"Học bổng" là từ người Việt hay dùng để chỉ tiền trường cho để đi học. Từ này muốn dùng chính xác phải xem xét 2 khái niệm:
A. Lý do cho tiền: Vì nhu cầu tài chính của học sinh (need-based ~ financial aid) >< vì năng lực và thành tích của học sinh (merit-based ~ scholarship)
1. Vì nhu cầu tài chính của học sinh (need-based ~ financial aid)
a. Học sinh nội địa tại Mỹ (domestic students - bao gồm công dân Mỹ và người có thẻ xanh/thường trú nhân hợp pháp) thường được ưu tiên nhận vào và cho học bổng theo nhu cầu tài chính của học sinh. Nhu cầu này có nhiều công thức tính (có trường thì cứ thu nhập gia đình chứng minh được là dưới 75,000 USD mỗi năm thì miễn học phí hoàn toàn; có nơi yêu cầu phải tính cả thu nhập lẫn tài sản) và nhiều loại bảng biểu khác nhau phải nộp trước và sau khi nhập học (giấy chứng minh thu nhập, giấy kê khai tài sản, FAFSA, College Board CSS, đơn hoàn thuế của liên bang Federal Tax Return, v.v.)
b. Học sinh quốc tế xuất sắc cũng đôi khi được nhận học bổng vì nhu cầu tài chính, đặc biệt là những trường top/giàu (thường là cả hai). Đôi khi ta nghe trên báo đài "học sinh A nhận 5 tỷ VND học bổng từ Harvard vì thành tích xuất sắc" --> dễ gây hiểu lầm bởi vì học bổng này gần như 100% các trường hợp là need-based. Nói cho đúng phải là "học sinh A được nhận vào Harvard vì thành tích xuất sắc VÀ vì gia đinh em thu nhập thấp nên trường cho 5 tỷ VND học bổng để được theo học." Về hiện tượng là giống nhau vì đều nhận được 5 tỷ (để trả học phí) nhưng về bản chất là khác nhau vì trường như Harvard công khai không có merit-based scholarship ở trường mà chỉ có need-based financial aid.
- học sinh quốc tế muốn được need-based financial aid cũng phải nộp giấy tờ chứng minh tương tự như học sinh nội địa ngoại trừ một số giấy tờ đặc thù của riêng Mỹ và dành cho dân nội địa (FAFSA, Federal Tax Return)
2. Vì năng lực và thành tích của học sinh (merit-based ~ scholarship): loại này thì học sinh nội địa hay quốc tế đều được nhận. Phần lớn các trường có tiền để cho học sinh từ 10-50% học bổng để trả học phí.
Tuy vậy các trường top/giàu có những quy định như chỉ cho need-based financial aid (theo tôi) chủ yếu vì 3 nguyên nhân sau:
- họ muốn khuyến khích học sinh từ mọi thành phần trong xã hội theo học
- họ đã nhận thì đều là học sinh "top của top" cả, không có cớ gì phải cho thêm tiền cho "top của top của top"
- tránh chạy đua vũ trang chi tiền để mua học sinh. Vd: tôi nhớ nhóm 3 trường top Ivy League là Harvard, Princeton, Yale thỏa thuận với nhau là chỉ cho tiền học sinh cần tiền vì nhu cầu (need-based vì có công thức tính là học sinh cần bao nhiêu, trường cho bấy nhiêu) để tránh tình trạng Princeton cho học sinh được Harvard nhận thêm 100,000 USD để lôi kéo học sinh đó (Merit based thường ít dùng công thức mà dựa vào đánh giá chủ quan).
Mặc dù vậy ngay cả các trường top vẫn dùng chính sách merit-based đu dây với học sinh có năng khiếu thể thao, đặc biệt là bóng bầu dục Mỹ American Football.
B. Mục đích cho tiền: Học phí >< sinh hoạt phí
Tôi ước đoán khoảng 99.9% các trường hợp nhận học bổng (kể cả financial aid lẫn scholarship) từ trường đều phải dùng để trả học phí và chi phí giáo dục khác. Số ít còn lại thì được trả bằng tiền mặt để học sinh tự quyền quyết định sử dụng.
Nếu học sinh muốn có loại học bổng với mục đích sử dụng rộng hơn, cần phải nộp đơn ứng tuyển học bổng từ các tổ chức tư nhân.
Ở bậc cao học, đặc biệt là mức độ học tiến sĩ (PhD), các trường gần như luôn luôn cung cấp một loại học bổng khác gọi là Fellowship vừa có thể trả học phí (có thể được miễn giảm thêm) và vừa có thể trả sinh hoạt phí. Đây là một trong những yếu tố thu hút nhân tài nghiên cứu về với Mỹ. Làm nghiên cứu tiến sĩ ở Stanford có thể được nhận khoảng 42,000 USD mỗi năm để sinh hoạt và làm nghiên cứu, học phí cũng được miễn giảm.
Trong cùng một nhóm xếp hạng, ví dụ cùng top 20, hoặc top 50, thì có những yếu tố khác biệt chủ yếu như sau:
1. Học phí và học bổng:
- trường công học phí thường thấp hơn khoảng 10,000-20,0000 USD mỗi năm
- trường tư học phí cao hơn nhưng khả năng cho và số tiền cho theo học bổng (cả scholarship lẫn financial aid) đều cao hơn hẳn. Lời khuyên: nếu tiền làm bạn băn khoăn, hãy nộp đơn vào cả hai loại trường.
2. Quy mô và kiểu/format lớp học:
a. Trường công thường có quy mô rất lớn, thường khoảng 15,000 học sinh trở lên (bao gồm cả cử nhân lẫn sau đại học).
- Mặt tốt là cơ sở vật chất phong phú hơn, số lượng chuyên nghành có thể chọn cao hơn (thường là phân ra nhiều nghành nhánh hơn vd vừa có Hóa Học Chemistry, vừa cơ Sinh Học Biology, vừa có Sinh Hóa Biochemistry), cơ hội quen biết và networking cũng cao hơn.
- Mặt xấu là các lớp học thường có quy mô rất lớn 1 giáo sư : 50-500 học sinh; mối quan hệ học sinh với nhau hoặc học sinh với giáo viên thường mờ nhạt. Ngoài ra, hệ thống đăng ký nghành học chuyên môn của các đại học công khá cứng nhắc nên khi nhập học rồi thường khó chuyển nghành học.
b. Trường tư thì có cả quy mô nhỏ (<5,000) đến trung bình (5,000-15,000). Đặc biệt loại hình Liberal Arts Colleges có quy mô rất nhỏ (<2,500) vì chỉ có học sinh bậc đại học.
- Mặt tốt là các lớp học thường nhỏ hơn (<50 đối với các lớp năm 1 và lớp đầu vào của chuyên nghành hot như CS hay Math; <15 với các lớp bậc cao hơn) và nhỏ nhất là 1 giáo sư : 2 học sinh trong mô hình lớp Tutorial. Do vậy mối quan hệ giữa học sinh với nhau và với giáo viên rất khăng khít. Ngoài ra, trường tư dù nhỏ hay lớn thì số tiền quỹ trường (endowment) trên mỗi đầu học sinh đều rất lớn nên có thể tổng quy mô cơ sở vật chất không bằng trường công nhưng chia đầu người thì hơn trường công. Đặc biệt hệ thống dịch vụ hỗ trợ (Văn phòng nghề nghiệp, văn phòng cựu học sinh, văn phòng đời sống học sinh, v.v.) tốt hơn ở trường công rất nhiều. Một số ít trường công có thể cạnh tranh được ví dụ như U. California-Berkeley hoặc U. of Virginia.
Hệ thống đăng ký nghành học chuyên môn khá linh hoạt nên dễ chuyển nghành hơn.
- Mặt xấu là số môn chuyên nghành thường ít hơn. Tổng số lượng cựu học sinh cũng ít hơn.
*** Rất khó để nhận xét chất lượng của trường. Lý do là có quá nhiều yếu tố có thể dùng để đánh giá:
1.a Đầu vào: tỷ lệ chọi/nhận vào trường, điểm trung bình, thứ hạng trong trường cấp 3, điểm SAT, v.v.
1.b Đầu ra: lương trung bình 5 năm sau tốt nghiệp; số lượng giải thưởng mà cựu học sinh nhận được, v.v.
2.a Học thuật: số bài nghiên cứu của học sinh; tỷ lệ tốt nghiệp; số lượng giảng viên có bằng PhD, v.v.
2.b Phi học thuật: số tiền trong quỹ của trường trên mỗi đầu học sinh; số lượng học sinh quốc tế; % cựu học sinh đóng góp tiền cho trường, v.v.
3.a Khách quan: các yếu tố nêu trên
3.b Chủ quan: đánh giá của lãnh đạo các trường khác hoặc của doanh nghiệp với cựu học sinh của trường; tỷ lệ đánh giá tốt/xấu của học sinh đang theo học và cựu học sinh đối với trường, v.v.
Vì lý do này có nhiều bảng xếp hạng trường đại học ở Mỹ khác nhau:
1. Thường được dùng nhất: US News National Universities ranking & US News Liberal Arts Colleges ranking
https://www.usnews.com/best-colleges
Công thức đánh giá của US News National Universities ranking (Chi tiết xem thêm tại
www.usnews.com/education/best-colleges/articles/how-us-news-calculated-the-rankings):
Outcomes (35%)
Faculty Resources (20%)
Expert Opinion (20%)
Financial Resources (10%)
Student Excellence (10%)
Alumni Giving (5%)
10 / top 10 là trường tư
19 / top 20 là trường tư (trường công duy nhất là UCLA)
24 / top 30 là trường tư
2. Forbes Best Colleges:
https://www.forbes.com/top-colleges/
Công thức đánh giá:
Alumni Salary (20%)
Student Satisfaction (20%)
Debt (20%)
American Leaders (15%)
On-Time Graduation Rate (12.5%)
Academic Success (12.5%),
10 / top 10 là trường tư
18 / top 20 là trường tư
27 / top 30 là trường tư
3. QS:
www.topuniversities.com/university-rankings/world-university-rankings/2019
4. Times Higher Education:
www.timeshighereducation.com/student/best-universities/best-universities-united-states