[Funland] Chiến tranh lạnh (1945-1991)

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Cuộc cải cách kinh tế được chính thức bắt đầu vào ngày 26-6-1950. Chủ tịch Tito đã tuyên bố việc nhà nước Nam Tư, sẽ xây dựng một hệ thống XHCN thị trường. Phát triển kinh tế và tự do hóa được khuyến khích, trong suốt các thập niên 1950 và 1960. Kinh tế Nam Tư phát triển với tốc độ cao. Tăng trưởng GDP trung bình, cho đến những năm đầu 1980 đạt 6,1% năm. Cải cách kinh tế theo hường thị trường, đã kéo theo chính sách mở cửa biên giới.

Với đầu tư lớn của liên bang, du lịch tại Croatia đã được phục hồi. Và Croatia trở thành thiên đường du lịch của châu Âu. Tạo ra một trong những nguồn thu nhập chính của Nam Tư. Với các biện pháp thành công này, kinh tế Nam Tư đã đạt được tính tự túc tương đối và có giao dịch rộng rãi với cả phương Tây và phương Đông. Vào đầu thập niên 1960, các nhà quan sát nước ngoài đều thống nhất rằng, Nam Tư "đang bùng nổ". Rằng công dân Nam Tư được hưởng quyền tự do lớn hơn nhiều, so với người dân Liên Xô và các nước Đông Âu khác.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực

7-1944 – Nguyên soái Josip Broz Tito, Thủ lĩnh Lực lượng kháng chiến Nam Tư. Ảnh: John Phillips


1943 – Josip Broz Tito (phải) và các thành viên lực lượng kháng chiến tại chiến khu



8-1944 – Nguyên soái Josip Broz Tito trao đổi với thiếu tướng Fitzroy MacLean. Ảnh: John Phillips


7-1944 – Nguyên soái Josip Broz Tito chơi cờ tại chiến khu. Ảnh: John Phillips


8-1944 – Nguyên soái Josip Broz Tito (phải) với con trai cả Zarko Broz. Ảnh: John Phillips


8-1944 – Zarko Broz (trái) - con trai cả của Josip Broz Tito – chụp hình với người bạn. Ảnh: John Phillips





1943, những người yêu nước do Tito lãnh đạo thành lập chính phủ lâm thời trong vùng giải phóng Nam Tư


6-1944 - Nguyên soái Josip Broz Tito - thủ lĩnh lực lượng du kích Nam Tư chống phát xít Đức


4-1945 – Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô Mikhain Kalinin tiếp Thống chế Josip Broz Tito tại Kreml, Moscow
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực

1979 – Leonid Brezhnev (Tổng Bí thư Đ.CS Liên Xô) và Tổng thống Josip Broz Tito trong một chuyến đi săn


Josip Broz Tito rất thích máy ảnh và máy quay phim

 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực

16-3-1953, Thủ tướng Winston Churchill, Ngoại trưởng Anthony Eden Anthony Eden đón Nguyên soái Josip Broz Tito (Nam Tư) thăm chinh thức nước Anh



6-1956 – Bí thư thứ nhất BCH ĐCSLX Nikita Khrusev (giữa) và Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô Kliemnt Voroshilov tiếp Tổng thống Tito (trái) tại Moscow. Ảnh: Lisa Larsen


1-5-1946 – Tổng thống Nam Tư Tito vẫy chào 200.000 nhân dân thủ đô Belgrade tuần hành Ngày Quốc tế Lao động. Ảnh: Nat Farbman



1-5-1946 – Tổng thống Nam Tư Tito vẫy chào 200.000 nhân dân thủ đô Belgrade tuần hành Ngày Quốc tế Lao động. Ảnh: Nat Farbman



1-5-1946 – 200.000 nhân dân thủ đô Belgrade tuần hành Ngày Quốc tế Lao động mang theo chân dung Tito và Stalin. Ảnh: Nat Farbman
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực

29-11-1968 – Lễ kỷ niệm 25 năm thành lập nước CHLB Nam Tư. Ảnh: Harry Redl


29-11-1968 – Tổng thống Josip Broz Tito phát biểu tại Lễ kỷ niệm 25 năm thành lập nước CHLB Nam Tư. Ảnh: Harry Redl


29-11-1968 – Tổng thống Josip Broz Tito và phu nhân tại Lễ kỷ niệm 25 năm thành lập nước CHLB Nam Tư. Ảnh: Harry Redl




 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Trong Chiến tranh Lạnh, do thám bằng máy bay là quốc sách của Hoa Kỳ, như lời Tổng thống Eisenhower thừa nhận
Ít nhất là 20 máy bay do thám Hoa Kỳ bị bắn hạ từ 1950
Dưới đây là những vụ máy bay do thám Hoa Kỳ bị bắn hạ
Trường hợp U-2, RB-47H và máy bay hành khách Hàn Quốc em để xuống dưới cùng
1. Vụ thứ nhất
8-4-1950 – máy bay trinh sát PB4Y-2 của Hải quân Mỹ bị bắn hạ bởi pháo 23mm từ một cặp máy bay chiến đấu Lavochkin La-11 của Liên Xô trên Biển Baltic (bây giờ là Latvia). Phi hành đoàn mười người đã chết và đã không được tìm thấy. Năm 1993, Tướng Liên Xô nghỉ hưu Fyodor Shinkarenko cho biết xác máy bay đã được bí mật gửi đến Moscow
máy bay trinh sát PB4Y-2 (ảnh minh hoạ)



2. Vụ thứ hai
4-12-1950 - máy bay trinh sát RB-45C Tornado của Không lực Hoa Kỳ bị pháo 23mm từ MiG-15 (Trung Quốc) bắn rơi gần biên giới Bắc Triều Tiên. Hai trong số bốn phi hành đoàn đã chết. Hai người còn lại đã vượt qua biên giới Bắc Triều Tiên và bị bắt. Một người bị giết trong khi thẩm vấn và người thứ hai bị treo cổ
máy bay trinh sát RB-45C Tornado (ảnh minh hoạ)




3. Vụ thứ ba
26-12-1950 - máy bay trinh sát RB-29 Superfortress của Không lực Hoa Kỳ bị pháo 23mm từ MiG-15 Liên Xô bắn hạ trên vùng biển Nhật Bản
máy bay trinh sát RB-29 Superfortress (ảnh minh hoạ)



4. Vụ thứ tư
6-11-1951 - máy bay trinh sát Hải quân Hoa Kỳ P2V-3 Neptune bị hai máy bay chiến đấu Lavochkin La-11 của Liên Xô bắn hạ gần Vladivostok. Phi hành đoàn mười người đã chết
máy bay trinh sát Hải quân Hoa Kỳ P2V-3 Neptune (ảnh minh hoạ)





5. Vụ thứ năm
13-6-1952 - máy bay trinh sát RB-29 Superfortress của Không lực Hoa Kỳ bị pháo 23mm từ hai máy bay MiG-15 Liên Xô bắn hạ trên vùng biển Nhật Bản, phi hành đoàn 12 người đã chết
máy bay trinh sát RB-29 Superfortress (ảnh minh hoạ)


6. Vụ thứ sáu
7-10-1952 - máy bay trinh sát RB-29 Superfortress của Không lực Hoa Kỳ bị máy bay chiến đấu Lavochkin La-11 của Liên Xô bắn hạ trên quần đảo Kurile. Phi hành đoàn tám người được cho là đã chết.
Năm 1994, hài cốt của cố Đại úy John R. Dunham đã được trả về Mỹ sau khi các tài liệu của Liên Xô trước đó cho biết xác một thành viên phi hành đoàn được chôn cất trên đảo Yuri gần đó. Cựu thủy thủ biên phòng hải quân Liên Xô Vasili Saiko đã đến Hoa Kỳ năm 1993 và trao cho Học viện Hải quân Hoa Kỳ một chiếc nhẫn mà ông lấy từ xác Đại uý Dunham vào năm 1952. Chiếc nhẫn sau đó được trao cho góa phụ của cố Đại uý Dunham
máy bay trinh sát RB-29 Superfortress (ảnh minh hoạ)


 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
7. Vụ thứ bảy
Ngày 29-7-1953, đơn vị máy bay chiến đấu MiG-17 thuộc Hạm đội Thái Bình Dương đã phát hiện một vật thể bay lạ tiến vào không phận Liên Xô theo hướng vịnh Ussuri, gần Vladivostok.
Khi tiếp cận, các phi công Mig-17 phát hiện ra vật thể bay đó là một máy bay ném bom RB-50G Superfortress ((biến thể của máy bay ném bom B-29) thuộc Không quân Mỹ bay ở độ cao 10km với hướng bay tới là căn cứ chính của Hạm đội Thái Bình Dương.
Chiếc máy bay ném bom Boeing RB-50G Superfortress của Không quân Mỹ không phản hồi lại các tín hiệu cảnh báo và bất ngờ tấn công máy bay chiến đấu Liên Xô bằng pháo. Một máy bay MiG-17 do phi công Alexander Rybakov lái, đã trúng đạn. May mắn là chiếc MiG-17 vẫn trở về căn cứ an toàn. Sau đó, các máy bay MiG quay lại và tấn công. Chỉ trong vài phút, chiếc máy bay RB-50G bị xé nát và rơi xuống biển. Trong số 18 thành viên trên khoang, chỉ có duy nhất cơ phó John Ernst Roche còn sống. John Ernst Roche
được một tàu khu trục kéo ra khỏi biển. Một tuần sau, xác hai thành viên phi hành đoàn cuốn trôi vào bờ biển Nhật Bản.
Các báo cáo trái ngược sau Chiến tranh Lạnh của các cựu quân nhân Liên Xô hiện diện tại hiện trường cho biết những thành viên phi hành đoàn khác có thể đã sống sót và bị Liên Xô giam giữ
máy bay trinh sát RB-50G Superfortress (ảnh minh hoạ)



8. Vụ thứ tám
4-9-1954 - máy bay trinh sát Hải quân Mỹ P2V-5 xuất phát từ Atsugi (Nhật Bản) bị pháo 23mm từ hai máy bay MiG-15 Liên Xô bắn hạ ngoài khơi Siberia. Phi công bỏ trốn trong vùng biển quốc tế và được giải cứu. Tuy nhiên một thành viên phi hành đoàn chết
máy bay trinh sát Hải quân Mỹ P2V-5 (ảnh minh hoạ)



9. Vụ thứ chín
7-11-1954 - máy bay trinh sát RB-29 Superfortress của Không lực Hoa Kỳ bị pháo 23mm từ hai máy bay MiG-15 Liên Xô bắn hạ trên vùng biển bắc Nhật Bản. 10 thành viên phi hành đoàn được giải cứu, một thành viên khác không may mắn bị chết đuối
máy bay trinh sát RB-29 Superfortress (ảnh minh hoạ)




10. Vụ thứ mười

17-4-1955 – hai máy bay chiến đấu MiG-15 Fagot do phi công Liên Xô Korotkov và Sazhin lái đã bắn rơi chiếc máy bay trinh sát RB-47E Stratojet thuộc Phi đội Trinh sát Chiến lược số 4 Không lực Hoa Kỳ gần Kamchatka (Liên Xô), ngoài khơi đảo Hokkaido, Nhật Bản. Tất cả tổ lái 3 người tử nạn: Lacie C. Neighbors, Robert N. Brooks và Richard E. Watkins Jr.
Ba thành viên phi hành đoàn lúc còn sống


máy bay trinh sát RB-47E Stratojet (ảnh minh hoạ)


Những phi công lái máy bay trinh sát RB-47E Stratojet thuộc Phi đội trinh sát 380


máy bay trinh sát RB-47E Stratojet (ảnh minh hoạ)


11. Vụ thứ mười một
22-6-1955 - máy bay trinh sát Hải quân Hoa Kỳ P2V-5 Neptune bay qua eo biển rong vùng biển quốc tế đã bị hai chiếc MiG-15 của Liên Xô tấn công. Các phi công đã hạ chiếc máy bay bị thương xuống lãnh thổ Hoa Kỳ và phi hành đoàn sống sót mặc dù hầu hết đã bị thương
máy bay trinh sát Hải quân Hoa Kỳ P2V-5 Neptune (ảnh minh hoạ)





12. Vụ thứ mười hai
24-12-1957 - máy bay trinh sát RB-57 của Không lực Hoa Kỳ bị máy bay chiến đấu Liên Xô bắn hạ trên Biển Đen và phi hành đoàn đã chết
máy bay trinh sát RB-57 (ảnh minh hoạ)

 
Chỉnh sửa cuối:

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
13. Vụ thứ mười ba
27-6-1958 - máy bay trinh sát C-118 Liftmaster của Không lực Hoa Kỳ (do CIA trưng dụng) bị hai chiếc MiG-17 bắn hạ trên lãnh thổ nước Cộng hoà Xô viết Armenia. Chiếc máy bay này đã bị phá hủy nhưng toàn bộ phi hành đoàn nhảy dù an toàn và được Liên Xô trao trả lại cho Hoa Kỳ một tuần sau đó
máy bay trinh sát C-118 Liftmaster (ảnh minh hoạ)




14. Vụ thứ mười bốn
2-9-1958 – máy bay trinh sát điện tử C-130A Hercules của Không lực Hoa Kỳ bị hai chiếc MiG-17 Liên Xô bắn hạ trên lãnh thổ nước Cộng hoà Xô viết Armenia. Toàn bộ thủy thủ đoàn đã chết. Sáu hài cốt được Liên Xô trao trả cho Hoa Kỳ lại năm đó và 11 xác còn lại đã được trao trả năm 1998
máy bay trinh sát điện tử C-130A Hercules (ảnh minh hoạ)






2-9-1958 – khoảnh khắc cuối cùng của chiếc máy bay trinh sát điện tử C-130A Hercules trong máy ảnh của pháo chiếc MiG-17 Liên Xô do Trung uý Kucheryaev lái


16. Vụ thứ mười sáu
27-10-1962 – Thiếu tá Rudolf Anderson Jr., lái U-2A trinh sát Cuba đã bị tên lửa SA-2 Liên Xô bắn hạ và tử trận













18. Vụ thứ mười tám
24-1-1964 – máy bay huấn luyện T-39 Sabreliner của Không lực Hoa Kỳ từ Tây Đức xâm phận không phận Đông Đức và bị MiG-21 Liên Xô bắn hạ, toàn bộ phi hành đoàn ba người đã chết
máy bay huấn luyện T-39 Sabreliner (ảnh minh hoạ)




19. Vụ thứ mười chín
10-3-1964 - máy bay trinh sát RB-66 Destroyer của Không lực Hoa Kỳ xâm phận không phận Đông Đức và bị MiG-21 Liên Xô bắn hạ. Toàn bộ phi hành đoàn được giải cứu và sau đó trả cho Hoa Kỳ
máy bay trinh sát RB-66 Destroyer (ảnh minh hoạ)




20. Vụ thứ hai mươi
21-10-1970 – máy bay RU-8 Seminole của Lục quân Hoa Kỳ xuất phát từ Thổ Nhĩ Kỳ đã bị bắn hạ trên lãnh thổ nước Cộng hoà Xô viết Armenia
máy bay RU-8 Seminole (ảnh minh hoạ)

 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Vụ thứ 21
Đánh chặn máy bay RF-4C Phantom II (ảnh minh hoạ)


Ngoài các phi vụ trinh sát do Mỹ trực tiếp thực hiện, Liên Xô cũng từng ngăn chặn một máy bay RF-4C Phantom II của Iran trong một sự kiện bi thảm.
Chuyên gia A. Stanavov cho biết: “Đã có một bi kịch xảy ra khi máy bay trinh sát RF-4C Phantom II xâm phạm không phận Liên Xô hồi tháng 11-1973. Dù là máy bay của Iran, nhưng cơ phó của nó lại là người Mỹ. Chiếc máy bay đã xâm phạm vùng trời Transcaucasia”.
Máy bay chiến đấu Mig-21SM thuộc Không quân Liên Xô được cử lên ngăn chặn. Chiếc Mig-21SM nhanh chóng tiếp cận phát hiện ra máy bay RF-4C và phóng tên lửa, nhưng trượt mục tiêu. Trong thời điểm đó, Đại úy phi công Gennady Yeliseyev đã quyết định biến chiếc MiG-21 thành “tên lửa sống” và lao thẳng vào chiếc RF-4C Phantom II.
Phi công G. Yeliseyev tử nạn, nhưng đã ngăn chặn được máy bay trinh sát. Toàn bộ tổ lái máy bay trinh sát của Iran bị bắt giữ sau đó.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Sự kiện máy bay trinh sát Lockheed U-2

Ngày 1-5-1960, phi công thuộc Cơ quan Tình báo trung ương Mỹ (CIA) Francis Gary Power điều khiển máy bay trinh sát tầm cao U-2C đã bị tên lửa phòng không bắn hạ ở độ cao 21km, khi đang xâm nhập sâu khoảng 2.000km vào không phận Liên Xô.
Trước đó khoảng một tháng, phi công Francis Power đã thành công khi chụp được nhiều bức ảnh trinh sát chất lượng cao về các cơ sở hạt nhân bí mật của Liên Xô tại Semipalatinsk, Kazakhstan trong một chuyến bay trinh sát. Ở thời điểm đó, Lực lượng Phòng không Kazakhstan đã bó tay trước máy bay U-2C do F. Power điều khiển. Tuy nhiên, “điều thần kỳ” đã không đến với viên phi công Mỹ lần 2 khi đối đầu với dòng tên lửa phòng không mới của Liên Xô triển khai gần Sverdlovsk.
Chuyên gia quân sự Nga Andrei Stanavov đánh giá về sự kiện trên: “Đơn vị tên lửa phòng không mới S-75 Dvina triển khai tại Sverdlovsk đã bắn hạ chiếc máy bay U-2 vào khoảng 9 giờ sáng. Sự kiện trên đã làm sập đổ kế hoạch trinh sát không phận Liên Xô mang mật danh Overflight. Những nhân chứng tại hiện trường có thể nhìn thấy các mảnh vỡ của chiếc U-2 rơi xuống và phi công Francis Powers bung dù thoát thân khi tới độ cao an toàn’.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Câu chuyện buồn: tên lửa Dvina-75 bắn hạ MiG-19
Trong sự kiện bắn hạ chiếc U-2C cũng có câu chuyện đáng buồn là máy bay chiến đấu MiG-19 cử lên ngăn chặn máy bay trinh sát Mỹ đã bị trúng tên lửa phòng không.
“Chiếc Mig-19 của phi công Sergei Safronov không may trúng một quả tên lửa phòng không vốn dành cho máy bay U-2. Phi công S. Safronov tử nạn. Một chiếc MiG-19 khác may mắn né được tên lửa ở những giây cuối” - hãng thông tấn RIA Novosti đăng tải.
Sau thảm họa của chiếc U-2C, Mỹ ra tuyên bố không liên quan tới sự việc. Tuy nhiên, các mảnh vỡ của chiếc U-2C với ký hiệu “Made in the USA” đã buộc Washington xuống nước. Tổng thống Dwight D. Eisenhower sau đó đã phải thừa nhận hoạt động của chiếc U-2.
Sự kiện trên dẫn tới hậu quả chính trị nghiêm trọng; làm mối quan hệ giữa Liên Xô và Mỹ trở nên cực kỳ căng thẳng.
Vì sự kiện trên, Hội nghị thượng đỉnh Đông-Tây dự kiến tổ chức vào tháng 5-1960 đổ vỡ, Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower hủy chuyến thăm chính thức tới Moscow.
Phi công F. Power bị Tòa án Tối cao Liên Xô tuyên án 10 năm tù với tội danh gián điệp. Tới tháng 2-1962, F. Power được trao đổi với điệp viên Liên Xô Rudolf Abel.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
U-2 là máy bay do thám phản lực tầm cao một chỗ ngồi của Mỹ, có thể bay làm nhiệm vụ do thám ở độ cao trên 20 km. U-2 do hãng Lockheed sản xuất theo đơn đặt hàng của CIA. U-2 được trang bị máy chụp ảnh hồng ngoại có ống kính đặc biệt 915 mm, có thể chụp được những khu vực rộng khoảng 200 km, dài trên 4.800 km. Sau khi phóng to ảnh U-2 chụp, người ta có thể phân biệt rõ những vật thể có đường kính khoảng 50 cm
Chiếc máy bay do thám sừng sỏ này có trần bay là 20-24 km, lý tưởng cho mục đích gián điệp, khi bay ở độ cao đó nó vượt ra khỏi tầm với của các máy bay chiến đấu và lực lượng phòng không Liên Xô có trong trang bị cho đến thời điểm bấy giờ.
Mặc dù hoạt động ở độ cao lớn, nhưng nhờ được trang bị những khí tài trinh sát tối tân, U-2 có thể chụp ảnh các đối tượng quan tâm với chất lượng rất cao, rõ nét thậm chí nhìn thấy các con số trên máy bay đỗ trên mặt đất.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Nhờ sự vượt trội về kỹ thuật của các máy bay gián điệp U-2 cho phép người Mỹ trong một vài năm không bị trừng phạt khi bay trinh sát qua các vùng quan trọng của Liên Xô do lực lượng phòng không không thể đánh chặn được chúng. Do vậy, ở Mỹ, U-2 được đặt tên là Dragon Lady (Bà Rồng).
Phi công tham gia vào các chuyến bay do thám, được ngụy trang như "dân thường" mà không cần bất kỳ giấy tờ tùy thân nào, còn máy bay gửi đi "làm nhiệm vụ", không có dấu hiệu nhận biết địch ta.
Dù Liên Xô đã có nhiều cố gắng để đánh chặn máy bay do thám Mỹ trên độ cao lớn bằng máy bay MiG-19 nhưng sự vượt trội về trần bay của U-2 không cho phép MiG-19 bắn hạ những kẻ xâm nhập.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Tình hình đã thay đổi vào ngày 1-5-1960.
Sáng sớm ngày lễ này của nhân dân Liên Xô, máy bay do thám U-2 của không quân Mỹ do Francis Powers điều khiển cất cánh từ căn cứ Peshawar (Pakistan) bay qua biên giới Liên Xô với một nhiệm vụ tình báo – do thám, mục đích là chụp ảnh các cơ sở quân sự và công nghiệp và ghi tín hiệu của các trạm radar Liên Xô.


Đường bay đi qua bầu trời Afghanistan và một phần quan trọng của lãnh thổ Liên Xô - biển Aral, các thành phố Sverdlovsk, Kirov và Plesetsk - và kết thúc tại căn cứ không quân ở Na Uy.
Để không làm lộ mình, phi công bị nghiêm cấm duy trì liên lạc vô tuyến với sân bay ở Peshawar và với căn cứ Mỹ tại Incirlik (Thổ Nhĩ Kỳ).
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Khi Powers vượt qua biên giới Liên Xô vào hồi 5h36 (giờ Moscow) phía đông nam của thị trấn Pandja (từ 1963 là Kirovabad, Tajikistan) và từ thời điểm đó liên tục bị các trạm radar Quân chủng Phòng không Liên Xô theo dõi.
Nhưng lần lượt các cố gắng để đánh chặn U-2 đều kết thúc trong thất bại.
Powers đã bay qua Tyuratam (sân bay vũ trụ Baikonur, Kazakhstan), dọc theo biển Aral, bỏ lại đằng sau Magnitogorsk và Chelyabinsk, gần như sắp đến Sverdlovsk và lực lượng phòng không không thể làm bất cứ điều gì - máy bay không đủ trần bay và trên mặt đất tên lửa phòng không hầu như chưa nơi nào máy bay Mỹ bay qua được bố trí.
Khi Powers tiếp cận Sverdlovsk thì từ sân bay Koltsovo nằm gần đó đã có một máy bay đánh chặn Su-9 cất cánh nhưng trần bay của nó chỉ đến 20 km. Nó thậm chí còn không có vũ khí vì đang trên đường chuyển từ nhà máy đến nơi nhận nhiệm vụ và phi công không được cấp quần áo kháng áp phù hợp.
Do đó, phi công được lệnh tiêu diệt máy bay trinh sát của Mỹ bằng cách đánh cảm tử. Tuy nhiên, do lỗi của dẫn đường mặt đất và trục trặc của radar trên máy bay, việc đánh cảm tử đã không xảy ra.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Sau nỗ lực đánh cảm tử không thành công thì từ sân bay gần Sverdlovsk hai tiêm kích MiG-19 do Đại úy Boris Ayvazyan và thượng úy Sergey Safronov được lệnh cất cánh để đánh chặn.
Đến lúc này, chiếc máy bay do thám U-2 của Mỹ đã bay trong không phận của Liên Xô hơn ba tiếng đồng hồ, đi sâu vào 2.100 km tính từ biên giới.
Nó đã chụp ảnh thành phố "hạt nhân" bí mật Chelyabinsk. Ở khoảng cách 30 km về phía đông nam của Sverdlovsk, Powers đã thay đổi hướng bay, quay 90 độ. Mục tiêu tiếp theo của anh ta là Plesetsk.
Tại thời điểm này, U-2 đã bay vào vùng tác chiến của một lữ đoàn phòng không được trang bị S-75 (Việt Nam hay gọi là SAM-2) có khả năng tham gia đánh các mục tiêu ở độ cao tới 25 km.
Vào lúc 8h53, những quả đạn đầu tiên (trong số 14 quả đạn của hệ thống tên lửa phòng không S-75 được phóng lên) tiếp cận U-2 từ phía sau, dù ngòi nổ vô tuyến hoạt động hơi sớm nhưng vụ nổ với sóng xung kích cực mạnh đã xé toạc đuôi của chiếc máy bay và nó đâm mũi xuống, bắt đầu rơi. Phi công Powers đã nhảy dù.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Tên lửa phòng không Liên Xô truy sát tiêm kích MiG-19 quân nhà

Một đơn vị MiG-19 Liên Xô trong thời gian xảy ra vụ U-2

Sau khi chiếc U-2 tan xác trên bầu trời, những người điều khiển tên lửa tưởng rằng những mảnh rơi là những thiết bị làm nhiễu radar do kẻ địch phóng ra. Trong trận chiến cấp bách, không ai có thể hiểu được tên lửa trúng mục tiêu hay nó kích hoạt tự hủy, kẻ xâm nhập đã bị tiêu diệt hay không và có bao nhiêu mục tiêu trong không gian nói chung.
Vì thế, chỉ huy ra lệnh bắn tiếp U-2 và một tiểu đoàn liền kề của hệ thống phòng không S-75 đã phóng mấy loạt tên lửa vào mục tiêu.
Một trong những tên lửa của loạt thứ hai gần như sắp bắn trúng Su-9 của quân mình. Loạt tên lửa đó cũng truy đuổi hai máy bay tiêm kích MiG-19 đang chiến đấu với kẻ vi phạm. Máy bay của Thượng úy Sergey Safronov bị bắn hạ, phi công hy sinh và đồng đội của anh ta nhận thấy tên lửa đang truy đuổi nên đã thoát thân bằng cách đột ngột lao xuống.
 
Chỉnh sửa cuối:

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Powers rơi xuống gần một làng thuộc dãy núi Ural bị người dân địa phương bắt được. Sau đó phi công được trực thăng đưa đến sân bay gần Sverdlovsk và được đưa đến Moscow.
Các mảnh vỡ của U-2 nằm rải rác trên một diện tích rộng lớn, nhưng hầu hết được thu gom - bao gồm phần đầu tương đối nguyên vẹn, bộ phận trung tâm thân máy bay và thiết bị buồng lái, động cơ phản lực và phần đuôi của thân máy bay với cánh lái.
Hầu như trên tất cả các bộ phận và máy móc đều được dán nhãn các công ty Mỹ và thiết bị trinh sát, cơ cấu nổ và vũ khí cá nhân của phi công không thể phủ nhận hoàn toàn chứng cớ về nhiệm vụ quân sự của máy bay. Về sau đó, một triển lãm chiến lợi phẩm đã được tổ chức tại Công viên Văn hóa và Giải trí Gorky, Moscow.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Sau khi phổ biến thông tin về sự tiêu diệt U-2, người Mỹ nghĩ rằng không có bằng chứng nên phủ nhận thực tế là có sự cố ý vi phạm biên giới. Sau đó họ đã tuyên bố rằng phi công bị mất tích. Nhưng phía Liên Xô bác bỏ tuyên bố này, cung cấp bằng chứng dưới dạng các mảnh vỡ của chiếc máy bay và lời khai của phi công.
Chính quyền Hoa Kỳ buộc phải thừa nhận rằng máy bay trinh sát của họ bay trên bầu trời Liên Xô để theo dõi các mục tiêu quân sự (trước đây Washington từ chối điều này).
Kết quả là, hội nghị thượng đỉnh ở Paris (Pháp) được dự kiến sẽ thảo luận về tình hình nước Đức, khả năng kiểm soát vũ khí, cấm thử hạt nhân và nới lỏng căng thẳng giữa Liên Xô và Hoa Kỳ bị hủy. Chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Dwight Eisenhower dự kiến tháng 6 năm 1960 tới Moscow cũng đã bị hủy bỏ.
Các quân nhân ưu tú trong chiến dịch tiêu diệt chiếc máy bay gián điệp đã được trao thưởng. 21 người đã nhận huân chương và huy chương, các huân chương cờ đỏ được trao cho thượng úy Sergei Safronov và chỉ huy các tiểu đoàn tên lửa phòng không.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Tòa án quân sự thuộc Tòa án Tối cao Liên Xô tháng 8 năm 1960 kết án Powers 10 năm tù, 3 năm đầu tiên bị giam theo điều khoản làm "gián điệp", nhưng phi công người Mỹ chỉ phải chịu có 108 ngày bị giam.
Vào tháng 2 năm 1962 tại Berlin, Powers đã được trao đổi bằng điệp viên tình báo Liên Xô Rudolf Abel (tên thật - William Fisher) - theo thỏa thuận đạt được của chính phủ Liên Xô và Mỹ.
Sau khi trở về Mỹ, phi công đã bị thẩm vấn toàn diện của ủy ban điều tra và kiểm tra trên máy dò nói dối. Ông đã được phục chức hoàn toàn. Vào tháng 10 năm 1962, Powers kết thúc sự nghiệp của mình tại Cơ quan Tình báo Trung ương và đi làm cho Lockheed, nơi ông thực hiện các bài kiểm tra bay U-2.
Năm 1970, sau khi ông đã viết cuốn sách hồi ký "Chiến dịch Overflight" thì nhận được sự không hài lòng của nhiều người đứng đầu tình báo Mỹ, phi công bị sa thải.
Sau đó ông bắt đầu lái máy bay trực thăng cho một số cơ quan như đài phát thanh và truyền hình ở Los Angeles.
Thật không may, vào tháng 8 năm 1977, Powers đã thiệt mạng khi chiếc trực thăng của ông bị nạn trên đường trở về sau vụ quay phim cứu hỏa ở Santa Barbara.
Năm 2011, Không quân Mỹ đã truy tặng Francis Powers huân chương "Sao bạc".
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top