Trong chiến tranh biên giới phía Bắc 1979, sư đoàn 3 sao vàng với nhiệm vụ chiến đấu phòng ngự bảo vệ thị xã Lạng Sơn là một trong những đơn vị có hiệu suất chiến đấu cao nhất, đánh nhiều trận làm cho quân giải phóng Trung Quốc thiệt hại nặng. Sau này khi tổng kết lại chiến tranh biên giới, đối phương đã đánh giá cao sư đoàn và cả nể trọng tinh thần chiến đấu của binh sĩ.
Sau đây là hồi ức chiến đấu của tiểu đội trưởng tiểu đội bộ binh 6 - trung đoàn 12 - sư đoàn 3 ngày ấy:
CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC SAU 35 NĂM !
(KỶ NIỆM 35 NĂM (17/2/1979 - 17/2/2014) CHIẾN ĐẤU, CHIẾN THẮNG
QUÂN BÀNH TRƯỚNG BÁ QUYỀN BẮC KINH)
Nhận rõ bộ mặt bẩn thỉu, gian ác, thâm độc... của ông "bạn lớn, láng giềng", là thây ma của chế độ độc tài, toàn trị, siêu lừa... đó chính là tập đoàn bành trướng, bá quyền, sô vanh nước lớn Bắc Kinh. Năm 1975, kết thúc chiến tranh, Sư đoàn 3 bộ binh chúng tôi chưa được hưởng một ngày hoà bình. Tháng 7 năm 1976, từ Nha trang, tỉnh Khánh Hoà, toàn Sư đoàn nhận lệnh chuyển quân ra Bắc có nhiệm vụ chống kẻ thù K (kẻ thù K là tập đoàn bành trướng, bá quyền Bắc Kinh). Sau một năm ổn định biên chế, toàn đơn vị tập trung huấn luyện, rèn quân. Tháng 7-1978, từ vị trí đóng quân chúng tôi được lệnh chuyển lên xây dựng trận địa trên toàn tuyến biên giới tỉnh Lạng Sơn. Đến vị trí đóng quân mới, nhiệm vụ chính của chúng tôi là: đào hầm, đào hào, gần 8 tháng vừa tập trung xây dựng trận địa, vừa củng cố doanh trại, ổn định nơi ăn ở, vừa tổ chức huấn luyện thuần thục với các phương án theo địa hình được phân công và luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu cao. Những tháng, năm trên biên giới Lạng Sơn, cuộc sống đầy gian nan, vất vả, đói rét,.... Song, tinh thần bộ đội rất hăng hái, căm thù tập đoàn bành trướng, bá quyền Bắc Kinh. Vì nó, mà chúng tôi chưa được hưởng một ngày hoà bình.
Mới ngày nào, nay đã tròn 35 năm (17/2/1979 - 17/2/2014) cuộc chiến tranh trên toàn tuyến biên giới phía Bắc do tập đoàn bành trướng, bá quyền Bắc Kinh gây hấn, khởi xướng. 5 giờ ngày 17-2-1979, đơn vị chưa báo thức, tôi nhận được điện từ Trung đoàn thông báo: "Địch đánh lớn ở Cao Bằng". Điều khó khăn của chúng tôi lúc này là: Trước đó, cán bộ cấp trưởng quân sự từ đại đội trở lên về hết Sư đoàn tập huấn, số ở lại trực chiến đều là cán bộ chính trị. Chưa kịp thông báo cho các đại đội tin "Địch đánh lớn ở Cao Bằng" thì, khoảng 15 phút sau, pháo của quân Bành trướng Bắc Kinh dồn dập nã vào vị trí đóng quân toàn tiểu đoàn. Dưới làn hoả lực (gồm các loại pháo) của kẻ thù, các chiến sỹ chuyền đạt bất chấp gian nguy, bộ đội đã chuyền lệnh tiểu đoàn xuống từng đại đội. Chấp hành mệnh lệnh cấp trên, các đại đội khẩn trương cho bộ đội vận động chiếm lĩnh trận địa theo đúng phương án (trước đó đã được tập dượt nhiều lần rất nhuần nhuyễn) trước khi bộ binh địch xuất hiện. Các đại đội chiếm lĩnh trận địa chốt đúng ý định, đã trong tư thế sẵn sàng chiến đấu cũng là lúc bộ binh địch xuất hiện.
Lên vị trí chỉ huy trên cao điểm 339, nhìn ra pháo đài Đồng Đăng, chúng tôi thấy: bộ binh địch đông như kiến cỏ, chúng la hét ầm ỹ, hô tả... tả..., xe tăng địch đang quần lộn trên pháo đài. Tôi ra lệnh hoả lực nổ súng diệt xe tăng, các lực lượng khác nổ súng tiêu diệt bộ binh địch. Phát hiện có sự chống trả quyết liệt của quân ta, quân bành trướng Bắc Kinh chùn lại, dè dặt không giám nghênh ngang như ban đầu. Cùng lúc, tôi nhận tin: "Ban chỉ huy tiền phương, Trung đoàn bộ - Trung đoàn 12, đang bị địch bao vây chặt trên cao điểm 438". Tình huống mới xuất hiện, chúng tôi vừa chỉ huy bộ đội nổ súng đánh bộ binh, xe tăng địch, vừa tranh thủ triệu tập cán bộ hội ý bàn phương án giải vậy cho sở chỉ huy tiền phương Trung đoàn. Hội ý xong, thay mặt Ban chỉ huy tiểu đoàn, tôi giao cho đồng chí Nguyễn Văn Biết - Chính trị viên đại đội 61 chỉ huy chung đội hình trên cao điểm 339 tiếp tục cho bộ đội nổ súng tiêu diệt địch, giữ chốt an toàn. Đại đội 63 và tiểu đoàn bộ dưới sự chỉ huy trực tiếp của tôi và đồng chí Nguyễn Xuân Phong (tiểu đoàn phó) quay lại cao điểm 438 giải vậy cho sở chỉ huy tiền phương Trung đoàn. Đội hình hướng cao điểm 438 thẳng tiến, đến nửa chừng lực lượng bị lộ, địch chống trả không lên được cao điểm. Tôi ra lệnh vòng hướng đại đội 63, bí mật chiếm cao điểm 438. Đội hình hành quân vừa chạm cánh đồng Song Áng, phát hiện lực lượng địch quá đông. Tôi thông báo cho bộ đội: Bộ binh địch đông hơn ta gấp nhiều lần, chúng rất chủ quan đang hành quân tràn ra cánh đồng Song Áng, đồng thời động viên anh em bình tĩnh, hết sức bí mật, lợi dụng địa hình, địa vật chiếm lĩnh trận địa, ém quân an toàn, khi có lệnh đồng loạt nổ súng tiêu diệt bộ binh địch. Tôi tranh thủ trao đổi chớp nhoáng với đồng chí Phong (tiểu đoàn phó): Ta dùng khẩu Đại Liên do đồng chí Hoàng Mạnh Vạn - khẩu đội trưởng làm hiệu lệnh nổ súng và hai chúng tôi thống nhất nhận định: Khả năng lực lượng địch bí mật chiếm đường 1B, từ đường 1B kết hợp với xe tăng chúng tiến về Đồng Mỏ. Vừa tiến quân, chúng vừa thăm dò lực lượng ta. Trên đường tiến quân thuận lợi, không gặp sự kháng cự của ta, chúng sẽ chuyển thành lực lượng chính cùng xe tăng tiến thẳng về Hà Nội. Lực lượng này mà trót lọt, bọn chúng như đi vào chỗ không người. Bởi, phía sau ngày hôm đó (17-2-1979) không có bất kỳ lực lượng nào của ta chốt giữ. Và chắc chắn chúng sẽ thực hiện được lời thề: "Ăn cơm sáng ở Lạng Sơn, ăn cơm trưa ở Hà Nội". Mặt khác, nếu không nhanh chóng bẻ gấy trung đoàn vu hồi của quân bành trướng Bắc Kinh. Trung đoàn bộ - Trung đoàn 12 (kể cả tiền phương và cơ bản) bị xoá sổ là cái chắc. Phán đoán được ý đồ của địch, chúng tôi bình tĩnh để địch tràn ra cánh đồng, khi nào đầu đội hình chạm hang Con Khoang là nổ súng. Khẩu Đại Liên của đồng chí Hoàng Mạnh Vạn là hiệu lệnh, cối 60 chặn đầu đội hình địch tại hang Con Khoang. Đúng ý định, Đại liên phát hoả, đội hình tiểu đoàn thiếu (c61; c62) vào trận. Bị đánh bất ngờ, địch toán loạn không biết đường chống đỡ chết như ngả rạ, những tên sống sót chạy dạt sang phía chân đồi bên kia. Trận phủ đầu thua đau song, chúng chưa từ bỏ âm mưu chiếm đường 1B. Ổn định đội hình, chúng lại tổ chức hành quân. Bí mật nhử chúng vào trận đúng ý định, chúng tôi tiếp tục nổ súng tiến công, xác định ngổn ngang trên cánh đồng Song Áng. Chiến sự xẩy ra trên cánh đồng Song Áng kéo dài 3 ngày. Đánh thắng ngay trận đầu, càng đánh, càng mạnh, càng khí thế, bộ đội rất hăng, từ chiến sỹ nuôi quân đến thủ trưởng tiểu đoàn 6 bộ binh (thiếu c61; c62) thi đua nhau nổ súng tiêu diệt địch. Những trận đánh diễn ra trên cánh đồng Song Áng không có trong phương án định trước. Song, chính những trận đánh này đã góp phần phá tan ý đồ chiến lược của tập đoàn bành trướng, bá quyền Bắc Kinh "Ăn cơm sáng ở Lạng Sơn, ăn cơm trưa ở Hà Nội". Tiểu đoàn 6 bộ binh (thiếu c61; c62), hoàn thành suất sắc nhiệm vụ, hiệu suất chiến đấu rất cao chỉ một số đồng chí bị thương, không ai hy sinh. Song, điều hết sức ý nghĩa là: Chúng tôi đã chặn đứng được Trung đoàn vu hồi của địch, bảo vệ an toàn cả sở chỉ huy tiền phương, sở chỉ huy cơ bản Trung đoàn 12. Nhờ trận đánh trên, Trung đoàn bộ - Trung đoàn 12 an toàn tuyệt đối, giữ vững vị trí chỉ huy từ phút đầu đến phút chót !. Bẻ gẫy mũi vu hôi của Tàu, chúng tôi lui quân bổ sung vũ khí đạn dược. Trung đoàn điều Đại đội 63 tăng cường cho Trung đoàn 2, Ban chỉ huy tiểu đoàn (tôi và đồng chí Phong) tiếp tục về vị trí chỉ huy chiến đấu trên cao điểm 339.
Những ngày trên cao điểm 339, chiến sự xẩy ra rất quyết liệt, có trận bộ đội đánh giáp lá cà, quyết sống mái với quân bành trướng Bắc Kinh giữ chốt. Trung đội trưởng thiếu uý - Nguyễn Văn Xá hết đạn nhẩy thẳng váo đội hình địch dùng súng B40 đập vào đầu quân thù và Xá đã anh dũng hy sinh. Những hành động quả cảm ấy làm cho quân địch bát vía, kinh hồn. Cao điểm 339 được giữ vững đến 2 giờ ngày 24-2-1979, khi nhận được lệnh của Sư đoàn phó - Đới Ngọc Cầu, tôi mới làm thủ tục bàn giao trận địa cho đơn vị bạn. Đội hình tiểu đoàn 6 bộ binh (thiếu c63) lui quân về nhận nhiệm vụ mới. Ngày 24-2-1979 về Trung đoàn bộ, tìm vị trí đóng quân, ổn định nơi ăn, ở, bộ đội tạm nghỉ ngơi cho lại sức, săn sàng nhận nhiệm vụ mới.
Ngày 25-2-1979, đơn vị sắp xếp, ổn định biên chế, bỏ sung tiếp vũ khí, đạn dược, thực phẩm, thuốc men đúng cơ số. Cán bộ tiểu đoàn được triệu lên Ban chỉ huy Trung đoàn giao nhiệm vụ: "Tập trung 3 tiểu đoàn anh hùng, cất vó quân bành trướng Bắc Kinh tại ga Tam Lung, Lạng Sơn". Chiều 26-2-1979, tiểu đoàn lên Ôtô hành quân sang Kéo Càng, thị xã Lạng Sơn (Kéo càng cách thị xã Lạng Sơn khoảng 3 km).
Sáng 27-2-1979, chúng tôi nhận các vị trí chốt do Trung đoàn bộ binh 2 bàn giao. Tiểu đoàn 6 bộ binh (thiếu c63) vào vị trí, chúng tôi động viên bộ đội tích cực củng cố công sư, trận địa phù hợp với sở trường, cách đánh của mình. Chiều ngày 27-2-1979, Ban chỉ huy Trung đoàn 2 triệu tập cán bộ tiểu đoàn 6 lên hội ý. Đến nơi, đồng chí Trung đoàn trưởng, Trung đoàn 2 thông báo: "cao điểm 800 mới bị địch đánh chiếm, Bộ tư lệnh sư đoàn 3 giao cho tiểu đoàn 6 bộ binh đánh chiếm lại". Nhận nhiệm vụ, tôi sững sờ, rất khó hiểu song vẫn nghiêm chỉnh chấp hành. Đêm hôm đó trời tối đen như mực, mưa tầm tã, rét như cắt da, cắt thịt song, bộ đội vẫn hành quân chiếm lĩnh trận địa. Đúng 2 giờ ngày 28-2-1979, chúng tôi lại nhận lệnh quay về Kéo Càng lập trận địa chốt. Tới sáng, các đại đội bố trí trận địa chốt và làm công tác hợp đồng tác chiến xong. Cán bộ tiểu đoàn về vị trí chỉ huy, chưa hết nỗi mệt nhọc, căng thẳng, đầy gian nan, vất vả. trong đêm hành quân thì:
Đúng 8 giờ ngày 28-2-1979, các loại pháo của quân bành trướng Bắc Kinh dồn dập nã vào trận địa chốt của tiểu đoàn 6 bộ binh (thiếu c63). Chúng tôi nhận định: Chắc lần này Tàu sẽ tổ chức đánh chiếm thị xã Lạng Sơn. Khoảng 30 phút sau bộ binh địch xuất hiện, quan sát đội hình thấy: bọn chúng rất dè dặt, nhút nhát kiểu vừa tiến quân, vừa thăm dò không giám hung hăng, hô hoán ầm ỹ như mấy ngày đầu. Bộ đội ta nổ súng chống trả. Chúng tôi bị mất phương tiện thông tin, liên lạc, tình hình trở lên phức tạp hơn. Ban chỉ huy tiểu đoàn chuyển vị trí ra Lục Khoang. Vừa chạm cánh đồng Lục Khoang, tôi phát hiện xe tăng ta xuất kích. Gặp được xe tăng, nỗi vui mừng khôn xiết, tôi giới thiệu với các đồng chí xe tăng toàn bộ trận địa chốt của tiểu đoàn 6 bộ binh và của trung đoàn 2 rồi cùng nhau bàn phương án kết hợp với xe tăng tổ chức tiến công tiêu diệt địch gỡ thế cho các trận địa chốt phía trước. Rút kinh nghiệm từ các trận đánh ở cánh đồng Song Áng, tôi trao đổi với các đồng chí xe tăng: Chúng ta cứ bí mật chiếm lĩnh trận địa chờ địch lọt vào đúng trận địa phục kích của ta, lúc đó mới đồng loạt nổ súng tiêu diệt, quá trình phục kích là quá trình theo dõi từng động thái của địch.
11 giờ 30 ngày 28-2-1979, đội hình địch lọt vào đúng đội hình phục kích, tôi ra lệnh bộ binh kết hợp cùng xe tăng xuất kích. Thời cơ chín muồi, chắc ăn, xe tăng dồn dập nã pháo vào đội hình bộ binh địch, hiệu quả chiến đấu rất cao. Bị đòn bất ngờ, đội hình địch tán loạn, chúng quay đầu tháo chạy. Được thế, lực lượng bộ binh còn lại của tiểu đoàn 6 cùng xe tăng tiếp tục truy kích tiêu diệt địch. Trận đánh kéo dài đến 17 giờ ngày 28-2-1979, xác địch ngổn ngang ở cánh đồng. Chúng tôi quan sát trên cánh đồng Lục Khoang không còn một bóng quân Tàu mới thu quân.
Một lần nữa, tiểu đoàn 6 bộ binh anh hùng lập công xuất sắc, đặc biệt c61, c62 chốt trên khu vực đồi Kéo Càng chiến đấu hết sức dũng cảm, ngoan cường bẻ gẫy nhiều đợt tiến công của địch. Nhưng lực lượng của chúng đông gấp nhiều lần ta, hoả lực đi cùng yểm trợ tối đa. Mặc dù cuộc chiến không cân sức, rất ác liệt song, bộ đội ta vẫn kiên cường bám trụ, quyết chiến đấu đến người lính cuối cùng trên đồi Kéo Càng góp phần giữ vững từng tấc đất thiêng liêng của Tổ Quốc. Trận đánh này, tiểu đoàn 6 bộ binh (thiếu c63) tổn thất khá nặng, c61 bộ đội hy sinh gần hết, c62 hy sinh 2/3 quân số. Bị tổn thất, song tiểu đoàn 6 bộ binh cùng xe tăng đã chặn đứng, kìm được bước tiến của kẻ thù không vào được thị xã Lạng Sơn đúng ngày 28-2-1979. Điều hết sức quan trọng là: Tiểu đoàn 6 bộ binh, trung đoàn 12, sư đoàn 3, được lệnh đi phối thuộc với c2, một lần nữa bảo vệ an toàn tuyệt đối sở chi huy Trung đoàn bộ binh 2 đủ điều kiện, thời gian lui về vị trí an toàn, không mất sức chiến đấu !. Và giải quyết đầy đủ, chu đáo chính sách thương binh, liệt sỹ đối với các sỹ quan, binh sỹ chiến đấu rất dũng cảm, đã phải nằm xuống vì mảnh đất thiêng liêng này.
Những ngày này cách đây 35 năm, trên các phương tiện thông tin đại chúng nhà cầm quyền Bắc Kính ra rả chửi chế độ Ba - Đồng - Chinh (Ba là: Lê Duẩn; Phạm Văn Đồng; Trường Chinh). Trên biên giới phía Bắc, băng những chiếc loa nén công suất cực lớn, nhà cầm quyền Bắc Kinh hết lời chửi rủa chế độ Ba - Đồng - Chinh và không ngày nào chúng không rêu rao: "Dậy cho Việt Nam một bài học". Nhà cầm quyền Việt Nam chửi lại bằng nhiều dọng điệu: "Trung Quốc nghèo rớt mồng tơi, dân húp cháo suốt ngày, túi lách cách mấy đồng xu làm được trò gì ?" v.v và v.v. Thực tế trên chiến trường, chính đơn vị chúng tôi đã dậy cho nhà cầm quyền Bắc Kinh một bài học không thể chối cãi. Trước nhiều ngày chưa nổ súng, chúng hùng hồn tuyên bố: Sẽ "Ăn cơm sáng ở Lạng Sơn, ăn cơm trưa ở Hà Nội". Song, từ biên giới vào thị xã Lạng Sơn vẻn vẹn trên vài chục cây số, với một đội quân "hùng mạnh" như vậy, chỉ quần nhau với một sư đoàn suốt từ ngày 17-2-1979 đến ngày 04-3-1979 mới vào được thị xã Lạng Sơn, nhờ một đêm ngủ trọ. Sáng ngày 05-3-1979 đã phải vội vàng tuyên bố rút quân vô điều kiện. Ai đã dậy cho ai bài học ?, Nhà cầm quyền Bắc Kinh hãy trả lời cho cả thế giới biết. Thực tiễn chứng minh rằng: Trên thế giới này, chưa quân đội nào tổ chức hành quân chậm như quân đội Trung Quốc, còn ỳ ạch hơn "lực sỹ Asin không đuổi kịp con rùa". Chúng ta thừa biết: Quân đội Trung Quốc chưa hề đánh thắng bất kỳ ai. Chắc nhà cầm quyền Bắc Kinh chưa quên bài học: Cả nước Trung Hoa rộng lớn, vẫn bị quân Nguyên thôn tính. Nhưng khi quân Nguyên sang Việt Nam đã bị Dân tộc Việt Nam 3 lần đánh tan không còn mảnh giáp.
Kết thúc chiến tranh biên giới phía Bắc, trên các phương tiện thông tin đại chúng ngày ấy, nhà nước Việt Nam dành cả tháng trời tuyên truyền, hết lời ca ngợi những thành tích chiến đấu dũng cảm, ngoan cường của Sư đoàn 3 bộ binh (sư đoàn sao vàng) anh hùng. 5 năm sau (17/2/1979 - 17/2/1984), Nhà nước Việt Nam tổ chức kỷ niệm đánh Tàu. Ngày đó, Sư đoàn mời những chiến sỹ đánh giỏi kể lại các trận đánh tháng 2-1979, trong đó có tôi. Chiều ngày 17-2-1984, tại phòng chính trị Sư đoàn 3, tôi kể lại cho phóng viên Đài tiếng nói Việt Nam những trận đánh xuất sắc nhất của tiểu đoàn 6 bộ binh thuộc Trung đoàn 12, Sư đoàn 3 và khẳng định: Tiểu đoàn 6 bộ binh anh hùng đã dậy cho nhà cầm quyền Bắc Kinh một bài học nhớ đời.