B. Về phía Quân đội:
Có lẽ, trong đầu nhiều người, không chỉ những người trẻ tuổi, đều cho rằng, sau 30/4/1975, đất nước ta hoàn toàn giải phóng, Yên Bình lắm nhỉ,
. Có lẽ có rất rất nhiều người nghĩ, Tổ quốc sạch bóng thù, còn gì nữa mà làm, đánh đấm chi cho mệt, giải tán quân đội cho nhanh.
. Xin nêu một vài điểm đáng chú ý nhất trong giai đoạn từ 4/1975 đến trước khi xảy ra chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc.
1. Quân lực:
- Ta ưu tiên giảm bớt số quân thường trực, đặc biệt là đối với những quân nhân đã phục vụ lâu năm và có nguyện vọng về quê cũng như lính sinh viên được giải quyết chế độ về đi học lại. Giải tán một số đoàn tương đương cấp quân đoàn hoặc sư đoàn như Đoàn 232; một loạt tổ chức đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình được giải thể như: Bộ Tư lệnh Miền, B1, B2, B3, B4, B5, tổ chức hai bên và bốn bên về thi hành Hiệp định Pa-ri. Thôi dự nhiệm 9 trung đoàn, 6 tiểu đoàn cao xạ và một số đơn vị bộ binh, công binh của các quân khu phía Bắc. Toàn bộ lực lượng giao liên của Đoàn 559 được điều về Cục Vận tải để tổ chức tuyến giao liên mới, tổ chức hệ thống kiểm soát quân sự trên các tuyến giao thông Bắc - Nam. Bộ phận Hành quân từ Cục Tác chiến được chuyên sang Cục Quân lực để trực tiếp chỉ đạo bảo đảm chuyển thương, đưa đón cán bộ, chiến sĩ đi lại tuyến Bắc - Nam. Các quân khu ở phía Nam bước đầu được chấn chỉnh; trong đó có một số bộ chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố, ban chỉ huy quân sự huyện được thành lập và hợp nhất cho phù hợp với đơn vị hành chính mới. Chuyển một loạt các đoàn, đơn vị cấp F sang làm kinh tế, bố trí phân bổ trên cả nước, vừa làm khung thường trực sẵn sàng cơ động chiến đấu vừa lao động sản xuất nhằm làm giảm bớt chi phí quốc phòng. Qua việc chấn chỉnh tổ chức xây dựng lực lượng: ta giảm từ 1 triệu 23 vạn quân thời chiến (5,2% dân số miền Bắc) giảm xuống còn 2,7% so với dân số cả nước trong thời bình. Từ năm 1976 đến năm 1980 chỉ giữ 80-83 vạn quân, trong đó có 50-53 vạn quân chiến đấu, 10 vạn quân xây dựng kinh tế (
nghị quyết của Quân ủy Trung ương đưa lên hơn 25 vạn). Sau đó tuỳ tình hình, sẽ xác định tổng quân số thích hợp.
Đối với khối quân khu, tiếp tục được chấn chỉnh. Từ 11 quân khu và 2 bộ tư lệnh thành phố trực thuộc Bộ trong chiến tranh, nay rút gọn lại thành 6 quân khu (1, 3, 4, 5, 7, 9) và Bộ Tư lệnh Thủ đô. Quân khu 1 thành lập tháng 5 năm 1976 trên cơ sở sáp nhập Quân khu Việt Bắc và Quân khu Tây Bắc; hơn hai năm sau (tháng 6 năm 1978) lại được tách ra thành quân khu 1 và Quân khu 2. Quân khu 3 tái lập (tháng 5 năm 1976) trên cơ sở hợp nhất Quân khu Tả ngạn và Quân khu Hữu Ngạn. Quân khu 4 và quân khu Trị Thiên hợp nhất thành Quân khu 4 (tháng 2 năm 1976). Tháng 7 năm 1976, Quân khu 5 được tổ chức lại trên cơ sở sáp nhập Quân khu 5 cũ với Quân khu 6 và Mặt trận Tây Nguyên. Quân khu 7 gồm Thành phố Hồ Chí Minh và Đông nam Bộ. Quân khu 9 gồm Quân khu 8 và Quân khu 9 cũ hợp nhất. Các binh đoàn chủ lực, các binh chung được kiện toàn tổ chức gọn mạnh, hiện đại phù hợp với tình hình mới và điều chỉnh lại vị trí đóng quân. Quân chủng Hải quân được củng cố, phát triển nhằm đủ sức bảo vệ biển đảo và thềm lục địa. Quân chủng Phòng không - Không quân được tách ra thành hai quân chủng và có bước phát triển mới. Lực lượng xây dựng kinh tế trực thuộc Bộ Quốc phòng gồm có 1 tổng cục, các binh đoàn được kiện toàn nhưng mới đạt 40% quân số so với dự kiến.
Về bố trí lại binh lực, ta dần dần điều chỉnh công tác bố phòng trên cả nước, các đơn vị các cấp từ Quân đoàn trở xuống rút dần từ Nam ra Bắc,
đặc biệt là việc Bộ quyết định đưa ngay lập tức sư đoàn 3 Sao Vàng/ F3 ra hướng Lạng Sơn và F316/ sư đoàn 316 về Tây Bắc (
sẽ nói kỹ về việc tại sao ở phần dưới)
trong đầu năm 1976.
2. Những điểm nhấn đáng chú ý:
- Về công tác quân quản: được giao cho Quân đoàn 4 và Quân khu 7, 9 là chủ yếu.
Một bộ phận khá lớn ngụy quân, ngụy quyền (đặc biệt là lực lượng đầu sỏ) lẩn tránh, không chịu trình diện và đi cải tạo, không nộp vũ khí. Tính đến ngày 30 tháng 9 năm 1975, đã có khoảng 938.650 sĩ quan binh lính ngụy ra trình diện chính quyền, chiếm 92% tổng số quân ngụy (tính đến ngày 29-4-1975). Như vậy, còn khoảng 7,8 vạn quân ngụy chưa chịu ra đăng ký, trình diện; trong đó có những tên sĩ quan cao cấp. Tỷ lệ cảnh sát đặc biệt ngụy ra trình diện còn thấp hơn; trong tổng số 120.376 tên, mới đăng ký được 60.229. Phần lớn bọn cảnh sát đặc vụ bỏ trốn. Các phần tử *********, thù địch đã tiến hành những hoạt động chống đối vũ trang: ám hại, bắn lén, gài mìn, ném lựu đạn; hoặc tổ chức những lực lượng nhất định tập kích, đánh phá các trụ sở, cơ quan. Có bọn đang tập hợp lực lượng, hình thành "mật khu" để chống lại ta. Từ ngày 30 tháng 4 đến này 1 tháng 7, chúng đã gây ra 537 vụ, làm thương vong trên 1.000 người. Quý 3 năm 1975, trong tổng số 2.720 vụ gây rối trật tự chống đối cách mạng, có 30% là chống đối vũ trang. Riêng với lực lượng vũ trang, địch đã gây ra 153 vụ ám hại. Kẻ địch ráo riết tiến hành chiến tranh tâm lý, phản tuyên truyền, tung tin xuyên tạc nhằm kích động tàn quân ngụy nổi dậy chống lại cách mạng; gây hoài nghi dao động trong quần chúng, chia rẽ nội bộ cách mạng bằng nhiều hình thức: rải truyền đơn, viết khẩu hiệu *********, treo cờ ngụy; cho tay chân đi tung tin, rỉ tai. Đặc biệt nguy hiểm là một số những phần tử gián điệp, mật vụ, bọn cốt cán ********* trong ngụy quân, ngụy quyền, trong các **** phái ********* đang tìm cách trà trộn vào các tổ chức cách mạng, tìm vị trí hợp pháp trong các ngành công tác để ẩn thân, chờ thời. Hoạt động móc nối với các cơ sở cũ, cài cắm tay chân mới, đang được gián điệp Mỹ và tay sai tiếp tục tiến hành. Đặc biệt là đập tan âm mưu bạo loạn của bọn ********* ngầm trong dịp Tết Mậu Ngọ (1978).
- Truy quét FULRO, tàn quân ngụy và các bọn phản cách mạng khác có vũ trang, là một nhiệm vụ cấp bách khẩn trương. Riêng đối với FULRO, ta chỉ đạo các lực lượng vũ trang kịp thời cùng với địa phương, giải quyết một cách kiên trì, cơ bản, toàn diện (bằng mọi biện pháp, trong đó đặc biệt coi trọng công tác dân vận phát động quần chúng), xây dựng cơ sở, phối hợp với các lực lượng quân - dân - chính - **** theo một kế hoạch thống nhất, có sự chỉ đạo tập trung của các cấp ủy địa phương, gắn liền với chính sách dân tộc và xây dựng miền núi Tây Nguyên. Việc điều động lực lượng truy quét FULRO đã làm tan rã và bắt 2/3 lực lượng của chúng (6 trung đoàn, 18 tiểu đoàn với tổng số 11.000 tên).
- Giúp bạn Lào:
Đầu tháng 3- 1976, ta rút hết quân tình nguyện Việt Nam về nước. Song cuối năm 1976, trước tình hình an ninh chính trị nước bạn chưa được ổn định, nhất là ở Sa Va Na Khét/Xavanekhet và Viên Chăn, bạn lại yêu cầu ta đưa quân tình nguyện trở lại Lào. Sau khi hai Bộ Tổng Tham mưu gặp nhau tại Viên Chăn (1-1977 và 4-1977), ta triển khai thực hiện, làm kế hoạch bố trí lực lượng cụ thể trên một số địa bàn trọng yếu như Viên Chăn, đường 9, Khổng Xê Đôn, đương 7, đường 13, ....hỗ trợ bạn ổn định tình hình. Quân khu 4 và Quân đoàn 2 là nòng cốt, phải tổ chức lực lượng, đoàn công tác sang Lào chi viện.
- Tình hình biên giới Tây Nam:
Tập đoàn Pôn Pốt - Yêng Xa-ry có âm mưu chống ta từ lâu, chúng chỉ hữu nghị ngoài mặt nhằm lợi dụng sự giúp đỡ của ta. Ngay sau thắng lợi chống Mỹ và Lon-non, ngày 17-4-1975, tại Hội nghị trung ương Khơ Me (ngày 20-5-1975), chúng xác định: "
Việt Nam là kẻ thù số 1, kẻ thù truyền kiếp". Trong nước, chúng đấu tố hành hạ tàn bạo giới trí thức, bắt dân lao động khổ sai, đói rách, thanh trừng đán áp khốc liệt những người phản kháng, thủ tiêu các cán bộ Khơ Me được đào tạo ở Việt Nam, kể cả những người thân thiện với Việt Nam. Trong mấy năm cầm quyền, chúng đã giết hại gần 3 triệu người, gây tâm lý sợ hãi khủng khiếp trong nhân dân Cam-pu-chia. Cùng với thực hiện chế độ diệt chủng trong nước do sự kích động, xúi dục của nước ngoài, ngay ngày 3-5-1975 chúng đổ bộ lên Phú Quốc, ngày 10-5-1975 đánh chiếm đảo Thổ Châu của ta. Khó khăn lớn của ta là vẫn coi họ là các nước bạn xã hội chủ nghĩa nên chưa xác định rõ kẻ thù, thiếu chuẩn bị, nên sau ngày 30-4-1977 quân Pôn Pôt chủ động mở 3 cuộc tiến công lớn sang Việt Nam (
Ngày 30-4-1977 địch dùng nhiều lực lượng cỡ sư đoàn, đánh 13/15 xã toàn tuyến tỉnh An Giang. Ta thương vong 700. Riêng ngày 25-7-1977, địch dùng 4 sư đoàn đánh sâu vào Việt Nam 19km, tàn sát 9.000 dân 3 xã huyện Tân Biên. Ngày 23-10-1977, địch lại đánh sang Việt Nam, để tự vệ ta dùng Quân đoàn 4 (thiếu) và Sư đoàn 10 Quân đoàn 3 đánh sang đường số 1 - Khu vực Sa Mát, địch đánh giá ta yếu. Trong gần 2 năm 1977 - 1978 chúng tàn sát các xã biên giới của ta hơn 3 vạn người chết và mất tích, 40 vạn dân mất nhà cửa, hàng chục nghìn nhà thờ, trường học, chùa chiền bị đốt phá, hơn 1.000 trâu bò bị cướp, trên 3.000 nhà bị bỏ hoang, có vụ chúng giết 1.000 dân, mổ bụng, moi gan đốt phá rất dã man).
Lúc đầu, ta còn lúng túng nhưng để bảo vệ lãnh thổ và tính mạng của nhân dân, thi hành lệnh của Bộ, ta điều gấp các sư đoàn của Quân khu 9, Quân khu 7 ra phòng thủ biên giới. Điều hai quân đoàn 3, 4 lên bảo vệ vùng biên giới trọng điểm của tinh Tây Ninh (Quân đoàn 4 ở Bến Cầu, Quân đoàn 3 ở Sa Mát). Ra lệnh cho Quân đoàn 2 vào trạng thái sẵn sàng cơ động trong khi đang diễn tập phòng thủ ở ngoài Bắc.
Để thoát khỏi thế bị động, từ 5-12-1977 đến 5-1-1978, theo chi thị của Bộ, ta lên kế hoạch dùng 8 sư đoàn phản công sang các đường số 7, số 1, số 2, truy kích sâu vào đất Cam-pu-chia 30km, đánh thiệt hại 5 sư đoàn địch, làm thất bại kế hoạch chiếm thị xã Tây Ninh của chúng. Ngày 30-4-1978, sợ ta đánh sâu, địch đưa chiến tranh ra công khai. Trong nội địa, ta đập tan âm mưu bạo loạn của bọn ********* ngầm trong dịp Tết Mậu Ngọ (1978). Sau khi ta rút quân về biên giới, địch lại tiếp tục lấn chiếm nhiều nơi. Chúng tập trung 13-17 sư đoàn ra biên giới với Việt Nam, lấy Tây Ninh, An Giang, Kiên Giang làm mục tiêu phải chiếm để làm bàn đạp tiến công vào Sài Gòn. Trong 2 tháng (1 và 2-1978 có 903) vụ bắn pháo 130mm (do nước ngoài cung cấp) sang Việt Nam kết hợp gây chiến tranh du kích trên toàn tuyến biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia. Như vậy, sau một thời gian dài (1975-1977) ta buộc phải đánh trả địch ở biên giới với mức độ kìm chế. Nhưng tình hình ngày càng xấu đi, nhiều đề nghị thương lượng do ta chủ động đưa ra đều không có kết quả, kể cả cuộc gặp cấp cao ở Phnôm Pênh cho đến cuộc gặp cấp cao ở Bắc Kinh. Pôn Pốt đơn phương cắt đứt ngoại giao, tình hình đã rơi vào chỗ bế tắc. Dã tâm của kẻ thù đã lộ rõ. Đầu năm 1978, ta đã kết luận: "Chừng nào tập đoàn ********* Cam-pu-chia hiện nay chưa bị nhân dân Cam-pu-chia đánh đổ, thì vấn đề biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia chưa được giải quyết..."Tháng 6-1978, Bộ Chính trị Trung ương **** xác định rõ kẻ thù trong thời kỳ mới và quyết định: “Bảo đảm giành thắng lợi ở hướng Tây Nam càng sớm càng tốt, vững chắc ở hướng Bắc và trên các hướng khác; chú trọng xây dựng tốt tuyến phòng thủ biên giới Tây Nam và
đồng thời phía Bắc, tăng cường củng cố lực lượng chiến đấu tại chỗ" (
Số 23 VP/QU-A: Kết luận Của Thường vụ Quân ủy Trung ương tại Hội nghị quân chính, 27-6-1978).
Tổng quan về bối cảnh lịch sử giai đoạn này ta có thể thấy, Hòa Bình nhưng đất nước luôn trong trạng thái thù trong giặc ngoài, chi phí quốc phòng sau nhiều năm chiến tranh ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế tự cung tự cấp ở Miền Bắc và hoàn toàn phụ thuộc vào viện trợ của Mỹ và đồng minh ở Miền Nam. Ta liên tục phải điều động binh lực giúp bạn, xây dựng các đoàn/ tổ công tác vùng biên nhằm đảm bảo an ninh trật tự. Thế trận quốc phòng liên tục bị đảo lộn do các nguyên nhân khách quan.