E có thêm tính năng tiếp nhận nhiên liệu trên không, mở rộng tầm bay xa 15.000km.
Ngày 31-12-1963, Tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson ra lệnh Phi đoàn trinh sát chiến lược 4080 (SRW 4080) đến miền Nam Việt Nam thay thế nhóm trinh sát đường không RF101Voodoo nhằm phát hiện và ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam qua "đường mòn Hồ Chí Minh".
Ngày 5-3-1964, một đội gồm 3 máy bay U-2E - loại máy bay do thám tối tân nhất vào thời đó, mang số hiệu 347, 370 và 374 đã đến sân bay Biên Hòa
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,006
Động cơ
1,129,122 Mã lực
Ngày 5-3-1964, trong một kế hoạch được đặt tên là Operation Location 20, 3 chiếc U-2E do các phi công Chuck Stratton, Jerry Mcllmoyle và Steve Heyser thuộc Phi đội trinh sát chiến lược 4080 từ căn cứ không quân Kadena trên đảo Okinawa bay đến sân bay Clark, Philippines rồi từ căn cứ Clark, họ hạ cánh xuống sân bay Biên Hòa cùng với các máy bay DC-130 làm nhiệm vụ tiếp dầu trên không.


1-1965 – máy bay trinh sát U-2 tại Căn cứ không quân Biên Hoà (vì lý do bí mật, U-2 hiếm khi ở ngoài hangra)



Phù hiệu của Phi đội trinh sát chiến lược 4080



Phi đội trinh sát chiến lược 4080

Mật danh của 4080 là "Lucky Dragon - Rồng may mắn" còn mật danh của máy bay U-2 là "Dragon Lady - Mệnh phụ Rồng". Riêng những máy bay tiếp dầu DC-130, được gọi là "Blue Springs - Những con suối xanh".
Trước đó 2 tháng, một nhóm nhân viên kỹ thuật gồm hơn 50 người đã đến Biên Hòa, chuẩn bị cơ sở hậu cần để phục vụ cho những chuyến bay trinh sát. Khu vực đỗ U-2 đặt biệt lập ở một nơi, có vòm che rất kín nhằm ngăn chặn những con mắt tò mò. Không một người Việt Nam nào được phép bước vào nơi này, kể cả Tư lệnh không quân chính quyền Sài Gòn. Cố vấn Mỹ cũng vậy, họ được khuyến cáo đừng nên lai vãng nếu không có giấy phép đặc biệt của CIA.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,006
Động cơ
1,129,122 Mã lực
Từ tháng 4-1963, những chuyến bay U-2 được Phi đội trinh sát chiến lược 4080 liên tục thực hiện nhằm giám sát bằng hình ảnh các con đường mòn vận chuyển vũ khí, lương thực, đạn dược, xuất phát từ tỉnh Quảng Bình, miền Bắc Việt Nam, đi qua dãy Trường Sơn, vào đất Lào, Campuchia rồi tỏa đến các tỉnh miền Trung, miền Đông Nam Bộ.
Trên biển, nó ghi lại hình ảnh những chiếc ghe đánh cá hoạt động từ Vĩ tuyến 15 đến Vĩ tuyến 19 với mục đích phát hiện những đoàn tàu không số. Ở cảng Hải Phòng, U-2 chụp toàn bộ tàu bè có mặt trong cảng, giám sát các loại tàu đi, tàu đến, nhất là những tàu treo cờ Liên Xô.
Tại căn cứ Clark, Philippines, các chuyên gia phân tích không ảnh ngồi miệt mài trước những kính phóng đại, quan sát từng chi tiết hiện trên đường mòn rồi đánh dấu các mục tiêu nghi ngờ là kho đạn, kho gạo, kho súng, các bãi tập kết xe vận tải, bãi tập kết dân công gùi thồ, các binh trạm, nhằm phục vụ cho việc đánh bom bằng máy bay phản lực B-57 sắp được Chính phủ Mỹ điều đến Việt Nam.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,006
Động cơ
1,129,122 Mã lực
Ngày 2-8-1964, cùng với vụ tàu Maddox xảy ra trong Vịnh Bắc Bộ - là cái cớ để Chính phủ Mỹ tiến hành chiến tranh xâm lược, các phi vụ do thám cũng tăng lên.
Bác sĩ Thomas D. Kent, thuộc Trạm Quân y sân bay Biên Hòa cho biết tinh thần phi công U-2 luôn trong trạng thái căng thẳng và có người cần được trị liệu tâm lý: "Mỗi phi vụ, họ phải xoay xở từ 10 đến 12 tiếng trong một buồng lái chật chội. Những hôm thời tiết xấu, phi công đôi khi phải hạ độ cao xuống dưới 6.000 mét để chụp ảnh trong tâm trạng không lấy gì yên ổn bởi lẽ tấm gương đàn anh Powers bị bắn hạ rồi bị bắt sống vẫn còn sờ sờ ra đấy".
Sau khi hạ cánh, phần lớn phi công U-2 lăn ra ngủ để lấy sức cho những chuyến bay kế tiếp. Nếu muốn vào thành phố Biên Hòa hoặc về Sài Gòn chơi bời, họ được nhân viên an ninh yêu cầu phải mặc quần áo dân sự và tuyệt đối không được hé môi về những nhiệm vụ mà họ đang làm.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,006
Động cơ
1,129,122 Mã lực
Bước sang năm 1965, cùng với việc quân viễn chinh Mỹ đến Việt Nam, tần suất các chuyến bay do thám cũng theo đó tăng lên. Tại sân bay Biên Hòa, cứ mỗi lần có một chiếc U-2 hạ cánh là quang cảnh lại y như một đàn kiến xúm vào xâu xé một con sâu.
Ngay khi chiếc U-2 vừa dừng lại ở bãi đỗ thì lập tức một nhóm kỹ thuật viên ào tới, người gỡ hộp phim ướt, kẻ tháo bộ lưu dữ liệu radar để chuyển lên một chiếc C-130 đang chờ sẵn, mang về căn cứ Clark, Philippines.
Chưa hết, lúc một chiếc U-2 khác chuẩn bị cất cánh thì mọi việc lại được lập lại: Lắp phim, lắp bộ lưu dữ liệu radar, kiểm tra động cơ, nhiên liệu…
Từ lúc ấy, phi công lái U-2 được lệnh phải bay ở độ cao từ 22 đến 25km khi vào vùng trời Bắc Việt Nam, đồng thời được cung cấp bản đồ ghi lại những địa điểm bố trí tên lửa SA2 để tính toán đường bay nhằm tránh bị bắn hạ.
Bay trên U-2, phần lớn phi công đều bị ám ảnh bởi tên lửa SAM-2 bởi lẽ vị trí tuyệt đối về độ cao của U-2 không còn nữa kể từ lúc Liên Xô chế tạo và hoàn thiện loại tên lửa này.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,006
Động cơ
1,129,122 Mã lực
Theo Steve Heyser, mỗi phi công đều được trang bị một túi cứu sinh (U-2 Pilot Survival Kit), bao gồm súng ngắn có ống giảm thanh, dao găm, đá mài, kim khâu, lưỡi câu, thuốc chống côn trùng, la bàn, còi cấp cứu, kính tín hiệu, thuốc lọc nước, thuốc bôi mặt để ngụy trang, thuốc chống cá mập, bộ lọc nước biển thành nước ngọt, radio, pin, đèn pin cùng một khẩu phần ăn đặc biệt, đủ dùng trong 7 ngày.
Steve Heyser nói: "Tuy nhiên, nếu bị bắn và bị buộc phải nhảy ra ngoài từ độ cao 20.000 hay 22.000 mét thì chả có túi cứu sinh nào cứu được".
Ngày 11-2-1966, Phi đội trinh sát chiến lược 4080 chuyển về căn cứ không quân Davis Monthan, bang Arizona, Mỹ. Thay thế nó là Phi đội trinh sát chiến lược 349, còn Phi đội máy bay DC-130 Blue Springs tiếp nhiên liệu trên không được thay bằng Phi đội 100.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,006
Động cơ
1,129,122 Mã lực
Ngày 8-10-1966, phi công Leo Stewart thực hiện nhiệm vụ do thám cảng Hải Phòng. Khi vừa vào đến Thanh Hóa, đột nhiên hệ thống radar FS phát tín hiệu cảnh báo nhưng chưa kịp phản ứng gì thì Leo Stewart cảm thấy có một chấn động rất lớn xảy ra phía dưới máy bay như thể đã có một quả tên lửa phát nổ. Chiếc U-2E rung lên bần bật còn hệ thống radar dẫn đường hầu như mất tác dụng.
Cố gắng cho máy bay vòng ra biển rồi lợi dụng độ cao, Stewart lái chiếc U-2 quay mũi về hướng Nam. Khi gần đến sân bay Biên Hòa, biết là không thể điều khiển được nữa, Stewart bấm nút phóng dù thoát ra ngoài, còn chiếc U-2 rơi xuống một khu rừng ở Mã Đà, Đồng Nai.
Theo Stewart, máy bay của anh ta bị mảnh tên lửa SAM-2 đánh trúng nhưng CIA kết luận nó rơi do "những vấn đề cơ học".
Tháng 7-1970, Phi đội trinh sát chiến lược 349 chuyển căn cứ từ Biên Hòa sang Thái Lan rồi được đổi tên là Phi đội trinh sát chiến lược 99. Nó ở đó tới tháng 3-1976 nhưng từ khi sang Thái Lan đến cuối năm 1974, U-2 vẫn tiếp tục các chuyến bay do thám trên không phận Việt Nam…
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,006
Động cơ
1,129,122 Mã lực
Đổi phi công Francis Powers lấy điệp viên Liên Xô Rudolf Abel
Francis Powers bị kết án 10 năm tù giam, nhưng chỉ thụ án 17 tháng, vì ngày 10-2-1962, Liên Xô và Mỹ thoả thuận trao đổi Francis Powers lấy điệp viên Liên Xô Rudolf Abel
Việc trao đổi được tiến hành tại cây cầu Glienicker nối Potsdam với Wannsee (giữa Đông và Tây Berlin)




























 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,006
Động cơ
1,129,122 Mã lực
Rudolf Abel là ai
Sau Thế chiến II, vào tháng 11-1948, bằng nhiều thủ thuật William Fisher (tức Rudolf Abel, mang bí danh Mark) được cử đến Mỹ hoạt động với thời gian kéo dài 14 năm.
Tại New York, ở phố Fulton khu Brooklyn xuất hiện một họa sĩ tự do tên là Emil Robert Goldfus. Người đó chính là "Mark". Ông đã thiết lập và lãnh đạo nhiều điệp viên do chính ông tuyển chọn, tự tạo ra những mã số để thường xuyên liên lạc với trung tâm và hoạt động cực kỳ hiệu quả trong một thời gian dài.
Trong mạng lưới này có vợ chồng Morris Cohens và Lona. Lona là người rất thông minh, sáng tạo trong việc thu thập các thông tin từ Trung tâm hạt nhân Los Alamos của Mỹ. Nhờ có "Mark" và nhóm tình báo của ông mà Liên Xô đã rút ngắn đáng kể thời gian để chế tạo thành công bom nguyên tử.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,006
Động cơ
1,129,122 Mã lực
Để nhóm của "Mark" hoạt động thêm hiệu quả, Moscow cử thượng tá KGB Konstantin Ivanov đến New York. Fisher đưa cho ông ta một số tiền lớn để thành lập studio chụp ảnh cũng như để giúp đỡ vợ của một điệp viên đã bị bắt.
Nhưng viên thượng tá KGB khi sang đến phương Tây chỉ biết chi tiền vào việc chơi bời gái và rượu chè khiến mạng lưới tình báo ở đây đứng trước nguy cơ bại lộ. Mùa hè năm 1955, Fisher trở về Nga để nghỉ ngơi. Khi biết Konstantin Ivanov đang hủy hoại mạng lưới tình báo ở New York, KGB quyết định gọi ông ta trở về, nhưng Ivanov chống lệnh và đã phản bội, khai báo về Mark đồng thời còn hứa hẹn sẽ hợp tác với Cục Tình báo Mỹ (CIA).
Vào năm 1957, Mark bị các nhân viên của Cục Điều tra liên bang Mỹ (FBI) bắt giữ tại khách sạn. Trong lúc đó, lãnh đạo Liên Xô tuyên bố rằng, họ không bao giờ cho phép "hoạt động gián điệp" chống lại nước khác. Để thông báo cho trung tâm về việc mình bị bắt giữ, Fisher khai mình tên là Rudolf Abel, cũng là một tình báo viên, nhưng đã hy sinh khi làm nhiệm vụ. Khi báo chí đăng tải về việc bắt giữ Rudolf Abel, Moscow hiểu ngay là William Fisher đã bị sa lưới.
Trong quá trình điều tra, William Fisher luôn phủ nhận mình là tình báo, từ chối đưa ra các bằng chứng tại tòa và không nghe theo các lời dụ dỗ của CIA để phản bội tổ quốc. Ông bị kết án 32 năm tù và bị biệt giam tại một nhà tù ở New York, sau đó bị chuyển đến nhà tù liên bang ở Atlanta.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,006
Động cơ
1,129,122 Mã lực
Đường dây gián điệp Rudolf Abel tan vỡ chỉ vì một đồng xu rỗng bí ẩn
Tối 22-6-1953, cậu bé Jimmy đến đưa báo cho một khách hàng tại một căn hộ ở khu Brooklyn, thành phố New York như thường lệ. Chủ nhà trả tờ $1 nhưng cậu không có xu trả lại và hai phụ nữ sống ở ngôi nhà đối diện đã lấy xu đổi cho Jimmy. Về nhà, Jimmy đã chú ý đến một đồng xu khác lạ. Khi cầm lên xem, nó có đường viền khác các đồng xu bình thường và có cảm giác nhẹ hơn. Cậu bé Jimmy tò mò thả đồng xu đó xuống đất thì nó lập tức vỡ ra làm hai mảnh và một bức ảnh nhỏ xíu bên trong khoang rỗng của đồng xu rơi ra ngoài. Trên tấm vi ảnh này là hàng loạt những con số khó hiểu.
Hai ngày sau, một thám tử của Sở Cảnh sát New York đã tình cờ biết về đồng xu kỳ lạ của Jimmy và ông ta lập tức gửi nó cho Cục Điều tra Liên bang (FBI), bởi tấm vi ảnh có điều đáng ngờ ở bên trong. Các điệp viên của Văn phòng FBI ở New York nhận thấy tấm vi ảnh không có gì khác ngoài 10 cột toàn chữ số được đánh máy rõ ràng. Mỗi con số có 5 chữ số và có cả thảy 21 con số trong mỗi cột như vậy. Họ nghi ngờ rằng chúng là mật mã của một bức thư tình báo nên đã cẩn thận gói ghém tất cả để chuyển tới phòng thí nghiệm trung tâm của FBI ở Washington.







 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,006
Động cơ
1,129,122 Mã lực
Sau khi được chuyển tới Washington ngày 26-6-1953, đồng xu rỗng đã được một nhóm các chuyên gia FBI tại đây kiểm tra kỹ lưỡng. Mặt trước của nó là đồng xu sản xuất năm 1948 có hình Tổng thống Jefferson và trên chữ cái của chữ TRUST, các nhân viên FBI phát hiện một lỗ bé xíu. Đây được xác định là chỗ cho một chiếc kim hoặc một vật dụng nhỏ nào đó có thể luồn vào để mở đồng xu ra. Mặt sau của nó lại là một đồng xu khác được đúc quãng năm 1942 - 1945. Cả hai mặt đồng xu khác nhau này đều được làm từ hợp kim đồng và bạc, bởi vì trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ 2 rất khan hiếm niken.
Cùng lúc đó, các điệp viên FBI ở New York đã tiến hành một cuộc điều tra để tìm ra nguồn gốc của đồng xu rỗng đáng ngờ. Hai người phụ nữ đã đổi cho cậu bé tờ USD tối ngày 22-6 khẳng định rằng, họ không hề biết gì về đồng xu rỗng kỳ quái đó. Những ảo thuật gia cũng khẳng định đây không phải là đồng xu trong nghề của họ, bởi lỗ rỗng quá bé không thể giấu được gì ngoài một mảnh giấy nhỏ xíu. Tại Washington, việc giải mã tấm vi ảnh cũng không thu được kết quả, kể cả loạt máy chữ để đánh các con số cũng không thể xác định được nó xuất xứ từ đâu. Suốt từ năm 1953 đến năm 1957, FBI đã đau đầu tập trung đề giải mã bí ẩn về đồng xu Jefferson rỗng ruột.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,006
Động cơ
1,129,122 Mã lực
Cuối cùng thì người Mỹ cũng tìm ra chìa khoá để giải mã bí ẩn về đồng xu rỗng, đó là viên Trung tá phản bội của KGB (Cơ quan tình báo Xô viết) Reino Hayhanen. Đầu tháng 5-1957, kẻ phản bội này đã điện tới Đại sứ quán Mỹ và thông báo ý định đào ngũ của hắn. Reino Hayhanen khai, hắn là một điệp viên Liên Xô vừa mới được lệnh quay trở về Moscow nhưng muốn đào ngũ để ở lại Mỹ.
Tại một ngôi nhà đầy đủ tiện nghi của anh ta sống cùng vợ ở Dorislee Drive. Peekskill thành phố New York, các nhân viên FBI đã tìm thấy một đồng xu 50 markka (tiền Phần Lan). Đồng xu này cũng được làm rỗng và có một lỗ bé xíu ở chữ “a” đầu tiên trong từ “tasavalta” ở mặt phía sau. Các chuyên gia ở phòng thí nghiệm của FBI nhanh chóng xác nhận rằng, đồng xu Phần Lan này có hình thức khoan và làm rỗng giống hệt với đồng Jefferson mà cậu bé bán báo ở New York đã phát hiện năm 1953. Bí ẩn về đồng xu rỗng mà FBI đau đau suốt bao năm đã được hé mở.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,006
Động cơ
1,129,122 Mã lực
Hayhanen cũng khai báo cho người Mỹ chi tiết về những mật mã và quy luật mật mã mà anh ta cùng các điệp viên Liên Xô sử dụng đề trao đổi tin tức. Căn cứ vào lời khai này, tấm vi ảnh trong đồng Jefferson rỗng đã nhanh chóng được FBI giải mã. Ngày 3-6-1957, thông điệp đầy đủ của tầm vi ảnh đã được đọc hết. Đó là bức thư gửi cho Hayhanen từ Liên Xô ngay sau khi anh ta đặt chân đến Mỹ tháng 10-1952, có bốn thông tin như sau:
1. Xin chúc mừng anh đã đến Mỹ an toàn.
2. Chúng tôi đã chuyển cho anh 3.000 USD và anh có thể dùng nó để đầu tư vào bất cứ ngành kinh doanh nào làm vỏ bọc.
3. Tất cả những thông số về bản thân anh như địa chỉ, nơi làm việc... không được gửi cùng vào một bức thư, hãy lồng ghép chúng vào nhiều bức thư khác nhau.
4. Hàng sẽ được gửi theo địa chỉ vợ anh. Chúc anh thành công! Ngày 1 và 3 tháng 12.

Hayhanen không hiểu bằng cách nào mà đồng xu tình báo đặc biệt này lại rơi vào tay hai người phụ nữ ở khu Brooklyn để rồi rơi vào tay FBI.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,006
Động cơ
1,129,122 Mã lực
Mặc dù Hayhanen đã giúp FBI giải mã bí ẩn về đồng Jefferson rỗng nhưng những thông tin do anh ta cung cấp vẫn làm đau đầu các nhân viên FBI. Nhân vật “Mikhail” mà Hayhanen đã liên hệ từ mùa thu năm 1952 đến đầu năm 1954 vẫn chưa được xác định. Hayhanen đã khai rằng, năm 1954 Mikhail thông báo về người giám sát mới của anh ta có biệt danh “Mark”. Như vậy có hai điệp viên quan trọng của Liên Xô mà FBI muốn nhanh chóng xác định. Dựa vào lời khai của Hayhanen, FBI đã phát hiện điệp viên “Mikhail” chính là Mikhail Nikolaevich Svirin, nguyên Bí thư thứ nhất của phái đoàn Liên Xô tại Liên hiệp quốc từ cuối tháng 8-1952 đến tháng 4-1954. Nhưng Svirin đã trở về Liên Xô từ tháng 10-1956 nên FBI quay sang tập trung tìm kiếm điệp viên “Mark” người đã thay thế “Mikhail” giám sát Hayhanen.
Theo Hayhanen, “Mark” là một đại tá KGB đến Mỹ khoảng năm 1948 hoặc 1949 qua đường biên giới Canada. Hayhanen miêu tả “Mark” trạc 50 tuổi, cao khoảng 1,65 m, tóc thưa, màu xám, có vóc người trung bình. “Mark là một thợ ảnh vì Hayhanen khai rằng, năm 1955, “Mark” có đưa anh ta tới một phòng chụp ảnh nằm trên tầng bốn của một toà nhà ở gần phố Clark và phố Fulton, khu Brooklyn. New York.
Lần theo dấu vết này, sau nhiều lần rình mò các nhân viên FBI đã bắt giữ “Mark” đêm ngày 13-6-1957 tại khách sạn Latham số 28, phố Đông, New York.
“Mark” chính là Rudolf Abel
 
Chỉnh sửa cuối:

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,006
Động cơ
1,129,122 Mã lực

8-1957 – điệp viên Liên Xô Rudolf Abel dùng quán bar Jose, Brooklyn, New York làm nơi gặp gỡ. Ảnh: Walter Sanders


8-1957 - khách sạn Benjamin Franklin, Brooklyn, New York, nơi Abel từng sống một thời gian. Ảnh: Walter Sanders


8-1957 - Toà nhà nơi điệp viên Liên Xô Rudolf Abel trú ngụ ở New York. Ảnh: Waller Sanders


Harry McMullen, người cho Rudolf Ivanovich Abel thuê căn hộ để ở và làm gián điệp New York


8-1957 – hàng xóm nhận xét điệp viên Liên Xô Rudolf Abel sống kín tiếng. Ảnh: Walter Sanders


Căn phòng nhó Rudolf Invanovich Abel sử dụng làm phòng ảnh
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,006
Động cơ
1,129,122 Mã lực

8-1957 - Rudolf Abel đặt ăng ten điện đài trên nóc nhà. Ảnh: Walter Sanders


8-1957 - Rudolf Abel đặt ăng ten điện đài trên nóc nhà. Ảnh: Walter Sanders


8-1957 – người bán hàng nói ông thường bán phụ tùng radio cho Rudolf Abel. Ảnh: Walter Sanders


Anthony R. Palmero, Trợ lý Chưởng lý Wiliam F. Tompkins, vả James J. Featherstone, tại phiên toà xử Rudolf Abel


Rudolf Abel bị xử án vì tội gián điệp


9-8-1957 – Cảnh sát trưởng John Ford (phải) áp giải Đại tá Rudolph Ivanovich Abel sau phiên toà ở Brooklyn, New York. Ảnh: Sam Schulman

 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top